Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của con người về xây dựng con người và sự vận dụng của Đảng vào phát huy nhân tố con người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.61 KB, 15 trang )

lOMoARcPSD|11558541

ĐẠI HỌC CƠNG NGHỆ GIAO THƠNG VẬN TẢI
KHOA CHÍNH TRỊ - QPAN - GDTC

*****

TIỂU LUẬN
Câu hỏi tểu luận: “Trình bày quan điểm Hồồ Chí Minh vềồ vai trị
của con người; vềồ xây dựng con người và sự vận dụng của Đảng
vào phát huy nhân tồố con người Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới, hội nhập quồốc tềố hiện nay.”

Sinh viên thực hiện: Trần Thị Linh
Lớp: 70DCQM21
MSV: 70DCQT21142
Khóa: 70
Giáo viên hướng dẫn: Vũ Đình Năm

1


lOMoARcPSD|11558541

HÀ NỘI – 2021

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................3
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRỊ CỦA CON
NGƯỜI, VỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI..............................................................5
1.1. Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trị của con người..................................5


1.1.1. Con người là mục tiêu của cách mạng................................................5
1.1.2. Con người là động lực của cách mạng................................................6
1.2. Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng con người.......................................6
1.2.1.Ý nghĩa của việc xây dựng con người.....................................................6
1.2.2. Nội dung xây dựng con người................................................................7
1.2.3. Phương pháp xây dựng con người.........................................................8
CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG VÀO PHÁT HUY NHÂN TỐ
CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI, HỘI NHẬP QUỐC
TẾ HIỆN NAY.........................................................................................................9
2.1. Sự vận dụng của Đảng vào phát huy nhân tố con người Việt Nam trong
thời kì đổi mới, hội nhập quốc tế hiện nay.........................................................9
KẾT LUẬN............................................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................15

2


lOMoARcPSD|11558541

MỞ ĐẦU
1. Tên đề tài: “Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về vai trị của con người; về xây
dựng con người và sự vận dụng của Đảng vào phát huy nhân tố con người Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế hiện nay.”
2. Lý do chọn đề tài:
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề con người nói chung, giá trị của con
người Việt Nam nói riêng là một nội dung quan trọng, vừa là mục tiêu, động lực
của sự nghiệp cách mạng, vừa là mục đích của tư tưởng; sức mạnh của văn hóa và
con người Việt Nam là nhân tố làm nên thắng lợi to lớn trong sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc. Mặc dù trong di sản tinh thần của Hồ Chí Minh để lại, khơng
có những tác phẩm chun khảo bàn về hệ giá trị của con người Việt Nam, nhưng

được thể hiện ở trong nhiều bài viết, bài nói dưới những hình thức, mức độ khác
nhau; đặc biệt được thể hiện rõ trong quá trình thực tiễn lãnh đạo xây dựng, phát
triển nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nhận thức rõ
tầm quan trọng của việc xây dựng, phát triển giá trị của con người Việt Nam, trong
Di chúc, Người căn dặn sau khi chiến tranh kết thúc "đầu tiên là công việc đối với
con người".
Việt Nam đang thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế
và cuộc Cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư (Cách mạng cơng nghiệp 4.0). Nhờ có
đường lối đúng đắn, chúng ta đã tiếp thu nhiều giá trị tiến bộ của nhân loại để
không ngừng phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa tinh
thần cho người dân... Tuy nhiên, mặt trái của tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế, kinh
tế thị trường và Cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang tác động tiêu cực đến hệ
giá trị truyền thống của người Việt Nam; làm cho thang giá trị có sự xung đột,
chuyển đổi, thậm chí khủng hoảng trong việc lựa chọn giá trị định hướng, nhất là
ở thế hệ trẻ. Nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp vốn có của dân tộc như: yêu nước,
đoàn kết, nhân ái, nghĩa tình, hiếu học, cần cù… dù vẫn được phần lớn người dân
Việt Nam trân trọng, gìn giữ và phát huy, nhưng cũng đang có biểu hiện mai một,
suy thối, nhất là giá trị đạo đức. Thực tế đó địi hỏi yêu cầu bức thiết cần tìm ra
những giải pháp nhằm phát huy những giá trị tích cực, hạn chế mặt tiêu cực,
hướng tới xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp cách mạng.
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế,
cùng với phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta ln coi trọng phát triển
văn hóa, con người, đặt con người ở vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển
3


lOMoARcPSD|11558541


văn hóa. Điều đó được thể hiện thơng qua các Văn kiện Đại hội Đảng, từ Đại Hội
Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1998) đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII
(2016); các Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, Hội nghị Trung ương 10 khóa IX,
Hội nghị Trung ương 7 khóa X… Trong nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa
XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững đất nước”, Đảng ta xác định nhiệm vụ trọng tâm của xây dựng văn
hóa là xây dựng con người có nhân cách, đạo đức tốt đẹp và tinh thần đó được thể
hiện xuyên suốt trong Nghị quyết, từ tên gọi đến mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ
cũng như những giải pháp. Đây là cơ sở quan trọng cho việc tiếp tục nghiên cứu,
đúc kết và xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Với những lý do trên, em chọn đề tài “quan điểm Hồ Chí Minh về vai trị của
con người; về xây dựng con người và sự vận dụng của Đảng vào phát huy nhân tố
con người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế hiện nay” làm đề tài
cho bài tiểu luận kết thúc môn học.

4


lOMoARcPSD|11558541

CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRỊ CỦA CON
NGƯỜI, VỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI
1.1. Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trị của con người
1.1.1. Con người là mục tiêu của cách mạng
Con người là chiến lược số một trong tư tưởng và hành động của Hồ Chí Minh. Mục
tiêu này được cụ thể hóa trong ba giai đoạn cách mạng (giải phóng dân tộc - xây dựng
chế độ dân chủ nhân dân - tiến dần lên xã hội chủ nghĩa) nhằm giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Giải phóng dân tộc là xóa bỏ ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc, giành lại độc lập

cho dân tộc. Con người trong giải phóng dân tộc là cả cộng đồng dân tộc Việt Nam. Phạm
vi thế giới là giải phóng các dân tộc thuộc địa.
Giải phóng xã hội là đưa xã hội phát triển thành một xã hội không có chế độ người
bóc lột người, một xã hội có nền sản xuất phát triển cao và bền vững, văn hóa tiên tiến,
mọi người là chủ và làm chủ xã hội, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, một xã hội
văn minh, tiến bộ. Xã hội đó phát triển cao nhất là xã hội cộng sản, giai đoạn đầu là xã
hội xã hội chủ nghĩa.
Giải phóng giai cấp là xóa bỏ sự áp bức, bóc lột của giai cấp này đối với giai cấp khác;
xóa bỏ sự bất cơng, bất bình đẳng xã hội; xóa bỏ nền tảng kinh tế-xã hội đẻ ra sự bóc lột
giai cấp; dần dần thủ tiêu sự khác biệt giai cấp, các điều kiện dẫn đến sự phân chia xã hội
thành giai cấp và xác lập một xã hội khơng có giai cấp. Con người trong giải phóng xã
hội là các giai cấp cần lao, trước hết là giai cấp công nhân và giai cấp nơng dân. Phạm vi
thế giới là giải phóng giai cấp vô sản và nhân dân lao động các nước.
Giải phóng con người là xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc lột, nơ dịch con người; xóa bỏ
các điều kiện xã hội làm tha hóa con người, làm cho mọi người được hưởng tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát huy năng sáng tạo, làm chủ xã hội, làm chủ tự nhiên và làm chủ
bản thân, phát triển toàn diện theo đúng bản chất tốt đẹp của con người. Con người trong
giải phóng con người là cá nhân mỗi con người. Phạm vi thế giới là giải phóng lồi
người.
Các “giải phóng” đó kết hợp chặt chẽ với nhau, giải phóng dân tộc đã có một phần
giải phóng xã hội và giải phóng con người; đồng thời nối tiếp nhau, giải phóng dân tộc
mở đường cho giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.

5


lOMoARcPSD|11558541

1.1.2. Con người là động lực của cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, con người là vốn quý nhất, động lực, nhân tố quyết định thành

công của sự nghiệp cách mạng. Người nhấn mạnh “mọi việc đều do người làm ra”;
“trong bầu trời khơng gì q bằng nhân dân, trong thế giới khơng gì mạnh bằng sức mạnh
đồn kết của nhân dân”. “Ý dân là ý trời”. “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn
lần dân liệu cũng xong”. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Nhân dân là những
người sáng tạo chân chính ra lịch sử thơng qua các hoạt động thực tiễn cơ bản nhất như
lao động sản xuất, đấu tranh chính trị - xã hội, sáng tạo ra các giá trị văn hóa. Nói đến
nhân dân là nói đến lực lượng, trí tuệ, quyền hành, lịng tốt, niềm tin, đó chính là gốc,
động lực cách mạng.
1.2. Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng con người
1.2.1.Ý nghĩa của việc xây dựng con người
Xây dựng con người là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, vừa cấp bách
vừa lâu dài, có ý nghĩa chiến lược. Xây dựng con người là một trọng tâm, bộ phận hợp
thành của chiến lược phát triển đất nước, có mối quan hệ chặt chẽ với nhiệm vụ xây dựng
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Hồ Chí Minh nêu hai quan điểm nổi bật làm sáng tỏ sự
cần thiết xây dựng con người.
“Vì lợi ích trăm năm thì phải “trồng người”. “Trồng người” là công việc lâu dài, gian
khổ, vừa vì lợi ích trước mắt vừa vì lợi ích lâu dài, là cơng việc của văn hóa giáo dục.
“Trồng người” phải được tiến hành thường xuyên trong suốt tiến trình đi lên chủ nghĩa xã
hội và phải đạt được những kết quả cụ thể trong từng giai đoạn cách mạng. Nhiệm vụ
“trồng người” phải được tiến hành song song với nhiệm vụ phát triển lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. “Trồng người”¹ phải được tiến hành bền bỉ, thường
xuyên trong suốt cuộc đời mỗi người, với ý nghĩa vừa là quyền lợi vừa là trách nhiệm của
cá nhân đối với sự nghiệp xây dựng đất nước. Công việc “trồng người” là trách nhiệm
của Đảng , Nhà nước, các đồn thể chính trị-xã hội kết hợp với tính tích cực, chủ động
của từng người.

______________________________________

Đây là lời của Quản Trọng thời Xuân Thu: “Nhất niên chi kế mạc như thụ cốc, thập niên chí kế mạc như thụ
mộc, bách niên chi kế mạc như thụ nhân” (kế hoạch một năm khơng gì bằng trồng lúa, kế hoạch mười năm khơng gì

bằng trồng cây, kế hoạch trăm năm khơng gì bằng trồng người).

6


lOMoARcPSD|11558541

“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần phải có những con người xã hội chủ
nghĩa”. Chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra những con người xã hội chủ nghĩa, con người xã hội
chủ nghĩa là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội. Không phải chờ cho kinh tế, văn hóa
phát triển cao rồi mới xây dựng con người xã hội chủ nghĩa; cũng không phải xây dựng
xong những con người xã hội chủ nghĩa rồi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc xây
dựng con người xã hội chủ nghĩa được đặt ra ngay từ đầu và phải được quan tâm trong
suốt tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. “Trước hết cần phải có những con người xã hội
chủ nghĩa” cần được hiểu trước hết cần có những con người với những nét tiêu biểu của
xã hội xã hội chủ nghĩa như lý tưởng, đạo đức, lối sống, tác phong xã hội chủ nghĩa. Đó
là những con người đi trước, làm gương lôi cuốn người khác theo con đường xã hội chủ
nghĩa. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trong bất cứ phong trào cách mạng nào, tiên tiến là số ít và
số đơng là trung gian, muốn củng cố và mở rộng phong trào, cần phải nâng cao hơn nữa
trình độ giác ngộ của trung gian để kéo chậm tiến” ² .
1.2.2. Nội dung xây dựng con người.
Hồ Chí Minh quan tâm xây dựng con người tồn diện vừa “hồng” vừa “chun”. Đó
là những con người có mục đích và lối sống cao đẹp, có bản lĩnh chính trị vững vàng,
những con người của chủ nghĩa xã hội, có tư tưởng, tác phong và đạo đức xã hội chủ
nghĩa và năng lực làm chủ. Xây dựng con người tồn diện với những khía cạnh chủ yếu
sau:
- Có ý thức làm chủ, tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa và tư tưởng “mình vì mọi
người, mọi người vì mình”.
- Cần kiệm xây dựng đất nước, hăng hái bảo vệ Tổ quốc.
- Có lịng u nước nồng nàn, tinh thần quốc tế trong sáng.

- Có phương pháp làm việc khoa học, phong cách quần chúng, dân chủ, nêu gương.
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ
nghĩa cá nhân; bồi dưỡng về năng lực trí tuệ, trình độ lý luận chính trị, văn hóa, khoa học
- kỹ thuật, chun mơn nghiệp vụ, ngoại ngữ, sức khỏe.

___________________________________
² Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,

t.12, tr.358.

7


lOMoARcPSD|11558541

1.2.3. Phương pháp xây dựng con người
Mỗi người tự rèn luyện, tu dưỡng ý thức, kết hợp chặt chẽ với xây dựng cơ chế, tính
khoa học của bộ máy và tạo dựng nền dân chủ. Việc nêu gương, nhất là người đứng đầu,
có ý nghĩa rất quan trọng. Hồ Chí Minh thường nói đến “tu thân, chính tâm” thì mới có
thể “trị quốc, bình thên hạ” (làm những việc có lợi cho nước, cho dân). Văn hóa phương
Đơng cho thấy “một tấm gương sống có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”
và “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”. Hồ Chí Minh thường nhắc lại những điều ấy trong khi
bàn biện pháp xây dựng con người. Người nói rằng “lấy gương người tốt, việc tốt hằng
ngày để giáo dục lẫn nhau” là rất cần thiết và bổ ích.
Biện pháp giáo dục có một vị trí quan trọng. Hồ Chí Minh nhắc nhở rằng “hiền, giữ
của con người khơng phải là tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà nên”. Theo Người, các
cháu mẫu giáo, tiểu học như tờ giấy trắng. Chúng ta vẽ xanh thì xanh, vẽ đỏ thì đỏ. Nói
như vậy để thấy giáo dục rất quan trọng trong việc xây dựng con người.
Chú trọng vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền, đồn thể quần chúng. Thông qua các
phong trào cách mạng như “Thi đua yêu nước”, “Người tốt việc tốt”. Đặc biệt phải dựa

vào quần chúng theo quan điểm “dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ
chức của ta” .

_________________________________
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr.338.

8


lOMoARcPSD|11558541

CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG VÀO PHÁT HUY NHÂN TỐ
CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI, HỘI NHẬP
QUỐC TẾ HIỆN NAY
2.1. Sự vận dụng của Đảng vào phát huy nhân tố con người Việt Nam trong thời kì
đổi mới, hội nhập quốc tế hiện nay
Trong thời đại ngày nay, nguồn tài nguyên, của cải đích thực và quý giá nhất của mỗi
quốc gia chính là con người. Vì vậy, mục đích phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc
gia, xét đến cùng, phải vì con người, cho con người, tạo môi trường thuận lợi để con
người có cuộc sống hạnh phúc, có sức khoẻ và có cơ hội phát huy mọi năng lực sáng tạo.
Nhận thức được điều đó, trong q trình lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc và xây
dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định vai trị đặc biệt của nhân tố
con người với tính cách là động lực của sự phát triển xã hội, của sự nghiệp xây dựng xã
hội xã hội chủ nghĩa.
Xuất phát từ quan điểm mác-xít về con người cho thấy, khi con người là một thực thể
tự nhiên - xã hội, con người nói chung biểu hiện ra trên nhiều phương diện. Chẳng hạn,
con người tồn tại với tư cách là một nguồn tài nguyên đặc biệt - tài nguyên con người;
con người tồn tại với tư cách là một nguồn lực đặc biệt hay nguồn lực con người, hoặc
tồn tại với tư cách là một nhân tố thúc đẩy đời sống kinh tế - xã hội gọi là nhân tố con
người… Bởi vậy, khái niệm nhân tố con người là sự tiếp tục triển khai quan điểm của

triết học Mác - Lênin về con người.
Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin trong tiến trình xây dựng xã hội mới,
Đảng ta đã khẳng định: nguồn lực quý báu nhất, có vai trị quyết định nhất là con người
Việt Nam; nhân tố con người chính là nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam.
Đối với một nước chủ động lựa chọn và kiên trì con đường phát triển theo định hướng xã
hội chủ nghĩa như Việt Nam, sự phát triển, tăng trưởng kinh tế, xét đến cùng cũng là vì
con người, hướng đến con người. Trong bối cảnh tồn cầu hố và hội nhập quốc tế, Đảng
ta xác định một trong những yếu tố quyết định việc chúng ta có tranh thủ tận dụng thành
cơng những thuận lợi, cơ hội và vượt qua thách thức, khó khăn mà q trình đó đặt ra hay
khơng phụ thuộc đáng kể vào con người.
Từ Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã chú trọng đến quyền làm chủ của nhân
dân lao động “thực chất là tôn trọng con người, phát huy sức sáng tạo của mọi tầng lớp
nhân dân, hướng sự sáng tạo đó vào sự nghiệp xây dựng xã hội mới”[1]. Với quan điểm
này, mọi chủ trương, chính sách của Đảng đều chú trọng đến việc chăm lo bồi dưỡng phát
huy nhân tố con người.
Vấn đề con người được đề cập đầu tiên tại Đại hội lần thứ IV của Đảng và được đề
cập cụ thể, trực tiếp trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, thông qua tại Đại hội VII (năm 1991). Trong Cương lĩnh, Đảng Cộng sản
9


lOMoARcPSD|11558541

Việt Nam đã khẳng định: Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội con người được giải
phóng, nhân dân làm chủ, có nền kinh tế phát triển cao và nền văn hoá tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện để phát
triển cá nhân, cơng bằng xã hội và dân chủ được đảm bảo. Vì vậy, phương hướng, mục
tiêu lớn của chính sách xã hội được đề cập trong Cương lĩnh, Đảng ta chỉ rõ: “Phát huy
nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo cơng bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ
cơng dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời

sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá
nhân với tập thể và cộng đồng xã hội” [2].
Quan điểm này của Đảng được xây dựng trên những cơ sở khoa học của chủ nghĩa
Mác - Lênin và xuất phát từ đặc điểm lịch sử cụ thể của đất nước. Do đó, Đảng ta khẳng
định phải kết hợp tăng trưởng kinh tế với việc thực hiện các chính sách xã hội nhằm đảm
bảo sự phát triển hài hoà trong xã hội, trong đó con người được đặt vào vị trí trung tâm.
Đại hội toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta xác định đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo
dục, đào tạo, khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con người động lực trực tiếp của sự phát triển. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 4
khoá VII, Đảng ta nhấn mạnh: “Con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc con người
là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta… Chúng ta cần tìm hiểu sâu sắc những giá
trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi
nguồn gốc của cải vật chất và văn hoá, mọi nền văn minh của các quốc gia, phải xuất
phát từ tinh thần nhân văn sâu sắc nhằm phát triển con người tồn diện, xây dựng một xã
hội cơng bằng, nhân ái, thiết lập quan hệ thật sự tốt đẹp và tiến bộ giữa con người với con
người trong sản xuất và trong đời sống”[3].
Như vậy, những nội dung trong quan điểm này xét đến cùng là vì cuộc sống hạnh phúc
của mỗi con người mà Đảng ta luôn quan tâm, là sự thể hiện tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh trong hiện thực cuộc sống.
Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, trong bối cảnh đất nước chuyển sang thời
kỳ phát triển mới, với những thành tựu to lớn của hơn 10 năm đổi mới đã đưa nước ta ra
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo điều kiện và tiền đề cần thiết để đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước. Tư tưởng chủ đạo của chiến lược con người là thực
hiện “Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy
mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”[4]. Vấn
đề con người và chiến lược con người đã được Đại hội cụ thể hố thành các quốc sách
lớn thích ứng với u cầu của thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Đó là các chính sách
nhằm phát huy nguồn lực con người và thực hiện công bằng xã hội. Mục đích cao nhất
của hệ thống chính sách này nhằm phát triển trí tuệ của người Việt Nam, nguồn vốn quyết
định nhất, quý giá nhất của chúng ta trong sự nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước. Trong khi công cuộc đổi mới đất nước đang đi dần vào chiều sâu và phải

10


lOMoARcPSD|11558541

giải quyết những nhiệm vụ hết sức phức tạp thì Đảng ta chủ trương bằng mọi giá phải
“Khơi dậy trong nhân dân lịng u nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người
Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu bằng khoa học và công
nghệ”[5]. Đồng thời, Đảng ta đã khẳng định: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến
bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt q trình phát triển. Cơng
bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn khâu phân phối
kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng
tốt năng lực của mình”[6].
Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII về định hướng chiến lược phát triển giáo dục, đào
tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000 đã thể hiện rõ
quan điểm của Đảng là “lấy việc phát huy nhân tố con người là yếu tố cơ bản cho sự phát
triển nhanh và bền vững”.
Nhất quán tư tưởng chiến lược phát triển con người trong thời kỳ đổi mới, Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: Xã hội ta là xã hội vì con người và
coi con người ln giữ vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế xã hội. Con người trước
hết là tiềm năng trí tuệ, tinh thần, đạo đức, là nhân tố quyết định là vốn quý nhất của
chúng ta trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Quan điểm đó được thực hiện ở chủ
trương “phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con
người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”[7].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định: chiến lược con
người phải nằm ở vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Mọi chủ trương, chính sách nhằm phát huy
nhân tố con người đều xuất phát từ quan điểm cho rằng nhân dân là người sáng tạo ra lịch
sử, là chủ nhân thực sự của xã hội, là chủ thể của mọi hành động kinh tế, văn hố xã hội

và mục tiêu của tồn bộ sự nghiệp cách mạng là phục vụ nhân dân.
Có thể nói, Đại hội lần này đã thể hiện tư duy đổi mới, khoa học của Đảng trong điều
kiện lịch sử mới của đất nước. Một mặt, quan điểm đó phù hợp với quy luật vận động,
phát triển khách quan của xã hội; mặt khác phù hợp với nguyện vọng chân chính của
nhân dân cũng như bản chất nhân văn, tính ưu việt của chế độ xã hội mà chúng ta phấn
đấu xây dựng.
Thực tiễn cho thấy, việc giải quyết vấn đề phát triển con người Việt Nam những năm
qua được đánh giá có nhiều chuyển biến tích cực và đạt kết quả quan trọng. Quá trình
cách mạng Việt Nam chứng tỏ rằng trong những thời điểm lịch sử hiểm nghèo, những
tình thế hết sức khó khăn, con người Việt Nam đều rất sáng tạo, năng động và ln tìm ra
những lối thoát, những đường hướng đi lên làm kinh ngạc cả bạn bè quốc tế. Lịch sử
cũng chứng minh: thời kỳ nào cách mạng biết phát huy mạnh mẽ nhân tố con người, tạo
11


lOMoARcPSD|11558541

mọi điều kiện cho hoạt động sáng tạo của con người thì con người Việt Nam ln biết
"chuyển bại thành thắng", chuyển từ tình thế khó khăn thành lợi thế trong đó con người là
động lực trung tâm. Do đó, Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm
đổi mới (1986 - 2006), Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: “Con người là vốn
quý nhất, phát triển con người với tư cách vừa là động lực, vừa là mục tiêu của cách
mạng, của sự nghiệp đổi mới đất nước; gắn vấn đề nhân tố con người với tinh thần nhân
văn nhằm tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện, sống trong một xã hội công
bằng và nhân ái, với những quan hệ xã hội lành mạnh. Con người và sự phát triển con
người được đặt vào vị trí trung tâm của chiến lược kinh tế - xã hội, mở rộng cơ hội, nâng
cao điều kiện cho con người phát triển”[8].
Hiện nay, việc xây dựng con người Việt Nam theo quan điểm của Đảng, là sự chuẩn bị
tích cực, chủ động nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện
đại hố, cho tương lai và triển vọng của đất nước trên con đường phát triển theo mục tiêu

của chủ nghĩa xã hội. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội
chủ nghĩa trong bối cảnh tồn cầu hố, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế không thể
không dựa vào nhân tố con người, vì vậy cần phải bồi dưỡng, phát triển con người Việt
Nam nhằm nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực, nhân tố con người. Xây dựng con
người Việt Nam chính là xây dựng nhân cách của con người với nội dung toàn diện, từ
bồi dưỡng và phát triển thể lực, năng lực, trí tuệ với phương pháp tư duy khoa học sáng
tạo. Xây dựng con người Việt Nam hướng tới sự phát triển không chỉ chất lượng cá thể
con người mà còn là sự phát triển của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Kế thừa quan điểm về phát huy nhân tố con người từ các đại hội trước, trong Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2015, Đảng ta xác định: tăng trưởng kinh tế nhanh
và bền vững; nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; con người là
trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển; tạo chuyển biến mạnh
về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người. Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XI nêu rõ mục tiêu tổng quát là: “Đến năm 2020 nước ta cơ bản
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Để đạt được mục tiêu đó Đảng đã xác
định ba khâu đột phá chiến lược, trong đó “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao” được khẳng định là khâu đột phá thứ hai. Đây được xem
là khâu đột phá phù hợp với hoàn cảnh nguồn nhân lực của đất nước trong bối cảnh Việt
Nam tích cực, chủ động tham gia hội nhập quốc tế, với sự cạnh tranh diễn ra vô cùng
quyết liệt và cuộc cách mạng khoa học, cơng nghệ. Đó vừa là cơ hội, vừa là thách thức
đòi hỏi nước ta phải nâng cao chất lượng nguồn lực con người. Đại hội XI đưa ra quan
điểm phát huy nhân tố con người ở nhiều chiều trên cơ sở “Mở rộng dân chủ, phát huy tối
đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự
phát triển”[9]. Quan điểm này thực chất là sự tiếp nối tư tưởng của Đảng coi con người là
chủ thể, là nguồn lực quan trọng nhất quyết định sự phát triển xã hội và là sự nghiệp của
cách mạng Việt Nam. Đặc biệt Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung
12

Downloaded by quang tran ()



lOMoARcPSD|11558541

ương 8 khóa XI của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đã chỉ rõ:
“Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của
toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương
trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hô ̣i”. Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 Hội
nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước được tiếp tục khẳng định việc: Xây dựng nền
văn hóa và con người Việt Nam phát triển tồn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm
nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng đã nhấn mạnh nhân tố con người gắn với xây
dựng văn hoá làm nền tảng tinh thần với hàm ý văn hoá và con người là cặp đơi biện
chứng, trong đó con người là chủ thể sáng tạo văn hoá và thụ hưởng các giá trị, sản phẩm
văn hoá. Yếu tố con người được đề cập là những con người rất cụ thể, con người phải có
nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực, kỹ năng, trách nhiệm xã hội,… việc xây dựng con
người phải thông qua hoạt động thực tiễn, cụ thể của từng người, chứ khơng nói chung
chung. Đồng thời chỉ rõ nhiệm vụ cụ thể là: “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống,
trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh”[10]. Đảng ta
khẳng định: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục
tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn
mực của con người Việt Nam thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế;
tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng
tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp
luật”[11]. Đây là quan điểm mà Đảng ta ln nhất qn, mang tính định hướng chiến
lược trong xây dựng, phát triển con người Việt Nam.
Để phát triển toàn diện con người, mọi hoạt động của hệ thống giáo dục và đào tạo cần
phải hướng vào việc xây dựng, phát triển con người Việt Nam có thế giới quan khoa học,
trí tuệ và đạo đức; gắn với thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơng dân, nâng

cao trí lực và kỹ năng sống, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện
đại hố và hội nhập quốc tế, của kinh tế tri thức và xã hội học tập, của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam. Với những quan điểm của Đảng ta về phát
huy nhân tố con người trong suốt chặng đường phát triển đất nước đã phát huy hiệu quả
và đạt được nhiều thành tựu to lớn: Trình độ dân trí ngày càng cao, kinh tế cũng ngày
càng khởi sắc và trên đà phát triển ổn định, đời sống của người dân được cải biến rõ nét,
con người được tạo điều kiện phát triển toàn diện, nhân dân ngày càng tin tưởng vào sự
lãnh đạo của Đảng. Điều này một lần nữa khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng và
thể hiện sự quan tâm, coi con người là vốn quý nhất; chăm lo cho hạnh phúc của con
người là tư tưởng xuyên suốt trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng, là mục tiêu
phấn đấu cao nhất của chế độ ta.

13

Downloaded by quang tran ()


lOMoARcPSD|11558541

KẾT LUẬN
Qua nội dung trên, vai trò của con người là một nội dung quan trọng trong hệ thống tư
tưởng Hồ Chí Minh. Theo Hồ Chí Minh, trải qua hàng nghìn năm lịch sử, dân tộc Việt
Nam đã hun đúc nên nhiều giá trị, tiêu biểu đó là: Yêu nước, tinh thần tự tơn dân tộc; đồn
kết; nhân ái; trung thực, trách nhiệm; cần cù, sáng tạo. Đó là hệ thống giá trị phản ánh đặc
trưng bản chất con người Việt Nam, tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn trong sự nghiệp đấu
tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng xã hội mới. Để phát triển hệ giá trị của con người
Việt Nam, theo Hồ Chí Minh, cần thực hiện tốt các phương pháp: Thông qua giáo dục và
tự giáo dục giá trị; thông qua các cuộc vận động, phong trào xã hội; phát huy giá trị với
khắc phục các yếu tố phản giá trị. Những quan điểm của Người có giá trị lý luận to lớn, là
cơ sở để Đảng và Nhà nước ta xây dựng, phát triển nền văn hóa mới, con người mới xã hội

chủ nghĩa ở Việt Nam.
Hiện nay, tác động của toàn cầu hóa, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế thị
trường và cuộc Cách mạng 4.0 đang tạo cơ hội cho nước ta tiếp thu nhiều giá trị tiến bộ
của nhân loại; kinh tế - xã hội không ngừng phát triển; đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân không ngừng nâng lên. Bên cạnh đó đã tác động tiêu cực làm biến đổi chiều sâu
tâm thức người Việt: Từ đề cao giá trị tinh thần sang đề cao giá trị vật chất; từ đề cao giá
trị cống hiến sang đề cao giá trị hưởng thụ, làm cho hệ giá trị truyền thống tiêu biểu, cốt
lõi của con người Việt Nam biến đổi theo xu hướng tích cực lẫn tiêu cực, được biểu hiện
ở những hình thức, mức độ khác nhau. Thực trạng đó đang đặt ra những vấn đề cần giải
quyết đó là: Mối quan hệ giữa mục tiêu định hướng giá trị với thực trạng phát triển hệ giá
trị của con người Việt Nam; mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển hệ giá trị của con
người Việt Nam...
Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát triển hệ giá trị của con người
Việt Nam, quan điểm cơ bản trong thời gian tới đó là: Phát triển hệ giá trị của con người
Việt Nam trên cơ sở vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh và quán triệt sâu sắc quan
điểm, chủ trương của Đảng về giá trị con người; phát triển hệ giá trị của con người Việt
Nam trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc giá trị của nhân loại; phát triển hệ giá trị tiêu biểu, cốt
lõi của con người Việt Nam phù hợp với điều kiện hiện nay. Vì vậy, cần được thực hiện
trên tinh thần sáng tạo; đồng thời, mỗi một giải pháp cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và
điều chỉnh cho phù hợp với sự biến đổi không ngừng của thực tiễn khách quan.

14

Downloaded by quang tran ()


lOMoARcPSD|11558541

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự

thật, Hà Nội, tr.9.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên CNXH, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.12-13.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị Trung ương 4 khoá VII, Nxb Sự
thật, Hà Nội, tr.5.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội, đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.28.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội, đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.107.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội, đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.113.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.108-109.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn
qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006), tr.78-79.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.100.
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Sđd, tr. 53.
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Sđd, tr. 126-127.
Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (dành cho bậc đại học-khơng chun ngành lí luận)của
trường Đại học Cơng nghệ Giao thông vận tải.
/>
15

Downloaded by quang tran ()



×