Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

ĐỀ TÀI QUY LUẬT LƯỢNG CHẤT VÀ SỰ ỨNG DỤNG TRONG đời SỐNG SINH VIÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (722.25 KB, 18 trang )

lOMoARcPSD|11558541

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
------------

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
ĐỀ TÀI QUY LUẬT LƯỢNG CHẤT VÀ SỰ ỨNG DỤNG TRONG ĐỜI
SỐNG SINH VIÊN

Thông tin sinh viên:
Họ và tên: Mai Lê Tuấn
Mã sinh viên: 11208301
Lớp: Kinh tế phát triển 62A
Lớp học phần: 17
Khoa: Kế hoạch và phát triển
Giảng viên hướng dẫn: TS Lê Ngọc Thông

Hà Nội, Ngày 1 tháng 1 năm 2021


lOMoARcPSD|11558541

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
ĐỀ TÀI QUY LUẬT LƯỢNG CHẤT VÀ SỰ ỨNG DỤNG TRONG ĐỜI SỐNG
SINH VIÊN

1
Downloaded by quang tran ()



lOMoARcPSD|11558541

LỜI CẢM ƠN
Xin chân thành cảm ơn TS Lê Ngọc Thông đã truyền dạy những kiến thức quý báu trong chương
trình giảng dạy đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ cho bài tiểu luận được hoàn thành thuận lợi.

2


lOMoARcPSD|11558541

Lời giới thiệu
Nếu thử nhìn lại thế giới ngày hơm qua, chúng ta sẽ nhận ra rằng xã hội đang thay
đổi với tốc độ nhanh đến thế nào. Trong dòng chảy ấy, mọi quốc gia hay dân tộc đang dần
hòa vào làm một, tạo nên "thế giới phẳng", nơi mỗi con người đều là một mắt xích quan
trọng trong quá trình phát triển của nhân loại.Chính vì vậy, sinh viên Việt Nam buộc phải
nhanh chóng thích nghi tiếp cận với những nguồn tri thức mới để mài giũa kiến thức, kỹ năng
cho bản thân; đồng thời có thêm cơ hội khám phá thế giới muôn màu. Sự phát triển ấy của
mỗi cá nhân chính là động lực tạo nên một đất nước, xã hội tiến bộ hơn.
Trong tiến trình vận động và phát triển ấy , mọi sự vật ( hiện tượng, q trình) đều
khơng ngừng biến đổi. Sự biến đổi này tuân theo những quy luật nhất định trong đó có Quy
luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại.
Đây được coi là cách thức vận động, phát triển của mọi sự vật trong thế giới. Nhận thức
được quy luật này có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động thực tiễn khi chúng ta xem xét
các sự vật hiên tượng.
Đối với sinh viên Đại học – giai đoạn có nhiều thay đổi về mơi trường sống, sinh hoạt
và học tập, địi hỏi sự thích nghi là cần thiết. Việc nhận thức và vận dụng đúng đắn Quy luật
lượng – chất có ý nghĩa rất lớn, thơng qua đó xây dựng cho mình phương pháp học tập, rèn
luyện, thích ứng nhanh với điều kiện sống, môi trường học tập mới, con người mới đồng thời
đáp ứng được những yêu cầu của nhà trường và xã hội.. Bởi lẽ đó, là một sinh viên năm nhất

tôi chọn đề tài tiểu luận: “Quy luật Lượng- Chất và sự vận dụng trong đời sống sinh viên Đại
học Kinh tế quốc dân”.

3


lOMoARcPSD|11558541

MỤC LỤC
I. QUY LUẬT LƯỢNG CHẤT CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN…………………………5
1. Quy luật lượng chất…………………………………………………………………………5
1.1. Khái niệm về chất…………………………………………………………………………5
1.2. Khái niệm về lượng……………………………………………………………………….6
2. Nội dung duy luật…………………………………………………………………………...7
2.1. Khái niệm độ……………………………………………………………………………...7
2.2. Chu trình thay đổi………………………………………………………………................7
2.3. Tác động ngược…………………………………………………………………...............8
3. Ý nghĩa phương pháp luận………………………………………...………………………..9
II. VẬN DỤNG QUY LUẬT LƯỢNG – CHẤT TRONG ĐỜI SỐNG SINH VIÊN………...9
1.Đặt vấn đề……………………………………..…………………………...………..............9
2. Mối liên hệ Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về
chất và đời sống sinh viên………………………...………………………..………………...10
3. Vận dụng quy luật lượng – chất trong đời sống học tập sinh viên……………..………….11
3.1. Thực trạng sinh viên hiện nay……………………………………………...……………11
3.2. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng………………………………………...……................12
3.3. Giải pháp khắc phục………………………………………………………...…………...13
3.3.1. Ý thức học tập của sinh viên…………………………..................................................13
3.3.2. Hình thành động cơ học tập……………………………..……………………………..13
3.3.3. Phương pháp học của sinh viên………………………………………………………..14
3.3.4.Tinh thần đoàn kết thương yêu giúp đỡ nhau trong học tập và nghiên cứu, trong đời

sống xã hội …………………………………………………………………………………...14
III. KẾT LUẬN ……..…………………………………………….........................................16

4


lOMoARcPSD|11558541

I. QUY LUẬT LƯỢNG CHẤT TRONG TRIẾT HỌC MAC- LÊNIN
1. Quy luật lượng - chất
Quy luật lượng - chất hay cịn gọi là quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về
lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại là một trong ba quy luật cơ bản của phép
biện chứng duy vật trong triết học Mác - Lênin, chỉ cách thức của sự vận động, phát triển,
theo đó sự phát triển được tiến hành theo cách thức thay đổi lượng trong mỗi sự vật dẫn đến
chuyển hóa về chất của sự vật và đưa sự vật sang một trạng thái phát triển tiếp theo. Ph.Ăngghen đã khái quát quy luật này:


Những thay đổi đơn thuần về lượng, đến một mức độ nhất định, sẽ chuyển hóa thành
những sự khác nhau về chất ”
 Ph.Ăng-ghen.
Các nhân tố
Theo quan điểm của Triết học Mác - Lenin, bất cứ một sự vật, hiện tượng nào cũng
bao gồm mặt chất và mặt lượng. Hai mặt đó thống nhất hữu cơ với nhau trong sự vật, hiện
tượng. Phép biện chứng duy vật đưa ra khái niệm chất, lượng và quan hệ qua lại giữa chúng
như sau:
1.1. Khái niệm chất
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật,
hiện tượng, đó là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính, những yếu tố cấu thành sự vật,
hiện tượng, nói lên sự vật, hiện tượng đó là gì, phân biệt nó với các sự vật, hiện tượng khác.
Mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều có những chất vốn có, làm nên chính chúng. Nhờ

đó chúng mới khác với các sự vật, hiện tượng khác.
Chất có tính khách quan, là cái vốn có của sự vật, hiện tượng, do những thuộc tính,
những yếu tố cấu thành quy định. Thuộc tính của sự vật là những tính chất, những trạng thái,
những yếu tố cấu thành sự vật. Đó là những cái vốn có của sự vật từ khi sự vật được sinh ra
hoặc được hình thành trong sự vận động và phát triển của nó. Tuy nhiên những thuộc tính
vốn có của sự vật, hiện tượng chỉ được bộc lộ ra thông qua sự tác động qua lại với các sự vật,
hiện tượng khác.
Mỗi sự vật có rất nhiều thuộc tính trong đó mỗi thuộc tính lại biểu hiện một chất của
sự vật. Do vậy, mỗi sự vật có rất nhiều chất. Chất và sự vật có mối quan hệ chặt chẽ, khơng
tách rời nhau. Trong hiện thực khách quan không thể tồn tại sự vật khơng có chất và khơng
thể có chất nằm ngoài sự vật. Chất của sự vật được biểu hiện qua những thuộc tính của nó.

5


lOMoARcPSD|11558541

Nhưng khơng phải bất kỳ thuộc tính nào cũng biểu hiện chất của sự vật. Thuộc tính của sự
vật có thuộc tính cơ bản và thuộc tính khơng cơ bản.
Ví dụ: trong mối quan hệ với động vật thì các thuộc tính có khả năng chế tạo, sử dụng
cơng cụ, có tư duy là thuộc tính cơ bản của cọn người cịn những thuộc tính khác khơng là
thuộc tính cơ bản. Song trong quan hệ giữa những con người cụ thể với nhau thì những thuộc
tính của con người về nhân dạng, về dấu vân tay,... lại trở thành thuộc tính cơ bản.
Chất của sự vật khơng những được quy định bởi chất của những yếu tố tạo thành mà
còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, nghĩa là bởi kết cấu của sự vật. Trong
hiện thực các sự vật được tạo thành bởi các yếu tố như nhau, song chất của chúng lại khác.
Ví dụ: Kim cương và than chì đều có cùng thành phần hóa học do các nguyên tố các
bon tạo nên nhưng do phương thức liên kết giữa các nguyên tử các bon là khác nhau, vì thế
chất của chúng hồn tồn khác nhau. Kim cương rất cứng, cịn than chì lại mềm. Trong một
tập thể nhất định nếu phương thức liên kết giữa các cá nhân biến đổi thì tập thể đó có thể trở

nên vững mạnh, hoặc sẽ trở thành yếu kém, nghĩa là chất của tập thể biến đổi.
Mỗi sự vật có vơ vàn chất: vì sự phân biệt giữa chất và thuộc tính chỉ có ý nghĩa tương
đối, song sự vật có vơ vàn thuộc tính nên có vô vàn chất. Chất và sự vật không tách rời nhau:
chất là chất của sự vật, còn sự vật tồn tại với tính quy định về chất của nó. Chất biểu hiện
trạng thái tương đối ổn định của sự vật, là sự kết hợp tương đối trọn vẹn, hoàn chỉnh, bền
vững các thuộc tính của sự vật, làm cho sự vật này khơng hịa lẫn với sự vật khác mà tách
biệt cái này với cái khác. Chất luôn gắn liền với lượng của sự vật.
1.2. Khái niệm lượng
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số
lượng, quy mơ, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của
sự vật, biểu hiện bằng con số các thuộc tính, các yếu tố cấu thành nó. Lượng là cái khách
quan, vốn có của sự vật, quy định sự vật ấy là nó. Lượng của sự vật khơng phụ thuộc vào ý
chí, ý thức của con người. Lượng của sự vật biểu thị kích thước dài hay ngắn, số lượng nhiều
hay ít, quy mơ lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, nhịp điệu nhanh hay chậm…

Những lượng khơng tồn tại mà những sự vật có lượng hơn nữa những sự vật có vơ vàn
lượng mới tồn tại

“Engels”
Trong thực tế lượng của sự vật thường được xác định bởi những đơn vị đo lượng cụ
thể như vận tốc của ánh sáng là 300.000 km trong một giây hay một phân tử nước bao gồm
hai nguyên tử hydrô liên kết với một nguyên tử oxy,… bên cạnh đó có những lượng chỉ có
thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát như trình độ nhận thức tri của một người ý

6


lOMoARcPSD|11558541

thức trách nhiệm cao hay thấp của một công dân,... trong những trường hợp đó chúng ta chỉ

có thể nhận thức được lượng của sự vật bằng con đường trừu tượng và khái qt hố.
Có những lượng biểu thị yếu tố kết cấu bên trong của sự vật (số lượng nguyên tử hợp
thành nguyên tố hoá học, số lượng lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội) có những lượng vạch
ra yếu tố quy định bên ngoài của sự vật (chiều dài, chiều rộng, chiều cao của sự vật). Bản
thân lượng khơng nói lên sự vật đó là gì, các thông số về lượng không ổn định mà thường
xuyên biến đổi cùng với sự vận động biến đổi của sự vật, đó là mặt khơng ổn định của sự vật.
2. Nội dung quy luật
Nộỉ dung quy luật được vạch ra thông qua việc làm rõ các khái niệm, phạm trù có liên
quan.
Mỗi sự vật, hiện tượng là một thể thống nhất bao gồm chất và lượng nhất định, trong
đó chất tương đối ổn định còn lượng thường xuyên biến đổi. Sự biến đổi này tạo ra mâu
thuẫn giữa lượng và chất. Lượng biến đổi đến một mức độ nhất định và trong những điều
kiện nhất định thì lượng phá vỡ chất cũ, mâu thuẫn giữa lượng và chất được giải quyết, chất
mới được hình thành với lượng mới, nhưng lượng mới lại biến đổi và phá vỡ chất đang kìm
hãm nó. Q trình tác động lẫn nhau giữa hai mặt: chất và lượng tạo nên sự vận động liên tục,
từ biến đổi dần dần đến nhảy vọt, rồi lại biến đổi dần để chuẩn bị cho bước nhảy vọt tiếp
theo. Cứ căn cứ thế, quá trình động biện chứng giữa chất và lượng tạo nên cách thức vận
động, phát triển của sự vật.
Nói ngắn gọn hơn, bất cứ sự vật nào trong quá trình phát triển đều là quá trình biến
đổi về lượng dẫn đến biến đổi về chất. Biến đổi về lượng đến một mức nhất định sẽ dẫn đến
biến đổi về chất, sản sinh chất mới. Rồi trên nền tảng của chất mới lại bắt đầu biến đổi về
lượng. Biến đổi về lượng là nền tảng và chuẩn bị tất yếu của biến đổi về chất. Biến đổi về
chất là kết quả tất yếu của biến đổi về lượng. Quy luật biến đổi về chất và lượng cho thấy
trạng thái và quá trình phát triển của sự vật.
2.1. Khái niệm độ
Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, là giới
hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật, sự vật
chưa biến thành cái khác. Trong giới hạn của độ, lượng và chất tác động biện chứng với
nhau, làm cho sự vật vận động.
2.2. Chu trình thay đổi

Từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất Trong mối quan hệ giữa chất
và lượng thì chất là mặt tương đối ổn định, còn lượng là mặt biến đổi hơn. Sự vận động và
phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Song không phải bất kỳ sự
thay đổi nào về lượng cũng dẫn đến sự thay đổi về chất ngay tức khắc, mặc dù bất kỳ sự thay
7


lOMoARcPSD|11558541

đổi nào về lượng cũng ảnh hưởng đến trạng thái tồn tại của sự vật. So với lượng thì chất thay
đổi chậm hơn. Chỉ khi nào lượng biến đổi đến một giới hạn nhất định (độ) thì mới dẫn đến sự
thay đổi về chất, sự vật khơng cịn là nó nữa, một sự vật mới ra đời thay thế nó.
Tại thời điểm lượng đạt đến một giới hạn nhất định để vật thay đổi về chất gọi là điểm
nút. Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã
đủ làm thay đổi về chất của sự vật.
Khi có sự thay đổi về chất diễn ra gọi là bước nhảy. Bước nhảy là sự kết thúc một giai
đoạn biến đổi về lượng, là sự đứt đoạn trong liên tục, nó khơng chấm dứt sự vận động nói
chung mà chỉ chấm dứt một dạng vận động cụ thể, tạo ra một bước ngoặt mới cho sự thống
nhất biện chứng giữa chất và lượng trong một độ mới.
Các hình thức cơ bản của bước nhảy. Bước nhảy để chuyển hoá về chất của sự vật hết
sức đa dạng và phong phú với những hình thức rất khác nhau. Những hình thức bước nhảy
khác nhau được quyết định bởi bản thân của sự vật, bởi những điều kiện cụ thể trong đó sự
vật thực hiện bước nhảy.
Dựa trên nhịp điệu thực hiện bước nhảy của bản thân sự vật, có thể phân chia thành
bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần. Bước nhảy đột biến là bước nhảy được thực hiện
trong một thời gian rất ngắn làm thay đổi chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật. Chẳng
hạn, khối lượng Uranium 235(Ur 235) được tăng đến khối lượng tới hạn thì sẽ xảy ra vụ nổ
nguyên tử trong chốc lát. Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện từ từ, từng bước
bằng cách tích luỹ dần dần những nhân tố của chất mới và những nhân tố của chất cũ dần dần
mất đi. Bước nhảy dần dần khác với sự thay đổi dần dần về lượng của sự vật. Bước nhảy dần

dần là sự chuyển hoá dần dần từ chất này sang chất khác còn sự thay đổi dần dần về lượng là
sự tích luỹ liên tục về lượng để đến một giới hạn nhất định sẽ chuyển hố về chất.
Căn cứ vào quy mơ thực hiện bước nhảy của sự vật có bước nhảy tồn bộ, có bước
nhảy cục bộ. Bước nhảy tồn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt, các yếu
tố cấu thành sự vật. Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của từng mặt, những
yếu tố riêng lẻ của sự vật.
Khi lượng biến đổi đến điểm nút thì diễn ra bước nhảy, chất mới ra đời thay thế cho
chất cũ, sự vật mới ra đời thay thế cho sự vật cũ, nhưng rồi những lượng mới này tiếp tục
biến đổi đến điểm nút mới lại xảy ra bước nhảy mới. Cứ như vậy, quá trình vận động, phát
triển của sự vật diễn ra theo cách thức từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về
chất một cách vơ tận. Đó là q trình thống nhất giữa tính tuần tự, tiệm tiến, liên tục với tính
gián đoạn, nhảy vọt trong sự vận động, phát triển.
2.3. Tác động ngược
Sự thay đổi về chất tác động trở lại đối với sự thay đổi về lượng. Lượng thay đổi luôn
luôn trong mối quan hệ với chất, chịu sự tác động của chất. Song sự tác động của chất đối với
8


lOMoARcPSD|11558541

lượng rõ nét nhất khi xảy ra bước nhảy về chất, chất mới thay thế chất cũ, nó quy định quy
mô và tốc độ phát triển của lượng mới trong một độ mới. Khi chất mới ra đời, nó khơng tồn
tại một cách thụ động, mà có sự tác động trở lại đối với lượng, được biểu hiện ở chỗ: chất
mới sẽ tạo ra một lượng mới phù hợp với nó để có sự thống nhất mới giữa chất và lượng. Sự
quy định này có thể được biểu hiện ở quy mô, nhịp độ và mức độ phát triển mới của lượng.
3.Ý nghĩa phương pháp luận
Thứ nhất, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải biết tích luỹ về lượng
để có biến đổi về chất; khơng được nơn nóng cũng như khơng được bảo thủ.
Thứ hai, khi lượng đã đạt đến điểm nút thì thực hiện bước nhảy là yêu cầu khách quan
của Sự vận động của sự vật, hiện tượng; tư tưởng nơn nóng thường biểu hiện ở chỗ khơng

chú ý thỏa đáng đến sự tích luỹ về lượng mà cho rằng, sự phát triển của sự vật, hiện tượng chỉ
là những bước nhảy liên tục; ngược lại, tư tưởng bảo thủ thường biểu hiện ở chỗ không dám
thực hiện bước nhảy, coi sự phát triển chỉ là những thay đổi về lượng. Do vậy, cần khắc phục
cả hai biểu hiện trên.
Thứ ba, sự tác động của quy luật này địi hỏi phải có thái độ khách quan, khoa học và
quyết tâm thực hiện bước nhảy; tuy đều có tính khách quan, nhưng quy luật xã hội chỉ diễn ra
thơng qua hoạt động có ý thức của con người; do vậy, khi thực hiện bước nhảy trong lĩnh vực
xã hội, tuy vẫn phải tuân theo điều kiện khách quan, nhưng cũng phải chú ý đến điều kiện
chủ quan. Nói cách khác, trong hoạt động thực tiễn, không những cần xác định quy mô và
nhịp điệu bước nhảy một cách khách quan, khoa học, chống giáo điều, rập khn, mà cịn
phải có quyết tâm và nghị lực đế thực hiện bước nhảy khi điều kiện đã chín muồi, chủ động
nắm bắt thời cơ thực hiện kịp thời bước nhảy khi điều kiện cho phép, chuyển thay đổi mang
tính tiến hóa sang thay đổi mang tính cách mạng.
Thứ tư, quy luật yêu cầu phải nhận thức được sự thay đổi về chất còn phụ thuộc vào
phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật, hiện tượng; do đó, phải biết lựa chọn
phương pháp phù hợp để tác động vào phương thức liên kết đó trên cơ sở hiểu rõ bản chất,
quy luật của chúng.
II.VẬN DỤNG QUY LUẬT LƯỢNG – CHẤT TRONG ĐỜI SỐNG SINH VIÊN
1. Đặt vấn đề
Bước vào trường Đại học trở thành một sinh viên – một bộ phận đóng vai trị quan
trọng “mang Đất Nước đi xa. Đến những tháng ngày mơ mộng” ( Nguyễn Khoa Điềm). Đó
là một vinh dự, một phần thưởng cao quý nhưng cũng là trách nhiệm nghĩa vụ nặng nề dành
cho dành cho những học sinh có nhiều cố gắng trong thời phổ thông. Nhưng liệu rằng sự
nhiệt tình ý chí quyết tâm trong thời phổ thơng đó có cịn được phát huy và những phương
pháp học tập có cịn phù hợp với đời sống sinh viên trong môi trường đại học ?...
9


lOMoARcPSD|11558541


Đó là những vấn đề thiết yếu, quan trọng có ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh
viên. Do vậy, sinh viên cần nhiều thời gian hơn để xem xét, lý giải tìm phương pháp học tập
hiệu quả, cách thích nghi linh hoạt với đời sống xã hội. Phân tích quy luật lượng chất để tìm
ra giải pháp thúc đẩy quá trình học tập của sinh viên một cách hiệu quả nhất.
2. Mối liên hệ quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi
về chất và đời sống sinh viên
Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích lũy dần dần
về lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển về chất và việc học tập
của sinh viên cũng không nằm ngồi điều đó.
Việc chuyển từ phổ thơng sang học cao đẳng, đại học được coi là một bước chuyển về
chất. Khi bước chân vào trường đại học với chương trình học rất khác, phương pháp dạy
khác, môn học và kiến thức rộng hơn đòi hỏi nhiều kỹ năng hơn ở người học. Sinh viên phải
biến quá trình đào tạo sang tự đào tạo, tự học là phương pháp chính để tiếp thu tri thức nền
tảng, tiếp thu những tri thức mà giảng viên truyền đạt, không được cầm tay chỉ việc như học
phổ thơng. Để có được tấm bằng cử nhân trong tay, trong quá trình học chúng ta phải tích lũy
đủ số lượng đơn vị học trình của các mơn học. Để có đủ điểm cho các đơn vị học phần chúng
ta phải trải qua các kỳ kiểm tra và các kỳ thi. Những kỳ thi là những điểm tích lũy mà sinh
viên cần phải có để hồn thành các học phần của mình. Và cũng đánh giá được lượng kiến
thức mà sinh viên đang có. Như vậy có thể xem thời gian học và các kỳ kiểm tra là độ, các kỳ
thu là điểm nút, Cuối cùng thi tốt nghiệp là bước nhảy.
Có một điều đáng lưu ý ở đây, “cũng là một lưu ý hết sức quan trọng trong triết học về
quy luật lượng chất này là xác định xem lượng đã đủ chưa để thực hiện bước nhảy vì nếu tích
lũy chưa đủ lượng mà thực hiện bước nhảy thì sẽ thất bại, nhưng nếu đủ lượng rồi mà không
tạo điều kiện để thực hiện bước nhảy thì sẽ khơng biến đổi được về chất”. Trong học tập
chúng ta phải học thật tốt, nghiêm túc, để tích lũy đủ số đơn vị học phần tạo một bước nhảy
lớn là kỳ thi tốt nghiệp . Nhưng nếu chúng ta chưa tích lũy đủ thì sinh viên cần phải học lại,
bổ sung lượng kiến thức mà chúng ta chưa đạt được đến khi nào đầy đủ thì sinh viên thực
hiện “ bước nhảy” là kỳ thi tốt nghiệp của mình.
Khi sinh viên vượt qua “điểm nút” và kỳ thi tốt nghiệp , tức cũng là thực hiện “bước
nhảy”, sinh viên sẽ được nhận bằng cử nhân. Trình độ văn hóa của sinh viên cao hơn trước và

sẽ tạo điều kiện cho họ thay đổi kết cấu, quy mô và trình độ tri thức, giúp họ tiến lên trình độ
cao hơn.
Do đó , trong hoạt động nhận thức và học tập sinh viên phải từng bước tích lũy về
lượng (tri thức) để làm biến đổi về chất (kết quả học tập) theo quy luật. Cũng như trong hoạt
động của mình, ơng cha ta đã rút ra những tư tưởng sâu sắc như “ tích tiểu thành đại”, “năng
nhặt, chặt bị”, “góp gió thành bão”…Những việc làm vĩ đại của con người bao giờ cũng là sự

10


lOMoARcPSD|11558541

tổng hợp của những việc làm bình thường của con người đó. Quy luật này giúp chúng ta
tránh được tư tưởng chủ qua trong học tập và trong hoạt động thực tiễn hằng ngày.
3. Vận dụng quy luật lượng – chất trong đời sống học tập sinh viên
3.1. Thực trạng sinh viên hiện nay
Sinh viên mất niềm tin:
Hàng ngày sinh viên nhận được quá nhiều các cuộc gọi mời đi học, mời đi làm việc
Partime, mời đi bán hàng đa cấp để giàu có với những chiêu Pr như thể chỉ cần xịe tay ra có
thể hứng được tiền cho bản thân…..và cũng khơng ít, thậm chí rất nhiều các em đã bị lừa
tiền, lừa công sức …để phục vụ cho các công ty ma, các công ty làm ăn khơng chân chính.
Sinh viên mất niềm tin và khơng biết phân biệt khi nào và ai nên tin, khi nào và ai
đang lừa và lợi dụng. Từ sự mất niềm tin này mà tới 60% các bạn sinh viên có suy nghĩ thà
thất nghiệp ở nhà còn hơn bị lừa…hoặc kéo theo rất nhiều các hạn chế khác cho sinh viên sau
khi ra trường.
Sinh viên cố thủ, đổ lỗi và thụ động:
Một phần nhỏ bởi sự mất niềm tin, còn lại chủ yếu là biện hộ bởi lối suy nghĩ “chỉ làm
những gì trong hiện tại cho tốt” cịn lại “những gì trong tương lai thì tính sau hoặc lúc đó hãy
hay hoặc khắc sẽ có người lo….” Hoặc “đi làm nhỡ bị lừa thì sao”… mà phần lớn các sinh
viên trong các năm học ở trên trường chủ yếu dành thời gian chơi và học. Tuy nhiên, tới 70%

thời gian là chơi và chỉ có 30% là học vì vậy học cũng không tốt mà các kỹ năng và sự trải
nghiệm rèn luyện cho nghề nghiệp tương lai cũng khơng có. Ngồi ra sinh viên có 1 cái khiên
rất lớn đó là đổ lỗi, mọi vấn đề để ko phải lỗi do mình mà là do số phận, do cơ chế, do đào
tạo…. Đây là vấn đề nguy hiểm nhất vì nếu tự mình đã tạo cho mình 1 rào cản, tự đào hố
chơn chân mình thì chắc chắn là sẽ không chẳng bao giờ khá lên được.
Sinh viên khó hội nhập với doanh nghiệp:
Do chơi nhiều hơn học nên kiến thức chuyên môn thày cô dạy trên trường đến khi ra
trường cũng khơng có hoặc có nhưng cũng khơng nắm chắc, cái gì cũng chỉ nhớ lơ tơ mơ rơi
rụng hết, kỹ năng cơ bản khơng có (tin học, soạn thảo, báo cáo…không thành thạo), kỹ năng
mềm và kỹ năng sống trong cộng đồng Dn khơng có ( khả năng nhận diện vấn đề và giải
quyết vấn đề kém, phân tích và tổ chức cơng việc khơng khoa học, giao tiếp rụt rè, không
chịu được áp lực, sợ vất vả, sợ bị mắng, kêu ca phàn nàn, buôn dưa lê…)
Sinh viên ngộ nhận và khơng có mục tiêu:
Ln có suy nghĩ xin được việc rồi khắc sẽ được Dn đào tạo hoặc có người lo cho rồi
hoặc phải mức lương cao đủ sống mới làm nếu khơng thì thà ở nhà (nhưng không biết như
thế nào để đủ sống nên nghĩ rằng phải sống thật thoải mái, lương phải đạt được đến mức có
11


lOMoARcPSD|11558541

thể thích cái gì mua được cái đó…mà vẫn có tiền tiết kiệm…) hoặc phải tìm việc đúng
nghành mình học hoặc phải tìm việc đúng ngành mình thích và đam mê hoặc phải làm việc
tại các cơng ty có mơi trường tốt (nhưng không biết như thế nào là tốt) hoặc phải làm ở cơng
ty có nhiều lĩnh vực và đơng nhân viên để học hỏi….
Chính những ngộ nhận như vậy khiến cho sinh viên hầu như khơng có mục tiêu rõ
ràng trong tự lập nghiệp và xảy ra tình trạng: Người chờ cơ hội có người giúp có khi 3 năm
hoặc 5 năm hoặc nhiều hơn nữa vẫn cứ phải chờ; đi làm tạm thời để chờ cơ hội hoặc chờ xin
được việc mình thích và khơng có trách nhiệm, khơng có tinh thần gắn bó và chắc chắn khó
được cơng nhận để lương cao, thăng tiến; phải tìm được Dn có mơi trường hội tụ đủ các điều

kiện mà mình thấy thích, thấy thoải mái, khơng áp lực, lương cao…và cứ nhảy việc hết chỗ
này đến chỗ khác để tìm.
3.2. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng:
Thứ nhất:
Do các sinh viên cịn lười trong việc học hỏi hoặc khơng có ai để định hướng chính
xác và đúng đắn thực trạng các doanh nghiệp hiện nay ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường
cho đến khi đã tốt nghiệp. Nên kiến thức học được trên trường và việc vận dụng để áp dụng,
tiếp cận thực tế hầu như là rất kém.
Thứ hai:
Sinh viên mất niềm tin do hàng ngày họ nhận được quá nhiều các cuộc gọi từ nhiều
các công ty mời học, mời đi làm… gồm phần nhiều là các cơng ty đa cấp. Và đơi khi bị lừa
chính bởi bạn bè của mình. Mặt khác, thêm những cảnh báo từ nhiều nguồn chỉ mang tính
chất “Thà nhầm cịn hơn bỏ xót” mà khơng hề có sự phân tích kỹ năng, đường đi nước bước
thấu đáo cho học sinh để phân biệt đúng sai, khiến các em rơi vào tình trạng đi đâu cũng sợ
mình bị lừa. Do đó dẫn đến tình trạng 60% các sinh viên có suy nghĩ thà ở nhà cịn hơn bị
lừa.
Thứ ba:
Sinh viên có suy nghĩ sai lệch về thị trường lao động. Học đại học không xin được
việc nhưng không chịu suy xét và hiểu rằng đó là do bản thân mình mà đổ lỗi cho cơ chế, thị
trường lao động, đổ lỗi cho doanh nghiệp….Nhiều bạn khơng có định hướng cụ thể mà tiếp
tục xin tiền gia đình để học cao học, mất thêm chi phí, mất thêm thời gian, nhiệt huyết giảm
sút và với bản thân suy nghĩ không thay đổi nên tiếp tục thất nghiệp.
Thứ tư:
Sinh viên ỉ nại hoặc đứng giữa ngã ba đường khi có sự hứa hẹn để giúp đỡ. Ngay khi
con chọn trường, đi học nhiều gia đình đã cho con biết “Cứ học đi bố mẹ đã lo…hoặc bố mẹ
đã nhờ…” khiến các con của họ học chỉ để học và chờ ra trường đã có người lo. Và có quá
12


lOMoARcPSD|11558541


nhiều bạn khi ra trường, thì cơ hội do cha mẹ hứa hẹn khơng cịn nên rơi vào tình trạng tiến
thoái lưỡng nan, khi mà kiến thức và nhiệt huyết khơng có để tự xin việc, lại chờ xem có cơ
hội giúp đỡ nào không…cứ chờ, chờ mãi…và thất nghiệp mãi…
3.3 Giải pháp khắc phục thực trạng nâng cao giá trị đời sống sinh viên
3.3.1. Khắc phục, nâng cao ý thức học tập của sinh viên
Nhiệm vụ của một người sinh viên trường Đại học là phải học tập rèn luyện tu dưỡng
phấn đấu thành những người lao động tốt , những cán bộ cơng nhân viên chức góp phần xây
dựng và bảo vệ đất nước. Muốn làm tròn nhiệm vụ nặng nề ấy, ngay từ khi ngồi trên ghế nhà
trường mỗi sinh viên phải quán triệt sâu sắc quan điểm giáo dục của Đảng và về công tác đào
tạo cán bộ , phải thấu suốt mục tiêu đào tạo của trường mình học , có như vậy mới xây dựng
được phong cách và phương pháp học tập rèn luyện hợp lí .
Là những sinh viên , chúng ta cần phải tìm hiểu và nắm bắt nhưng thay đổi, những
nhu cầu thực tiễn cần thiết của xã hội, phải biết nắm bắt cơ hội việc làm khi ngồi trên ghế nhà
trường để sau khi ra trường chúng ta sẽ dễ dàng tìm kiếm được việc làm ổn định. Mỗi sinh
viên phải tự đặt ra cho mình những câu hỏi : “ học để làm gì?” ,“ học để phục vụ ai?” . Xác
địn được mục đích học tập nghiên cứu là hiểu được mình phải phấn đấu để trở thành con
người như thế nào ? Muốn thế người sinh viên phải thường xuyên nâng cao trình độ nhận
thức về tình hình , nhiệm vụ , nắm vững yêu cầu của ngành giáo giục nhất là đối với bậc giáo
dục Đại học cùng các vấn đề khác có liên quan.
Hiện nay trong các nhà trường tình trạng sinh viên xác định mục tiêu phấn đấu một
cách chung chung , học cốt sao chỉ để qua các kì thi . Chính vì thế nên nhiều sinh viên vẫn
chưa tìm được phương pháp học tập tốt. Quả thật : “Nếu khơng có mục đích thì con người
khơng làm được gì cả và khơng thể làm nên cái vĩ đại nếu mục đích tầm thường”.
Điều cần nhớ là việc xác định mục đích học tập nghiên cứu không chỉ diễn ra trong
giai đoạn mới vào trường , mà nú là một quá trình lâu dài .
“Điều quan trọng khơng phải vị trí ta đang đứng mà là hướng ta đang đi”. Trong quá
trình học tập và nghiên cứu , nếu mỗi sinh viên đều xác định được một hướng đi cụ thể , có
mục đích, ý thức đúng đắn thì đó là nhân tố quan trọng nhất để có thể đạt được thắng lợi.
3.3.2. Hình thành, xây dựng động cơ học tập và nghiên cứu.

Việc xác đinh mục đích học tập nghiên cứu ghóp phần xác định, xây dựng động cơ học
tập làm việc mạnh mẽ cho sinh viên. Bởi vì động cơ với tư cách là nguyên nhân của hành
động đã trở thành động lực bên trong có tác dụng thúc đẩy mọi sức mạnh tinh thần và vật
chất của con người hành động theo những tri thức và niềm tin sẵn có. Mặt khác động cơ với
tư cách là mục đích của hành động sẽ quy định chiều hướng của hành động , quy định thái độ
của con người đối với hành động của mình.
13
Downloaded by quang tran ()


lOMoARcPSD|11558541

Vì vậy việc xác định động cơ học tập là việc làm rất quan trọng đối với sinh viên nói
chung và đặc biệt là đối với sinh viên đại học Kinh tế quốc dân.
3.3.3. Phương pháp học tập của sinh viên.
Q trình học tập ở đại học khơng phải chỉ bắt đầu ở giảng đường khi sinh viên nghe
thầy giáo giảng bài hoặc trao đổi tranh luận, Quá trình này chỉ thật sự bắt đầu khi sinh viên
chuẩn bị một cách tích cực các điều kiện cần thiết để tiếp cận mơn học như : đọc trước giáo
trình, tìm tài liệu có liên quan. Sự chuẩn bị này càng trở nên hiệu quả hơn khi đi liền với nó là
một sự chuẩn bị về mặt tâm thế để có thể tiếp cận kiến thức một cách chủ động sáng tạo. Với
sự chuẩn bị tâm thế này, sinh viên có thể chủ động tự đặt trước cho mình một số câu hỏi có
liên quan đến nội dung được đặt trên lớp, thậm chí có thể tự tạo cho mình một cái “ khung tri
thức” để trên cơ sở đó có thể tiếp nhận bài học một cách hệ thống. Với cách chuẩn bị tri thức
mà sinh viên có được khơng phải là một tri thức được truyền đạt một chiều từ phía người dạy
mà cịn do chính sinh viên tự tạo ra bằng cách chuẩn bị các điều kiện thực tế và tâm thể thuận
lợi cho sự tiếp nhận tri thức. Bởi vậy có thể nói rằng học là q trình “hợp tác” giữa người
dạy và người học
Sự chuẩn bị nói trên sẽ được nâng cao hơn khi sinh viên biết tự tổ chức, sắp xếp quá
trình học tập của mình một cách có tổ chức và có hệ thống. Trong khi làm việc chính là một
q trình học tập hiệu quả nhất bởi vậy trong các buổi thực hành thì nghiệm sinh viên cũng

phải làm việc một cách chăm chú và có ý thức.
Ngồi ra sinh viên phải biết cách tự suy nghĩ lại và biết cách lật ngược vấn đề theo
một cách khác. Khả năng này giúp cho sinh viên biết cách cải thiện điều kiện, phương pháp
pháp và kết quả học tập của mình. Về bản chất, tư duy đại học không phải là một thứ tư duy
đơn tuyển, một chiều mà đó chính là hình thức tư duy đa tuyển ,phức hợp đòi hỏi người đọc,
người dạy, người nghiên cứu phải có tính sang tạo cao, ln biết cách lật ngược vấn đề theo
một cách khác, soi sáng vấn đề từ những khía cạnh chưa ai đề cập đến.
Giải lao, giải trí một hoạt động cũng quan trọng khơng kém so với học tập chính
khóa. Ai khơng biết cách nghỉ ngơi, giải trí thì cũng có thể xem như người đó khơng biết cách
học hoặc là có kết quả học tập không cao. Vậy phải hiểu vấn đề này như thế nào? Theo tơi thì
đó là những hoạt động thể dục thể thao, các phong trào do Đồn sinh viên tổ chức và một mặt
nào đó thì đó là niềm vui trong học tập. Bên cạnh đó nó cịn trau dồi khả năng làm việc theo
nhóm , phát huy năng lực nghiên cứu và trang bị thêm cho mình những kĩ năng tác nghiệp về
sau; qua việc làm này chúng ta có thể biến những tri thức lĩnh hội thành những sản phẩm trí
tuệ đích thực.
3.3.4. Tinh thần đoàn kết thương yêu giúp đỡ nhau trong học tập nghiên cứu.
“Bản chất con người không phải là cái gì trừu tượng vốn có của cá nhân riêng biệt.
Trong tính hiện thực của nó , bản chất con người là tổng hợp của tất cả những quan hệ xã
14
Downloaded by quang tran ()


lOMoARcPSD|11558541

hội – C.Mac”. Áp dụng điều đó vào việc học tập nghiên cứu của sinh viên nghĩa là mỗi sinh
viên phải có tinh thần đồn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, phải coi những kinh nghiệm của
bạn bè đã được phân tích , chọn lọc là những bài học quý báu, không phải cứ chờ đến bài
giảng của thầy mới coi là học.
Trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong học tập, sinh viên cần phải tích cực làm
việc, học tập theo nhóm, tổ chức để rèn luyện khả năng làm việc tập thể và tìm ra được những

thiếu sót của mỗi người. Ngồi ra chúng ta, mỗi người cần làm tốt cơng tác phê bình và tự
phê bình và phải ln có tinh thần vươn lên. Sinh viên phải sẵn sàng tạo ra những điều kiện
thuận lợi cũng như giúp đỡ bạn bè trong những lúc gặp khó khăn góp phần tạo động lực thục
đẩy giúp bạn hồn thành tốt cơng việc và tích lích thêm cho mình những kiến thức, kinh
nghiệm. Những tình bạn như vậy chắc chắn sẽ tạo nên một sự cổ vũ, một sức mạnh thúc đẩy
cho mỗi người. Một tình bạn đẹp như của Mac và Anghen là một ví dụ điển hình

15
Downloaded by quang tran ()


lOMoARcPSD|11558541

III. KẾT LUẬN
Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay
đổi về chất và ngược lại ta rút ra một số vấn đề trong đời sống, học tập và rèn luyên của sinh
viên.

Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích lũy dần dần
về lượng đến 1 giới hạn nhất định, chuyển hóa về chất và việc học tập rèn luyện của sinh
viên Kinh tế quốc dân cũng khơng nằm ngồi vấn đề đó. Để có được tấm bằng đại học chúng
ta cần phải thực hiện đầy đủ các học phần và hoàn thành tốt các kỳ thi. Muốn được như vây
chúng ta cần phải cố gắng nỗ lực trong học tập, phải tìm ra các phương hướng học tập đúng
đắn để đạt được kết quả cao nhất.

16
Downloaded by quang tran ()


lOMoARcPSD|11558541


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình triết học Mác – Lênin
2. />3. />
17
Downloaded by quang tran ()



×