Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Giải pháp khắc phục vướng mắc, khó khăn trong hoạt động thanh tra.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.88 KB, 17 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính, triển khai và tiếp tục
triển khai những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng
cao năng lực cạnh tranh Quốc gia năm 2020 theo nội dung Nghị quyết số 19/NQ-CP
ngày 18/3/2014 và 02/NQ-CP ngày 01/01/2020 của Chính phủ, Đảng và Nhà nước
ta rất quan tâm đến công tác thanh tra.
Hiện nay, hoạt động thanh tra đã được thể chế hoá thành Luật thanh tra
56/2010/QH12 ngày 15/11/2010 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2011 thay thế cho
Luật thanh tra số 22/2004/QH11 với mục đích là thơng qua hoạt động thanh tra phát
hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý
hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định
của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Kết quả tổng kết việc thi hành Luật Thanh tra và các nghiên cứu khoa học
cũng như từ thực tiễn hoạt động của Thanh tra Chính phủ những năm qua cho thấy
nhiều khó khăn, vướng mắc trong hoạt động của ngành thanh tra.
Qua thời gian cơng tác tại Phịng Thanh tra – kiểm tra thuộc Cục Hải quan
thành phố Hồ Chí Minh và sau khi được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức tại Trường
Hải quan Việt Nam, tôi chọn đề tài: Giải pháp khắc phục vướng mắc, khó khăn
trong hoạt động thanh tra.
Tơi viết đề tài này nhằm mục đích nhận thức, đánh giá những vướng mắc,
bất cập giữa thực tế và quy định của pháp luật trong thực tiễn hoạt động thanh tra
để đề ra những giải pháp, kiến nghị giúp cải thiện và nâng cao hiệu quả trong công
tác, hồn thành nhiệm vụ tốt nhiệm vụ đuợc giao.
Do trình độ nghiệp vụ cịn hạn chế, kinh nghiệm cơng tác chưa nhiều nên
trong bài thu hoạch khó tránh khỏi những thiếu sót, rất mong Q Thầy - Cơ đóng
góp ý kiến để kỹ năng giải quyết vấn đề của tôi ngày càng hoàn thiện hơn.



2

1. Một số khó khăn, vướng mắc trong hoạt động thanh tra
Hoạt động thanh tra theo quy định của Luật thanh tra 56/2010/QH12 đã bộc
lộ một số hạn chế, vướng mắc sau:
1.1. Quy định về xây dựng định hướng chương trình, kế hoạch thanh tra hàng
năm; Thời hạn trong hoạt động thanh tra; Hình thức thanh tra
- Về định hướng, chương trình, kế hoạch thanh tra hàng năm:
Thứ nhất, việc xây dựng, trình phê duyệt và ban hành kế hoạch thanh tra hàng
năm khó đảm bảo thời hạn quy định. Điều 36 Luật Thanh tra, Điều 39 Nghị định số
07/2012/NĐ-CP ngày 09/02/2012 quy định về cơ quan được giao thực hiện chức
năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra chuyên ngành; Thông tư số
01/2014/TT-TTCP ngày 01/7/2014 quy định việc xây dựng, phê duyệt định hướng
chương trình thanh tra, kế hoạch thanh tra có quy định về các mốc thời gian xây
dựng, trình phê duyệt và ban hành kế hoạch thanh tra với từng cấp là khác nhau.
Theo các quy định này, chậm nhất 30/10 hàng năm, Thủ tướng Chính phủ có trách
nhiệm xem xét, phê duyệt định hướng, chương trình thanh tra. Sau khi Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt định hướng, chương trình thanh tra, trong thời gian 05 ngày,
Tổng Thanh tra Chính phủ ban hành văn bản hướng dẫn thanh tra bộ, thanh tra tỉnh
lập kế hoạch thanh tra trình Thủ trưởng cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Chậm nhất vào ngày 15/11 hằng năm, Chánh thanh tra bộ, thủ trưởng cơ quan được
giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc bộ, Chánh thanh tra tỉnh căn
cứ vào định hướng, chương trình thanh tra, hướng dẫn của Tổng Thanh tra Chính
phủ và yêu cầu công tác quản lý của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình thủ trưởng cơ
quan quản lý nhà nước cùng cấp phê duyệt kế hoạch thanh tra… Tuy nhiên, thực
tiễn thi hành cho thấy, dự thảo định hướng chương trình thanh tra hồn thành và gửi
Thủ tướng Chính phủ trước ngày 15/10 hàng năm nhưng phải chờ thời gian để Văn
phịng Chính phủ thẩm định và làm thủ tục trình Thủ tướng Chính phủ đồng ý, do
vậy việc ban hành văn bản hướng dẫn của Thanh tra Chính phủ đối với thanh tra bộ,
thanh tra tỉnh xây dựng kế hoạch thanh tra khá gấp và chậm dẫn đến việc xây dựng

kế hoạch thanh tra hằng năm của bộ, ngành, địa phương bị ảnh hưởng. Bên cạnh đó,
với các quy định trên, khoảng thời gian để xây dựng và trình cấp có thẩm quyền phê


3

duyệt kế hoạch thanh tra là quá ngắn (chỉ từ 10 đến 15 ngày) là không đủ thời gian,
điều kiện để thu thập thơng tin, tài liệu, nắm tình hình khảo sát để xây dựng kế
hoạch thanh tra và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Đồng thời, việc khảo sát,
nắm tình hình phụ thuộc vào cơng tác phối hợp và tiến độ phản hồi, cung cấp thông
tin, tài liệu, hồ sơ của các cơ quan, tổ chức, đơn vị khảo sát, dự kiến thanh tra, do
vậy với các mốc thời gian trên nên các bộ, ngành, địa phương khó đảm bảo đúng
quy định về thời hạn ban hành kế hoạch thanh tra.
Thứ hai, việc xây dựng, ban hành kế hoạch thanh tra có tình trạng trùng lắp,
chồng chéo giữa cơ quan thanh tra với Kiểm toán Nhà nước cụ thể trong hoạt động
thanh tra về ngân sách, tài chính và sử dụng vốn đầu tư công. Nguyên nhân của tình
trạng trên do chưa có quy định để xử lý chồng chéo giữa kế hoạch thanh tra và kế
hoạch kiểm tốn. Bên cạnh đó, sự chồng chéo trong hoạt động thanh tra cũng xuất
phát từ việc Luật Thanh tra chưa đưa ra quy định thanh tra sở khi xây dựng kế
hoạch thanh tra phải căn cứ vào định hướng chương trình của thanh tra bộ; chưa
quy định kế hoạch thanh tra của thanh tra sở sau khi được phê duyệt phải gửi cho
thanh tra bộ để có sự điều chỉnh kịp thời, nếu có chồng chéo, trùng lắp; chưa có quy
định điều chỉnh xử lý chồng chéo giữa kế hoạch thanh tra của Thanh tra Chính phủ
và thanh tra sở, ngành; chưa có quy định về xử lý chồng chéo trong trường hợp
trùng lắp về đối tượng thanh tra, nội dung thanh tra nhưng bị điều chỉnh bởi kế
hoạch thanh tra ở hai năm liền kề nhau.
Thứ ba, kế hoạch thanh tra hàng năm được xây dựng và phê duyệt từ cuối
năm trước phải có đối tượng thanh tra cụ thể. Quy định này chỉ phù hợp với thanh
tra hành chính mà khơng phù hợp với thanh tra chun ngành, bởi lẽ hoạt động
thanh tra chuyên ngành phải được tiến hành thường xuyên, gắn liền với việc thực

hiện nhiệm vụ về chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ; phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp
thời các hành vi vi phạm pháp luật.
- Về thời hạn trong hoạt động thanh tra:
Các thời hạn trong hoạt động thanh ra đều quy định chung là “ngày”. Tuy
nhiên thực tiễn thi hành ở các đoàn thanh tra của các bộ, ngành, địa phương không
thống nhất, có nơi áp dụng là “ngày làm việc”, có nơi áp dụng là “ngày liên tiếp


4

theo lịch” nên thời gian thanh tra thực tế tại đơn vị của một số đoàn thanh tra chưa
thống nhất. Ngoài ra, theo điểm c, khoản 1, Điều 35 Luật Thanh tra thì cuộc thanh
tra do thanh tra huyện, thanh tra sở tiến hành không quá 30 ngày, ở miền núi, biên
giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn thanh tra có thể kéo dài,
nhưng không quá 45 ngày. Như vậy, Luật Thanh tra không quy định kéo dài, gia hạn
đối với cuộc thanh tra do thanh tra huyện, thanh tra sở tiến hành nhưng có tính chất
phức tạp. Quy định này dẫn đến khó khăn trong thực tiễn thi hành đối với cấp sở,
huyện.
Về hình thức thanh tra:
Theo quy định tại Điều 37 Luật Thanh tra có 3 hình thức thanh tra gồm: thanh
tra theo kế hoạch, thanh tra thường xuyên và thanh tra đột xuất. Tuy nhiên, hiện nay
chưa có hướng dẫn cụ thể về hình thức thanh tra thường xuyên, dẫn đến trong 09
năm thi hành Luật Thanh tra, các bộ, ngành, địa phương đều chưa thực hiện hình
thức thanh tra này. Đối với thanh tra đột xuất, theo quy định, thanh tra đột xuất được
tiến hành khi phát hiện cơ quan, tổ chức, cá nhân có dấu hiệu vi phạm pháp luật;
theo yêu cầu của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng hoặc do
thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền giao. Tuy nhiên, quy định của
pháp luật về thanh tra hiện nay chưa đưa ra quy định cụ thể tính chất, mức độ vi
phạm pháp luật làm căn cứ tiến hành thanh tra; chưa xác định được rõ các yêu cầu,
nhiệm vụ của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng. Ngoài ra,

pháp luật về thanh tra cũng chưa quy định, hướng dẫn đối với thanh tra chuyên đề,
thanh tra diện rộng nên trong thực tiễn thi hành còn gặp khó khăn, vướng mắc.
Ngồi ra, đối với hoạt động thanh tra liên ngành, Luật Thanh tra chưa có quy
định, hướng dẫn về hoạt động thanh tra này. Hoạt động thanh tra liên ngành được đề
cập, tại khoản 3, Điều 19; khoản 4, Điều 20 và khoản 1, Điều 21 Nghị định số
86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Thanh tra. Tuy nhiên, các quy định này còn rất mờ nhạt,
chưa quy định cụ thể về vai trò, trách nhiệm của thành viên của các cơ quan được
cử tham gia đồn thanh tra liên ngành. Q trình kết luận về nội dung liên quan đến
ngành, lĩnh vực, xây dựng báo cáo kết quả thanh tra, dự thảo kết luận thanh tra chưa


5

có quy định bắt buộc phải lấy ý kiến tham gia của các cơ quan cử thành viên. Do
vậy, vai trò, trách nhiệm của cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực tham gia đoàn liên
ngành chưa phát huy đúng mức, dẫn đến nhiều trường hợp, kết quả cuộc thanh tra
liên ngành khơng có nhiều sự khác biệt với một cuộc thanh tra thơng thường. Ngồi
ra, pháp luật về thanh tra chỉ quy định hoạt động thanh tra hành chính mới thành lập
đoàn thanh tra liên ngành, trong khi thực tiễn hoạt động thanh tra chuyên ngành của
các ngành, lĩnh vực thường xuyên được thành lập đoàn liên ngành để cùng thực
hiện chức năng thanh tra đối với cùng đối tượng thanh tra.
1.2. Trình tự, thủ tục tiến hành thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành
Luật Thanh tra và các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định về trình tự, thủ
tục áp dụng cho thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành. Tuy nhiên, mỗi
ngành, mỗi lĩnh vực có những đặc thù riêng, phạm vi và quy mơ của cuộc thanh tra
ở mỗi cấp, mỗi ngành là khác nhau nên khó có thể áp dụng trình tự, thủ tục chung
theo quy định. Quy định về trình tự, thủ tục hoạt động thanh tra chuyên ngành chưa
phù hợp với thực tế đa dạng, chuyên sâu của hoạt động thanh tra chuyên ngành, cụ
thể:

- Trong một số hoạt động thanh tra chuyên ngành, quy định về việc gửi quyết
định thanh tra đến đối tượng thanh tra trước khi tiến hành thanh tra tại Khoản 5,
Điều 36 Luật Thanh tra có thể khiến đối tượng thanh tra xóa dấu vết vi phạm, gây
khó khăn cho hoạt động thanh tra. Quy định này cũng không phù hợp với đặc điểm
của ngành, địa phương trong trường hợp kế hoạch thanh tra chỉ xác định được đối
tượng thanh tra theo diện rộng, theo địa bàn, nhóm đối tượng thanh tra mà khơng
thể xác định được đích danh đối tượng thanh tra trong kế hoạch thanh tra (ví dụ:
thanh tra vệ sinh thực phẩm, dược phẩm, cơ sở y tế...). Bên cạnh đó, Luật Thanh tra
quy định trong thời hạn 15 ngày, quyết định thanh tra phải được công bố cho đối
tượng thanh tra và phải được lập biên bản, nhưng qua thực tế khi thực hiện gặp
nhiều khó khăn, như một cuộc thanh tra có nhiều đối tượng thanh tra và nằm ở các
địa bàn rộng, các đơn vị hành chính lại xa trung tâm, đặc biệt đối với miền núi, biên
giới đi lại khó khăn, khơng thể triệu tập tất cả các đối tượng thanh tra để công bố
quyết định thanh tra gây khó khăn, phiền hà, tốn kém về kinh phí, phương tiện đi lại


6

của đối tượng thanh tra. Ngoài ra, quy định về việc công bố quyết định thanh tra
trước khi thanh tra đột xuất cũng gây nên những trở ngại tương tự, nhất là trong lĩnh
vực an toàn thực phẩm, y tế, dược phẩm, môi trường ngành nghề kinh doanh nhạy
cảm... Hơn nữa, quy định việc công bố quyết định thanh tra phải được lập biên bản
cũng tạo thêm thủ tục rườm rà đối với mỗi cuộc thanh tra diễn ra trong thời gian quá
ngắn. Thời gian tiến hành một cuộc thanh tra chuyên ngành diễn ra nhanh, đối với
nhiều lĩnh vực thì thời gian thanh tra tại đơn vị thường rất ngắn (có thể chỉ 01 buổi),
do đó thủ tục tiến hành công bố quyết định thanh tra là không cần thiết phải lập
thành biên bản công bố riêng.
- Việc ghi nhật ký đoàn thanh tra cũng cần được quy định theo hướng ngắn
gọn, tinh giản, giảm bớt thủ tục hành chính. Đồn thanh tra thường chia thành các
tổ, nhóm làm việc độc lập, trong khi đó sổ nhật ký chỉ có một và do Trưởng đồn

thanh tra quản lý nên việc ghi sổ nhật ký cũng gặp khó khăn, làm mất nhiều thời
gian của Trưởng đoàn thanh tra.
- Việc quy định công khai kết luận thanh tra chưa phù hợp với đồn thanh tra
chun ngành; thiếu linh hoạt, khơng phù hợp với một số ngành như ngành ngân
hàng, việc thông tin cụ thể về kết luận thanh tra có thể gây ra các rủi ro về thị
trường tín dụng, ảnh hưởng đến xã hội.
- Việc giao thanh tra viên tiến hành độc lập chưa có hướng dẫn cụ thể, như:
chưa có quy định về trình tự, cách thức thực hiện thanh tra độc lập, giám sát hoạt
động của công chức thanh tra chuyên ngành độc lập nên chưa có sự thống nhất thực
hiện phương thức thanh tra này trong hoạt động thanh tra chuyên ngành.
- Các văn bản hướng dẫn Luật Thanh tra chưa có quy định về mẫu văn bản
hướng dẫn cụ thể về thanh tra, kiểm tra chuyên ngành, do đó cần rà sốt và ban
hành mẫu văn bản để đảm bảo tính thống nhất.
- Các văn bản hướng dẫn Luật Thanh tra chưa có quy định cụ thể về địa điểm
thanh tra nên có khó khăn, vướng mắc trong thực hiện.
- Việc xây dựng báo cáo kết quả thanh tra và ban hành kết luận thanh tra khó
có thể thực hiện đúng theo quy định tại Điều 49, Điều 50 Luật Thanh tra. Luật
Thanh tra quy định thời gian xây dựng báo cáo và kết luận thanh tra tối đa 30 ngày


7

áp dụng cho tất cả các cơ quan thanh tra, trong khi đó, thời hạn tiến hành thanh tra ở
mỗi cấp thanh tra là khác nhau. Trên thực tế, sau khi kết thúc thanh tra, đồn thanh
tra phải có nhiều thời gian để đối chiếu quy định, xây dựng báo cáo kết quả thanh
tra, báo cáo người ra quyết định thanh tra, xây dựng dự thảo kết luận thanh tra, lấy ý
kiến của các cơ quan chức năng, ý kiến giải trình của đối tượng thanh tra để hồn
thiện dự thảo kết luận thanh tra. Người ký kết luận thanh tra cũng cần có thời gian
để nghiên cứu, cân nhắc các khía cạnh khác nhau, do đó, thời hạn 30 ngày là chưa
phù hợp với thực tế, thiếu khả thi, nhất là các cuộc thanh tra do Thanh tra Chính

phủ, thanh tra bộ tiến hành và đặc biệt là các cuộc thanh tra liên ngành, cuộc thanh
tra có quy mơ lớn và tính chất phức tạp thường phải xin ý kiến của các cơ quan
chuyên môn, xin ý kiến của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước.
1.3. Việc thực hiện các quyền trong hoạt động thanh tra
Nhiệm vụ, quyền hạn của trưởng đoàn thanh tra, thành viên đoàn thanh tra,
người ra quyết định thanh tra đã được quy định cụ thể trong Luật Thanh tra, tạo
thuận lợi, đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ thanh tra. Tuy nhiên, một số quyền
khó thực hiện trong thực tế. Theo đó:
- Quyền yêu cầu cung cấp thông tin, tài liệu được quy định tại Điều 46, Điều
47 và Điều 48 Luật Thanh tra. Tuy nhiên, việc thực hiện quy định này trên thực tế
vẫn tồn tại một số hạn chế nhất định, có khơng ít trường hợp đối tượng thanh tra cố
tình tìm lý do để khơng cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ, cung cấp không kịp
thời làm ảnh hưởng đến tiến độ, chất lượng thanh tra. Nguyên nhân là do chưa có
quy định chế tài cụ thể để xử lý các hành vi vi phạm liên quan đến nội dung này.
- Quyền trưng cầu giám định: Điều 48 Luật Thanh tra quy định người ra
quyết định thanh tra có quyền trưng cầu giám định về vấn đề liên quan nội dung
thanh tra. Kinh phí trưng cầu giám định do cơ quan tiến hành thanh tra chi trả,
trường hợp đối tượng thanh tra có sai phạm thì kinh phí giám định sẽ do đối tượng
thanh tra chi trả, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Việc quy định này gây
khó khăn cho cơ quan thanh tra, bởi vì chi phí cho giám định thường rất cao.
- Quyền yêu cầu người có thẩm quyền tạm giữ tiền, đồ vật, giấy phép sử dụng
trái pháp luật đã được quy định tại Điều 48 Luật Thanh tra và Điều 40 Nghị định


8

86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Thanh tra. Tuy nhiên, pháp luật chưa quy định khi nào
thì phải ngăn chặn ngay việc vi phạm pháp luật; chưa quy định cụ thể về thủ tục yêu
cầu tạm giữ; đồ vật, tài sản bị hư hỏng, mất mát trong q trình tạm giữ... Do đó,

việc thực hiện quyền này trong q trình thanh tra cũng khó thực hiện.
- Quyền yêu cầu tổ chức tín dụng nơi đối tượng thanh tra có tài khoản phong
tỏa tài khoản: Việc phong tỏa tài khoản của đối tượng thanh tra được hướng dẫn tại
Thông tư liên tịch số 07/2015/TTLT-TTCP-NHNN ngày 25/11/2015 của Thanh tra
Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nhưng trên thực tế rất khó thực hiện,
bởi lẽ đây là một quyền năng rất lớn nhưng cũng rất nhạy cảm, phức tạp việc thực
hiện sẽ có thể ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của đối tượng thanh tra, đặc biệt là
đối với doanh nghiệp.
1.4. Hoạt động giám sát đoàn thanh tra; việc tổ chức thẩm định dự thảo Kết
luận thanh tra
- Hoạt động giám sát đồn thanh tra có mục đích sẽ giúp đồn thanh tra chấp
hành tốt hơn quy chế hoạt động của Đoàn, đảm bảo thực hiện đúng trình tự, thủ tục
tiến hành thanh tra. Tuy nhiên, quá trình áp dụng quy định giám sát hiện nay gặp
khó khăn do số lượng biên chế của cơ quan thanh tra hạn chế, trong khi cùng thời
điểm phải tổ chức nhiều đồn thanh tra, dẫn đến khơng có người để tổ chức giám
sát. Thực tế, hoạt động giám sát chỉ thực hiện chủ yếu qua báo cáo của đoàn thanh
tra, do vậy khơng đảm bảo tính khách quan, chính xác. Ngoài ra, pháp luật về thanh
tra mới chỉ quy định nội dung giám sát, chưa quy định cụ thể về trình tự, thủ tục tiến
hành giám sát. Thực tiễn cho thấy, quy định về giám sát hoạt động đoàn thanh tra
chỉ phù hợp với Thanh tra Chính phủ, thanh tra bộ, không phù hợp với Thanh tra
tỉnh, Thanh tra huyện, thanh tra sở, cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra
chuyên ngành và đoàn thanh tra chuyên ngành.
- Việc thẩm định dự thảo kết luận thanh tra nhằm chỉ ra những điểm bất hợp
lý, đưa ra những đề xuất, kiến nghị có cơ sở pháp lý vững chắc, giúp người ra quyết
định thanh tra ban hành kết luận thanh tra chính xác, khách quan, đúng pháp luật.
Tuy nhiên, hiện nay, chưa có quy định cụ thể về tổ chức thẩm định và quy trình


9


thẩm định dự thảo Kết luận thanh tra; chưa có quy định hướng dẫn việc xử lý trong
trường hợp ý kiến thẩm định khác với các nội dung kết luận thanh tra. Bên cạnh đó,
trên thực tế, một số kết luận thanh tra phải điều chỉnh nội dung sau khi được ban
hành, song hiện nay, chưa có quy định cụ thể về căn cứ, thẩm quyền cũng như hình
thức, thể thức ban hành nên việc ra văn bản điều chỉnh nội dung kết luận thanh tra
đang gặp vướng mắc, lúng túng, mỗi nơi có những cách làm khác nhau.
1.5. Quyền, nghĩa vụ của đối tượng thanh tra
Luật Thanh tra quy định về quyền và nghĩa vụ của đối tượng thanh tra nhằm
tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm thực thi pháp luật trong hoạt động thanh
tra. Tuy nhiên, pháp luật thanh tra chưa có quy định chế tài xử lý khi đối tượng
thanh tra không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đầy đủ theo quy định pháp
luật, do vậy, việc yêu cầu các đối tượng thanh tra thực hiện nghĩa vụ hiện nay cịn
gặp nhiều khó khăn.
2. Nguyên nhân tồn tại những vướng mắc, khó khăn
2.1Nguyên nhân khách quan:
- Hệ thống văn bản pháp luật về thanh tra còn chưa đầy đủ, chưa cụ thể. Đến
nay, nhiều quy định về quyền thanh tra cịn mang tính ngun tắc; một số quyền cịn
thiếu trình tự, thủ tục thực hiện. Chẳng hạn như thiếu quy định nghiệp vụ về phương
pháp xác định hành vi vi phạm trong hoạt động thanh tra... Đặc biệt, pháp luật về
thanh tra còn thiếu các chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm, do đó chưa phát
huy được một cách hiệu quả các quyền trong hoạt động thanh tra.
- Cơ chế vận hành nền hành chính vẫn cịn thiếu thống nhất. Nó thể hiện tính
độc lập tương đối của cơ quan thanh tra còn rất hạn chế; còn bị phụ thuộc nhiều vào
Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chung. Thanh tra là một chức
năng của quản lý hành chính, chỉ là một biện pháp của quản lý hành chính, nhưng vì
khơng có tính độc lập nên ít nhiều ảnh hưởng đến hiệu quả, hiệu lực thanh tra.
2.2 Nguyên nhân chủ quan:
- Nguyên nhân thuộc về nhận thức: Nhận thức về cơng tác thanh tra nói
chung và việc thực hiện quyền trong hoạt động thanh tra nói riêng của xã hội chưa



10

đúng mức. Bởi một lý do cơ bản sau: các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người
đứng đầu các cơ quan đó cịn thiếu quyết tâm chính trị trong việc xử lý đối với
những người vi phạm pháp luật thanh tra, nhất là đối với đối tượng thanh tra.
- Nguyên nhân thuộc về cơ quan thanh tra, các chủ thể tiến hành hoạt động
thanh tra:
+ Sự chỉ đạo, điều hành của Thủ trưởng cơ quan Thanh tra, Thủ trưởng cơ
quan hành chính nhà nước đối với hoạt động thanh tra nhiều khi chưa cương quyết,
chưa triệt để.
+ Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm và trách nhiệm của Trưởng
đồn thanh tra và thành viên Đồn thanh tra cịn chưa tương xứng với yêu cầu,
nhiệm vụ nên khi đưa các kết luận còn thiếu cơ sở, kiến nghị chưa phù hợp.
+ Công tác tổ chức, rút kinh nghiệm sau khi kết thúc cuộc thanh tra chưa làm
được thường xuyên hoặc có làm nhưng cịn mang tính hình thức, chưa sâu sắc, cụ
thể.
+ Việc kiểm tra, giám sát của Người ra quyết định thanh tra và việc kiểm tra,
xử lý sau thanh tra cịn yếu.
+ Cơng tác tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ về thanh tra còn chưa theo
kịp với yêu cầu, thể hiện qua một số đánh giá cụ thể: tài liệu giáo trình cịn chưa
chuẩn xác, việc tổ chức đào tạo, phương pháp giảng dạy về nghiệp vụ thanh tra nói
chung và thực hiện quyền trong hoạt động thanh tra nói riêng chưa phù hợp với đối
tượng và yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng dẫn đến chất lượng giảng dạy chưa tốt.
- Cán bộ làm công tác tham mưu xây dựng, ban hành văn bản pháp luật còn
hạn chế, thiếu kinh nghiệm thực tế.
3. Những ảnh hưởng, tác hại của vướng mắc khó khăn
Với mục tiêu cải cách thủ tục hành chính là khâu đột phá, tạo điều kiện thuận
lợi cho doanh nghiệp, phục vụ nhân dân được tốt hơn. Nhưng nếu để phát sinh và
tồn những vướng mắc, bất cập trong trong công tác thanh tra là tạo điều kiện cho

những đối tượng xấu lợi dụng những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp
luật, sự thơng thống trong quản lý hành chính Nhà nước gây bất công bằng xã hội


11

ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của quốc gia; làm suy giảm vai trò lãnh đạo
của Đảng.
4. Những giải pháp khắc phục
Những khó khăn, vướng mắc chủ yếu nêu trên chỉ có thể khắc phục được khi
chúng ta đổi mới căn bản tổ chức và hoạt động thanh tra trên cơ sở một đạo luật
thanh tra mới thay thế cho Luật Thanh tra 2010. Theo đó, cơ quan thanh tra sẽ được
tổ chức theo hướng tinh gọn, hoạt động thực sự hiệu quả, hiệu lực trở thành một
thiết chế kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước và việc thực hiện công vụ
trong các cơ quan hành chính nhà nước, góp phần chấn chỉnh và hồn thiện cơ chế
quản lý, xây dựng một nền công vụ liêm chính và phục vụ, phù hợp với yêu cầu xây
dựng Chính phủ kiến tạo, phát triển, liêm chính và hành động hiện nay.
Luật Thanh tra mới sẽ tạo cơ sở pháp lý cho quá trình đổi mới tổ chức và hoạt
động thanh tra trên cơ sở tinh thần của Nghị quyết 18/NQ-TW ngày 25/10/2017 về
tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả, Chiến lược phát triển ngành thanh tra đến 2020, tầm nhìn 2030
với những định hướng căn bản như sau:
Thứ nhất, về xây dựng, phê duyệt định hướng, chương trình, kế hoạch thanh
tra; thời hạn, hình thức thanh tra
- Cần nghiên cứu quy định cụ thể thời gian phê duyệt kế hoạch thanh tra của
từng cấp, cụ thể cần điều chỉnh thời gian phê duyệt và ban hành kế hoạch thanh tra
hằng năm theo hướng tăng thời hạn thực hiện của địa phương so với cấp Trung
ương. Để đảm bảo đúng thủ tục, hạn chế chồng chéo và đúng định hướng thì định
hướng, chương trình thanh tra phải được phê duyệt sớm hơn và cấp trên phê duyệt
trước cấp dưới.

- Quy định cụ thể việc xử lý chồng chéo, trùng lắp trong kế hoạch thanh tra
giữa các bộ ngành, giữa Trung ương và địa phương, giữa cấp tỉnh và cấp huyện; quy
định xử lý chồng chéo trong hoạt động thanh tra với hoạt động kiểm toán, nhất là
doanh nghiệp; quy định cụ thể hơn về đối tượng thanh tra, nội dung thanh tra trong
thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành tránh chồng chéo trong hoạt động.


12

- Quy định thống nhất là “ngày làm việc” trong tất cả các quy định liên quan
đến thời gian, thời hạn trong hoạt động thanh tra; bổ sung thêm quy định việc kéo
dài, gia hạn thời gian thanh tra đối với đoàn thanh tra do thanh tra sở, Thanh tra
huyện thực hiện.
- Hình thức thanh tra: Cần có hướng dẫn cụ thể về hình thức thanh tra thường
xuyên trong hoạt động thanh tra chuyên ngành. Quy định căn cứ ban hành quyết
định thanh tra đột xuất theo hướng quy định cụ thể về tính chất, mức độ vi phạm
pháp luật làm căn cứ tiến hành thanh tra, xác định rõ các yêu cầu, nhiệm vụ của việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Nghiên cứu, bổ sung thêm
quy định về các cuộc thanh tra chuyên đề, thanh tra diện rộng. Bổ sung quy định về
thanh tra liên ngành như căn cứ thành lập đoàn, thẩm quyền ban hành quyết định,
Đoàn thanh tra liên ngành, quan hệ công tác, quy chế báo cáo kết quả thanh tra, kết
luận thanh tra liên ngành… để làm cơ sở pháp lý cho hoạt động thanh tra liên
ngành.
Thứ hai, về trình tự, thủ tục, thời hạn tiến hành thanh tra
- Cần quy định cụ thể hơn về thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành,
cần phân biệt giữa đối tượng, nội dung giữa đồn thanh tra hành chính tiến hành
thanh tra kinh tế - xã hội và đoàn thanh tra việc chấp hành pháp luật để tránh chồng
chéo hoặc bỏ sót các đối tượng thanh tra, lĩnh vực thanh tra phát sinh nhiều hành vi
vi phạm; bổ sung quy định mang tính phân biệt giữa hoạt động thanh tra chuyên
ngành và hoạt động kiểm tra mang tính quản lý nhà nước chuyên ngành.

- Sửa đổi các quy định về trình tự, thủ tục tiến hành thanh tra cho phù hợp với
đặc thù của hoạt động thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành và đối với từng
lĩnh vực cụ thể; ban hành những quy định về hoạt động thanh tra chuyên ngành theo
hướng rút gọn, phù hợp với thực tiễn hoạt động thanh tra chuyên ngành; quy định
cụ thể về trình tự, thủ tục thanh tra theo chuyên đề diện rộng.
- Bổ sung quy định về địa điểm thanh tra: Việc thanh tra có thể được thực
hiện tại đơn vị được thanh tra, trụ sở cơ quan thanh tra hoặc tại địa điểm do người ra
quyết định thanh tra yêu cầu.


13

- Sửa đổi thời hạn xây dựng báo cáo kết quả thanh tra và ban hành kết luận
thanh tra. Luật Thanh tra cần quy định thời hạn xây dựng báo cáo kết quả thanh tra
và ban hành kết luận thanh tra tăng dần như thời hạn tiến hành thanh tra ở mỗi cấp
thanh tra; bổ sung quy định về thời gian xin ý kiến của cơ quan chuyên môn, thời
gian báo cáo, xin ý kiến của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước trong một số
trường hợp.
Thứ ba, về thực hiện các quyền trong hoạt động thanh tra
Quy định cụ thể phương thức thực hiện các quyền trong hoạt động thanh tra,
đặc biệt đối với quyền trưng cầu giám định, quyền yêu cầu cung cấp thông tin,
quyền phong tỏa tài khoản…
Thứ tư, về hoạt động giám sát đoàn thanh tra; việc tổ chức thẩm định dự thảo
Kết luận thanh tra
- Qua thực tiễn cho thấy, việc giám sát hoạt động đồn thanh tra khơng phù
hợp với nhiều tổ chức, đơn vị thanh tra, nhất là những nơi có lực lượng thanh tra
cịn mỏng, tính chất cuộc thanh tra cịn đơn giản. Do vậy, cần nghiên cứu để luật
hóa hoặc bãi bỏ quy định này nhằm đảm bảo tính khả thi, tránh hình thức.
- Cần quy định cụ thể vấn đề thẩm định dự thảo Kết luận thanh tra để tạo cơ
sở pháp lý cho việc thực hiện. Việc thẩm định dự thảo Kết luận thanh tra là cần thiết

nhằm đảm bảo kết luận thanh tra được chính xác, khách quan, khả thi; bổ sung quy
định điều chỉnh nội dung kết luận thanh tra như căn cứ, thẩm quyền, hình thức ban
hành.
Thứ năm, cần nghiên cứu ban hành nghị định về xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thanh tra, trong đó quy định cụ thể về chế tài xử lý đối với đối tượng
thanh tra không thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về thanh tra.
5. Đề xuất, kiến nghị và bài học kinh nghiệm
5.1 Đề xuất, kiến nghị
Để công tác xây dựng, ban hành Luật thanh tra mới được hoàn thiện hơn, cần
tập trung sửa đổi vào những nội dung sau:


14

Về tổ chức, cơ quan thanh tra nhà nước sẽ được tổ chức theo hướng tập trung
ở hai cấp hành chính, tại trung ương và cấp tỉnh. Thanh tra Chính phủ là cơ quan
quản lý thanh tra các tỉnh về tổ chức, nhân sự, bổ nhiệm cán bộ, kinh phí hoạt động,
chỉ đạo việc xây dựng và thực hiện chương trình, kế hoạch thanh tra cho tồn
ngành.
Về chức năng, nhiệm vụ, Thanh tra Chính phủ sẽ tập trung thanh tra việc thực
hiện trách nhiệm quản lý của các bộ ngành, địa phương; quyết định tiến hành thanh
tra khi phát hiện có vi phạm; thực hiện các cuộc thanh tra phức tạp, liên quan đến
trách nhiệm của nhiều ngành, nhiều cấp, những vụ việc được xã hội đặc biệt quan
tâm và/hoặc theo yêu cầu của Thủ tướng; thanh tra lại những vụ việc mà các bộ
ngành đã tiến hành thanh tra, kiểm tra khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm. Thanh tra
Nhà nước ở tỉnh sẽ thực hiện các cuộc thanh tra trên địa bàn tỉnh theo yêu cầu của
Thanh tra Chính phủ và đề nghị của Chủ tịch UBND cùng cấp xuất phát từ yêu cầu
của công tác quản lý trên địa bàn.
Đối với công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo: Tiến hành thanh tra,
kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện trách nhiệm của Thủ trưởng các cơ quan quản lý

nhà nước trong công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; việc thực hiện các
quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo đã có hiệu lực pháp luật;
giúp Thủ tướng chỉ đạo, yêu cầu các ngành các cấp xem xét, giải quyết lại các vụ
việc đã được giải quyết nhưng có dấu hiệu vi phạm pháp luật...
Về hoạt động thanh tra, phương thức hoạt động của cơ quan thanh tra bao
gồm: Thanh tra việc thực hiện trách nhiệm quản lý của các bộ ngành, Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh. Khi thấy cần thiết hoặc theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ thì tiến
hành các cuộc thanh tra diện rộng để đánh giá việc thực hiện một chủ trương, chính
sách, đánh giá việc chấp hành pháp luật trong một hoặc nhiều lĩnh vực quản lý; làm
rõ trách nhiệm để kiến nghị xử lý các sai phạm đối với những vụ việc có dấu hiệu
sai phạm liên quan đến trách nhiệm của nhiều ngành, nhiều cấp, những vụ việc
được xã hội đặc biệt quan tâm. Các cuộc thanh tra cũng được tiến hành theo yêu cầu
của công tác giải quyết khiiếu nại, tố cáo và cơng tác phịng, chống tham nhũng.


15

Đồng thời, giám sát thường xuyên hoạt động của các cơ quan quản lý nhà
nước thông qua việc xem xét các báo cáo về công tác quản lý trong các lĩnh vực
trên phạm vi cả nước; việc tiếp nhận và xử lý các khiếu nại, tố cáo, phản ánh kiến
nghị của công dân, các doanh nghiệp và tổ chức xã hội, báo chí... Tổ chức và hoạt
động thanh tra của từng bộ ngành sẽ do Bộ trưởng thống nhất với Tổng Thanh tra
Chính phủ trình Chính phủ ban hành. Thanh tra nhân dân thực chất là hoạt động
giám sát của nhân dân ở địa phương, cơ sở nên sẽ không được điều chỉnh trong Luật
Thanh tra lần này, kiến nghị Quốc hội ban hành Luật về giám sát của nhân dân đồng
thời với Luật Thanh tra mới.
5.2 Bài học kinh nghiệm
Hành lang pháp lý là cơ sở đầu tiên và khơng thể thiếu cho hoạt động quản lý
hành nước nói chung và công tác thanh tra riêng. Do vậy, việc nghiên cứu, hoàn
thiện hành lang pháp lý cho phù hợp với thực tiễn có ý nghĩa rất quan trọng đối với

hoạt động thanh tra.
Để xây dựng hành lang pháp lý rõ ràng, phù hợp để thực thi công vụ hiệu lực,
hiệu quả thì nhân tố con người là quan trọng nhất. Phát huy nhân tố con người Việt
Nam đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ mới là quan
điểm đúng đắng của Đảng ta.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


16

1. Nghị quyết 18/NQ-TW ngày 25/10/2017 của Trung ương;
2. Luật thanh tra số 56/2010/QH12;
3. Nghị định số 86/2011/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn Luật Thanh tra
2010;
4. Nghị định số 07/2012/NĐ-CP của Chính phủ quy định về cơ quan được
giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra
chuyên ngành;
5. Nghị định số 82/2012/NĐ-CP của Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt
động thanh tra ngành tài chính;
6. Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 18/3/2014 của Chính Phủ;
7. Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01/01/2020 của Chính phủ;
8. Thơng tư số 01/2014/TT-TTCP ngày 23/4/2014 của Chính phủ quy định
xây dựng, phê duyệt, định hướng chương trình thanh tra, kế hoạch thanh
tra;
9. Thông tư số 05/2014/TT-TTCP ngày 16/10/2014 của Chính phủ quy định
về tổ chức hoạt động, quan hệ cơng tác của đồn thanh tra và trình tự, thủ
tục tiến hành một cuộc thanh tra;
10.Thông tư liên tịch số 07/2015/TTLT-TTCP-NHNN ngày 25/11/2015 của
Thanh tra Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn phong

toả tài khoản của đối tượng thanh tra.

MỤC LỤC


17

Lời mở đầu........................................................................................................1
1. Một số khó khăn, vướng mắc trong hoạt động thanh tra..............................2
1.1. Quy định về xây dựng định hướng chương trình, kế hoạch thanh tra
hàng năm; Thời hạn trong hoạt động thanh tra; Hình thức thanh tra..................2
1.2. Trình tự, thủ tục tiến hành thanh tra hành chính, thanh tra chuyên
ngành...................................................................................................................5
1.3. Việc thực hiện các quyền trong hoạt động thanh tra..........................7
1.4. Hoạt động giám sát đoàn thanh tra; việc tổ chức thẩm định dự thảo
Kết luận thanh tra................................................................................................8
1.5. Quyền, nghĩa vụ của đối tượng thanh tra...........................................9
2. Nguyên nhân tồn tại những vướng mắc, khó khăn.......................................9
2.1Nguyên nhân khách quan:....................................................................9
2.2 Nguyên nhân chủ quan:....................................................................10
3. Những ảnh hưởng, tác hại của vướng mắc khó khăn..................................10
4. Những giải pháp khắc phục.........................................................................11
5. Đề xuất, kiến nghị và bài học kinh nghiệm................................................14
5.1 Đề xuất, kiến nghị.............................................................................14
5.2 Bài học kinh nghiệm.........................................................................15
Tài liệu tham khảo ..........................................................................................16




×