Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

BÀI tập lớn môn học PHÁP LUẬT VIỆT NAM đại CƯƠNG đề tài PHÁP NHÂN CHỦ THỂ của QUAN hệ PHÁP LUẬT dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.96 KB, 37 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

BÀI TẬP LỚN MÔN HỌC
PHÁP LUẬT VIỆT NAM ĐẠI CƯƠNG

ĐỀ TÀI
PHÁP NHÂN - CHỦ THỂ CỦA QUAN HỆ PHÁP LUẬT DÂN SỰ
LỚP:L15 NHÓM:04 , HK211

STT
1.
2.
3.
4.
5.


GVHD: CAO HỒNG QUÂN


TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021

BÁO CÁO PHÂN CƠNG NHIỆM VỤ VÀ KẾT QUẢ
THỰC HIỆN ĐỀ TÀI CỦA TỪNG THÀNH VIÊN NHÓM 4
STT

1.

2.
3.


4.
5.
NHÓM TRƯỞNG : Trịnh Thái Ngọc Hải
Email:
SĐT: 0984235436


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG........................................................................................................................3
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP NHÂN –CHỦ THỂ QUAN HỆ
PHÁP LUẬT DÂN SỰ..................................................................................................................3
1.1.

Khái niệm và phân loại pháp nhân theo pháp luật dân sự Việt Nam.....................3

1.1.1.

Khái niệm pháp nhân...........................................................................................3

1.1.2.

Phân loại pháp nhân............................................................................................4

1.2.

Các điều kiện để tổ chức được công nhận là pháp nhân..........................................6

1.2.1.


Được thành lập theo quy định của Bộ luật Dân sự, luật khác có liên quan.....6

1.2.2.

Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật Dân sự.....................7

1.2.3. Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng
tài sản của mình..................................................................................................................9
1.2.4.

Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập..................... 11

1.3. Năng lực chủ thể của pháp nhân và một số vấn đề về yếu tố lý lịch của pháp
nhân...........................................................................................................................................12
1.3.1.

Năng lực chủ thể của pháp nhân.......................................................................12

1.3.2.

Một số vấn đề về yếu tố lý lịch của pháp nhân..................................................15

CHƯƠNG II. THỰC TIỄN XÁC ĐỊNH TƯ CÁCH PHÁP NHÂN TRONG TRANH
CHẤP THỰC TẾ.........................................................................................................................17
2.1.

Vấn đề pháp lý pháp sinh trong vụ việc và quan điểm của các cấp Tòa án.........17

2.1.1.


Vấn đề pháp lý pháp sinh trong vụ việc.............................................................18

2.1.2.

Quan điểm của các cấp Toà án xét xử vụ việc.................................................. 19

2.2. Quan điểm của nhóm nghiên cứu về tranh chấp và kiến nghị hồn thiện quy
định pháp luật hiện hành........................................................................................................19
2.2.1.

Quan điểm của nhóm nghiên cứu về tranh chấp..............................................19

2.2.2.

Bất cập và kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành......................19

CHƯƠNG III. VẬN DỤNG VÀ ĐÁNH GIÁ..........................................................................22
3.1. Vận dụng chế định............................................................................................................22
3.2. Đánh giá ý nghĩa của chế định........................................................................................25
PHẦN KẾT LUẬN......................................................................................................................29


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................30


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Pháp nhân, ngay từ cội nguồn khai sinh ra nó, pháp nhân đã mang dấu ấn của một
chủ thể được hư cấu bởi pháp luật. Chế định về pháp nhân đã được hình thành từ khá
sớm trong lịch sử, và dần trở thành nội dung quan trọng trong hệ thống pháp luật của

mỗi quốc gia.
Trong xã hội dân sự ngày nay, pháp nhân được xem như là một tiêu chí đánh giá
mức độ tự do kinh tế và phát triển kinh tế của một đất nước. Pháp nhân là một chủ thể
cơ bản tham gia vào các quan hệ dân sự – kinh tế thường xuyên và phổ biến nên tác
động tới nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, nghiên cứu về pháp nhân nói
chung và các doanh nghiệp nói riêng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng vì từ đó
giải quyết các vấn đề pháp lý liên quan đến pháp nhân khi tham gia vào quan hệ pháp
luật dân sự nhằm làm cho các loại pháp nhân bình đẳng khi tham gia vào các quan hệ
pháp luật, đặc biệt là trong quan hệ pháp luật dân sự. Qua việc nghiên cứu bản chất
pháp lý của pháp nhân và tìm hiểu thực trạng địa vị pháp lý của các doanh nghiệp theo
pháp luật Việt Nam hiện hành cho thấy thực tiễn hoạt động của pháp nhân và đặc biệt
là trong quan hệ pháp luật dân sự làm cơ sở cho các doanh nghiệp hoạt động trên lãnh
thổ Việt Nam được phù hợp với các thông lệ quốc tế trong giai đoạn hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay.
Pháp nhân là môt chủ thể cơ bản tham gia vào các quan hệ dân sự - kinh tế thường
xuyên và phổ bíến. Theo sự phát triển của xã hội pháp nhân được ra đời và mang dấu
ấn của một chủ thể được hư cấu bởi pháp luật, pháp nhân có tài sản riêng làm tiền đề
cho việc gánh vác nghĩa vụ độc lập trong giao dịch tài sản với chủ thể khác. Từ những
yếu tố đó pháp luật thừa nhận và quy định về khả năng chịu trách nhiệm độc lập bằng
tài sản của pháp nhân. Như vậy pháp luật là một thực thể pháp lý được hình thành từ
việc thực hiện nguyên tắc tách bạch về tài sản nhằm đảm bảo tính độc lập về pháp lý
và khả năng chịu trách nhiệm hữu hạn của một chủ thể không phải là con người.
Nước ta hiện nay là môt nước phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước, đặc biệt trong
giai đoạn hội nhập sâu rộng thì vấn đề làm rõ bản chất cuả pháp nhân, các vấn đề pháp
lý liên quan đến pháp nhân khi tham gia vào quan hệ dân sự là vô cùng cần thiết, đặc

1



biệt là trong quan hệ pháp luật dân sự. Vì vậy, việc nghiên cứu về bản chất pháp lý của
pháp nhân có ý nghĩa lớn cả về lý luận và thực tiễn. Vì những lý do trên nên nhóm tác
gỉả chọn đề tài “Pháp nhân - Chủ thể quan hệ pháp luật dân sự” làm bài tập lớn trong
chương trình học mơn Pháp luật Việt Nam Đại cương của mình. Trong khn khổ của
bài tập nhóm sẽ nghiên cứu và làm rõ những nôi dung cơ bản.
2. Nhiệm vụ của đề tài
Một là, làm rõ lý luận về những chế định về pháp nhân – chủ thể quan hệ pháp luật
dân sự. Trong đó, nhóm tác giả nghiên cứu những vấn đề về khái niệm; các điều kiện
để tổ chức được công nhận là pháp nhân; năng lực chủ thể (NLCT) của pháp nhân
cũng như việc thành lập, chấm dứt hoạt động pháp nhân.
Hai là, tập trung phân tích, đánh giá những tiêu chí để cơng nhận tổ chức có tư cách
pháp nhân trong pháp luật dân sự Việt Nam.
Ba là, nghiên cứu tình huống từ thực tiễn Tồ án để nhận diện tổ chức có tư cách
pháp nhân trong thực tế, phát hiện ra bất cập quy định pháp luật và thực tiễn.
Bốn là, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chế định pháp nhân trong quan hệ dân sự.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài thực hiện nghiên cứu về đối tượng: lý luận cơ bản về pháp nhân, những khái
niệm, bản chất và ý nghĩa của chế định pháp nhân.
4.

Phạm vi nghiên

cứu Không gian: Việt
Nam Thời gian: hiện
nay

Nghiên cứu dựa trên Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Lao động 2019 và Bộ luật
Hình sự 2015.
5.


Bố cục tổng quát của

đề tài: Đề tài gồm 3
chương :
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP NHÂN –CHỦ THỂ QUAN HỆ
PHÁP LUẬT DÂN SỰ
CHƯƠNG II. THỰC TIỄN XÁC ĐỊNH TƯ CÁCH PHÁP NHÂN TRONG TRANH
CHẤP THỰC TẾ


2


CHƯƠNG III. VẬN DỤNG VÀ ĐÁNH GIÁ CHẾ ĐỊNH PHÁP NHÂN – CHỦ THỂ
QUAN HỆ PHÁP LUẬT DÂN SỰ

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP NHÂN –CHỦ THỂ QUAN
HỆ PHÁP LUẬT DÂN SỰ
1.1. Khái niệm và phân loại pháp nhân theo pháp luật dân sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm pháp nhân
Theo từ điển Hán – Viêt : Pháp nhân là danh từ luật pháp, chỉ một tổ chức, đồn thể,
có đầy đủ nghĩa vụ và quyền lợi trước pháp luật như một cá nhân.
Theo từ điển pháp lý : Pháp nhân là một tổ chức (một chủ thể pháp luật) có tư cách
pháp lý độc lập, có thể tham gia vào các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội… theo quy
định của pháp luật. Đây là một khái niệm trong luật học dùng để phân biệt với thể nhân
(cá nhân). Nếu một tổ chức có “tư cách pháp nhân” thì tổ chức đó có đầy đủ quyền và
nghĩa vụ của một pháp nhân mà luật đã quy định.
Theo cách hiểu thông thường : Là một thuật ngữ được dùng để phân biệt tư cách của
các chủ thể là tổ chức với cá nhân trong các quan hệ pháp lý. Thông thường đây sẽ là

cách gọi được dùng cho những loại hình doanh nghiệp được hình thành và đáp ứng
được các điều kiện để hình thành pháp nhân theo quy định của pháp luật.
Theo Quy định pháp lý tại Điều 74 Bộ luật Dân sự 2015, một tổ chức được cơng
nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan;
Thứ hai, có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này;
Thứ ba , có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản của mình;
Cuối cùng, Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Mọi cá nhân, pháp nhân đều có quyền thành lập pháp nhân, trừ trường hợp luật có
quy định khác.
Ưu và nhược điểm khái niệm tại Điều 74: Về ưu điểm khái niệm tại Điều 74 tương
đối rõ ràng được đánh giá cao nêu được những điều cần phải có để có tư cách là pháp

3


nhân song bên cạnh đó vẫn có một số hạn chế Điều 74 chỉ nêu những điều kiện để một
tổ chức được công nhận là pháp nhân, chưa đưa ra khái niệm chung nhất về pháp nhân
một cách rõ ràng. So với BLDS 2005 đã hết hiệu lực thì BLDS 2015 vẫn chưa có đột
phá mới về khái niệm pháp nhân. Ngoài ra quy định về điều kiện của pháp nhân chưa
một lần được áp dụng vì tổ chức nào là pháp nhân thì đã được luật chuyên ngành quy
định trực tiếp. Dẫn đến việc các quy định về điều kiện cơng nhận pháp nhân chỉ mang
tính hiệu lực trên giấy.
1.1.2. Phân loại pháp nhân
a) Phân loại pháp nhân
Trước đây, BLDS 2005 khơng phân định rạch rịi giữa các loại pháp nhân, do đó có
thể phân loại pháp nhân theo nhiều căn cứ khác nhau. Tuy nhiên đến BLDS 2015, căn
cứ vào mục đích hoạt động của pháp nhân, Điều 75 và Điều 76 đã chia pháp nhân
thành hai loại đó là pháp nhân thương mại và pháp nhân phi thương mại. Khơng phụ

thuộc vào loại hình, lĩnh vực, ngành nghề hoạt động cụ thể của pháp nhân, mục tiêu lợi
nhuận mới là căn cứ để nhận diện pháp nhân thương mại hay phi thương mại.
Pháp nhân thương mại theo Điều 75 BLDS thì pháp nhân thương mại là pháp nhân
có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, pháp nhân đó phải thoả mãn đủ 04 điều kiện quy định tại Điều 74 như
đã phân tích ở trên. Bởi là pháp nhân thương mại thì trước hết phải là một pháp
nhân hồn chỉnh.
Thứ hai, pháp nhân đó có mục đích, mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận. Do
đó, pháp nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác.
Thứ ba, pháp nhân đó phải có hoạt động chia lợi nhuận cho các thành viên của
mình.
Việc thành lập, hoạt động và chấm dứt pháp nhân thương mại được thực hiện theo
quy định của BLDS 2015, Luật doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên
quan.
Trong 3 đặc điểm thì đặc điểm thứ 2 là điều kiện tiên quyết để được coi là pháp nhân
thương mại.
Trong pháp nhân thương mại được chia làm hai loại:

4


Một là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân bao gồm: công ty cổ phần; công ty
trách nhiệm hữu hạn; công ty hợp danh.
Hai là các tổ chức kinh tế gồm: hợp tác xã, doanh nghiệp 100% vốn nhà nước (tổ
chức quản lý dưới hình thức cơng ty trách nhiệm hữu hạn).
Về pháp nhân phi thương mại,theo Điều 76 BLDS thì pháp nhân phi thương mại là
pháp nhân có các đặc điểm trái ngược với pháp nhân thương mại, cụ thể như sau:
Thứ nhất, cũng giống với pháp nhân thương mại, pháp nhân phi thương mại
cũng phải là một pháp nhân đáp ứng đủ 04 điều kiện tại Điều 74.
Thứ hai, pháp nhân phi thương mại khơng có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi

nhuận, mà hoạt động với mục đích vì lợi ích chính trị, xã hội,… Bao gồm cơ quan
nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp,
quỹ xã hội, quỹ từ thiện, doanh nghiệp xã hội và các tổ chức phi thương mại khác.
Thứ ba, nếu có phát sinh lợi nhuận thì pháp nhân phi thương mại khơng được
chia lợi nhuận đó cho các thành viên. Nguồn lợi nhuận đó sẽ được góp vào phần
tài sản của pháp nhân để phục vụ mục đích hoạt động của pháp nhân đó.
BLDS quy định về các yếu tố nhận diện pháp nhân phi thương mại. Việc thành lập,
hoạt động và chấm dứt pháp nhân phi thương mại được quy định cho pháp nhân trong
các quy định tương ứng của BLDS cũng như các quy định của các luật về tổ chức bộ
máy nhà nước và quy định của pháp luật có liên quan.
Trong 3 đặc điểm thì đặc điểm thứ 2 là điều kiện tiên quyết để được coi là pháp nhân
phi thương mại.
Pháp nhân phi thương mại bao gồm các chủ thể sau: Cơ quan nha nươc, đơn vi lưc
lương vu trang; Tô chưc chinh tri, tô chưc chinh tri – xa hôi;;̣ Tô chưc kinh tê; Tô chưc
chinh tri xa hôị– nghê nghiêp,;̣ tô chưc xa hôi,;̣ tô chưc xa hôi,;̣ nghê nghiêp;;̣ Quy xa hôi,;̣
quy tư thiêṇ. Các chủ thể này hoạt động khơng có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi
nhuận, mà hoạt động với mục đích vì lợi ích chính trị, xã hội,…
Ý

nghĩa việc phân loại pháp nhân: Việc phân loại pháp nhân theo mục đích hoạt

động là một điểm mới của BLDS 2015, cach thưc phân loai khac hoan toan so vơi
trươc đây. Cac quy đinh mơi vê phap nhân đa đươc sưa đôi, bô sung theo hương cu thê
hoa, chi tiêt hoa cac quy đinh cua BLDS 2005.

5


b) Pháp nhân tư pháp và pháp nhân công pháp

Pháp nhân công pháp được hiểu là chủ thể là nhà nước thành lập có mục đích hoạt
động là vì lợi ích chung của cộng đồng, xã hội, duy trì trật tự xã hội mà Nhà nước thiết
lập. Pháp nhân công pháp bao gồm những tổ chức: Các cơ quan nhà nước (như Đảng
Cộng sản Việt Nam, Ủy ban nhân dân các cấp, Tòa án, các trường đại học,…)
Pháp nhân tư pháp la pháp nhân có mục đích hoạt động là vì lợi ích tư nhân. Sự
hình thành pháp nhân từ những thể nhân, pháp nhân có chung mục đích là tìm kiếm lợi
nhuận mang tính cá nhân. Các pháp nhân này hầu hết là các tổ chức kinh tế hoạt động
trong các lĩnh vực. Các thành viên pháp nhân hình thành mối quan hệ hợp đồng, cùng
xây dựng pháp nhân để thực hiện mục đích đầu tư và kiếm tìm lợi nhuận. Pháp nhân tư
pháp gồm: Công ty TNHH một thành viên, hai thành viên,…
1.2. Các điều kiện để tổ chức được công nhận là pháp nhân
1.2.1. Được thành lập theo quy định của Bộ luật Dân sự, luật khác có liên quan
Pháp nhân khơng phải là một cá nhân mà phải là một tổ chức. Tổ chức này được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền thành lập hoặc cho phép thành lập và phải thành lập
theo trình tự, thủ tục luật định. Do đó, tổ chức được cơng nhận là có tư cách pháp nhân
kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận thành lập. Chính tính hợp pháp của pháp nhân
giúp cho pháp nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật và tồn tại dưới sự kiểm soát
của nhà nước – phù hợp với ý chí của nhà nước.
Một pháp nhân được thành lập hợp pháp khi được pháp luật cho phép hoặc thừa
nhận, nói cách khác thì phải được thành lập theo trình tự, thủ tục luật định.
Việc thành lập đăng ký pháp nhân được quy định tại Điều 82 Bộ luật dân sự năm
2015.
“1. Pháp nhân được thành lập theo sáng kiến của cá nhân, pháp nhân hoặc theo quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2. Đăng ký pháp nhân bao gồm đăng ký thành lập, đăng ký thay đổi và đăng ký khác
theo quy định của pháp luật.
3.

Việc đăng ký pháp nhân phải được cơng bố cơng khai.”


Trên cơ sở mục đích, nhiệm vụ, chức năng của một tổ chức mà Nhà nước bằng pháp
luật cơng nhận tổ chức đó là pháp nhân thơng qua các hình thức: Cơ quan có thẩm

6


quyền thành lập, cho phép thành lập, đăng kí hoặc cơng nhận thành lập. Tính hợp pháp
của pháp nhân giúp pháp nhân đó tham gia các quan hệ pháp luật và tồn tại dưới sự
kiểm soát, đảm bảo của Nhà nước nhằm phù hợp với ý chí của Nhà nước đó.
Đây là điều kiện tiên quyết vì một tổ chức được coi là hợp pháp nếu có mục đích,
nhiệm vụ hợp pháp và được thành lập hợp pháp theo trình tự và thủ tục do luật định.
Tổ chức hợp pháp được Nhà nước công nhận dưới các dạng: Cơ quan nhà nước có
thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập, đăng kí hoặc cơng nhận. Nhà nước bằng các
quy định về thẩm quyền ra quyết định thành lập, trình tự, thủ tục thành lập, điều kiện
thành lập các tổ chức chi phối đến các tổ chức tồn tại trong xã hội. Việc công nhận sự
tồn tại một tổ chức phụ thuộc vào hoạt động của tổ chức đó có phù hợp với lợi ích của
nhà nước hay khơng.
Tổ chức thành lập khơng hợp pháp thì khơng được coi là pháp nhân, tổ chức thành
lập hợp pháp thì được cơng nhận là có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy
chứng nhận thành lập.
Ví dụ: Cơng ty TNHH Luật A được thành lập hợp pháp. Tức là công ty TNHH A
phải đăng ký thành lập doanh nghiệp và được Sở kế hoạch đầu tư tỉnh, thành phố mà
nơi công ty đóng trụ sở cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Quy định này có ý nghiã vơ cùng quan trọng vì nó là điều kiện đầu tiên có tính chất
pháp lý trong 4 điều kiện. Vì tổ chức được cơng nhận có tư cách pháp nhân chỉ khi có
cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập hoặc cho phép thành lập và chỉ những tổ
chức hợp pháp được Nhà nước cơng nhận sự tồn tại mới có thể trở thành chủ thể tham
gia vào các quan hệ pháp luật.
1.2.2. Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật Dân sự
Theo điều 83 Bộ luật hình sự 2015, pháp nhân phải là một tổ chức có cơ cấu quản lý

chặt chẽ
“1. Pháp nhân phải có cơ quan điều hành. Tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ
quan điều hành của pháp nhân được quy định trong điều lệ của pháp nhân hoặc
trong quyết định thành lập pháp nhân.
2. Pháp nhân có cơ quan khác theo quyết định của pháp nhân hoặc theo quy định
của pháp luật.”

7


Do đó, để tổ chức thành pháp nhân thì tổ chức đó phải có điều lệ hoặc quyết định
thành lập hợp pháp nhân. Trong đó có quy định cụ thể về tổ chức, nhiệm vụ và quyền
hạn của cơ quan điều hành pháp nhân.
Cơ quan điều hành của pháp nhân là tổ chức đầu não của pháp nhân, điều hành mọi
hoạt động bên trong cũng như tham gia vào hoạt động bên ngoài của pháp nhân. Cơ
quan điều hành của pháp nhân quyết định những công việc hàng ngày của pháp nhân,
hoạt động theo nghị quyết và điều lệ của pháp nhân. Mỗi pháp nhân khác nhau có cơ
quan điều hành khác nhau. Tổ chức và nhiệm vụ của cơ quan điều hành tuỳ thuộc vào
từng loại hình pháp nhân, được quy định trọng điều lệ của pháp nhân hoặc trong quyết
định thành lập pháp nhân.
Với tư cách là cơ quan đầu não của pháp nhân, cơ quan điều hành của pháp nhân có
vai trị quan trọng trong tổ chức và hoạt động của pháp nhân. Cơ quan điều hành xây
dựng pháp nhân thành một tổ chức có cơ cấu chặt chẽ. Cơ cấu tổ chức chặt chẽ giúp
cho pháp nhân trở thành một thể thống nhất, vận hành, hoạt động một cách có hiệu
quả. Cơ cấu tổ chức chặt chẽ nghĩa là pháp nhân phải có sự sắp xếp, phân bổ nguồn
nhân lực vào các bộ phận như phòng, ban… và quy định cho từng bộ phận đó những
chức năng, nhiệm vụ cụ thể trong Điều lệ.
Cơ cấu tổ chức của pháp nhân: Pháp nhân phải có cơ quan điều hành. Tổ chức,
nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan điều hành của pháp nhân được quy định trong điều
lệ của pháp nhân hoặc trong quyết định thành lập pháp nhân. Pháp nhân có cơ quan

khác theo quyết định của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh cơ quan điều hành cịn có các cơ quan, các phịng, đơn vị chun mơn, có
các bộ phận nghiệp vụ riêng. Giữa các bộ phận, cơ quan với nhau có sự liên kết chặt
chẽ và chịu sự lãnh đạo từ trên xuống của ban lãnh đạo.
Quy định này có ý nghĩa quan trọng vì khi có cơ cấu tổ chức chặt chẽ sẽ giúp cho
pháp nhân trở thành một thể thống nhất, vận hành, hoạt động một cách có hiệu quả.
Đây là tiền đề về tổ chức để biến một tập thể người thành một chủ thể độc lập và hợp
pháp để tham gia vào các quan hệ pháp luật.

8


1.2.3. Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng
tài sản của mình
Điều 87. Trách nhiệm dân sự của pháp nhân
1. Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự
do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân.
Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự về nghĩa vụ do sáng lập viên hoặc đại diện của
sáng lập viên xác lập, thực hiện để thành lập, đăng ký pháp nhân, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
2. Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của mình; khơng chịu trách nhiệm
thay cho người của pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do người của pháp nhân xác
lập, thực hiện không nhân danh pháp nhân, trừ trường hợp luật có quy định khác.
3. Người của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với
nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện, trừ trường hợp luật có quy định
khác.
Tiền đề quan trọng nhất của điều kiện này (được gọi là tiền đề vật chất) vì giống
như các chủ thể dân sự khác, để có thể thực hiện các quyền và gánh vác nghĩa vụ khi
tham gia các quan hệ dân sự, pháp nhân cần phải có một khối lượng tài sản nhất định,
tài sản chịu trách nhiệm là tài sản độc lập của pháp nhân, đó là tài sản tất cả các loại

mà pháp nhân sở hữu. Tài sản của pháp nhân theo đó bao gồm “vốn góp của chủ sở
hữu, sáng lập viên, thành viên của pháp nhân và tài sản khác mà pháp nhân được xác
lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan.” (Điều 81)
Để xác lập quyền và nghĩa vụ của pháp nhân trong các hoạt động của chính pháp
nhân đó nên bắt buộc một pháp nhân phải có tài sản độc lập. Vì khi một tài sản độc lập
thì pháp nhân đó mới có thể chịu trách nhiệm đối với các giao dịch, quyền và nghĩa vụ
mà pháp nhân đó xác lập bằng tài sản của mình
Tài sản của tổ chức phải hoàn toàn là biệt lập, tách biệt với tài riêng của thành viên của
tổ chức hoặc tài sản của cơ quan sáng lập tổ chức. Sự độc lập về tài sản của tổ chức được
biểu hiện ở các chế độ quản lý, kiểm soát và cơ chế thực hiện quyền làm chủ của tổ chức
đối với tài sản của mình. Tổ chức có quyền dùng tài sản của tổ chức để phục vụ

9


cho các hoạt động của mình, dùng tài sản đó để chịu trách nhiệm và thực hiện các
nghĩa vụ của tổ chức. Có quyền được khởi kiện để địi lại tài sản hoặc đòi bồi thường
thiệt hại khi tài sản đó bị xâm phạm.
Pháp nhân chịu trách nhiệm bằng tồn bộ tài sản của mình. Nội dung này thể hiện
mối quan hệ giữa pháp nhân với thành viên pháp nhân và được thể hiện ở quy định tại
khoản 2 và 3 Điều 87 Bộ luật dân sự năm 2015 :
“2. Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của mình; khơng chịu trách
nhiệm thay cho người của pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do người của pháp nhân
xác lập, thực hiện không nhân danh pháp nhân, trừ trường hợp luật có quy định khác.
3. Người của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với
nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện, trừ trường hợp luật có quy định
khác.”
Theo đó pháp nhân khơng chịu trách nhiệm thay cho thành viên đối với nghĩa vụ
dân sự do thành viên xác lập, thực hiện khơng nhân danh pháp nhân, cịn thành viên thì
khơng chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp

nhân xác lập, thực hiện.
Mặt khác, để thực hiện nguyên tắc bình đẳng giữa các chủ thể nên pháp luật quy
định pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm bằng khối tài sản đó. Trách nhiệm của pháp
nhân khi vi phạm nghĩa vụ không thể do một cơ quan, tổ chức khác gánh vác và các
thành viên của pháp nhân chỉ phải chịu trách nhiệm trong phạm vi tài sản của mình đã
góp (trừ trường hợp cơng ty hợp danh) vào pháp nhân.
Trên cơ sở có tài sản riêng, pháp nhân phải chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình.
Pháp nhân tham gia vào các quan hệ tài sản và các quan hệ nhân thân như một chủ thể
độc lập, và phải chịu trách nhiệm về những hành vi được coi là “hành vi của pháp
nhân”. Cơ quan cấp trên không chịu trách nhiệm thay hoặc trách nhiệm bổ sung cho
pháp nhân. Pháp nhân không chịu trách nhiệm thay cho cơ quan quản lí cấp trên của
pháp nhân hoặc cho thành viên của pháp nhân. Các thành viên của pháp nhân không
phải dùng tài sản riêng của mình để thực hiện các nghĩa vụ của pháp nhân.
Trách nhiệm của pháp nhân thuộc dạng trách nhiệm dân sự và trách nhiệm hữu hạn
trong phạm vi tài sản riêng của pháp nhân. Độc lập về tài sản và chịu trách nhiệm bằng

10


tài sản riêng của pháp nhân là tiền đề vật chất để một tổ chức tham gia vào quan hệ dân
sự như là một chủ thể độc lập.
Quy định này là tiền đề vật chất để pháp nhân tham gia vào các quan hệ tài sản, các
quan hệ nhân thân trong khuôn khổ pháp luật và điều lệ của pháp nhân quy định.
1.2.4. Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập
Tư cách là một chủ thể độc lập, pháp nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật với
tư cách riêng, có khả năng hưởng quyền và gánh chịu các nghĩa vụ dân sự do pháp luật
quy định phù hợp với điều lệ của pháp nhân. Khi pháp nhân khơng thực hiện nghĩa vụ
của mình hoặc có gây thiệt hại cho cá nhân hoặc pháp nhân khác thì pháp nhân có thể
là bị đơn trước Toà án. Ngược lại, cá nhân hoặc pháp nhân khác không thực hiện nghĩa
vụ, hoặc gây thiệt hại cho pháp nhân thì pháp nhân có quyền khởi kiện trước Tồ án để

bảo vệ quyền lợi của mình.
Điều kiện này xuất phát từ việc tách bách tài sản (tài sản độc lập) với các cá nhân, tổ
chức khác. Với việc sở hữu một khối tài sản riêng, pháp nhân có đủ khả năng để
hưởng, tự mình thực hiện các quyền và chịu nghĩa vụ khi tham gia các quan hệ dân sự.
Điều này được thể hiện rõ tại Điều 86 Bộ luật dân sự năm 2015 :
“ 1. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các
quyền, nghĩa vụ dân sự. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân không bị hạn chế,
trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
2.

Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm được cơ quan

nhà nước có thẩm quyền thành lập hoặc cho phép thành lập; nếu pháp nhân phải
đăng ký hoạt động thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm
ghi vào sổ đăng ký.
3. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân chấm dứt kể từ thời điểm chấm dứt
pháp nhân.”
Quy định này nói đến quyền, nghĩa vụ dân sự độc lập của pháp nhân khi tham gia
các quan hệ dân sự.

11


1.3.

Năng lực chủ thể của pháp nhân và một số vấn đề về yếu tố lý lịch của pháp
nhân

1.3.1. Năng lực chủ thể của pháp nhân
Năng lực chủ thể của pháp nhân là khả năng cho phép của pháp nhân và khả năng

tự có của chính pháp nhân để pháp nhân trở thành chủ thể độc lập khi tham gia các
quan hệ pháp luật.
Pháp nhân là một chủ thể độc lập, có năng lực chủ thể để tham gia quan hệ pháp luật
một cách bình đẳng với các chủ thể khác. Cũng giống như chủ thể của quan hệ pháp
luật dân sự nói chung, năng lực chủ thể của pháp nhân là khả năng pháp nhân có và
thực hiện các quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định. Năng lực chủ thể của pháp
nhân bao gồm hai bộ phận: năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự.
a) Năng lực pháp luật dân sự
Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật ghi
nhận, thừa nhận và bảo đảm thực hiện cho mỗi pháp nhân riêng biệt. Năng lực pháp
luật được ghi nhận dựa trên từng ngành, nghề mà nhà làm luật thừa nhận sự tồn tại,
khuyển khích sự phát triển. Do đó, pháp nhân khi lựa chọn từng ngành, nghề kinh
doanh, hoạt động sẽ tương ứng sẽ có các quyền, nghĩa vụ ghi nhận cho từng ngành,
nghề kinh doanh, hoạt động đó.
Tại khoản 1 Điều 86 Bộ luật dân sự 2015 có quy định:
“1. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các
quyền, nghĩa vụ dân sự. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân không bị hạn
chế, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”
Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là yếu tố cấu thành năng lực chủ thể của
pháp nhân bên cạnh yếu tố năng lực hành vi dân sự của pháp nhân. Giống với quy định
về cá nhân, năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các
quyền, nghĩa vụ dân sự. Những quyền và nghĩa vụ thuộc năng lực pháp luật của pháp
nhân được pháp luật ghi nhận vào bảo vệ. Những quyền và nghĩa vụ này tồn tại dưới
dạng “khả năng”, nếu pháp nhân muốn hiện thực hóa những quyền và nghĩa vụ đang ở
dạng khả năng thành hiện thực thì phải thơng qua hành vi của pháp nhân trên thực tế.
Năng lực pháp luật của pháp nhân không bị hạn chế, nếu bị hạn chế thì phải được quy
định cụ thể trong Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

12



Theo Khoản 2 Điều 86 Bộ luật dân sự 2015:
“2.Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền thành lập hoặc cho phép thành lập; nếu pháp nhân phải đăng ký
hoạt động thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm ghi vào
sổ đăng ký.”
Quy định trên đã chỉ rõ thời điểm pháp nhân có năng lực pháp luật dân sự, cụ thể:
Thời điểm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập; cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cho phép thành lập; đối với pháp nhân phải đăng ký hoạt động thì năng lực pháp
luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm ghi vào sổ đăng ký.
Từ thời điểm phát sinh năng lực pháp luật dân sự, pháp nhân có các quyền và nghĩa
vụ dân sự và có thể tham gia vào các quan hệ dân sự nói chung và giao dịch dân sự nói
riêng.
Như vậy có thể thấy, Thời điểm pháp sinh năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân
tương tự như đối với cá nhân. Năng lực pháp luật của cá nhân phát sinh từ thời điểm
người đấy được sinh ra, Pháp nhân cũng có năng lực pháp luật từ khi được thành lập,
cho phép thành lập. Sự kiện thành lập, cho thành lập đã sinh ra (tạo ra) một pháp nhân
mới.
Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân được quy định trong khoản 3 Điều 86 Bộ
luật dân sự 2015:
“3. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân chấm dứt kể từ thời điểm chấm dứt
pháp nhân.”
Thời điểm chấm dứt pháp nhân cũng là thời điểm pháp nhân chết theo ngôn ngữ
thơng thường. Như vậy, Pháp nhân hay cá nhân thì đều có năng lực pháp luật dân sự
chấm dứt vào thời điểm "chết". Pháp nhân có thể chấm dứt tồn tại trong các trường
hợp do luật quy định.
b) Năng lực hành vi dân sự
Năng lực hành vi dân sự của pháp nhân là khả năng pháp nhân thực hiện các quyền,
nghĩa vụ mà pháp luật ghi nhận cho mình tương ứng với ngành, nghề mà pháp nhân
lựa chọn kinh doanh, hoạt động. Khả năng thực hiện của pháp nhân sẽ lệ thuộc vào

năng lực quản lý, năng lực tài chính, nguồn nhân lực và các yếu tố khác của pháp nhân
này.
Năng lực hành vi của pháp nhân được được thể hiện thông qua hành vi của người đại
diện. Bộ luật dân sự chỉ quy định về người đại diện theo pháp luật và người đại diện

13


theo ủy quyền của pháp nhân nhân danh pháp nhân trong quan hệ dân sự. Mọi hoạt
động của pháp nhân được tiến hành thông qua hành vi của cá nhân là người đại diện
của pháp nhân. Tuy nhiên cũng cần hiểu là hoạt động của pháp nhân còn được thực
hiện thông qua hành vi của các thành viên khác của pháp nhân, trong trường hợp này
hành vi đó được thực hiện trong khuôn khổ nhiệm vụ được pháp nhân giao.
c) Mối quan hệ năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự
Từ sự phân tích trên cho thấy, nếu như cá nhân chỉ cần có điều kiện như nhau thì
năng lực pháp luật sẽ như nhau. Còn năng lực chủ thể của pháp nhân chịu sự chi phối
của ngành, nghề, lĩnh vực mà pháp nhân hoạt động khi xác định năng lực pháp luật và
năng lực hành vi.
Năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau.
d)

So sánh năng lực chủ thể pháp nhân và năng lực chủ thể cá

nhân Giống nhau:

Cả năng lực chủ thể của pháp nhân và năng lực chủ thể của cá nhân đều có khả
năng tham gia vào quan hệ pháp luật với tư cách là một chủ thể và tự mình thực
hiện các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ pháp luật đã tham gia.


Cả hai đều có năng lực chủ thể được tạo thành bởi hai yếu tố là năng lực pháp
luật dân sự tức là khả năng do pháp luật quy định và năng lực hành vi dân sự
tức là khả năng tự có của chính chủ thể đó. Năng lực pháp luật và năng lực hành
vi là hai yếu tố cần và đủ tạo nên năng lực chủ thể của cá nhân và pháp nhân,
giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ, hợp nhất.
Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân và của cá nhân đều là tiền đề pháp
lý để thực hiện năng lực hành vi nghĩa là phạm vi các quyền do pháp luật quy
định cho cá nhân, pháp nhân chỉ có các quyền và thực hiện các quyền đã được
pháp luật ghi nhận. Vì vậy, cá nhân và pháp nhân chỉ được thực hiện những hành
vi nhất định trong trường hợp pháp luật cho phép và không cấm.
Năng lực hành vi dân sự của pháp nhân và năng lực hành vi dân sự của cá
nhân đều là ”phương tiện” để hiện thực hóa năng lực pháp luật. Điều này được
lý giải bởi các quyền của cá nhân, pháp nhân được pháp luật ghi nhận chỉ trở
thành hiện thực thành các quyền dân sự cụ thể nếu đã được chính chủ thể đó
bằng khả năng hành vi của mình thực hiện.
14


Khác nhau:
Vấn đề
cần phân
biệt

P

– Có từ khi t

– Chấm dứt k
còn tồn tại.
Năng


– Xác định tr
lực pháp

lập, điều lệ c

luật

– Phụ thuộc

– Khả năng h
– Phụ thuộc

của từng phá

– Có đồng th
Năng

luật.
lực hành

– Chỉ không

vi

chấm dứt tồn

1.3.2. Một số vấn đề về yếu tố lý lịch của pháp nhân
Về tên gọi của pháp nhân theo Điều 78 Bộ luật Dân sự 2015 phải thỏa mãn các yêu
cầu:

Phải có tên gọi bằng tiếng Việt.
Phải thể hiện rõ loại hình tổ chức của pháp nhân và phân biệt với các pháp nhân
khác trong cùng một lĩnh vực hoạt động.
Phải sử dụng tên gọi của mình trong giao dịch dân sự.
Tên gọi của pháp nhân được pháp luật công nhận và bảo vệ.

15


Trụ sở của pháp nhân được xác định là nơi đặt cơ quan điều hành của pháp nhân,
được công bố công khai ( Điều 79 Bộ luật Dân sự 2015 ).
Quốc tịch của pháp nhân được thành lập theo pháp luật Việt Nam là pháp nhân Việt
Nam ( Điều 80 Bộ luật Dân sự 2015 ).
Tài sản của pháp nhân bao gồm vốn góp của chủ sở hữu, sáng lập viên, thành viên
của pháp nhân và tài sản khác mà pháp nhân được xác lập quyền sở hữu theo quy định
của Bộ luật này, luật khác có liên quan ( Điều 81 Bộ luật Dân sự 2015 ).
Tài sản của pháp nhân: bao gồm vốn góp của chủ sở hữu, sáng lập viên, thành viên
của pháp nhân và tài sản khác mà pháp nhân được xác lập quyền sở hữu theo quy định
của Bộ luật này, luật khác có liên quan.
Chi nhánh hay văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân không phải là
pháp nhân nên khơng có tư cách pháp nhân.
Chi nhánh, văn phịng đại diện xác lập, thực hiện giao dịch thì trách nhiệm thuộc về
chủ thể là pháp nhân.

16


CHƯƠNG II. THỰC TIỄN XÁC ĐỊNH TƯ CÁCH PHÁP NHÂN TRONG
TRANH CHẤP THỰC TẾ
2.1. Vấn đề pháp lý pháp sinh trong vụ việc và quan điểm của các cấp Tòa án

Cơ quan đại diện của bộ, ngành… có tư cách pháp nhân hay khơng, có được độc
lập tham gia tố tụng hay khơng? Đó là những tranh cãi xuất phát từ một vụ kiện cụ
thể gần đây ở TP.HCM.
Trong một vụ việc thực tế diễn ra vào tháng 3/2008, ông Nguyễn Ngọc Hùng đã
ký hợp đồng làm bảo vệ kiêm sửa chữa điện nước cho Văn phòng Bộ Tài nguyên
và Môi trường tại TP.HCM. Sau một thời, hai bên ký tiếp phụ lục hợp đồng, thay
đổi tên của bên sử dụng lao động vì lúc này văn phịng chuyển thành Cơ quan đại
diện Bộ TN&MT tại TP.HCM (gọi tắt là cơ quan đại diện).
Đến năm 2010, khu tập thể của cơ quan đại diện mất hai chiếc xe máy. Phía Cơ
quan đã buộc ông Hùng phải bồi thường và sau đó cơ quan ra quyết định chấm dứt
hợp đồng lao động với ơng Hùng, lý do là ơng khơng hồn thành nhiệm vụ, để mất
tài sản.
Ông Hùng khởi kiện ra TAND Quận 1 TP. HCM yêu cầu tòa án hủy quyết định
cho thôi việc, không yêu cầu trở lại làm việc nhưng Cơ quan đại diện phải giải
quyết chế độ phúc lợi và bồi thường cho ơng.
Tồ án nhân dân Quận 1 đã xác định Cơ quan đại diện là bị đơn. Tòa án sơ thẩm
đã chấp nhận yêu cầu của ông Hùng, hủy quyết định cho thôi việc, buộc Cơ quan
đại diện bồi thường các khoản như ông Hùng u cầu.
Sau đó, phía Cơ quan đại diện kháng cáo. Tại phiên tồ phúc thẩm: Phía Viện
kiểm sát nhân dân cho rằng việc Toà án nhân dân Quận 1 xác định tư cách bị đơn
như trên là sai về tố tụng, thay vào đó bị đơn trong vụ kiện này phải được xác định
là Bộ TN&MT chứ không thể là Cơ quan đại diện (khơng có tư cách pháp nhân).
Phía Toà án nhân dân TP.HCM, xét quyết định của Bộ trưởng Bộ TN&MT thì Cơ
quan đại diện của Bộ tại TP.HCM có các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu
tổ chức sau: Là một tổ chức giúp việc cho bộ trưởng, theo dõi tổng hợp tình hình
thực hiện nhiệm vụ về lĩnh vực thuộc phạm vi của Bộ trên địa bàn các tỉnh, thành
phía Nam; thực hiện một số nhiệm vụ theo chương trình cơng tác của Bộ trên địa
bàn được giao phụ trách; phối hợp với các cơ quan đơn vị thuộc Bộ thực hiện

17



công tác chuyên môn được giao; làm chủ đầu tư các dự án xây dựng của Bộ tại các
tỉnh phía Nam được phụ trách; lập dự toán và tổ chức thực hiện dự toán, quyết toán
thu chi ngân sách theo quyết định của Nhà nước và phân cấp của Bộ; quản lý cán
bộ, cơng chức, người lao động, tài chính, tài sản được giao theo quy định của pháp
luật và phân cấp của Bộ.
Từ đó, Tịa án cấp phúc thẩm nhận định Cơ quan đại diện là đơn vị trực thuộc Bộ
TN&MT, là Cơ quan đại diện hạch toán báo sổ khi thực hiện dự toán, quyết toán
phải theo phân cấp của Bộ, phụ thuộc theo sự phân bổ ngân sách Nhà nước và phân
cấp của Bộ, không phải là cơ quan hạch toán độc lập. Mặc dù trong quyết định của
Bộ trưởng Bộ TN&MT có nội dung: “Cơ quan đại diện có tư cách pháp nhân, có
con dấu và tài khoản riêng” nhưng cơ quan này vẫn phải hạch tốn báo sổ. Do vậy,
cơ quan này có tư cách pháp nhân nhưng không đầy đủ, vẫn chỉ là một đơn vị phụ
thuộc vào pháp nhân là Bộ TN&MT.
2.1.1. Vấn đề pháp lý pháp sinh trong vụ việc
Đây là bản án của cấp phúc thẩm. Cụ thể là Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh.
Yêu cầu của nguyên đơn, ông Hùng là “yêu cầu tòa án hủy quyết định cho thôi
việc, không yêu cầu trở lại làm việc nhưng Cơ quan đại diện phải giải quyết chế độ
phúc lợi và bồi thường cho ơng”, nghĩa là có liên quan đến chủ đề bài tập lớn. Bởi
vì khi Tịa án xét xem liệu Cơ quan đại diện có phải giải quyết chế độ phúc lợi và
bồi thường cho ông Hùng khơng thì Tịa án phải xét đến tư cách pháp nhân của Cơ
quan đại diện, từ đó mới quyết định bị đơn là chủ thể nào và tiến hành giải quyết vụ
án.
Văn bản pháp luật điều chỉnh tranh chấp này là Bộ luật Dân sự 2015, cụ thể
được quy định tại Chương IV.
Theo em, vấn đề pháp lý phát sinh trong vụ việc này cần làm rõ:
1.


Xét xem cơ quan đại diện Bộ Tài nguyên & Môi trường tại TP. Hồ Chí

Minh có phải là tổ chức có tư cách pháp nhân khơng? Những minh chứng nào
cho thấy điều đó?
2.

Cơ quan đại diện trên có trách nhiệm giải quyết chế độ phúc lợi và bồi

thường cho ông Hùng không?

18


3.

Bên có trách nhiệm để giải quyết chế độ phúc lợi và bồi thường cho

ông Hùng là bên nào?
2.1.2. Quan điểm của các cấp Toà án xét xử vụ việc
Quan điểm của cấp Tòa sơ thẩm: Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng phía Cơ quan đại
diện là bị đơn:“Tịa án sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu của ông Hùng, hủy quyết
định cho thôi việc, buộc Cơ quan đại diện bồi thường các khoản như ông Hùng yêu
cầu.”. Như vậy, cấp tòa sơ thẩm đã xem Cơ quan đại diện của Bộ TN&MT tại TP.
Hồ Chí Minh như một tổ chức có tư cách pháp nhân, và vì vậy, cơ quan này phải có
trách nhiệm dùng tài sản của mình để bồi thường cho ơng Hùng.
Quan điểm của cấp Tòa phúc thẩm: Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng Bộ Tài
ngun và Mơi trường mới là bị đơn, vì tịa phúc thẩm đã có những lập luận như
sau: “Tịa án cấp phúc thẩm nhận định Cơ quan đại diện là đơn vị trực thuộc Bộ
TN&MT, là Cơ quan đại diện hạch toán báo sổ khi thực hiện dự toán, quyết toán
phải theo phân cấp của Bộ, phụ thuộc theo sự phân bổ ngân sách Nhà nước và

phân cấp của Bộ, khơng phải là cơ quan hạch tốn độc lập. Mặc dù trong quyết
định của Bộ trưởng Bộ TN&MT có nội dung: “Cơ quan đại diện có tư cách pháp
nhân, có con dấu và tài khoản riêng” nhưng cơ quan này vẫn phải hạch toán báo
sổ. Do vậy, cơ quan này có tư cách pháp nhân nhưng khơng đầy đủ, vẫn chỉ là
một đơn vị phụ thuộc vào pháp nhân là Bộ TN&MT.”
2.2.

Quan điểm của nhóm nghiên cứu về tranh chấp và kiến nghị hoàn thiện
quy định pháp luật hiện hành

2.2.1. Quan điểm của nhóm nghiên cứu về tranh chấp
Nhóm tác giả đồng ý với quan điểm của tòa án phúc thẩm (Tòa án nhân dân
TP.HCM). Ở đây khi xác định cơ quan đại diện của Bộ TN&MT có tư cách pháp nhân
là sai vì cơ quan đại diện này chưa đáp ứng đủ các điều kiện của một pháp nhân theo
Điểu 74 của Bộ luật Dân sự 2015. Ta xét các điều kiện được nêu trong Điều 74.
Khoản 1, Điều 74: “Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có
liên quan.”.
Điều trên có thể được hiểu là cơ quan, tổ chức muốn có tư cách pháp nhân, trước hết
phải được thành lập hợp pháp, do cơ quan có thẩm quyền thành lập hoặc cho phép. Cơ

19


×