Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU KÉM MÔN NGỮ VĂN LỚP 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.11 KB, 17 trang )

PHÒNG GD&ĐT HUYỆN ..............
TRƯỜNG THCS ........
---------------------------

CHUYÊN ĐỀ

PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU KÉM MÔN
NGỮ VĂN LỚP 7
(PHẦN TỪ TIẾNG VIỆT)
GV: ..............................
Trường THCS …………………….

..................., tháng 10 năm 2021

1


I. TÁC GIẢ CHUYÊN ĐỀ: ....................
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trường THCS..................................................
II. TÊN CHUYÊN ĐỀ: “ Phụ đạo học sinh yếu kém môn ngữ văn lớp 7- Phần
Từ Tiếng Việt”.
1. Tình hình học tập mơn Ngữ văn :
Trong nhiều năm giảng dạy môn Ngữ văn,đặc biệt năm học 2019-2020,
tôi nhận thấy nhiều em vẫn còn rất yếu kém trong việc học tập bộ môn. Đặc biệt
phần Tiếng Việt các em còn hạn chế về cách dùng từ, cách diễn đạt. Tôi đã cho
các em làm bài khảo sát phần Tiếng Việt đầu năm và giữa học kì I. Kết quả là:
Bài
TSố
Khối khảo
HS


sát

7

Đầu
năm
Giữa
kỳ I

Dự
thi

136

136

136

136

0
<2

2
<4

VĂN 7
4
5
<5

<7

4

13

36

59

12

12

0

2

9

19

49

34

25

0


7
<8

8
<10

10

3. Nguyên nhân vẫn còn tỉ lệ học sinh yếu kém:
Từ thực tế giảng dạy với kết quả khảo sát đầu năm của bộ môn và các
khối lớp của nhà trường tronng năm học 2019-2020, chúng tôi xác định những
nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng học sinh có sức học trung bình, yếu,
kém.
3.1 Về phía học sinh
Nguyên nhân chủ quan:
Học sinh là người học, là người lĩnh hội những tri thức thì nguyên nhân học sinh
yếu kém có thể kể đến là do:
- Học sinh bị hổng kiến thức từ lớp nhỏ: Đây là một điều khơng thể phủ nhận,
với chương trình học tập hiện nay, để có thể học tốt, đặc biệt là các mơn như
Tốn, Văn, Anh… thì để việc học tập có kết quả địi hỏi trước đó học sinh phải
vốn kiến thức nhất định. Tuy nhiên, hiện nay rất nhiều học sinh đã khơng có
được những vốn kiến thức cơ bản ngay từ lớp nhỏ, từ đó càng lên các lớp lớn
hơn, học những kiến thức mới có kiên quan đến những kiến thức cũ thì học sinh
đã quên hết cho nên việc tiếp thu kiến thức mới trở thành điều rất khó khăn đối
với các em.

2


- Học sinh lười học: Qua quá trình giảng dạy, bản thân tôi nhận thấy rằng các em

học sinh yếu kém là những học sinh cá biệt, vào lớp không chịu chú ý chuyên
tâm vào việc học, về nhà thì không xem bài, không chuẩn bị bài, không làm bài
tập, cứ đến giờ học thì cắp sách đến trường. Cịn một bộ phận nhỏ thì các em
khơng xác định được mục đích của việc học. Các em chỉ đợi đến khi lên lớp,
nghe giáo viên giảng bài rồi ghi vào những nội dung đã học sau đó về nhà lấy vở
ra “học vẹt” mà khơng hiểu được nội dung đó nói lên điều gì. Chưa có phương
pháp và động cơ học tập đúng đắn. Học sinh không dành thời gian cho việc học
bài cũ, chuẩn bị bài mới,các em chỉ học đối phó cịn trơng chờ thầy cơ giải giúp.
- Chưa nắm được phương pháp học tập: Các em vừa từ tiểu học lên cấp 2 chưa
quen với phương pháp học tập mới. Khả năng phân tích, tổng hợp, so sánh còn
hạn chế chưa mạnh dạn phát biểu thiếu tự tin trong học tập do hiểu chưa sâu,
nắm kiến thức chưa chắc; đôi khi hay mặc cảm không dám hỏi thầy cô hoặc bạn
bè.
- Đa số học sinh yếu kém hay ỷ lại vào sách tham khảo, sách hướng dẫn, sách
giải có sẵn ngồi thị trường, khơng chịu đầu tư tìm hiểu.
- Do sức khỏe yếu, khả năng nhận thức hạn chế, tiếp thu chậm: Một số em thể
trạng yếu, khơng thích nghi với điều kiện thời tiết khí hậu thay đổi đột ngột dễ
mắc bệnh dẫn đến phải nghỉ học, đến khi khỏi bệnh đi học lại thì tiếp thu khơng
kịp bài. Hoặc một số em có bệnh bẩm sinh, trí tuệ kém thơng minh cũng là
ngun nhân dẫn đến yếu kém.
Nguyên nhân khách quan
- Xã hội phát triển, nhiều trị chơi giải trí vơ bổ như games, chat qua mạng, tin
nhắn điện thoại đã ảnh hưởng rất lớn đến việc học của các em.
- Điều kiện học tập của học sinh thời nay tốt hơn trước rất nhiều. Ngồi sách
giáo khoa, học sinh cịn được trang bị khá nhiều loại sách tham khảo, sách nâng
cao… Phải chăng do bị “bội thực” từ các loại sách tham khảo nên nhiều em
không hề biết cách tự học, tự sáng tạo, tự đào sâu kiến thức.
3.2 Về phía giáo viên
- Tốc độ giảng dạy kiến thức mới và luyện tập còn nhanh khiến cho học sinh yếu
kém không theo kịp.

- Giáo viên sợ khơng khống chế được thời gian nên cịn mang tính hình thức, áp
đặt kiến thức cho học sinh khá giỏi, chưa quan tâm đến học sinh yếu kém. Dẫn
đến việc học tập của học sinh bị thụ động và khơng phát huy được khả năng chịu
khó trong học tập.
- Một số giáo viên còn thiếu nghệ thuật cảm hố học sinh yếu kém, khơng gây
hứng thú cho học sinh thích học mơn mình...
- Thực tế cho thấy, mấy năm gần đây chương trình giáo dục ở bậc Tiểu học
không kiểm tra, đánh giá và cho điểm thường xuyên mà chỉ nhận xét mang tính
3


khích lệ. Ngồi ra giáo viên cịn khơng được giao bài tập cho học sinh về nhà,
chính vì vậy mà các em khơng có sự cố gắng trong học tập. Nhưng khi lên cấp
hai các em phải kiểm tra đánh giá thường xuyên và định kì nên chưa quen với
cách học ở cấp 2.
3.3 Về phía phụ huynh: Cịn một số phụ huynh HS:
- Thiếu quan tâm đến việc học tập ở nhà của con em. Phó mặc mọi việc cho nhà
trường và thầy cơ.
- Gia đình học sinh gặp nhiều khó khăn về kinh tế (bố mẹ mải đi làm ăn, khơng
có thời gian quan tâm việc học của con.) hoặc có những vấn đề về đời sống tình
cảm (Bố mẹ hay cãi vã nhau, li thân, li hôn...) cũng ảnh hưởng rất lớn tới việc
học của trẻ, thường là ảnh hưởng tiêu cực, trẻ dễ buồn bã, chán nản, tự ti.. Từ đó
khiến trẻ khơng chú tâm vào học tập, dần dần sa sút, không theo kịp bạn bè. Hậu
quả ắt dẫn đến sự yếu kém trong học tập của các em.
- Một số gia đình có khả năng về điều kiện kinh tế nhưng không quan tâm đến
việc học hành của con em hàng ngày, không biết được thời gian học của
các em bắt đầu lúc mấy giờ và kết thúc khi nào, thời khóa biểu hơm nay có
mấy tiết gồm những mơn gì? Khơng đơn đốc, nhắc nhở và tạo điều kiện
học tập cho các em, họ cứ nghĩ học đến đâu hay đến đó, thích học thì cho
học, chán thì cho nghỉ.

- Một số cha mẹ quá nuông chiều con cái, quá tin tưởng vào chúng nên học sinh
lười học xin nghỉ để làm việc riêng (như đi chơi, đi du lịch, giả vờ ốm,...) cha
mẹ cũng đồng ý cho phép nghỉ học, vơ tình là đồng phạm góp phần làm học sinh
lười học, mất dần căn bản...và rồi yếu kém.
Trước tình hình như vậy tôi đã xây dựng chuyên đề: “ Phụ đạo học sinh
yếu kém môn Ngữ văn lớp 7 - phần từ Tiếng Việt” nhằm giảm tỉ lệ học sinh
yếu kém nâng cao chất lượng giáo dục.
IV. ĐỐI TƯỢNG.
- Đối tượng: Học sinh yếu kém môn Ngữ văn lớp 7- Trường THCS Yên Lập.
V. HỆ THỐNG CÁC DẠNG BÀI TẬP ĐẶC TRƯNG CỦA CHUYÊN ĐỀ.
Hiện nay một bộ phận học sinh học yếu phần Tiếng Việt do các em còn
yếu về việc nhận diện từ, câu, chưa biết vận dụng từ câu trong khi nói và
viết,chưa xác định giá trị của các biện pháp tu từ về từ. Chính vì vậy tơi đưa ra
một số dạng bài tập như sau:
Dạng 1: Bài tập nhận diện từ.
Đặc trưng của các dạng bài tập này là giúp học sinh nhận biết và
thông hiểu những kiến thức cơ bản về khái niệm về từ, nghĩa của từ,các
hiện tượng về nghĩa của từ trong phần tiếng Việt lớp 7.
Ở dạng bài tập này giáo viên đặt các câu hỏi để kiểm tra trí nhớ của học sinh
về các dữ liệu, số liệu, các định nghĩa,. . .
4


Việc trả lời các câu hỏi này giúp học sinh ôn lại được những gì đã học, đã
đọc hoặc đã trải qua.
Các từ để hỏi thường là:
- Tìm. . .
- Cái gì?
- Bao nhiêu?
- Cái nào?

- Em biết những gì về?
- Khi nào?
- Bao giờ?
- Hãy mô tả?
Dạng 2: Bài tập giải nghĩa từ.
Đặc trưng của các dạng bài tập này là giúp học sinh nhận biết và
thông hiểu những kiến thức cơ bản về nghĩa của từ trong phần tiếng Việt
lớp 7.
Ở dạng bài tập này giáo viên đặt các câu hỏi để kiểm tra cách học sinh
liên hệ, kết nối các dữ liệu, các định nghĩa…
Việc trả lời các câu hỏi này cho thấy học sinh có khả năng diễn tả bằng lời
nói, nêu ra được các yếu tố cơ bản hoặc so sánh các yếu tố cơ bản trong nội
dung đang học.
Các cụm từ để hỏi thường là:
- Từ (yếu tố) .... nghĩa là gì?
- Nêu?
- Hãy xác định.
- Hãy phân biệt.
Dạng 3: Bài tập đặt câu, viết đoạn văn có sử dụng từ theo yêu cầu.
Đặc trưng của các dạng bài tập này là giúp học sinh hiểu và vận dụng
những kiến thức cơ bản về các kiến thức đã học về cấu tạo từ, nghĩa của từ
để đặt câu phù hợp với yêu câu.
Các cụm từ trong mệnh lệnh để yêu cầu thường là:
- Hãy đặt câu ...
- Hãy viết câu ...
- Hãy tạo câu …
Dạng 4: Bài tập về biện pháp tu từ.
Đặc trưng của các dạng bài tập này là giúp học sinh nhận diện, thông hiểu
và vận dụng những kiến thức cơ bản về các kiến thức đã học về các biện pháp tu
từ để viết các đoạn văn bản ngắn theo yêu cầu.

Cụm từ thường dùng cho dạng bài tập này là:
- Hãy xác định biện pháp tu từ….
5


- Viết đoạn văn ngắn có sử dụng biện pháp tu từ …
VI. HỆ THỐNG CÁC PHƯƠNG PHÁP CƠ BẢN, ĐẶC TRƯNG ĐỂ GIẢI
CÁC BÀI TẬP TRONG CHUYÊN ĐỀ:
1. Các phương pháp đặc trưng để giải các bài tập của phân môn tiếng Việt
lớp 7:
- Phương pháp vấn đáp gợi mở.
- Phương pháp thuyết trình.
- Phương pháp đàm thoại.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp viết tích cực.
2. Các biện pháp trước và sau khi tiến hành dạy học trên lớp
Ngoài các phương pháp trên để giảm tỉ lệ học sinh yếu kém tôi cũng đã
kết hợp một số biện pháp trước và sau khi tiến hành dạy học trên lớp:
2. 1. Giáo dục ý thức học tập cho học sinh:
Giáo viên phải giáo dục ý thức học tập của học sinh ở bộ mơn mình, tạo
cho học sinh sự hứng thú trong học tập bộ môn từ đó sẽ giúp cho học sinh có ý
thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy giáo viên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế
để học sinh thấy được ứng dụng và tầm quan trọng của môn học trong thực tiễn.
Phải tạo cho khơng khí lớp học thoải mái nhẹ nhàng, đừng để cho học
sinh sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương u, tơn trọng mình. Giáo
viên khơng nên dùng biện pháp đuổi học sinh ra ngồi khơng cho học sinh học
tiết học đó khi học sinh khơng ngoan, khơng chép bài. Vì làm như thế học sinh
sẽ khơng được học tiết đó thế là học sinh lại có một buổi học khơng thu hoạch
được gì. Chúng ta phải tìm cách khuyên nhủ, nhắc nhở học sinh giáo dục ý thức
học tập của học sinh hoặc dùng một biện pháp giáo dục đó chứ đừng đuổi học

sinh ra ngồi trong giờ học.
Ví dụ 1: Học sinh Hạ Văn A, học sinh lớp X, khơng thích học mơn văn
và các mơn học khác nhưng vì bị gia đình ép buộc đi học nên đến lớp không chú
ý nghe giảng mà chỉ lo nói chuyện, làm mất trật tự trong giờ học, chọc phá bạn
bè làm cho bạn học không được. Kết quả là học sinh đó học tập kém.
Hướng giải quyết:
Trước tiên, giáo viên cần trao đổi với chính học sinh đó để tìm hiểu
ngun nhân dẫn đến sự yếu kém của học sinh, đồng thời hỏi bạn bè của học
sinh đó về hồn cảnh gia đình và sinh hoạt của học sinh. Từ đó giáo viên tìm
hiểu được nguyên nhân và thường xuyên gần gũi, khuyên nhủ học sinh về thái
độ học tập, tổ chức các trò chơi có lồng ghép việc giáo dục học sinh về ý thức
học tập tốt và ý thức vươn lên trong học tập, làm cho học sinh nhận thấy tầm
quan trọng của việc học. Bên cạnh đó, giáo viên trao đổi với gia đình, phối hợp
với gia đình giáo dục ý thức của học sinh, khun nhủ gia đình khơng nên q
6


gò ép học sinh mà từ từ hướng dẫn học sinh học tập, thường xuyên gần gũi giúp
đỡ em để em thấy được sự quan tâm của gia đình mà phấn đấu.
2. 2. Kèm cặp học sinh yếu kém:
Ngay từ đầu năm, giáo viên phải lập danh sách học sinh yếu kém bộ mơn
mình ở năm học trước để nắm rõ các đối tượng học sinh, lập danh sách học sinh
yếu kém và chú ý quan tâm đặc biệt đến những học sinh này trong mỗi tiết học
như thường xuyên gọi các em đó lên trả lời, khen ngợi khi các em trả lời đúng…
Tổ chức các nhóm học tập cho học sinh, trong nhóm có đủ các đối tượng
học sinh khá, giỏi, trung bình, yếu kém. Lên kế hoạch cụ thể cho các nhóm học
sinh này hoạt động và thường xuyên theo dõi, đôn đốc, và thường xuyên kiểm
tra các nhóm để có thể nắm bắt kịp thời tình hình của học sinh.
Tổ chức dạy phụ đạo cho học sinh yếu kém: lập danh sách học sinh học
yếu kém lên kế hoạch dạy phụ đạo cho các em, một mặt là giúp các em có thể

nêu lên những thắc mắc của các em về những điều các em chưa hiểu trong tiết
học chính khóa để giáo viên có thể giải đáp cho học sinh đồng thời hướng dẫn
cho học sinh làm bài tập. Mặt khác, ở buổi học phụ đạo này, giáo viên từng bước
bồi dưỡng cho học sinh, từng bước lấp đầy những chổ hỏng kiến thức của học
sinh, giúp học sinh có được những kiến thức cơ bản nhất về chương trình học.
Khi thực hiện việc dạy phụ đạo, giáo viên phải thường xuyên theo dõi kiểm tra
học sinh để ln nắm được tình hình học tập của các em, từ đó giáo viên rút
kinh nghiệm cho những giờ học sau.
Ví dụ 2: Trong lớp X có vài học sinh học yếu môn Ngữ văn do là ở những
lớp trước học sinh không nắm rõ các kiến thức cơ bản, khi lên các lớp sau học
sinh học tới những kiến thức mới có liên quan đến kiến thức lớp dưới thì học
sinh khơng nhớ nên khơng thể hiểu được nội dung của bài mới. Từ đó làm học
sinh chán nản và khơng thích học tập mơn văn nữa. Và kết quả là học sinh đó
chỉ đạt điểm yếu qua các bài kiểm tra.
Hướng giải quyết:
Đối với giáo viên bộ môn Ngữ văn phải lập danh sách học sinh có kết quả
học tập yếu, kém. Qua q trình giảng dạy giáo viên tìm hiểu nguyên nhân. Từ
những nguyên nhân đó, giáo viên lên kế hoạch phụ đạo cho các em. Giáo viên
soạn ra các bài tập cơ bản, tập hợp các em học yếu, kém lại hướng dẫn các em
học tập. Tổ chức nhóm học tập cho học sinh trong mỗi nhóm có 1 – 2 học sinh
khá giỏi để các em giúp đỡ nhau học tập. Trong quá trình phụ đạo giáo viên
thường xuyên kiểm tra để nắm bắt kịp thời sự tiến bộ của học sinh để có hướng
dạy thích hợp hơn.
2.3. Động viên, khích lệ học sinh.

7


- Động viên, khích lệ, tun dương kịp thời có tác động rất lớn đối với những
học sinh yếu, kém, chậm tiến bộ, tạo cho các em sự tự tin, phấn chấn trong học

tập. Bởi vì điều đó:
- Xác nhận sự tiến bộ của các em. Kích thích sự say mê hứng thú học tập, đồng
thời giúp học sinh tự tin là mình học được, mình có thể giỏi như bạn. Từ đó sữa
chữa hành vi sai lệch, kiềm chế sự bộc phát lười biếng, tập thói quen chu đáo và
cẩn thận,…
- Trong quá trình giảng dạy, chúng ta nên chú ý đến những em yếu, kém. Học
sinh yếu vào lớp thường thụ động, ít tham gia đóng góp ý kiến xây dựng bài, ta
nên đặt những câu hỏi dễ và tạo cơ hội cho các em trình bày ý kiến của mình.
Dù câu trả lời của các em chưa thật sự đầy đủ, trọn vẹn ý mà ta mong muốn
nhưng ta vẫn khen, tuyên dương trước lớp, động viên các em có tiến bộ để
khuyến khích các em sự tự tin khi trả lời và hứng thú học tập hơn.
- Ngược lại, nếu lạm dụng trách phạt sẽ hạn chế sự độc lập sáng tạo của học
sinh.
2. 4. Một số biện pháp đối với học sinh cá biệt.
Đối với các học sinh cá biệt thì việc giúp cho các em vươn lên là một điều
hết sức khó khăn vì các em khơng có ý thức học tập, vào lớp thì khơng chịu học
bài, khơng chú ý nghe giáo viên giảng bài, về nhà không chuẩn bị bài. . .
Đối với đối tượng học sinh này, giáo viên bộ môn cần phải phối hợp chặt
chẽ với giáo viên chủ nhiệm thường xuyên nhắc nhở các em về ý thức học tập,
thường xuyên kiểm tra tập của học sinh, khi học sinh vi phạm thì giáo viên nên
kết hợp với phụ huynh để răn đe, giáo dục các em. Phối hợp chặt chẽ giữa nhà
trường và gia đình giám sát việc học nhóm, học phụ đạo của học sinh.
2. 5. Rèn luyện về chuyên môn nghiệp vụ của giáo viên:
Giáo viên cần phải khơng ngừng tìm tịi học hỏi để nâng cao trình độ
chun mơn nghiệp vụ, tìm ra và vận dụng tốt các phương pháp dạy học mới.
Người giáo viên dạy giỏi mới giúp cho học sinh có thể đi đến lĩnh hội tri thức
một cách dễ dàng và nhanh chóng. Giáo viên thường xuyên dự giờ trao đổi rút
kinh nghiệm một cách thẳng thắng để cùng bàn bạc tìm ra phương pháp dạy học
hay cho từng nội dung giảng dạy.
Với mức độ phát triển của công nghệ thông tin như hiện nay thì việc giáo

viên tìm tịi học hỏi những sáng kiến kinh nghiệm của các bạn ở nơi xa cũng
khơng phải là một chuyện q khó. Giáo viên chỉ cần chịu khó tìm hiểu thêm về
Internet để biết cách truy cập mạng tìm những sáng kiến kinh nghiệm về đọc để
có thể rèn luyện thêm về kĩ năng và phương pháp giảng dạy.
VII. HỆ THỐNG CÁC VÍ DỤ, BÀI TẬP CỤ THỂ CÙNG LỜI GIẢI MINH
HỌA CHO CHUYÊN ĐỀ.
Dạng 1: Bài tập nhận diện từ.
8


1. Nhận diện từ xét về mặt cấu tạo:
- Đối với dạng bài tập này trước hết giáo viên giúp các em nắm được về
cấu tạo từ: gồm từ đơn và từ phức.
+ Từ đơn:là từ chỉ gồm một tiếng.
+ Từ phức: là từ gồm hai hoặc nhiều tiếng. Những từ phức được tạo
ra bằng cách ghép các tiếng có quan hệ với nhau được gọi là từ ghép. Còn
những từ phức có quan hệ láy âm giữa các tiếng được gọi là từ láy.
- Từ lí thuyết giúp các em nhận diện từ thông qua các bài tập.
* Lưu ý, trước khi lầm bài tập giáo viên nhắc học sinh
- Đọc kỹ đầu bài.
- Xác định chính xác các yêu cầu.
- Vận dụng kiến thức đã học để trả lời từng yêu cầu cụ thể.
Bài 1: Hãy xác định từ ghép, từ láy trong các từ sau: Nhà máy, lom khom, cây
cối, long lanh, mênh mông, thoăn thoắt, đi đứng, mếu máo, thăm thẳm, nảy nở,
hoa hồng, cây cỏ.
Hướng dẫn giải
- Từ ghép: Nhà máy, cây cối, đi đứng, nảy nở, hoa hồng, cây cỏ.
- Từ láy: lom khom, long lanh, mênh mông, thoăn thoắt, mếu máo, thăm thẳm.
* Lưu ý về sự nhầm lẫn một số từ ghép có cùng phụ âm đầu
Bài 2 :

Tìm các từ ghép trong đoạn văn sau và cho chúng vào bảng phân loại :
“ Mưa phùn đem mùa xuân đến , mưa phùn khiến những chân mạ gieo muộn
nảy xanh lá mạ . Dây khoai, cây cà chua rườm rà xanh rợ các trảng ruộng cao .
Mầm cây sau sau , cây nhội hai bên đường nảy lộc, mỗi hôm trông thấy mỗi
khác .Những cây bằng lăng mùa hạ ốm yếu lại nhú lộc. Vầng lộc non nảy ra.
Mưa bụi ấm áp . Cái cây được cho uống thuốc.”
Gợi ý giải:
-Từ ghép chính phụ:Mưa phùn , mùa xuân , chân mạ , dây khoai , cây cà chua ,
xanh rợ , mầm cây , cây nhôi .
-Từ ghép đẳng lập:Cây bàng , cây bằng lăng , mùa hạ , mưa bụi , uống thuốc .
Bài 3:
Hãy sắp xếp các từ sau vào bảng phân loại từ láy :
“Long lanh, khó khăn , vi vu, linh tinh, loang loáng, lấp lánh, thoang thoảng,nhỏ
nhắn,ngời ngời, bồn chồn, hiu hiu. ”
Gợi ý giải: Bài tập 3
-Từ láy tồn bộ: Ngời ngời, hiu hiu, loang lống, thăm thẳm.
-Từ láy bộ phận: Long lanh , khó khăn, nhỏ nhắn, bồn chồn, lấp lánh.
Bài 4.
Điền thêm các từ để tạo thành từ láy.
- Rào … ;…bẩm;….tùm;…nhẻ;…lùng;…chít;trong…;ngoan…;
mịn…; bực….; đẹp….
Gợi ý giải:
9


- Rào rào , lẩm bẩm , um tùm , nhỏ nhẻ , lạnh lùng ,chi chít , trong trắng , ngoan
ngoãn, mịn màng , bực bội , đẹp đẽ .
Bài 3: Em hãy tìm các từ láy:
a) Tượng hình.
b) Tượng thanh.

c) Chỉ tâm trạng.
Gợi ý giải :
- Từ láy tượng hình là loại từ láy gợi hình dáng của người, vật, hiện tượng,…
Ví dụ: ngoằn ngoèo, khấp khểnh,…
- Từ láy tượng thanh là loại từ láy mô phỏng, gợi tả âm thanh trong thực tế.
Ví dụ: lách cách, rột roạt,…
- Từ láy chỉ tâm trạng là những từ láy chỉ trạng thái của người như trạng thái vui,
buồn, suy nghĩ,…
Ví dụ: bâng khuâng, thẫn thờ,…
Từ những gợi ý này học sinh cố gắng tìm càng nhiều từ láy càng tốt.
2.Nhận biết các hiện tượng về nghĩa của từ
- Đối với dạng bài tập này trước hết giáo viên giúp các em nắm được các
hiện tượng về nghĩa của từ gồm:
+ Hiện tượng từ đồng nghĩa
+Từ trái nghĩa
+Từ đồng âm
- Ở dạng bài tập này giáo viên cũng cho học sinh:
- Ôn lại khái niệm từ đồng nghĩa,Từ trái nghĩa, Từ đồng âm.
- Từ lí thuyết giúp các em làm các bài tập có liên quan
a . Hiện tượng từ đồng nghĩa
- HS nắm được Khái niệm : Từ đồng nghĩa là những từ có nghĩa giống nhau
hoặc gần giống nhau .
+Ví dụ : Mùa hè – mùa hạ , quả - trái , sinh - đẻ .
- Phân loại :
+ Từ đồng nghĩa hoàn toàn : Là những từ có ý nghĩa tương tự nhau , khơng có
sắc thái ý nghĩa khác nhau.
Ví dụ : Mẹ,má,u ,bầm
+ Từ đồng nghĩa khơng hồn tồn : Là những từ có nghĩa gần giống nhau nhưng
sắc thái ý nghĩa khác nhau.
- Ví dụ :

+ “Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền” .( Hồ Chí Minh )
“Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng ”.( Việt Bắc – Tố Hữu )
b.Từ trái nghĩa
- HS nắm được Khái niệm:Từ trái nghĩa là những từ có nghĩa trái ngược nhau.
VD: Chết vinh cịn hơn sống nhục
10


C.Từ đồng âm:
- HS nắm được Khái niệm: Từ đồng âm là những từ âm phát ra giống nhau
nhưng nghĩa khác xa nhau.
VD:Tổ quốc tôi như một con tàu
Mũi thuyền ta đó mũi Cà Mau.(Mũi Cà Mau-Xuân Diệu)
* Bài tập :
Bài tập 1 :Giải thích nghĩa của các cặp từ:
a.Những đôi mắt sáng thức đến sáng
b.- Mùa đông đã về thật rồi
- Thịt nấu đông nên cho nhiều mọc nhĩ.
Gợi ý:
a.-Sáng: Tính chất của mắt,trái nghĩa với tối
-Sáng: Chỉ thời gian,phân biệt với trưa,chiều,tối.
b.- Đơng:chí mùa
-Đơng: chỉ tính chất của thức ăn.
Bài tập 2 :Viết một đoạn văn khoảng 8 – 12 câu ( chủ đề ngày khai trường )
trong đó có sử dụng từ đồng nghĩa .
* Gợi ý :
- HS viết đoạn văn theo đúng yêu cầu
- Chú ý sử dụng từ đồng nghĩa.

Dạng 2: Bài tập giải nghĩa từ.
- Ở dạng bài tập này giáo viên cũng cho học sinh:
- Ôn lại khái niệm về nghĩa của từ.
- Ơn lại về các cách giải nghĩa từ.
Từ lí thuyết giúp các em làm các bài tập có liên quan:
Bài 1: Khi giải thích từ “cầu hơn”: xin được lấy làm vợ là đã giải thích từ theo
cách nào?
A. Dùng từ trái nghĩa với từ cần được giải thích
B. Trình bày khái niệm mà từ biểu thị
C. Dùng từ đồng nghĩa với từ cần được giải thích
D. Miêu tả hành động kết hợp với trình bày khái niệm mà từ biểu thị.
Đáp án B
Bài 2: Giải nghĩa và cách dùng từ của các từ: nho nhẻ, nhỏ nhắn, nhỏ nhen.
Gợi ý:
- Nhỏ nhẻ:( nói năng, ăn uống) thong thả, chậm rãi với ý giữ gìn, từ tốn.
Ví dụ: Nói năng nhỏ nhẻ như cô dâu mới.
- Nhỏ nhắn: thường nói về hình dáng của người - nhỏ và trơng cân đối dễ
thương.
Ví dụ: Chị ấy có thân hình nhỏ nhắn.
- Nhỏ nhen: thường nói về tính cách của người- tỏ ra hẹp hòi, hay chú ý đến cả
những việc nhỏ nhặt về quyền lợi tronh quan hệ đối xử.
Ví dụ: Ông ấy là con người nhỏ nhen.
11


Bài 3: Hiện tượng chuyển nghĩa của từ là gì? Thế nào là nghĩa gốc, nghĩa
chuyển? Từ chân trong hai ví dụ sau, từ nào mang nghĩa gốc, từ nào mang nghĩa
chuyển?
- Anh ấy bị thương ở chân. (1)
- Ông ấy có chân trong Hội đồng quản trị. (2)

Gợi ý giải:
- Hiện tượng chuyển nghĩa của từ là hiện tượng biến đổi nghĩa của từ tạo ra
những từ nhiều nghĩa.
- Nghĩa gốc là nghĩ xuất hiện từ dầu làm cơ sở hình thành các nghĩa khác.
- Nghĩa chuyển là nghĩa được hình thành trên cơ sở nghĩa gốc.
- Thơng thường, trong câu, từ chỉ có một nghĩa nhất định. Tuy nhiên trong một
số trường hợp, từ có thể được hiểu đồng thời theo cả nghĩa gốc lẫn nghĩachuyển.
1 - Nghĩa đen; nghĩa gốc.
2 - Nghĩa chuyển
Dạng 3: Bài tập đặt câu, viết đoạn văn với các từ yêu cầu.
Học sinh sẽ viết các câu văn, các đoạn văn với các từ giáo viên u cầu.
Ví dụ:
Bài 1: Đặt câu có từ kỉ niệm là danh từ, một câu có từ kỉ niệm là động từ.
Gợi ý:
- Kỉ niệm là danh từ: chỉ những gì người ta cịn nhớ về nhau hoặc những gì
người ta nhớ về nhau khi xa nhau.
Câu: Những kỉ niệm thời thơ ấu không bao giờ em quên.
- Kỉ niệm là động từ: chỉ một việc làm (đồng nghĩa với tặng).
Câu: Tớ kỉ niệm bạn chiếc bút máy.
Bài 2 : Viết đoạn văn tả cảnh (từ 5 - 7 câu) có sử dụng từ láy và từ ghép (mỗi
loại 2 từ và chỉ rõ).
Gợi ý: HS trình bày được các ý sau:
- Viết đúng, đủ số câu, từ quy định.
- Lời văn có hình ảnh, cảm xúc.
- Diễn đạt rõ ràng, chỉ rõ từ láy, từ ghép.
Bài 3: Viết đoạn văn (Khoảng 8- 10 câu) tả lại một trò chơi dân gian mà em đã
tham gia hoặc chứng kiến. Sau đó chỉ ra trong đoạn văn vừa viết một cụm danh
từ, một cụm động từ, một cụm tính từ…
Gợi ý:
- u cầu về hình thức:

+ HS viết đúng một đoạn văn (bắt đầu từ chữ cái đầu tiên viết hoa lùi vào một ô
và kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng).
+ Đoạn văn khoảng 8- 10 câu.
12


- Yêu cầu về nội dung: tả lại một trò chơi dân gian đã tham gia hoặc chứng kiến
(thả diều, bịt mắt bắt dê, ô ăn quan…).
HS cần xác định trình tự miêu tả cho hợp lí. Sau đây là một số gợi ý:
+ Giới thiệu thời gian, lí do được tham gia, chứng kiến trò chơi.
+ Tả địa điểm diễn ra trò chơi.
+ Tả quang cảnh chung: thời tiết, cảnh vật xung quanh: ấm áp, cây cối xanh
tươi; không khí chung: đơng vui, nhộn nhịp; màu sắc: rực rỡ, tươi tắn; âm thanh
rộn ràng…
+ Tả cụ thể: tả hoạt động, tư thế, động tác, tả gương mặt, hành động, lời nói của
mọi người khi tham gia trị chơi.
- Sau đó, HS chỉ ra trong đoạn văn vừa viết một cụm danh từ, một cụm động từ,
một cụm tính từ…
Dạng 4: Bài tập về biện pháp tu từ.
Dạng bài tập này học sinh phải:
- Nêu được lại khái niệm về các phép tu từ: nhân hóa, so sánh, ẩn dụ, hốn
dụ,điệp ngữ,chơi chữ….
- Nhận biết biện pháp tu từ đó thể hiện qua từ ngữ nào.
- Nêu được tác dụng của biện pháp tu từ.
- Viết đoạn văn có sử dụng của biện pháp tu từ.
Ví dụ:
Bài 1: Chỉ ra biện pháp tu từ trong đoạn văn sau:
“Bóng tre trùm lên âu yếm làng, bản, xóm, thơn. Dưới bóng tre của ngàn
xưa, thấp thống mái đình mái chùa cổ kính. Dưới bóng tre xanh, ta gìn giữ một
nền văn hố lâu đời. Dưới bóng tre xanh, đã từ lâu đời, người dân cày Việt Nam

dựng nhà, dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang,…”
Gợi ý:
- Đoạn văn của Thép Mới sử dụng thành cơng biện pháp tu từ nhân hố.
- Phép nhân hố được thể hiện qua hình ảnh: Bóng tre trùm lên âu yếm làng,
bản, xóm, thơn. Phép nhân hố được tao ra bằng cách dùng từ chỉ hoạt động của
người cho cây tre.
Bài 2: So sánh hai cách diễn đạt sau, cho biết cách diễn đạt nào hay hơn? Vì
sao?
a) Phía đơng mặt trời đã lên toả ánh sáng màu hồng xuống mặt sân. Bố em xách
điếu chuẩn bị đi cày cịn mẹ em tát nước. Con mèo lười hơm nay dậy sớm đang
lấy hai tay cào lên mặt, cái đầu nghênh nghênh trông thật ngộ. Con gà mái cục
ta… cục tác liên hồi, con gà trống nói luyên thuyên một lúc. Cây na sau vườn đã
có quả, cây tre toả những tán lá xuống mặt ao.
b)
Ông Trời nổi lửa đằng đông
13


Bà Sân vấn chiếc khăn hồng đẹp thay.
Bố em xách điếu đi cày
Mẹ em tát nước, nắng đầy trong khay.
Cậu Mèo đã dậy từ lâu
Cái tay rửa mặt, cái đầu nghiêng nghiêng.
Mụ Gà cục tác như điên
Làm thằng Gà Trống huyên thiên một hồi.
Cái Na đã tỉnh giấc rồi
Đàn Chuối đứng vỗ tay cười vui sao!
Chị Tre chải tóc bên ao…
(Trần Đăng Khoa)
Gợi ý: So sánh hai cách diễn đạt, chúng ta thấy cách diễn đạt ở (b) hay hơn, sinh

động và gợi cảm hơn.
- Cách diễn đạt ở (a): chủ yếu miêu tả đơn thuần nên chỉ có tác dụng tái hiện cụ
thể cảnh buổi sớm.
- Cách diễn đạt ở (b): khi miêu tả có sử dụng phép tu từ nhân hoá bằng cách gọi
vật như gọi người, dùng từ chỉ hoạt động, tính chất của người cho vật vì thế hay
hơn.
Bài 3: Trong câu ca dao:
Nhớ ai bồi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than
a) Từ bồi hổi bồi hồi là từ gì?
b) Giải nghĩa từ bồi hổi bồi hồi?
c) Phân tích cái hay của câu thơ do phép so sánh đem lại.
Gợi ý:
Đây là từ láy chỉ mức độ cao.
b) Giải nghĩa: trạng thái có những cảm xúc, ý nghĩ cứ trở đi trở lại trong cơ thể
con người.
c) Trạng thái mơ hồ, trừu tượng chỉ được bộc lộ bằng cách đưa ra hình ảnh cụ
thể: đứng đống lửa, ngồi đống than để người khác hiểu được cái mình muốn nói
một cách dễ dàng. Hình ảnh so sánh có tính chất phóng đại nên rất gợi cảm.
Bài 4: Đọc kĩ đoạn văn và trả lời câu hỏi:
“Giời chớm hè. Cây cối um tùm. Cả làng thơm. Cây hoa lan nở trắng
xoá. Hoa giẻ từng chùm mảnh dẻ. Hoa móng rồng bụ bẫm thom như mùi mít
chín ở góc vườn ơng Tun. Ong vàng, ong vò vẽ, ong mật đánh lộn nhau để
hút mật ở hoa. Chúng đuổi cà bướm. Bướm hiền lành bỏ chỗ lao xao. Từng đàn
rủ nhau lặng lẽ bay đi.
Sớm. Chúng tơi tụ hội ở góc sân. Tồn chuyện trẻ em. Râm ran.”
(Duy Khán)
14



a. Có mấy kiểu so sánh? Tìm biện pháp tu từ so sánh được sử dụng trong đoạn
văn trên. Nêu tác dụng của biện pháp đó.
b. Viết một đoạn văn (khoảng 8- 10 câu) tả vẻ đẹp của miền quê, trong đoạn văn
có sử dụng hai biện pháp tu từ đã học.
Gợi ý:
a. Có hai kiểu so sánh:
– So sánh ngang bằng
– So sánh không ngang bằng
->Tác giả sử dụng biện pháp tu từ so sánh: hoa móng rồng bụ bẫm thơm như
mùi mít chín ở góc vườn.
–> Tác dụng của biện pháp so sánh: Làm cho câu văn sinh động, tăng sức gợi
hình, gợi cảm cho sự diễn đạt. Thể hiện một cách cụ thể vẻ đẹp hiền hoà, ngọt
ngào, thơm ngát của những bơng hoa móng rồng trong một khu vườn quê.
b. Yêu cầu về hình thức:
+ HS viết đúng một đoạn văn (bắt đầu từ chữ cái đầu tiên viết hoa lùi vào một ô
và kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng).
+ Đoạn văn khoảng 8- 10 câu.
– Yêu cầu về nội dung: tả vẻ đẹp của miền quê, trong đoạn văn có sử dụng hai
biện pháp tu từ đã học. HS cần xác định trình tự miêu tả cho hợp lí.
Sau đây là một số gợi ý:
+ Giới thiệu về miền quê.
+ Tả quang cảnh chung của miền quê: thanh bình, yên ả, tươi đẹp.
+ Tả cụ thể một số hình ảnh của miền quê; luỹ tre, hàng cau, cánh đồng, dịng
kênh,…
Sau đó, HS chỉ ra trong đoạn văn vừa viết hai biện pháp tu từ mà mình đã
tạo ra.
Bài 5: Hãy chỉ ra những điệp ngữ trong đoạn thơ, đoạn văn sau và nêu tác dụng
của những điệp ngữ đó. ( Nhằm nhấn mạnh ý gì, hoặc gợi cảm xúc gì cho người
đọc?)
Người ta đi cấy lấy cơng

Tơi nay đi cấy cịn trơng nhiều bề.
Trơng trời, trông đất, trông mây
Trông mưa, rông nắng, trông ngày, trông đêm.
Trông cho chân cứng đá mềm
Trời êm bể lặng mới yên tầm lòng
(Đi cấy – Ca dao)
Gợi ý:
Trong bài ca dao đó, điệp ngữ trơng có tác dụng nhấn mạnh được ý nghĩa sâu
sắc: người đi cấy phải luôn tính tốn, lo lắng, mong mỏi rất nhiều điều để công
việc đạt kết quả tốt và bản thân được yên lịng.
Bài 6: Tập viết đoạn văn có sử dụng điệp ngữ
15


Hãy viết một đọn văn miêu tả trong đó có sử dụng điệp ngữ
Ví dụ : Đoạn văn nói về tình cảm bạn bè :
« Cái ngày ấy bây giờ đã lùi xa, nhưng em vẫn nhớ, nhớ lắm, nhớ da diết,
nhớ khơng ngi hình ảnh cơ bạn nhỏ nhắn, sáng nào cũng cùng em cắp sách
tung tăng tới trường. »
Gv gợi ý HS cách viết đoạn văn có sử dụng biện pháp tư từ điệp ngữ.
HS chỉ ra trong đoạn văn vừa viết biện pháp tu từ mà mình đã tạo ra.
VIII. KẾT QUẢ SAU KHI TRIỂN KHAI CHUYÊN ĐỀ.
Trong q trình giảng dạy, tơi đã áp dụng các phương pháp như đã nêu ở
trên, qua một năm thực nghiệm, tơi thấy có sự chuyển biến rõ rệt ở các học sinh
yếu. Các em đã nắm được những kiến thức tối thiểu của chương trình. Các em
đã mạnh dạn phát biểu ý kiến, tham gia xây dựng bài. Đặc biệt, các em đã bỏ
qua được mặc cảm tự ti, biết trao đổi với thầy cơ những chỗ mình chưa hiểu. Sự
tiến bộ của các em biểu hiện cụ thể qua điểm số, qua việc học sinh có ý thức học
bài ở lớp cũng như ở nhà. Vì thế cha mẹ học sinh yên tâm, tin tưởng vào nhà
trường, tích cực ủng hộ việc dạy học của nhà trường. Qua khảo sát bằng việc so

sánh, đối chiếu điểm của bài khảo sát đầu năm và giữa học kì I, kết quả chung
của bộ môn cuối năm tỉ lệ học sinh yếu kém đã giảm.
Kết quả bộ môn cụ thể như sau:
Mơn

Tổng
số hs

Ngữ
văn 7

136

Giỏi
SL %

Khá
SL %

Trung bình
SL
%

26

68

42

19,1


50

30,9

Yếu
SL %
2

1,5

Kém
SL %
0

0,0

IX KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
- Để khắc phục tình trạng học sinh yếu kém ta vừa phải cố gắng nâng cao hiệu
quả giảng dạy ở trên lớp vừa phải tăng cường phụ đạo giúp đỡ riêng các học
sinh yếu kém (ngồi giờ chính khóa) theo các nhóm nhỏ cá biệt. Lý do là vì
trong các lớp đồng loạt, dù giáo viên có cố gắng giảng dạy sát ba loại đối tượng
đến đâu đi nữa thì việc truyền thụ kiến thức và luyện tập cũng cần phải được tiến
hành theo trình độ và nhịp chung của cả lớp, nếu quá chú ý đến đối tượng học
sinh yếu, kém thì các em giỏi, khá, trung bình sẽ buồn chán, khơng muốn học.
- Giáo viên phải là người chịu khó, kiên trì, khơng nản lòng trước sự chậm tiến
của học sinh, phải biết phát hiện ra sự tiến bộ của các em cho dù là rất nhỏ để
kịp thời động viên khuyến khích làm niềm tin cho các em cầu tiến.
Nói tóm lại, khơng có phương pháp nào là vạn năng, muốn khắc phục tình

trạng học sinh yếu kém, đồng thời tạo sự hứng thú, hướng niềm say mê và yêu
thích các em đến với bộ mơn văn thì giáo viên phải linh hoạt kết hợp nhiều
phương pháp, phải yêu thương và giúp đỡ các em hết lòng, thực sự là người thầy
16


“Tận tâm, tận lực, tận tụy hết lịng vì học sinh thân yêu”. Trong việc uốn nắn
các em, giáo viên phải luôn giữ thái độ vui vẻ, thoải mái, nhẹ nhàng, khơng
nóng vội, khơng dùng lời lẽ nặng nề với các em, xem học sinh là con em của
mình, chia sẻ vui buồn, cùng lắng nghe ý kiến của các em để từ đó có biện pháp
giảng dạy và giáo dục phù hợp với từng đối tượng học sinh. Tôi luôn tâm niệm
và ghi nhớ lời Bác dạy: “Người thầy giáo khơng phải dạy những câu, những
chữ có sẵn mà phải dạy bằng cả tâm hồn mình”.
2. Đề xuất, kiến nghị.
Các cấp quản lí cần:
+ Cần biên soạn tài liệu, phương pháp, kinh nghiệm dạy học sinh yếu kém tập
hợp thành tài liệu phổ biến cho các giáo viên dùng chung cho toàn ngành.
+ Thống kê danh sách học sinh yếu kém của các khối lớp trong các nhà trường
(cụm chun mơn) từ đó có những giải pháp phụ đạo tập trung, đồng bộ.
Trên đây là “Một số giải pháp phụ đạo học sinh yếu kém môn Ngữ văn
lớp 7 - phần Tiếng Việt” nhằm nâng cao chất lượng học sinh, hy vọng rằng sẽ
nhận được nhiều ý kiến đóng góp từ phía đồng nghiệp giúp cho chun đề này
thêm hoàn thiện.

17



×