Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Quan điểm về khởi nghiệp sáng tạo nhìn từ kinh nghiệm thế giới và khuyến nghị cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.91 KB, 7 trang )

QUAN ĐIỂM VỀ KHỞI NGHIỆP SÁNG TẠO
NHÌN TỪ KINH NGHIỆM THẾ GIỚI VÀ KHUYẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM
Võ Thị Vân Khánh*

1

TÓM TẮT: Để khởi nghiệp đổi mới sáng tạo thành công cần một môi trường “vườn ươm” để các “hạt giống”
là các kết quả nghiên cứu có điều kiện “nảy mầm”. Môi trường này được gọi là hệ sinh thái khởi nghiệp đổi
mới sáng tạo, giúp các Doanh nghiệp khởi nghiệp (DNKN) phát triển. Tuy nhiên hiện nay, DNKN Việt Nam
cịn gặp rất nhiều khó khăn. Nhiều DNKN cho rằng, họ rất cần những hỗ trợ ban đầu về dịch vụ, tài chính
(vốn) để biến ý tưởng thành mơ hình, sản phẩm. Bên cạnh đó, DNKN gặp phải khó khăn từ chính thủ tục
hành chính, trong việc thương mại hóa sản phẩm ra thị trường. Đối với các nhà đầu tư mạo hiểm, thủ tục
cịn phức tạp, chưa có chính sách, cơ chế khuyến khích các nhà đầu tư, các quy định về đầu tư mạo hiểm vốn
là thành phần cốt yếu trong hệ sinh thái khởi nghiệp chưa được rõ nét… Bài viết sẽ nêu những quan điểm,
đặc điểm về vấn đề khởi nghiệp, đồng thời phân tích, đánh giá những kết quả tìm hiểu kinh nghiệm về khởi
nghiệp dẫn tới thành công của một số hệ sinh thái khởi nghiệp trên thế giới, từ đó đưa ra những đề xuất cụ
thể để tạo ra môi trường thuận lợi cho hoạt động của startup tại Việt Nam
Từ khóa: Khởi nghiệp sáng tạo, doanh nghiệp khởi nghiệp, hệ sinh thái khởi nghiệp

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Quan điểm về hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo ở các nước: Hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng
tạo của một cá nhân, tổ chức hay có thể gọi là Doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (DNKNĐMST)
là một khái niệm chung để hiểu là doanh nghiệp mới thành lập hoạt động kinh doanh dịch vụ sản phẩm
sáng tạo hoặc chưa thành lập nhưng đang nghiên cứu, triển khai và có kế hoạch kinh doanh ý tưởng sáng
tạo mới. Khái niệm về DNKNĐMST ở mỗi quốc gia mặc dù có các cách gọi khác nhau, nhưng đều được
hiểu là doanh nghiệp hoạt động trên nền tảng các công nghệ mới. Ở Chi Lê, DNKNĐMST là những cơng ty
có tiềm năng tăng trưởng mạnh mẽ, Peru và Colombia thì xác định dựa trên khả năng hoạt động của doanh
nghiệp dựa vào công nghệ thông tin và truyền thơng. Singapore xác định doanh nghiệp có hoạt động tập
trung vào những ngành, lĩnh vực mà Chính phủ định hướng có mức độ tăng trưởng nhanh như y tế (sinh
hóa), cơng nghệ thơng tin, cơng nghệ đổi mới sáng tạo, công nghiệp bán lẻ, công nghệ tài chính, giáo dục
(đào tạo chun nghiệp). Cịn ở Mỹ, KNĐMST là mang tính chất định hướng cơng nghệ, có tiềm năng tăng


trưởng cao nhưng cũng có nguy cơ rủi ro cao.
Theo nghiên cứu của Marmer, Hermann và Berman (2011)1, tiến trình khởi nghiệp gồm 6 bước: (1)
Khám phá; (ii) Xác nhận; (iii) HIệu quả; (iv) Quy mô; (v) Tối đa hóa lợi nhuận và (vi) Gia hạn hoặc từ
chối. Bài học kinh nghiệm từ nghiên cứu này cho thấy: giai đoạn Khám phá luôn mất nhiều thời gian hơn
các giai đoạn cịn lại để định hình nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng đối với sản phẩm. Đây cũng là giai
đoạn cần vốn để thực hiện, mặc dù số vốn cần thiết cho giai đoạn Khám phá không nhiều (số vốn tăng trong
giai đoạn Xác nhận và khơng có sự thay đổi trong giai đoạn HIệu quả, nhưng sẽ là lớn nhất ở giai đoạn mở
2

Khoa Quản trị kinh doanh, Học viện Tài chính, Hà Nội, Việt Nam. Tel.: +8498371788,3 E-mail address:
Startup Genome Report – A new framework for understanding why startups succed – copyright 2011

*
1


794

HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO QUỐC GIA

rộng Quy mô), tuy nhiên do chưa định hình sản phẩm và mới chỉ là giai đoạn khởi đầu, ý tưởng nên doanh
nghiệp rất khó có thể kêu gọi được vốn để thực hiện giai đoạn này.
Theo nghiên cứu của Cvijanovie và Sruk (2008), DNKNĐMST phải trải qua 5 giai đoạn: thử nghiệm,
khởi nghiệp, mở rộng, tái cấp vốn, bán một phần doanh nghiệp. Trong giai đoạn đầu, vốn thường từ các
sáng lập viên, bạn bè hay gia đình, khoản vay từ các quỹ đầu tư mạo hiểm hoặc doanh nghiệp phi tài chính.
Điều này cũng được khẳng định trong kết quả nghiên cứu của Sanyal và L.Mann (2010)1.
2. ĐẶC ĐIỂM CỦA HOẠT ĐỘNG KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO
DNKNĐMST cũng có các đặc điểm như các doanh nghiệp truyền thống, song cũng có những đặc
điểm riêng. Cụ thể:
Tính đột phá, sáng tạo: DNKNĐMST được hình thành dựa trên sự đột phát, sáng tạo. Tính đột phá,

sáng tạo thể hiện ở điểm DNKNĐMST tạo ra một sản phẩm khác biệt, chưa từng có trên thị trường, hoặc
tạo ra một giá trị tốt hơn so với những thứ có sẵn hoặc đi vào những ngành nghề lĩnh vực chưa từng có tiền
lệ trước đây. Như vậy, so với doanh nghiệp truyền thống, để hình thành DNKNĐMST cần phải có ý tưởng
và có thời gian ni dưỡng ý tưởng, thử nghiệm ý tưởng trên thị trường. Trong khi DNKNĐMST – đặc biệt
là một cá nhân khởi nghiệp rất cần có vốn, cơ sở vật chất để thực hiện.
Tính tăng trưởng: Đối với một doanh nghiệp truyền thống từ khi mới thành lập cũng cần phải trải qua
giai đoạn 6 bước như nghiên cứu của Marmer, Hermann và Berman (2011). Đối với DNKNĐMST cũng cần
phải trải qua các bước tương tự. Tuy nhiên, ở giai đoạn Quy mô trở đi, tốc độ tăng trưởng của DNKNĐMST sẽ
rất nhanh so với doanh nghiệp truyền thống. Đây cũng là giai đoạn doanh nghiệp cần nhiều vốn để thực hiện.
Tính rủi ro: DNKNĐMST xuất phát điểm từ thực hiện ý tưởng kinh doanh mới nên có độ rủi ro cao
hơn so với các doanh nghiệp khác. Mức độ thành công của DNKNĐMST thấp. Nguyên nhân dẫn đến mức
độ rủi ro cao có thể là do thị trường, thiếu vốn, do trình độ quản trị, nguồn nhân lực, mơ hình đội nhóm làm
việc,… Đó cũng là vấn đề gây e ngại cho nhà đầu tư khi quyết định đầu tư vào các DNKNĐMST.
Yếu tố cơng nghệ: Cơng nghệ là đặc tính tiêu biểu của DNKNĐMST, thể hiện sự đột phá, sáng tạo của
doanh nghiệp dựa trên nền tảng công nghệ. Do vậy, hầu hết các DNKNĐMST sử dụng yếu tố công nghệ
mới để tạo lợi thế cạnh tranh về sản phẩm, dịch vụ so với các doanh nghiệp truyền thống.
3. CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH HỖ TRỢ HOẠT ĐỘNG KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO Ở CÁC NƯỚC
Khái niệm về hệ sinh thái khởi nghiệp gần đây được sử dụng rộng rãi trong ngữ cảnh sáng tạo và kinh
doanh. Mặc dù khơng có định nghĩa riêng, chính thức về hệ sinh thái khởi nghiệp và thuật ngữ này được sử
dụng theo nhiều cách khác nhau, song về cơ bản, nó đề cập đến một khu vực địa lý cụ thể hoặc “điểm nóng”
(ví dụ như Thung lũng Silicon) với sự tập trung đông đảo các công ty và doanh nghiệp khởi nghiệp. Phạm
vi của hệ sinh thái khởi nghiệp có thể thay đổi từ một vài tịa nhà cho đến cả một quốc gia. Ví dụ, Báo cáo
Xếp hạng Hệ sinh thái Khởi nghiệp Toàn cầu, được coi là phân tích tổng hợp quốc tế toàn diện nhất, định
nghĩa hệ sinh thái khởi nghiệp là “một khu vực đô thị hoặc khu vực địa lý (bán kính khoảng 100km) có sử
dụng chung các nguồn lực” .
Giống như các hệ sinh thái tự nhiên, chẳng hạn rừng nhiệt đới, một đặc điểm của hệ sinh thái khởi
nghiệp là sự phụ thuộc lẫn nhau (hoặc “có chung đời sống”) của các thực thể khác nhau trong hệ sinh thái
đó. Nói cách khác, các hệ sinh thái khơng phải là các cá nhân hoặc nhóm các nhân, mà là mối quan hệ giữa
họ. Các đặc điểm này cũng phân biệt hệ sinh thái với các khái niệm khác như là cụm. Các thành viên chính
của hệ sinh thái khởi nghiệp rõ ràng là các doanh nghiệp khởi nghiệp. Các thành viên khác được coi là một

Paroma Sanyal and Catherine L. Mann (2010), The Financial Structure of Startup Firms: The Role of Assets, Information, and
Entrepreneur Characteristics, Working Papers No. 10-17; Federal Bank of Boston.

1


INTERNATIONAL CONFERENCE STARTUP AND INNOVATION NATION

795

phần của hệ sinh thái, bao gồm: các quỹ và các nhà đầu tư, các vườn ươm, các chương trình tăng tốc khởi
nghiệp (accelerator) và các nhà cung cấp dịch vụ khác (cả nhà nước và tư nhân) cũng như các quá trình, các
sự kiện và các thực thể khác (như các cuộc gặp gỡ trao đổi, các cuộc thi).
Hệ sinh thái khởi nghiệp của Việt Nam cịn tương đối non trẻ trong q trình phát triển, do đó các hệ
sinh thái đang phát triển tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng có thể học hỏi từ kinh nghiệm ở các nước
trên thế giới. Phần này sẽ nghiên cứu ba hệ sinh thái từ các lục địa khác nhau với thành công cũng rất khác
nhau, đó là: New York, Singapore và Amsterdam. Tác giả sẽ trình bày tổng quan về mỗi hệ sinh thái và diễn
giải các chính sách, các chương trình và cơng cụ chính được sử dụng để hỗ trợ hệ sinh thái.
3.1. New York: New York thường xuyên được xếp vào một trong những hệ sinh thái phát triển nhất
thế giới. Trong thập niên vừa qua, New York ngày càng trở nên nổi tiếng vì là một thành phố cơng nghệ cao.
Ước tính, hệ sinh thái cơng nghệ của New York bao gồm 291.000 công việc về công nghệ, tạo ra 541.000
việc làm nói chung, chiếm 12,6% tổng số việc làm trong thành phố. Số lượng các doanh nghiệp khởi nghiệp
tập trung vào công nghệ hoặc liên quan đến công nghệ cũng tăng nhanh và các công ty này tạo ra một tỷ
trọng đáng kể các doanh nghiệp khởi nghiệp trong hệ sinh thái. Đáng chú ý là vốn đầu tư mạo hiểm liên
quan đến công nghệ ở New York cũng tăng lên giai đoạn 2007-2011, trong khi các khu vực dẫn đầu về công
nghệ khác ở Mỹ đang đối mặt với sự sụt giảm về đầu tư mạo hiểm. Mặc dù Thung lũng Silicon đang là
trung tâm công nghệ hàng đầu ở Mỹ, New York vẫn có tầm quan trọng trong lĩnh vực cơng nghệ và có tác
động lớn đối với hệ sinh thái khởi nghiệp của thành phố. Cũng liên quan đến xếp hạng cao của thành phố,
New York có rất nhiều thế mạnh và chỉ có một chút yếu điểm liên quan đến khả năng và sự sẵn sàng đứng
ra chủ trì và phát triển một hệ sinh thái khởi nghiệp sôi động. Là một trong những trung tâm tài chính của

thế giới, khơng có gì đáng ngạc nhiên rằng, một trong những thế mạnh dễ thấy nhất của New York là tiếp
cập vốn. Thành phố cũng có kết cấu hạ tầng vững chắc cho kinh doanh, thị trường vươn xa tính theo
GDP của hệ sinh thái địa phương cũng như việc tiếp cận khách hàng tại các thị trường quốc tế. Những điểm
mạnh khác của hệ sinh thái New York bao gồm kinh nghiệm khởi nghiệp dày dặn, có nghĩa là sở hữu nhiều
cố vấn khởi nghiệp và những nhà sáng lập đã có kinh nghiệm khởi nghiệp trước đây, cũng như kinh nghiệm
về phê duyệt và cấp vốn cho các startup. Xét đến khía cạnh chất lượng, chi phí và mức độ sẵn có của các
nhân tài kỹ thuật, New York là một trong 10 thành phố hàng đầu thế giới. Điểm yếu nhất của thành phố này
là môi trường pháp lý, tức là khơng phải lúc nào cũng ủng hộ các mơ hình kinh doanh mới và sáng tạo như
Airbnb (dịch vụ chia sẻ chỗ ở thông qua ứng dụng công nghệ thông tin, điện thoại di động…) và Uber
Digital.NYC, trung tâm trực tuyến chính thức của hệ sinh thái khởi nghiệp và cơng nghệ New York, có gần
8.000 cơng ty khởi nghiệp có website riêng. Ở New York, có hơn 100 chương trình tăng tốc và ươm tạo,
trong đó nhiều chương trình chuyên sâu vào một lĩnh vực tập trung nào đó (ví dụ một ngành cụ thể, các chủ
doanh nghiệp là nữ…), và các công ty và doanh nghiệp khởi nghiệp có hơn 120 nơi làm việc và khơng gian
làm việc chung để lựa chọn. Đồng thời, các lựa chọn cấp vốn cũng rất đa dạng bởi có đến hơn 200 quỹ mạo
hiểm, nhà đầu tư thiên thần và các cơ hội tài trợ khác trong thành phố. Mặc dù sự sôi động của hệ sinh thái
khởi nghiệp New York dựa vào hoạt động của các thành phần tư nhân và cộng đồng khởi nghiệp (doanh
nghiệp khởi nghiệp, các doanh nghiệp thiên thần, các nhà đầu tư, các chương trình tăng tốc, các cuộc họp
mặt…), các chính sách và hoạt động của khu vực cơng cũng đóng một vai trị quan trọng.
Ngồi các chính sách hỗ trợ gián tiếp cho hệ sinh thái liên quan đến kết cấu hạ tầng, giáo dục, đại học và
sức hấp dẫn chung của thành phố, cũng có một vài chính sách – cả ở cấp độ bang và cấp thành phố - có mục
tiêu trực tiếp là hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp và hệ sinh thái khởi nghiệp. Hơn nữa, bang New York cịn ban
hành một số chính sách và sáng kiến để hỗ trợ phát triển các hệ sinh thái khởi nghiệp trong phạm vi toàn bang.
3.2. Singapore: Singapore là một trong những trung tâm tài chính của thế giới và là một trong những
trung tâm khởi nghiệp quan trọng ở Đông Nam Á. Sở hữu một môi trường kinh doanh thân thiện, vị trí địa
lý thuận lợi cùng với số lượng người tiêu dùng và các tập đoàn đa quốc gia đủ lớn, Singapore trở thành một


796

HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO QUỐC GIA


địa điểm lý tưởng cho doanh nghiệp khởi nghiệp khởi động kinh doanh. Ngày nay, đã có hàng ngàn doanh
nghiệp khởi nghiệp đặt tại đây và hệ sinh thái khởi nghiệp này đang tiếp tục phát triển và mở rộng. Thế
mạnh chính của Singapore là mơi trường kinh doanh, mơi trường chính trị thân thiện và cơ sở hạ tầng, nền
kinh tế sôi động, dễ tiếp cận thị trường quốc tế và đầu tư nước ngoài, cũng như hệ thống giáo dục chất lượng
cao tạo ra nhiều nhân tài cho hệ sinh thái. Tuy nhiên, cũng có một số điểm yếu khi xét đến sự hấp dẫn của
Singapore đối với các doanh nghiệp, ví dụ như chi phí sinh hoạt đắt đỏ và thị trường nội địa nhỏ.
Một trong những yếu điểm đáng ngạc nhiên nhất của hệ sinh thái là văn hóa Singapore, nơi mà các
doanh nhân khơng có địa vị xã hội cao. Do vậy, những người trẻ tài năng gặp áp lực tìm kiếm công việc
trong các công ty đa quốc gia lớn thay vì khởi nghiệp, điều này khiến cho việc thu hút những người giỏi
nhất làm việc cho hệ sinh thái khởi nghiệp trở nên khó khăn – và buộc các startup Singapore phải dựa vào
lực lượng lao động nước ngoài .
Hệ sinh thái khởi nghiệp của Singapore bao gồm tất cả các thành phần cần thiết cho một hệ sinh thái
khởi nghiệp phát triển và sơi động; có nhiều loại hình doanh nghiệp khởi nghiệp, vườn ươm, chương trình
tăng tốc khởi nghiệp và các lựa chọn cấp vốn. Trong những năm gần đây, hệ sinh thái này có sự tăng trưởng
nhanh chóng: số lượng doanh nghiệp khởi nghiệp đã tăng gấp đôi từ năm 2005 đến 2013, tương ứng 24.000
lên 42.000 doanh nghiệp. Có ít nhất 20-30 chương trình tăng tốc/ươm tạo ở Singapore; số vốn sẵn sàng cho
các doanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ đã tăng đáng kể trong những năm gần đây; đầu tư đã tăng 5 lần từ
năm 2012 đến 2015. Ngồi ra, cũng có một số lượng lớn các hiệp hội, sự kiện, cuộc thi và các không gian
làm việc chung cũng như các quỹ đầu tư mạo hiểm.
Chính phủ Singapore ln hỗ trợ tích cực cho hệ sinh thái khởi nghiệp quốc gia. Những sáng kiến
đầu tiên được đưa ra từ những năm 1990 dưới hình thức các chương trình cấp vốn và các biện pháp
khuyến khích hướng tới doanh nghiệp khởi nghiệp. Vào giữa những năm 2000, các chính sách được đẩy
mạnh, giúp gia tăng các sự kiện khởi nghiệp, các vườn ươm, các chương trình tăng tốc. Từ năm 2011 đến
2017, chính phủ Singapore đã dành hơn 11 tỷ USD để tăng cường nghiên cứu, đổi mới và phát triển hệ sinh
thái khởi nghiệp. Tính đến cuối năm 2017, có trên 10 chương trình cấp vốn khác nhau (cho vay, tài trợ, góp
vốn cổ phần…) cho doanh nghiệp khởi nghiệp cũng như nhiều chương trình khác nhằm giúp các doanh
nghiệp có được khơng gian làm việc văn phòng và tiếp cận các chuyên gia cố vấn. Có thể nói rằng, các
chương trình hỗ trợ tài chính ở Singapore đã giúp thu hút các doanh nghiệp trong toàn khu vực đến hệ sinh
thái Singapore. Một đặc điểm quan trọng trong việc thực hiện các chương trình hỗ trợ tài chính là nó khơng

nhất thiết phải phân bổ trực tiếp cho các công ty, mà cho các thành phần khác như vườn ươm và trường học
nhằm giúp xây dựng hệ sinh thái. Mặc dù các chương trình cấp vốn có thể được coi là cơng cụ chính sách
quan trọng nhất ở Singapore, nhưng cũng cần lưu ý rằng nước này cũng chú trọng các loại hình hỗ trợ khác.
Ví dụ, Chương trình Thẻ Doanh nhân Singapore (EntrePass) được khởi động năm 2004 để thu hút các
doanh nghiệp nước ngồi tới Singapore. Một ví dụ khác về hỗ trợ phi tài chính là sáng kiến Accreditation@
IDA, nhằm chứng nhận các công ty công nghệ ở giai đoạn đầu của Singapore “có đủ tiêu chuẩn để đáp ứng
cho chính phủ và các doanh nghiệp lớn”, và “xây dựng hệ sinh thái kỹ nghệ để phát triển kinh tế, truyền cảm
hứng cho thế hệ trẻ, xây dựng nhiều sản phẩm sáng tạo và các cơng ty cơng nghệ có thể mở rộng ở nước
ngồi”. Chương trình ACE (Cộng đồng Hành động vì Doanh nghiệp) do Chính phủ chủ trì là một sáng kiến
nhằm củng cố văn hóa và cộng đồng khởi nghiệp ở Singapore. Mục đích là cung cấp nguồn lực và mạng
lưới cho các doanh nghiệp triển vọng, đại diện cho doanh nghiệp và vận động cho các thay đổi chính sách
phù hợp. Chương trình này cũng hỗ trợ khởi nghiệp tại các trường học và trong giới trẻ.
Singapore đã xây dựng được những thể chế đủ mạnh để thực thi các chính sách về đổi mới và khởi
nghiệp. Ví dụ, Quỹ Nghiên cứu Quốc gia (NRF) có thể xây dựng các chính sách quốc gia, các kế hoạch và
chiến lược cho nghiên cứu, đổi mới, cũng như các quỹ, sáng kiến chiến lược và xây dựng năng lực về R&D,


INTERNATIONAL CONFERENCE STARTUP AND INNOVATION NATION

797

đặc biệt thông qua chương trình Khn khổ Quốc gia về Sáng kiến và Doanh nghiệp (NFIE). NFIE bao gồm
một loạt các chương trình được thiết kế cụ thể cho doanh nghiệp khởi nghiệp và hệ sinh thái khởi nghiệp.
Trong đó, gồm các quỹ mạo hiểm giai đoạn đầu, qua đó NRF đầu tư với các quỹ mạo hiểm (tỷ lệ 1:1) ở các
công ty công nghệ ở Singapore. Một công cụ khác là chương trình ươm tạo cơng nghệ, hỗ trợ tài chính cho
các doanh nghiệp khởi nghiệp được ươm tạo bởi các vườn ươm công nghệ.
Một tổ chức quan trọng khác là SPRING, trực thuộc Bộ Thương mại và Công nghệ. Cơ quan này
chịu trách nhiệm “giúp các doanh nghiệp Singapore tăng trưởng và xây dựng niềm tin vào sản phẩm và
dịch vụ của Singapore”. SPRING cung cấp các khoản tài trợ khác nhau và các chương trình thuế cho các
cơng ty. Mặc dù SPRING phục vụ hầu hết các doanh nghiệp ở Singapore, nhiều chương trình tài trợ (ví dụ

như Hạt giống SPRING, Chương trình Kinh doanh Thiên thần và Chương trình Khởi nghiệp ACE) được thiết
kế cho khởi nghiệp và các thành phần khác trong hệ sinh thái. Thông qua việc phối hợp với các cơ quan nhà
nước và các đối tác trong các ngành, SPRING cũng vận hành một cổng thông tin cho các doanh nghiệp nhỏ và
vừa để cung cấp các thông tin về pháp luật kinh doanh, hỗ trợ của chính phủ, các thơng tin cụ thể theo ngành.
Tổ chức quan trọng thứ ba là Cơ quan phát triển Thông tin và Truyền thông Singapore (IDA), một đơn
vị tự chủ trực thuộc Bộ Thông tin Truyền thông. Cơ quan này có nhiệm vụ “xây dựng cơng nghệ và viễn
thông ở Singapore nhằm phục vụ người dân ở mọi lứa tuổi và các công ty thuộc mọi quy mô”. Cơ quan này
hỗ trợ sự phát triển của các công ty công nghệ sáng tạo, các doanh nghiệp khởi nghiệp và phát triển một
“hệ sinh thái viễn thông sôi động, nơi mà các công ty đa quốc gia và các cơng ty khởi nghiệp đổi mới sáng
tạo nước ngồi hoạt động trong lĩnh vực thông tin truyền thông”. IDA cũng hỗ trợ các doanh nghiệp khởi
nghiệp tiếp cận thị trường tồn cầu. Một cơng cụ quan trọng của việc hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp (công
nghệ) là Công ty Đầu tư Thông tin truyền thông (IIPL), một công ty con của IDA.
3.3. Amsterdam: Amsterdam có một hệ sinh thái khởi nghiệp sôi động và đang phát triển, đây là một
trong những hệ sinh thái lớn nhất ở châu Âu. Điểm mạnh của Amsterdam là nằm ở vị trí địa lý trung tâm,
môi trường quốc tế, hệ thống giáo dục cao cấp tạo ra lực lượng lao động trí thức và đủ khả năng thử nhiệm
các sản phẩm và dịch vụ mới.
Điều đáng chú ý nhất trong trường hợp của Hà Lan, đó là việc hệ sinh thái khơng bị giới hạn ở thủ đơ
Amsterdam, mà cịn mở rộng 13 thành phố và khu vực khác của Hà Lan nữa. Những trung tâm này được liên kết
nhau, mỗi địa điểm lại tập trung vào một lĩnh vực cụ thể (ví dụ: y tế, thực phẩm và nông nghiệp, an ninh mạng…).
Ngồi 13 trung tâm khởi nghiệp, Hà Lan cũng có số lượng khá lớn các công ty khởi nghiệp và các thành phần
liên quan khác, như các chương trình tăng tốc khởi nghiệp, các nhà đầu tư và không gian làm việc chung. Hệ
sinh thái khởi nghiệp của Hà Lan bao gồm hơn 3.000 công ty khởi nghiệp, 300 nhà đầu tư, 40-50 chương trình
tăng tốc/ươm tạo và 10 tổ chức cơng (bao gồm cả các trường đại học). Ngồi sự tham gia hàng ngày của các tổ
chức công trong hệ sinh thái khởi nghiệp, Hà Lan cũng xây dựng hai chương trình khởi nghiệp lớn đó là Startup
Delta (chương trình quốc gia) và StartupAmsterdam (sáng kiến địa phương). Một vài năm trở lại đây, chính sách
doanh nghiệp đầy tham vọng đã chuyển thành kế hoạch hành động (Kế hoạch Hành động về Kinh Doanh có
Tham vọng), qua đó chính phủ ban hành một số biện pháp để hỗ trợ các startup và doanh nghiệp nói chung đạt
được tham vọng của mình để tăng trưởng. Chính phủ đã dành khoản ngân sách trị giá 75 triệu Euro nhằm thúc
đẩy tiếp cận vốn, kiến thức, sáng tạo và thị trường toàn cầu. Các biện pháp cụ thể bao gồm:           
- Cung cấp tài chính giai đoạn đầu để các doanh nhân có thể nghiên cứu liệu một ý tưởng hay sản phẩm

có khả thi về mặt kỹ thuật và phù hợp với thị trường hay không.
- Tăng cường vị thế quốc tế cho doanh nghiệp khởi nghiệp và phát triển kinh doanh và thu hút các
doanh nghiệp khởi nghiệp nước ngồi đến Hà Lan thơng qua sáng kiến StartupDelta.
- Cung cấp các giấy phép lưu trú tạm thời (visa khởi nghiệp) cho các doanh nghiệp không nằm trong
EU, tạo cơ hội cho họ thành lập doanh nghiệp ở Hà Lan.


798

HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO QUỐC GIA

- Xây dựng sáng kiến Hà Lan tăng tốc (Nlevator) – một nền tảng tạo ra bởi các doanh nhân có tham
vọng phát triển doanh nghiệp của mình nhanh hơn.
- Cấp vốn cho dự án Eurostar – các dự án phát triển công nghệ sáng tạo, đưa các đối tác về kinh doanh
và kiến thức từ ít nhất hai nước châu Âu vào cùng tham gia.
 - Cấp vốn theo chương trình Horizon 2020 của Uỷ ban châu Âu để kích thích nghiên cứu và sáng tạo
ở châu Âu. Bên cạnh các sáng kiến tập trung cụ thể vào các doanh nghiệp khởi nghiệp, chính phủ Hà Lan
đã có một vai trị tích cực trong việc hỗ trợ sáng tạo và kinh doanh, có một số biện pháp hỗ trợ kinh doanh
cho các startup. Những biện pháp này bao gồm bảo lãnh tính dụng chính phủ, cấp vốn, tín dụng cho đổi mới
sáng tạo và ưu đãi thuế cho các hoạt động R&D.
4. KHUYẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM
Bức tranh startup Việt Nam chỉ mới bắt đầu nổi lên nhanh chóng trong những năm gần đây, song sự phát
triển rất đáng chú ý: số lượng startup đã tăng 4 lần từ con số 400 trong năm 2012 lên 1.800 trong năm 2016.
Cũng trong thời gian này, số lượng các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam đã tăng gấp ba lần và số lượng các
giao dịch cấp vốn tăng lên theo cấp số nhân. Theo xu hướng này, số lượng các dịch vụ và hoạt động của hệ
sinh thái, các sự kiện khởi nghiệp, các vườn ươm danh nghiệp, chương trình tăng tốc và khơng gian làm việc
chung đã tăng đáng kể, góp phần vào sự tăng trưởng chung của hệ sinh thái khởi nghiệp Việt Nam.
Bên cạnh sáng kiến của khu vực tư nhân, Chính phủ Việt Nam cùng các nước trong khu vực cũng đã rất
tích cực trong việc đưa ra các sáng kiến cấp vốn hướng đến các cơng ty khởi nghiệp (ví dụ sáng kiến Thung
lũng Silicon Việt Nam do Chính phủ tài trợ). Đây là một sự thay đổi về chính trị khi chuyển từ tập trung vào

các doanh nghiệp lớn của nhà nước sang hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở khu vực tư nhân, việc này cũng
góp phần vào sự thay đổi văn hóa cần có để có thể xây dựng được hệ sinh thái khởi nghiệp mới và năng động.
Trong MBI, có thể hiểu rằng Việt Nam giờ đây đã chuyển từ Giai đoạn Mới Xuất hiện sang Giai đoạn
Kích hoạt, tức là đang cố gắng bắt kịp với các hệ sinh thái khác bằng cách ứng dụng các thông lệ quốc tế
tốt nhất về hỗ trợ khởi nghiệp và hệ sinh thái khởi nghiệp. Điều này đòi hỏi phải phân tích kỹ lưỡng và lập
sơ đồ các thành phần trong hệ sinh thái, mối quan tâm, nhu cầu hỗ trợ chính sách của họ. Trong khi đó,
Việt Nam cần tiếp tục xây dựng chính sách để củng cố các điều kiện chung cho doanh nghiệp khởi nghiệp.
Tuy nhiên, dù đã có những bước phát triển đáng chú ý trong những năm qua, startup Việt vẫn đang
trong giai đoạn khởi động. Cần tiếp tục có sự ủng hộ về mặt chính trị và tạo lập mơi trường văn hố mới để
hiện thực hóa đầy đủ tiềm năng của bức tranh startup Việt Nam. Dựa trên kinh nghiệm quốc tế đã phân tích
ở trên, Tác giả đưa ra đề xuất khuyến nghị nhằm hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp của Việt Nam, như sau:
- Xác định, lập bản đồ và phân tích hệ sinh thái khởi nghiệp tiềm năng và các thành phần trong đó, mối
quan tâm và nhu cầu hỗ trợ chính sách. Tập trung xây dựng sự phối hợp và lòng tin giữa các thành phần.
Các chỉ số và mức xếp hạng hiện tại có thể cung cấp một khuôn khổ tốt và là điểm xuất phát cho nghiên
cứu, nhưng cũng cần có các nghiên cứu sâu khác nữa.
- Thiết lập mục tiêu chính sách chung (ví dụ như lộ trình) và kế hoạch thực hiện (với phân bổ trách
nhiệm và nguồn lực phù hợp) để hỗ trợ các hệ sinh thái khởi nghiệp. Đảm bảo sự tham gia của các bên tham
gia trong khu vực tư nhân và các bên liên quan chính khác trong quá trình này.
- Áp dụng biện pháp tiếp cận tổng thể và xử lý mọi nội dung trong hệ sinh thái khởi nghiệp. Tập trung
vào xác định và loại bỏ các rào cản pháp luật (liên quan đến đầu tư, nhân lực, đăng ký kinh doanh, phá sản
và thoái vốn), hỗ trợ văn hóa và tư duy doanh nhân cũng rất cần thiết, nhưng cần có sự phân tích kỹ càng.
- Có khơng gian để thử nghiệm chính sách và áp dụng biện pháp tiếp cận “kết thúc nhanh khi thất bại”
trong việc thiết kế và đưa ra các chương trình và sáng kiến chính sách, tránh các thơng lệ q cứng nhắc.
Áp dụng quy trình theo dõi và đánh giá để tạo thuận lợi cho việc học hỏi và cải thiện sáng kiến.


INTERNATIONAL CONFERENCE STARTUP AND INNOVATION NATION

799


Những biện pháp trên sẽ giữ cho hệ sinh thái khởi nghiệp Việt Nam đi đúng hướng. Kinh nghiệm của
Singapore và Amsterdam cho thấy, cần cung cấp khoản trợ cấp đặc biệt và ưu đãi cho các doanh nghiệp
công nghệ trong nước để vượt qua những thách thức ban đầu và khó khăn sau đó. Mặt khác, cung cấp thị
thực đặc biệt dành cho các doanh nghiệp nước ngồi có khả năng đưa những ý tưởng mới, chun mơn và
thậm chí cả vốn vào hệ sinh thái.
Các liên kết khu vực cũng rất quan trọng. Giống như các doanh nghiệp Hà Lan đã tìm được các kết nối
ở London, Berlin và Dublin, các startup Việt Nam có thể tìm kiếm lợi ích từ việc kết nối với các hệ sinh thái
ở Bangkok và Singapore, cũng như các thị trường trong khu vực ASEAN. Các chương trình phát triển khu
vực tư nhân như MBI có thể hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận các hệ sinh thái và thị trường khu vực.
Ở các nước phát triển, các hệ sinh thái có thể tự vận động, nhưng ở các nền kinh tế đang phát triển thì
cần có sự kết hợp hỗ trợ của chính phủ và các tổ chức phi chính phủ (development sector). Các ví dụ của New
York, Singapore, và Amsterdam chứng minh rằng vế sau là đúng. Trên thực tế, các chính phủ đang tham gia
tích cực trong việc xây dựng các hệ sinh thái khởi nghiệp và đổi mới ở các nước phát triển. Việt Nam có tiềm
năng lớn để hình thành các doanh nghiệp công nghệ cao, nhưng vẫn cần được thúc đẩy hơn nữa.
MBI tin tưởng một số lĩnh vực có tiềm năng lớn cho các doanh nghiệp công nghệ Việt Nam, bao gồm:
du lịch (công nghệ du lịch), nông nghiệp (nơng nghiệp cơng nghệ cao), dịch vụ tài chính (cơng nghệ tài
chính), và phát triển đơ thị (xây dựng thành phố thơng minh). Chúng tơi đang tích cực xây dựng hệ sinh thái
đặc biệt để hỗ trợ doanh nghiệp công nghệ trong các ngành dọc này. Các hệ sinh thái như vậy không chỉ thu
hút sự tham gia của các đối tượng trong hệ sinh thái khởi nghiệp và chính phủ, mà còn cả các doanh nghiệp
lớn và các nhà đầu tư chuyên biệt.
Trung tâm Sáng kiến Sài Gòn (SIHUB) và Vườn ươm doanh nghiệp Đà Nẵng (DNES) được thành lập
bởi các chính quyền địa phương với sự hỗ trợ của MBI vào năm 2016 nhằm hỗ trợ xây dựng một hệ sinh
thái khởi nghiệp. Những vườn ươm khởi nghiệp này hình thành nên mạng lưới cố vấn, mạng lưới ngành
và hỗ trợ tài chính. Ngồi ra, các vườn ươm cũng tạo ra không gian hoạt động cho doanh nghiệp mới khởi
nghiệp. Nhờ đó, hoạt động đổi mới sáng tạo có thể được ươm mầm phát triển ở Việt Nam.
Các chương trình thí điểm của DNES và SIHUB đã nâng tầm vị thế của Việt Nam trong việc thúc đẩy hợp
tác giữa các cơ quan nhà nước và tư nhân. Mơi trường cải thiện và khả thi cho startup có ảnh hưởng lớn đến các
hệ sinh thái ở địa phương và trở thành kim chỉ nam cho các startup, nhà đầu tư, nhà tư vấn và quản lý vườn ươm.
Từ khi DNES và SIHUB ra đời, đã có hàng trăm sự kiện đã diễn ra, giúp kết nối với các doanh nghiệp
để tìm kiếm hỗ trợ tài chính. Để 2 tổ chức này phát triển mạnh mẽ, Việt Nam phải nhanh chóng tạo sân

chơi cơng bằng giữa hệ sinh thái khởi nghiệp và các doanh nghiệp nhà nước. Chốt lại, nền kinh tế đang
phát triển của Việt Nam được đánh giá là linh hoạt hơn so với New York, Thung lũng Silicon, Singapore và
nhiều nước khác. Cụ thể, thị trường Việt Nam đang nhanh chóng thích ứng với cơng nghệ mới, chứng kiến
sự bùng nổ trong phát triển đô thị và du lịch đang phát triển thăng hoa. Việt Nam cũng có lượng dân số trẻ
tràn đầy năng lượng và tham vọng, có thể đốn trước những khoảng trống trên thị trường. Đồng thời, các
chương trình ươm tạo được quan tâm, chú trọng. Qua phân tích kinh nghiệm thế giới, Việt Nam có tiềm
năng để trở thành một trung tâm đổi mới sáng tạo của châu Á.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Luật hỗ trợ DNNVV 2017, Luật 04/2017/QH14
Nghị Quyết số 35/NQ-CP được ban hành ngày 16/5/2016 về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến 2020
Nghị định số 75/2011/NĐ-CP ngày 30/8/2011 về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
Quyết định số 1726/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt đề án nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng
cho nền kinh tế ban hành ngày 5 tháng 9 năm 2016
Denham Sadler (2016), The government’s new startup tax incentives have been revealed



×