Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

DẠY TÍCH HỢP LIÊN MÔN TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM MÔN NGỮ VĂN LỚP 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (862.31 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
TT

NỘI DUNG

TRANG

1 Lời giới thiệu

Trang 2

2 Tên sáng kiến

Trang 3

3 Tác giả sáng kiến

Trang 3

4 Chủ đầu tư sáng tạo ra sáng kiến

Trang 4

5 Lĩnh vực áp dụng sáng kiến

Trang 4

6 Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử

Trang 4


7 Mô tả bản chất của sáng kiến

Trang 4

7.1 Phần nội dung

Trang 4

7.1.1 Cơ sở lý luận

Trang 4

7.1.2 Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến

Trang 6

7.1.3

Trang 8

Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

7.1.4 Kết quả sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
7.2 Phần kết luận chung

1

Trang 19
Trang 19


8 Những thông tin cần được bảo mật

Trang 19

9 Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến

Trang 19

10 Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do
áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của
tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể
cả áp dụng thử (nếu có).

Trang 19

10.1 Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do
áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả.

Trang 21

10.2 Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do
áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân.

Trang 20

11 Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử

Trang 20
1



hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu
BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN:
“DẠY TÍCH HỢP LIÊN MƠN TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN HỌC
HIỆN ĐẠI VIỆT NAM - MƠN NGỮ VĂN LỚP 9”
1. Lời giới thiệu.
M.L.Kalinine từng nói: “Văn học làm cho con người thêm phong phú, tạo
khả năng cho con người lớn lên, hiểu được con người nhiều hơn”. Văn học vốn
rất gần gũi với cuộc sống con người, bởi vì mỗi tác phẩm văn chương là một
mảng cuộc sống đã được nhà văn chọn lọc phản ánh.Văn học giúp cho con
người cảm nhận, ý thức được cái đẹp và sự hài hòa của cuộc sống; được tiếp cận
và tự nâng mình lên với những tư tưởng tình cảm sâu sắc, tinh tế; được bồi
dưỡng về ngơn ngữ - thứ ngôn ngữ phong phú, sống động và giàu sức biểu cảm
của dân tộc. Vì vậy mơn Ngữ văn trong nhà trường có một vị trí rất quan trọng:
Nó là vũ khí thanh tao đắc lực, có tác động đến tâm hồn, tình cảm của con
người, nó bồi đắp cho con người trở nên trong sáng, phong phú và sống tốt đẹp
hơn.
Thấy được tầm quan trọng của việc dạy và học môn Ngữ văn đồng thời
phát huy cao hơn nữa hiệu quả trong giảng dạy theo tinh thần đổi mới sách giáo
khoa, quan điểm dạy học tích hợp là vấn đề cần được quan tâm nhất hiện nay.
Bởi tích hợp là một xu thế phổ biến trong dạy học hiện đại. Nó giúp học sinh tiết
kiệm thời gian học tập mà vẫn mang lại hiệu quả nhận thức, có thể tránh được
những biểu hiện cơ lập, tách rời từng phương diện kiến thức, đồng thời phát
triển tư duy biện chứng, khả năng thông hiểu và vận dụng kiến thức linh hoạt
vào các yêu cầu môn học, phân môn cụ thể trong chương trình học tập theo
nhiều cách khác nhau. Và vì thế việc nắm kiến thức sẽ sâu sắc, hệ thống và lâu
bền hơn.
Thực tế những năm gần đây học sinh ở hầu hết các trường học nói chung
đều có phần khơng thích học mơn Ngữ văn, nhất là các em học sinh lớp 9. Qua

tìm hiểu, tơi nhận thấy rằng, các em khơng thích một phần cho rằng mơn Ngữ
văn khơng có tính ứng dụng cao như các mơn Tốn, Lí, Hóa. Nhưng ngun
nhân cơ bản là các tiết học Ngữ văn còn đơn điệu, tuy đã có sự đổi mới nhưng
chưa thốt khỏi tính lí thuyết khơ khan, thiếu tính thực tế. Các tiết học chưa có
sự mở rộng phạm vi kiến thức ở nhiều lĩnh vực. Chính vì thế, khi học mơn Ngữ
văn, các em thường chỉ tiếp cận kiến thức độc lập của riêng mơn Ngữ văn mà
chưa có sự liên hệ với các mơn học khác. Đó cũng là ngun nhân mà các em
chưa hứng thú với môn học dẫn đến nắm kiến thức chưa chắc, chưa sâu, chưa áp
dụng kiến thức đã học vào cuộc sống.
2
2


Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy việc vận dụng quan điểm tích hợp này
vào dạy học mơn Ngữ văn ở trường trung học cơ sở chẳng những dựa trên cơ sở
các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập trong các phân môn Văn học,
Tiếng Việt, Tập làm văn cũng như các bộ phận tri thức khác như hiểu biết lịch
sử xã hội, văn hóa nghệ thuật… mà cịn xuất phát từ địi hỏi thực tế là cần phải
khắc phục, xóa bỏ lối dạy học theo kiểu khép kín, tách biệt thế giới nhà trường
và thế giới cuộc sống, cô lập giữa những kiến thức kĩ năng vốn có liên hệ, bổ
sung cho nhau, tách rời kiến thức với các tình huống cụ thể mà học sinh sẽ gặp
sau này. Nói cách khác, đó là lối dạy học khép kín “trong nội bộ mơn”, biệt lập
Văn học, Tiếng Việt và Tập làm văn với các mơn học khác. Vận dụng quan điểm
tích hợp trong dạy học Ngữ văn chính là cách thức để khắc phục, hạn chế lối dạy
học độc lập từng môn học nhằm nâng cao năng lực sử dụng kiến thức và kĩ năng
mà học sinh lĩnh hội được, bảo đảm cho mỗi học sinh khả năng huy động có
hiệu quả những kiến thức và kĩ năng của mình để giải quyết những tình huống
có ý nghĩa cũng có khi là một tình huống khó khăn, bất ngờ, một tình huống
chưa từng gặp… Mặt khác, tránh được những nội dung, kiến thức và kĩ năng
trùng lặp, đồng thời lĩnh hội những nội dung, tri thức và năng lực mà mỗi môn

học hay phân mơn riêng rẽ khơng có được.
Như vậy, xét cả về lí luận và thực tiễn, đây là phương pháp dạy học tích
cực, góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn nói riêng và các mơn học khác nói chung. Đó là lí do tơi thực hiện
đề tài:“Dạy tích hợp liên môn trong một số tác phẩm văn học hiện đại Việt Nam
- môn Ngữ văn lớp 9”.
Một lý do nữa khiến tôi chọn đề tài này là nhiều năm liên tục trở lại đây
tôi được giao nhiệm vụ dạy môn Ngữ văn lớp 9. Học sinh rất hứng thú với mỗi
tiết dạy Văn của tôi nên chất lượng học sinh đại trà và học sinh giỏi đạt khá cao,
đó là thành công bước đầu của tôi trong việc áp dụng những phương pháp, biện
pháp dạy học tích hợp liên mơn. Vì thế tơi mạnh dạn đưa ra để anh chị em đồng
nghiệp tham khảo, hy vọng rằng những kinh nghiệm nhỏ này phần nào giúp anh
chị em đồng nghiệp làm cho học sinh u thích mơn Ngữ văn ở trường trung
học cơ sở.
2. Tên sáng kiến: “Dạy tích hợp liên môn trong một số tác phẩm văn học hiện
đại Việt Nam - môn Ngữ văn lớp 9”.
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: ………………………..
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: ……………………………
- Số điện thoại: ……………..
Email: ………………..
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: …………………………………
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
3

3


Đề tài này nghiên cứu và áp dụng thực tế giảng dạy tại nhà trường để
nâng cao hơn nữa tay nghề của giáo viên, từ đó có phương pháp giảng dạy mới

và linh hoạt nhằm nâng cao chất lượng học sinh đại trà và học sinh giỏi môn
Ngữ văn lớp 9.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử:
- Chuyên đề bắt đầu nghiên cứu từ tháng 9 năm 2019
- Chuyên đề được hoàn thiện vào tháng 10 năm 2021.
7. Mô tả bản chất sáng kiến:
7.1. Phần nội dung.
7.1.1. Cơ sở lí luận.
* Quan điểm tích hợp trong dạy học nói chung:
Theo từ điển Tiếng Việt:“Tích hợp là sự kết hợp những hoạt động,
chương trình hoặc các thành phần khác nhau thành một khối chức năng. Tích
hợp có nghĩa là sự thống nhất, sự hịa hợp, sự kết hợp”.
Theo từ điển Giáo dục học:“Tích hợp là hành động liên kết các đối tượng
nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực khác
nhau trong cùng một kế hoạch dạy học”.
Trong dạy học các bộ mơn, tích hợp được hiểu là sự kết hợp, tổ hợp các
nội dung từ các môn học, lĩnh vực học tập khác nhau (Theo cách hiểu truyền
thống từ trước tới nay) thành một “môn học” mới hoặc lồng ghép các nội dung
cần thiết vào những nội dung vốn có của mơn học, ví dụ: lồng ghép nội dung
giáo dục dân số, giáo dục môi trường, giáo dục an tồn giao thơng trong các
mơn học GDCD, Sinh học, Địa lý hay Ngữ văn… xây dựng mơn học tích hợp từ
các mơn học truyền thống.
Tích hợp là một trong những quan điểm giáo dục đã trở thành xu thế trong
việc xác định nội dung dạy học trong nhà trường phổ thơng và trong xây dựng
chương trình mơn học ở nhiều nước trên thế giới. Quan điểm tích hợp được xây
dựng trên cơ sở những quan niệm tích cực về quá trình học tập và quá trình dạy
học. Đưa tư tưởng sư phạm tích hợp vào trong q trình dạy học là cần thiết.
Thực tiễn ở nhiều nước đã chứng tỏ rằng, việc thực hiện quan điểm tích
hợp trong giáo dục và dạy học sẽ giúp phát triển những năng lực giải quyết các
vấn đề phức tạp và làm cho việc học tập trở nên ý nghĩa hơn đối với học sinh so

với việc từng môn học, từng mặt giáo dục được thực hiện riêng rẽ. Tích hợp là
một trong những quan điểm giáo dục nhằm nâng cao năng lực của người học,
giúp đào tạo những người có đầy đủ phẩm chất và năng lực để giải quyết các
4

4


vấn đề của cuộc sống hiện đại. Nhiều nước trong khu vực Châu Á và trên thế
giới đã thực hiện quan điểm tích hợp trong dạy học và cho rằng quan điểm này
đã đem lại hiệu quả nhất định.
Tư tưởng tích hợp bắt nguồn từ cơ sở khoa học và đời sống. Trước hết
phải thấy rằng cuộc sống là một bộ đại bách khoa toàn thư, là một tập đại thành
của tri thức, kinh nghiệm và phương pháp. Mọi tình huống xảy ra trong cuộc
sống bao giờ cũng là những tình huống tích hợp. Khơng thể giải quyết một vấn
đề và nhiệm vụ nào của lí luận và thực tiễn mà lại không sử dụng tổng hợp và
phối hợp kinh nghiệm kĩ năng đa ngành của nhiều lĩnh vực khác nhau. Tích hợp
trong nhà trường sẽ giúp học sinh học tập thông minh và vận dụng sáng tạo kiến
thức, kĩ năng và phương pháp của khối lượng tri thức toàn diện, hài hịa và hợp
lí trong giải quyết các tình huống khác nhau và mới mẻ trong cuộc sống hiện
đại.
Quan điểm tích hợp và phương pháp dạy học theo hướng tích hợp đã được
giáo viên tiếp nhận nhưng ở mức độ thấp. Phần lớn giáo viên lựa chọn mức độ
tích hợp “liên mơn” hoặc tích hợp “nội mơn”. Các bài dạy theo hướng tích hợp
sẽ làm cho nhà trường gắn liền với thực tiễn cuộc sống, với sự phát triển của
cộng đồng. Những nội dung dạy học sinh nhỏ tuổi theo các chủ đề “Gia đình”,
“Nhà trường”, “Cuộc sống quanh ta”, “Đất nước”…làm cho học sinh có nhu cầu
học tập để giải đáp được những thắc mắc, phục vụ cho cuộc sống của mình và
cộng đồng. Học theo hướng tích hợp sẽ giúp cho các em quan tâm hơn đến con
người và xã hội ở xung quanh mình, việc học gắn liền với cuộc sống đời thường

là yếu tố để các em học tập. Những thắc mắc nảy sinh từ thực tế làm nảy sinh
nhu cầu giải quyết vấn đề của các em. Chẳng hạn “Vì sao có sấm chớp?’, “Vì
sao khơng được chặt cây phá rừng?”, “Vì sao phải bảo vệ mơi trường?”, “Vì
sao...?”
* Quan điểm tích hợp trong dạy học Ngữ văn:
Thiết kế bài dạy học Ngữ văn theo quan điểm tích hợp khơng chỉ chú
trọng nội dung kiến thức tích hợp mà cần thiết phải xây dựng một hệ thống việc
làm, thao tác tương ứng nhằm tổ chức, dẫn dắt học sinh từng bước thực hiện để
chiếm lĩnh đối tượng học tập, nội dung môn học, đồng thời hình thành và phát
triển năng lực, kĩ năng tích hợp, tránh áp đặt một cách làm duy nhất. Giờ học
Ngữ văn theo quan điểm tích hợp phải là một giờ học hoạt động phức hợp địi
hỏi sự tích hợp các kĩ năng, năng lực liên môn để giải quyết nội dung tích hợp,
chứ khơng phải sự tác động các hoạt động, kĩ năng riêng rẽ lên một nội dung
riêng rẽ thuộc “nội bộ phân mơn”.
Ngày nay nhiều lí thuyết hiện đại về quá trình học tập đã nhấn mạnh rằng
hoạt động của học sinh trước hết là học cách học. Theo ý nghĩa đó, quan điểm
dạy học tích hợp địi hỏi giáo viên phải có cách dạy chú trọng phát triển ở học
5

5


sinh cách thức lĩnh hội kiến thức và năng lực, phải dạy cho học sinh cách thức
hành động để hình thành kiến thức và kĩ năng cho chính mình, phải có cách dạy
buộc học sinh phải tự đọc, tự học để hình thành thói quen tự đọc, tự học suốt
đời, coi đó cũng là một hoạt động đọc hiểu trong suốt quá trình học tập ở nhà
trường.
Quan điểm dạy học tích hợp hay dạy cách học, dạy tự đọc, tự học không
coi nhẹ việc cung cấp tri thức cho học sinh. Vấn đề là phải xử lí đúng đắn mối
quan hệ giữa bồi dưỡng kiến thức, rèn luyện kĩ năng và hình thành, phát triển

năng lực, tiềm lực cho học sinh. Đây thực chất là biến quá trình truyền thụ tri
thức thành quá trình học sinh tự ý thức về phương pháp chiếm lĩnh tri thức, hình
thành kĩ năng. Muốn vậy, chẳng những cần khắc phục khuynh hướng dạy tri
thức hàn lâm thuần tuý đã đành, mà còn cần khắc phục khuynh hướng rèn luyện
kĩ năng theo lối kinh nghiệm chủ nghĩa, ít có khả năng sử dụng vào đọc hiểu văn
bản, vào những tình huống có ý nghĩa đối với học sinh, coi nhẹ kiến thức, nhất
là kiến thức phương pháp.
Tóm lại, “Quan điểm tích hợp” cần được hiểu tồn diện và phải được
qn triệt trong tồn bộ mơn học: từ đọc Văn, Tiếng Việt đến Làm văn; quán
triệt trong mọi khâu của quá trình dạy học; quán triệt trong mọi yếu tố của hoạt
động học tập; tích hợp trong chương trình, tích hợp trong sách giáo khoa, tích
hợp trong phương pháp dạy học của giáo viên và tích hợp trong hoạt động học
tập của học sinh; tích hợp trong các sách đọc thêm, tham khảo. Quan điểm “lấy
học sinh làm trung tâm” địi hỏi thực hiện việc tích cực hoá hoạt động học tập
của học sinh trong mọi mặt, trên lớp và ngồi giờ; tìm mọi cách phát huy năng
lực tự học của học sinh, phát huy tinh thần dân chủ, bồi dưỡng lịng tin cho học
sinh thì các em mới tự tin và tự học, mới xem tự học là có ý nghĩa và như vậy
đào tạo mới có kết quả.
Tuy nhiên, người giáo viên trong quá trình dạy học tích hợp phải lưu ý:
Tích hợp kiến thức của nhiều mơn học hoặc tích hợp kiến thức xã hội vào bộ
môn nhưng vẫn phải đảm bảo đặc trưng riêng của mơn Ngữ văn, đảm bảo việc
tích hợp là để giúp cho hiệu quả giờ dạy của bộ mơn được nâng cao. Khơng q
lạm dụng việc tích hợp đến mức làm mất đi đặc trưng bộ môn và hiệu quả cần
đạt của từng bài học.
7.1.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
7.1.2.1. Thực trạng:
Văn học là môn học trực tiếp rèn kỹ năng sống và nhân cách cho con
người. Đây là môn học hướng con người tới Chân - Thiện - Mỹ và những điều
tốt đẹp nhất trong cuộc sống. Chính vì thế môn học này được quan tâm và đầu tư
ở trường trung học cơ sở. Trong những năm gần đây nhờ công tác chỉ đạo sát

sao của Bộ giáo dục, Sở giáo dục và Phòng giáo dục qua các đợt chuyên đề về
6

6


các phương pháp dạy học tích cực, chất lượng mơn Ngữ văn không ngừng được
nâng cao. Kết quả trong các kì thi vào trung học phổ thơng, các kì thi học sinh
giỏi cấp huyện, cấp tỉnh không ngừng được cải thiện. Tuy nhiên để đáp ứng nhu
cầu đổi mới từng ngày của xã hội, để học sinh hứng thú hơn với môn học này,
qua công tác giảng dạy tôi thấy các phương pháp dạy truyền thống vẫn còn
nhiều bất cập như giữa các phân mơn chưa có sự liên kết chặt chẽ với nhau tách
rời từng phương diện kiến thức, học sinh hoạt động chưa tích cực, hiệu quả đem
lại cũng chưa cao. Nhiều em không thuộc nổi một bài thơ ngắn, khơng tóm tắt
được một văn bản tự sự… Đặc biệt với các tác phẩm văn học, khoảng thời gian
lịch sử cách xa, học sinh tiếp cận hầu như thụ động, lúng túng. Các em chưa biết
cách cảm thụ văn chương, vốn hiểu biết về tác phẩm khá nghèo nàn…
7.1.2.2. Nguyên nhân
*Nguyên nhân khách quan:
Về phía phụ huynh: Một trong những trở ngại lớn nhất đối với giáo viên
dạy Văn là vẫn còn một bộ phận lớn phụ huynh học sinh xem nhẹ vai trị của
mơn Ngữ văn, thả rơi, khơng đầu tư cho con em mình học hoặc học cũng chỉ để
nhất thời phục vụ thi cử. Chính vì vậy rất khó khăn cho người dạy trong việc
hướng dẫn, định hướng gợi mở cho học sinh.
Về phía học sinh: Các em chưa thực sự có hứng thú học với mơn Ngữ
văn, cách tiếp cận, học tập cịn thụ động. Một phần do xu thế hiện nay các em có
tâm lí chung là khơng thích học Văn vì cho rằng mơn Ngữ văn khơng có tính
ứng dụng cao như các mơn Tốn, Lí, Hóa… Mặt khác, các tiết học Ngữ văn cịn
đơn điệu, mang tính lí thuyết khơ khan, thiếu tính thực tế. Các tiết học chưa có
sự mở rộng phạm vi kiến thức ở nhiều lĩnh vực. Chính vì thế, khi học mơn Ngữ

văn, các em thường chỉ tiếp cận kiến thức độc lập của riêng môn Ngữ văn mà
chưa có sự liên hệ với các mơn học khác.
*Nguyên nhân chủ quan:
Về phía giáo viên: Bước đầu đã có ý thức đổi mới theo phương pháp tích
hợp trong dạy học Văn nhưng việc thực hiện chỉ mới mang tính chất hình thức,
thử nghiệm chứ chưa đem lại hiệu quả như mong muốn. Giáo viên chưa chú ý
đến việc vận dụng phương pháp dạy học tích hợp. Do đó, dẫn đến việc khai thác
bài dạy thiếu tính hệ thống, thiếu chiều sâu, làm cho chất lượng bài dạy chưa
cao. Nhiều giờ dạy, giáo viên tích hợp một cách gượng gạo, các đơn vị kiến
thức được tích hợp khơng có mối liên hệ gắn bó, giáo viên lựa chọn đơn vị kiến
thức tích hợp chưa trọng tâm vơ hình trung làm lệch nội dung, mục tiêu cần đạt
của tiết dạy.
7.1.2.3. Kết quả của thực trạng:

7

7


Trong quá trình giảng dạy chương trình Ngữ văn trung học cơ sở, tôi
nhận thấy kĩ năng cảm thụ Văn học, kĩ năng vận dụng kiến thức liên môn của
một bộ phận học sinh cịn yếu nên kết quả mơn học chưa cao.
Sau đây là bảng số liệu thống kê điểm trung bình của một bài khảo sát
phần Văn bản mà bản thân tôi đã tiến hành với học sinh lớp 9B trường THCS
Yên Lập vào thời điểm đầu năm học 2019 - 2020 (thời điểm trước khi áp dụng
sáng kiến):
Lớp

Sĩ số


9B

45

Giỏi

Khá

SL

%

SL

%

3

6,66

15

33,3

Trung bình
SL
%
23

51,16


Yếu
SL
%
8,8
4
8

Qua bảng số liệu khảo sát, ta thấy chất lượng dạy và học phân môn Văn
của môn Ngữ văn còn thấp. Vậy nên đổi mới phương pháp dạy học là rất cần
thiết.
7.1.3. Giải pháp tiến hành:
7.1.3.1. Chuẩn bị điều kiện để thực hiện:
- Chuẩn bị của giáo viên:
+ Để xây dựng bài giảng theo hướng tích hợp kiến thức liên môn, giáo
viên cần: Xác định đúng nội dung kiến thức nào cần tích hợp, tích hợp với kiến
thức thuộc mơn học hay lĩnh vực nào, tích hợp ở mức độ nào; chọn hình thức
tích hợp, giáo viên diễn giảng bằng lời, cung cấp trên giáo cụ trực quan hay đưa
ra nhiệm vụ học sinh thu thập, tìm hiểu ở nhà trước hoặc sau bài học.
+ Xây dựng kế hoạch bài giảng: Khi soạn giáo án, tôi bám sát kiến thức
bài học, mục tiêu, thời lượng dành cho mỗi đơn vị kiến thức trong bài học để
đưa ra phương pháp và cách tổ chức dạy học phù hợp; đa dạng hóa các hình
thức luyện tập sáng tạo để phát huy khả năng liên tưởng, tưởng tượng của học
sinh; dự kiến các tình huống phát sinh trước hoạt động tích hợp liên môn.
+ Chuẩn bị phương tiện day học sách giáo khoa, sách giáo viên, chuẩn
kiến thức kĩ năng, soạn bài, phiếu học tập, hệ thống câu hỏi kiểm tra, đánh giá
và các tiêu chí kiểm tra, đánh giá xếp loại học sinh.
- Chuẩn bị của học sinh: Để có một tiết dạy - học Ngữ văn có hiệu quả, việc
chuẩn bị bài của các em là khâu rất quan trọng:
+ Ôn tập bài cũ trước khi đến lớp.

+ Chuẩn bị bài mới, tìm hiểu thêm kiến thức các mơn học khác hoặc kiến
thức xã hội có liên quan đến bài.
+ Chuẩn bị thái độ, tâm thế thoải mái, hứng thú trước khi vào bài học và trong
suốt quá trình học tập.
8

8


7.1.3.2. Tích hợp kiến thức liên mơn để dạy - học:
7.1.3.2.1. Tích hợp kiến thức liên mơn khi kiểm tra bài cũ:
Đây là thao tác đầu tiên trong chuỗi hoạt động, nhằm kiểm tra chất lượng
học tập của học sinh. Đây là công việc thường xuyên và cần thiết nhằm đánh giá
kết quả nắm kiến thức cũ trước khi dạy bài mới, giúp giáo viên nhanh chóng
nắm bắt tình hình học tập, mức độ tiếp thu và trình độ của học sinh. Dùng những
câu hỏi tích hợp để kiểm tra bài cũ buộc học sinh phải huy động nhiều bộ phận
kiến thức liên quan để trả lời, khi đó giáo viên không chỉ nắm được mức độ hiểu
bài ở tiết học trước mà tư duy tổng hợp, khái quát của các em cũng được rèn
luyện.
Để có được câu hỏi tích hợp cao trong khâu kiểm tra bài cũ, giáo viên cần
đầu tư cơng sức, thời gian thích đáng ngay từ lúc bắt đầu soạn giáo án.Có như
vậy việc kiểm tra mới góp phần nâng cao hiệu quả.
Ví dụ 1: Khi dạy tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm
Tiến Duật, tơi kiểm tra bài cũ về bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu và tạo tiền
đề dẫn vào bài mới:
Câu hỏi: Sau khi học xong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu, em hiểu gì
về hồn cảnh sống và chiến đấu của quân dân Việt Nam thời kì đầu của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp? (Tích hợp mơn Lịch sử)
Ví dụ 2: Khi dạy bài “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương, tôi kiểm tra bài
cũ về bài “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải với câu hỏi tích hợp như sau:

Câu hỏi: Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải ra đời trong hoàn
cảnh nào? Sau khi học xong bài thơ, em suy nghĩ như thế nào về lý tưởng sống
vàtrách nhiệm của thanh niên trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa,hiện đại hóa đất
nước? (Tích hợp mơn Lịch sử, mơn Giáo dục cơng dân)
Ví dụ 3: Khi dạy bài “Bếp lửa” của Bằng Việt, tơi kiểm tra bài cũ về bài
“Đồn thuyền đánh cá” của Huy Cận với câu hỏi tích hợp như sau:
Câu hỏi: Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận ra đời trong hoàn
cảnh nào? Vùng biển nào của đất nước ta được đề cập đến trong bài thơ? Từ đó
thể hiện tình cảm gì của tác giả với q hương đất nước Việt Nam? (Tích hợp
mơn Lịch sử, mơn Giáo dục cơng dân, mơn Địa lý)
7.1.3.2.2. Tích hợp kiến thức liên môn khi thực hiện hoạt động giới thiệu bài
mới:
Đây là khâu khá quan trọng, mở đầu cho các thao tác dạy học bài mới của
giáo viên. Giới thiệu bài mới một cách sinh động, hấp dẫn có thể gây sự chú ý
và hứng thú học tập cho học sinh, tạo cho các em tâm thế tích cực chuẩn bị tiếp
cận bài mới.
Ví dụ 1: Khi dạy bài “Đồng chí” của Chính Hữu, để tạo hứng thú ngay từ
đầu tiết dạy tôi cho học sinh xem video ca nhạc hát bài “Tình đồng chí” do nhạc
9

9


sĩ Minh Quốc phổ nhạc có lồng vào đó hình ảnh người lính trong cuộc kháng
chiến chống Pháp đang hành qn chiến đấu trong rừng.(tích hợp với mơn Âm
nhạc, mơn Mỹ thuật)
Ví dụ 2: Khi dạy bài “Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính” của Phạm Tiến
Duật, tơi cho học sinh xem video ca nhạc hát bài “Tiểu đội xe khơng kính” do
nhạc sĩ Hồng Hiệp phổ nhạc có lồng vào đó hình ảnh những chiếc xe khơng
kính trong cuộc kháng chiến chống Mỹ gian khổ và ác liệt của qn và dân ta

những năm 1969.(tích hợp với mơn Âm nhạc, mơn Mỹ thuật)
Ví dụ 3: Dạy bài“Những ngơi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê, tôi mở
video hát bài “Cô gái mở đường” của nhạc sĩ Xuân Giao có kèm theo các hình
ảnh minh họa để tạo hứng thú cho học sinh. Sau khi nghe xong bài hát, các em
tỏ ra rất háo hức với việc tiếp thu bài mới.(tích hợp với mơn Âm nhạc, mơn Mỹ
thuật)
Ví dụ 4: Dạy bài“Lặng lẽ Sapa” của Nguyễn Thành Long, tôi chiếu video
về cảnh thiên nhiên rừng núi Sapa, sau đó cho học sinh phát biểu cảm nhận về
vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên xuất hiện trong video, từ đó dẫn dắt vào bài. Sau
khi xem xong video các em tỏ ra rất thích thú và háo hức với việc tiếp thu bài
mới.(tích hợp với mơn Địa lý, mơn Mỹ thuật)
7.1.3.2.3. Tích hợp kiến thứcliên mơn khi thực hiện hoạt động dạy - học bài
mới:
Đây nội dung khá quan trọng, giáo viên cần phải tìm ra những kiến thức ở
những mơn học khác nhau có thể tích hợp để tạo khơng khí sơi nổi, hứng thú,
đồng thời tránh được sự trùng lặp khơng cần thiết. Có vận dụng phương pháp
tích hợp thì giáo viên mới có thể truyền đạt đầy đủ những nội dung kiến thức đa
dạng, phong phú trong nội dung của các văn bản.
Ví dụ 1: Khi dạy bài“Đồn thuyền đánh cá của Huy Cận”, tơi tích hợp
nhiều mơn học, tích hợp với các tin tức thời sự báo chí cập nhật hàng ngày như
sau:
* Tích hợp với mơn Địa lí lớp 9, bài:“Vùng trung du miền núi Bắc Bộ”
- Giáo viên hỏi: Em hãy trình bày hiểu biết của em về tiềm năng, thế mạnh
của vùng biển Quảng Ninh?
- Học sinh trả lời: Thế mạnh của Quảng Ninh khơng chỉ khai thác mỏ mà
cịn là vùng biển tiềm năng về trữ lượng thủy hải sản. Đặc biệt Quảng Ninh
được cơng nhận là một trong 7 kì quan thiên nhiên của thế giới, đây là điều kiện
để Quảng Ninh phát triển ngành du lịch...
- Giáo viên hỏi: Dùng kiến thức mơn Địa lí, em hãy lí giải ý nghĩa câu thơ
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa”?

- Học sinh thảo luận nhóm trả lời: Theo quy luật vận động của tự nhiên
mặt trời mọc ở phía Đơng, lặn ở phía Tây. Vậy hình ảnh “mặt trời xuống biển”
10

10


làrất vơ lí, nhưng khi đặt trong bài thơ lại rất hợp lí có thể thấy được có thể đó là
cái nhìn từ một hịn đảo trên vịnh Hạ Long, thậm chí có thể hiểu đó là câu thơ
thầm tưởng tượng và mang tính chất khái qt nghệ thuật, khơng hẳn từ vùng
biển Hạ Long cụ thể.
* Tích hợp với môn Lịch sử lớp 9, bài:“Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc”.
- Giáo viên hỏi: Dựa vào kiến thức mơn Lịch sử, em hãy nêu hồn cảnh
nước ta lúc bấy giờ?
- Học sinh trình bày: Bài thơ sáng tác vào năm 1958 khi đất nước đã kết
thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp, miền Bắc được giải phóng và bắt
tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội...
* Tích hợp với môn Sinh học lớp7, bài:“Đa dạng và đặc điểm chung của
lớp cá”.
- Giáo viên hỏi: Trong bài thơ, nhà thơ có kể tên rất nhiều lồi cá. Dựa
vào hiểu biết của mình, em hãy nêu mơi trường sống, đặc điểm cơ thể của
chúng?
- Học sinh trả lời: Đặc điểm từng lồi cá dựa vào chú thích sách giáo khoa
Ngữ văn 9 tập 1, trang 141.
- Giáo viên cho câu hỏi thảo luận nhóm: Biển nước ta giàu và đẹp như thế
nhưng hiện nay môi trường biển ở nước ta như thế nào? Theo các em chúng ta
phải làm gì để bảo vệ mơi trường biển cũng như các nguồn lợi thủy hải sản từ
biển?
(Giáo viên trình chiếu hình ảnh ô nhiễm môi trường biển)

- Học sinh trả lời: Học sinh tự do trả lời.
Giáo viên mở rộng: Trong những năm gần đây một số vùng biển nước ta
xảy ra tình trạng ơ nhiễm và suy thối mơi trường biển rất nhiều do những
nguyên nhân như hiện tượng biển tiến, biển lùi, bão biển, nước dâng, sự ô nhiễm
không khí, tràn dầu tự nhiên, nước thải từ các nhà máy,… gây thiệt hại cho một
số vùng kinh tế, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân như: sản lượng cá đánh
bắt gần bờ giảm, nhiều loài thuỷ hải sản nuôi trồng chết hàng loạt, ảnh hưởng
xấu đến du lịch ...và ngay tại tỉnh Thanh Hóa từ 5-8/9/2016 đã diễn ra hiện
tượng cá tự nhiên và cá nuôi lồng chết hàng loạt tại khu vực ven biển huyện
Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. (Tích hợp Kiến thức trong Mơn GDCD 6, bài: “u
thiên nhiên sống hịa hợp với thiên nhiên”; Mơn Sinh hoc 9, bài: “Ơ nhiễm mơi
trường”; Mơn Giáo dục công dân 7, bài: “Bảo vệ môi trường và tài nguyên
thiên nhiên”; tin tức thời sự, báo chí.)
11

11


- Giáo viên hỏi: Khi chủ quyền quốc gia bị xâm phạm, Trung Quốc hạ đặt
giàn khoan trái phép lên vùng đặc quyền kinh tế của nước ta hồi tháng 5/2014,
những ngư dân - anh hùng trong lao động ấy họ đã làm gì để bảo vệ chủ quyền
biển đảo Việt Nam? Bản thân em đã đang và sẽ làm gì để bảo vệ chủ quyền lãnh
thổ nước ta?(GV chiếu Video hình ảnh giàn khoan 981 của Trung Quốc tại vùng
biển Việt Nam, tranh Ngư dân bám biển, tranh các chiến sĩ cảnh sát biển đang
dùng vòi rồng chiến đấu bảo vệ biển đảo).
- Học sinh trả lời: Học sinh tự do bộc lộ suy nghĩ
Giáo viên khắc sâu: Khi đất nước vừa thốt khỏi xiềng xích nơ lệ, vừa
chập chững với những bước đi đầu tiên trên con đường đón ánh sáng của thời
đại mới. Thì nay, khi chủ quyền quốc gia bị xâm phạm, Trung quốc hạ đặt giàn
khoan Hải Dương 981 hồi tháng 5/2014, tiếng kêu sông núi vọng về, họ đã cùng

nhau hợp sức lại, đoàn kết làm lễ vươn khơi tạo nên một thành trì vững chắc để
góp phần bảo vệ vùng đảo thiêng liêng của tổ quốc. Dù tàu Trung Quốc có
ngang tàng, bạo ngược đến đâu nhưng ngư dân Việt Nam vẫn không hề nao
núng, vẫn luôn chuyên tâm bám biển, sát cánh bên cảnh sát biển quyết bảo vệ
ngư trường Trường Sa, Hồng Sa của cha ơng để lại. Đối với họ những chuyến
ra khơi vào thời điểm này không chỉ đơn thuần là đánh bắt hải sản làm giàu cho
gia đình, cho đất nước mà cịn vì chủ quyền quốc gia,… Cho dù họ gặp rất nhiều
gian khổ, thậm chí có thể hi sinh cả tính mạng họ cũng khơng sờn lòng.
Hiện nay mặc dù Trung Quốc đã rút tàu HD 981 nhưng những tàu của ngư
dân Trung Quốc không ngừng tranh chấp gây chiến với tàu ngư dân của ta. Mặc
dù phải đối mặt với những hành vi thâm độc của kẻ thù cũng không làm vơi đi
những chuyến ra khơi của người con yêu biển.
Chúng ta ngoài ca ngợi những ngư dân dũng cảm, yêu nước, thì cần
chung tay cùng họ giữ vững chủ quyền biển đảo của dân tộc. Hãy ủng hộ ngư
dân bằng những hành động thiết thực cụ thể.
* Tích hợp mơn Âm nhạc:
- Giáo viên hỏi: Những lời hát của người dân chài trong bài thơ gợi cho
em nhớ tới những khúc hát nào, bài thơ nào?
(Tích hợp bài hát “Tình ta biển bạc đồng xanh” của Hồng Sơng
Hương…)
- Học sinh phát biểu
Giáo viên mở rộng:Chúng ta có được cuộc sống đầy đủ hiện đại như
ngày hôm nay là nhờ vào sức lao động của biết bao người đang ngày đêm lặng
lẽ cống hiến. Chúng ta phải biết trân trọng, yêu quý đối với những sản phẩm
đang có xung quanh chúng ta, từ cái bàn ta ngồi học, từ bộ quần áo chúng ta
mặc,…tất cả được đổi bằng chính mồ hơi của những người làm ra nó.(Tích hợp
kĩ năng sống, tích hợp mơn Giáo dục cơng dân về tình u thương con người).
12

12



* Tích hợp với mơn Mĩ thuật: Em hãy vẽ bức tranh tái hiện lại cảnh
đoàn thuyền ra khơi đánh cá vào buổi hồng hơn.
Ví dụ 2: Với văn bản “Lặng lẽ SaPa” của Nguyễn Thành Long, tơi tích
hợp kiến thức các mơn:
*Tích hợp với mơn Địa lí:
- Giáo viên hỏi:Em hãy cho biết vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên của
SaPa?
- Học sinh trả lời:
+ Vị trí địa lí của SaPa: Thị trấn SaPa thuộc tỉnh Lào Cai, nằm ở vùng
trung du và miềnnúi phía Bắc nước ta. SaPa thuộc tiểu vùng Tây Bắc của
trungdu và miền núi Bắc bộ.
+ Điều kiện tự nhiên của SaPa: Địa hình Tây Bắc hiểm trở, có nhiều khối
núi và dãy núi cao chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. SaPa có độ cao trung
bình từ 1.200m đến 1.800m, địa hìnhnghiêng và thoải dần theo hướng Tây - Tây
Nam đến Đơng Bắc.Do ảnh hưởng của các yếu tố địa hình, địa mạo phức tạp, bị
chiacắt mạnh và với vị trí địa lý đặc biệt, nhiệt độ trung bình hàngnăm ở SaPa là
15,4oC, nhiệt độ trung bình từ 18 - 20oC vàotháng mùa hè, vào các tháng mùa
đông 10 - 12oC. Nhiệt độ thấpnhất vào tháng 1 là 0 oC(đặc biệt có những năm
xuống tới -3,2oC).
* Tích hợp mơn Giáo dục công dânlớp 9, bài: “Trách nhiệm của thanh
niên trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”
- Giáo viên hỏi: Từ nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn “Lặng lẽ
Sa Pa”vừa học, em suy nghĩ như thế nào về lý tưởng sống vàtrách nhiệm của
thanh niên trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa,hiện đại hóa đất nước?
- Học sinh trả lời: Học sinh trình bày suy nghĩ của bản thân.
Giáo viên giảng: Thanh niên ln giữ vai trị, vị trí quan trọng trong các
giai đoạnlịch sử của dân tộc và trong cả sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiệnđại hoá
đất nước hiện nay. Bởi lẽ, họ - chủ nhân tương lai của đấtnước, là lực lượng

xung kích, ln phát huy truyền thống dân tộc,nêu cao tinh thần xung phong,
gương mẫu, tình nguyện đi đầuthực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà
nước và nhândân giao phó. Họ là một trong những nhân tố quyết định sựthành
bại của sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước trách nhiệm của thanh
niên là phải ra sức phấn đấu thực hiệnmục tiêu xây dựng nước Việt Nam độc
lập, dân giàu, nước mạnh,xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trước mắt là
thực hiệnthắng lợi nhiệm vụ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa theo địnhhướng xã
hội chủ nghĩa. Đặc biệt phải nhận thức rõ được nhiệm vụ của thanhniên học sinh
lớp 9phải ra sức họctập, rèn luyện để có đủ tri thức, phẩm chất và năng lực cần
thiếtnhằm đáp ứng những yêu cầu mà xã hội đặt ra cho họ.
13

13


* Tích hợp với mơn Mĩ thuật lớp 7, bài: “Đề tài tự do”Qua văn bản, em
hãy vẽ bức tranh thiên nhiên SaPa.
Ví dụ 3: Khi dạy bài “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải, tơi tích hợp
kiến thức.
* Tích hợp với môn môn Địa lý:
- Biết được những nét đặc trưng về điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa
của xứ Huế.
- Xác định được trên bản đồ vị trí của Huế, một số địa danh nổi tiếng ở
Huế.
*Tích hợp mơn Sinh học: giới thiệu đặc điểm, tập tính của lồi chim
chiền chiện.
* Tích hợp mơn Giáo dục cơng dân:
- Tích hợp kiến thức lớp 9, bài:“Lí tưởng sống của thanh niên”, bước
đầu giáo dục lòng yêu nước và niềm tự hào về quê hương đất nước, học sinh biết
rút ra các bài học về thái độ và cách ứng xử giữa con người với con người.

- Tích hợp kiến thức lớp 7, bài:“Bảo vệ môi trường và tài nguyên
thiên nhiên” để thấy được ý nghĩa của thiên nhiên với cuộc sống của con người,
từ đó, mỗi cá nhân nhận thấy vai trị và trách nhiệm của mình trong việc giữ gìn
và bảo vệ mơi trường, bảo vệ thiên nhiên.
* Tích hợp mơn Lịch sử: Để giúp học sinh hiểu được hoàn cảnh lịch sử
gắn với sự ra đời của bài thơ: Bài thơ được viết tháng 11 năm 1980 trong hoàn
cảnh đất nước đã thống nhất, đang xây dựng cuộc sống mới nhưng cịn vơ vàn
khó khăn thử thách. Bài thơ như một lời tâm niệm chân thành, lời gửi gắm tha
thiết của nhà thơ để lại với đời.
* Tích hợp mơn Âm nhạc: Hát bài hát “Hị mái nhì” ở phần cuối tiết học
để tạo nên âm điệu da diết, thể hiện tâm tình của nhà thơ Thanh Hải.
* Tích hợp mơn Mĩ thuật: Giới thiệu hình ảnh một số địa danh nổi tiếng
của Huế:
Cầu Tràng Tiền

14

14


Đại nội Huế

Sông Hương

15

15


7.1.3.2.4. Tích hợp kiến thức liên mơn khi thực hiện hoạt động tổng kết và

hướng dẫn luyện tập:
Tích hợp ở hoạt động tổng kết và hướng dẫn luyện tập có thể giúp học
sinh rút ra bài học cho bản thân sau khi được tiếp cận văn bản. Tích hợp ở khâu
này này sẽ giúp cho kiến tức sâu sắc hơn sau bài học mà các em có được. Sau
đó, phần làm bài tập ở nhà các em cũng có ý thức vận dụng kiến thức liên mơn
để hồn thành bài tập mà cô giáo giao như: Vẽ sơ đồ tư duy, vẽ tranh, sáng tác
nhạc,…
Ví dụ 1: Sau khi học xong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu, bài “Ánh
trăng” của Nguyễn Duy, bài “Lặng lẽ Sapa” của Nguyễn Thành Long… tôi yêu
cầu học sinh dùng sơ đồ tư duy để khái qt kiến thức cần nhớ: (Tích hợp mơn
Mỹ thuật).
Sơ đồ tư duy nội dung bài “Đồng chí” của Chính Hữu

(Tham khảo qua mạng internet)
16

16


Sơ đồ tư duy bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy

(Tham khảo qua mạng internet)

17

17


Sơ đồ tư duy bài thơ “Lặng lẽ Sapa” của Nguyễn Thành Long


18

18


(Tham khảo qua mạng internet)

19

19


Ví dụ 2: Sau khi học bài “Đồn thuyền đánh cá” của Huy Cận, tôi yêu
cầu các em về nhà vẽ tranh theo chủ đề “Em yêu biển đảo quê hương”.
Trên đây là một số kinh nghiệm dạy tích hợp liên môn trong một số tác
phẩm văn học hiện đại Việt Nam - môn Ngữ văn lớp 9, mà tôi đã áp dụng trong
những năm gần đây. Sau đây là kết quả mà tôi đã đạt được:
7.1.4. Kết quả sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Qua các tiết dạy thực tế được thực hiện với lớp 9B Trường trung học cơ sở
n Lập, tơi thấy rằng tích hợp kiến thức liên môn vào dạy học phần Văn là việc
làm hết sức cần thiết, hữu ích:
* Đối với học sinh: Khi thực hiện tiết dạy tích hợp tơi nhận thấy có sự
thay đổi rõ rệt từ phía các em như:
- Các em đã dành thời gian đọc, tiếp cận văn bản nhiều hơn, có ý thức tìm
tịi, suy nghĩ để chuẩn bị bài có hiệu quả.
- Các em trở nên nhạy bén, năng động, sáng tạo và hứng thú với giờ học
Văn. Mặt khác, hạn chế tối đa thời gian “chết” để các em khơng có cơ hội tham
gia vào các hoạt động vơ bổ ngồi giờ học. Các em vừa nắm được bài học đồng
thời có điều kiện ơn lại kiến thức Lịch sử, Địa lí,… về những hiểu biết xã hội.
* Đối với giáo viên: Trong thực tế chúng tơi nhận thấy khi soạn bài có kết

hợp các kiến thức của các môn học khác sẽ:
- Thúc đẩy giáo viên đầu tư nhiều hơn trong công tác chuẩn bị, thiết kế
giáo án cho phù hợp với tinh thần đổi mới phương pháp dạy học theo hướng
“lấy học sinh làm trung tâm”.
- Đầu tư nghiên cứu kiến thức liên mơn có liên quan để cùng hợp tác với
học sinh, giúp các em chiếm lĩnh nội dung bài học. Làm tốt công tác đầu tư cho
tiết dạy sẽ giúp giáo viên chủ động linh hoạt trong khâu tổ chức, hướng dẫn học
sinh tự khai thác và chiếm lĩnh kiến thức; mặt khác sẽ tránh được sự lúng túng bị
động khi học sinh chất vấn về những thơng tin có liên quan.
Để đánh giá hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm, tôi đã tiếp tục tiến hành
khảo sát một bài ở phần Văn bản vào thời điểm gần cuối năm học 2019 - 2020
cũng ở lớp 9B Trường trung học cơ sở Yên Lập. Kết quả thu nhận được thật
đáng mừng:
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Lớp Sĩ số
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
9B
45
9
20

25
55,6
11
24,4
0
0,0
Qua kết quả nêu trên chứng tỏ rằng: Sau khi vận dụng phương pháp dạy
học tích hợp các kiến thức liên môn trong dạy - học Ngữ văn đã góp phần quan
trọng vào việc nâng cao chất lượng dạy - học bộ môn. Số lượng học sinh khá,
giỏi tăng lên, số học sinh trung bình, yếu đã có bước giảm đáng kể.
7.2. Phần kết luận chung:
20

20


Có thể nói, phương pháp dạy học tích hợp liên mơn trong mơn Ngữ văn
nói chung, phần văn bản nói riêng là rất quan trọng trong việc tạo nên hiệu quả
cao cho giờ dạy. Thực chất của vấn đề này quy lại là ở chỗ nghệ thuật biết ứng
xử các tình huống sư phạm; biết cách liên hệ với kiến thức ở các môn học khác,
các kiến thức đời sống xã hội để học sinh biết cách hỏi, cách nghe, cách đáp
nghệ thuật, biết cách liên hệ so sánh, biết giao hồ xố đi khoảng cách giữa thầy
và trị để thầy có hứng thú dạy và trị cũng có hứng thú xây dựng bài. Nghệ thuật
này chỉ có được khi thầy dạy Văn thực sự có tâm hồn văn, tha thiết yêu quý, trân
trọng trò văn, trước khi lên bục giảng biết qn đi những gì vặt vãnh, khó khăn
của cuộc sống đời thường. Tôi mong rằng người giáo viên dạy Văn biết tận dụng
sức mạnh riêng của các phương pháp này kết hợp với một số phương pháp khác
thành một hợp lực để đạt tới một hiệu quả tối ưu cho giờ dạy học Văn.
Từ thực tế học sinh hôm nay với việc cảm nhận vẻ đẹp của văn chương,
tôi suy nghĩ về thái độ duy nhất đúng của người dạy Văn là: Đừng vội chê trách

học sinh không thích học Văn, mà trước hết người giáo viên dạy Văn bằng kinh
nghiệm sống, bằng tấm lòng của người dạy học, bằng sự không ngừng trau dồi
kiến thức, đổi mới phương pháp mà người thầy, người cô phải hướng dẫn học
sinh một cách thấu tình đạt lí. Hãy tìm cách gợi cho học sinh cùng cảm nhận,
cùng nhận thức vấn đề, để người thầy rút ra được hướng giảng dạy phù hợp
nhất, có hiệu quả nhất.
Điều mong muốn của tơi là: cho dù học sinh có bao nhiêu kiến thức phải
thu thập thì họ vẫn hiểu được rằng Văn học vẫn mãi mãi là người bạn đường
không thể thiếu được của họ. Bởi Văn học là sự đồng nghĩa với cái đẹp và sự
cao q,bởi Văn học ln ln cảnh tỉnh con người.
8. Những thông tin cần được bảo mật: Không
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Về phía nhà trường: Cần đảm bảo đủ cơ sở vật chất, các trang thiết bị
dạy học để giáo viên có điều kiện giảng dạy tốt nhất.
- Về phía giáo viên: Cần tự bồi dưỡng chuyên môn để nâng cao tay nghề,
có ý thức trách nhiệm cao trong việc dạy tích hợp liên mơn vào mơn Ngữ văn,
tích cực sưu tầm, tìm kiếm nhiều tư liệu, hình ảnh hay phục vụ giảng dạy.
- Về phía học sinh: Phải thực sự say mê môn học, tự học, tự đọc nhiều, có
ý thức tự tìm kiếm các tư liệu mà thầy cơ giáo cho…
10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng
kiến theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia
áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử (nếu có) theo các nội dung
sau:
10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
21

21



Việc áp dụng sáng kiến này đã đem lại chất lượng học sinh giỏi và đại trà
môn Ngữ văn lớp 9 khả quan cho nhà trường, nhiều năm gần đây tơi và đồng
nghiệp có được các giải cao trong các cuộc thi học sinh giỏi cấp tỉnh, cấp huyện,
chất lượng thi vào 10 cao hơn so với trước khi áp dụng sáng kiến này.
10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân:
Sáng kiến kinh nghiệm này của tôi không chỉ áp dụng cho việc dạy các
tác phẩm văn học hiện đại mà có thể áp dụng hầu hết các tiết dạy văn bản ở các
lớp 6,7,8,9.Đã có một số thầy cơ giáo cùng trường tôi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm này và cũng có kết quả cao trong các cuộc thi giáo viên giỏi cấp tỉnh,
cấp huyện; chất lượng học sinh đại trà, học sinh giỏi, học sinh thi vào lớp 10 cao
hơn trước khi áp dụng sáng kiến.
11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp
dụng sáng kiến lần đầu (nếu có):
TT
Tên tổ chức/cá
Địa chỉ
Phạm vi/Lĩnh vực
nhân
áp dụng sáng kiến
1
- Đã áp dụng sáng kiến vào
việc dạy học phân môn Văn.
2
- Đã áp dụng sáng kiến vào
việc dạy học phân môn Văn.
3
- Đã áp dụng sáng kiến vào
việc dạy học phân môn Văn.


22

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lý luận văn học - NXBGD - 1993- Hà Minh Đức 2. Phương pháp dạy học văn T1 –Nhà XB Giáo dục 1988.
3. Sách giáo khoa, sách giáo viên Ngữ Văn 9 - Nhà XB Giáo dục.
4. Sách giáo khoa, sách giáo viên Sinh học 7, 9 - Nhà XB Giáo dục.
5. Sách Sách giáo khoa, sách giáo viên Địa lý 7, 9 - Nhà XB Giáo dục.
6. Sách giáo khoa, sách giáo viên Lịch sử 9 - Nhà XB Giáo dục.
7. Sách giáo khoa, sách giáo viên Giáo dục công dân 7, 9 - Nhà XB Giáo
dục.
8. Chuẩn kiến thức kĩ năng môn Ngữ Văn - Nhà XB Giáo dục.
9. Bồi dưỡng Ngữ văn 9 - Đỗ Kim Hảo - Mai Xuân Miên - Trần Hà Nam Trương Tham 10. Một số thơng tin, hình ảnh trên mạng In-ter-nét.

23

23



×