Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

PHÂN TÍCH TIẾN TRÌNH ĐÀM PHÁN VIỆT NAM GIA NHẬP TPP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.52 KB, 33 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG
---o0o---

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN KỸ NĂNG ĐÀM PHÁN TRONG KINH DOANH
Đề tài:

PHÂN TÍCH TIẾN TRÌNH ĐÀM PHÁN
VIỆT NAM GIA NHẬP TPP

HÀ NỘI – 2021
1


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được xuất sắc học phần này, chúng em xin gửi lời cảm ơn chân
thành tới:
Ban giám hiệu trường Đại học Thăng Long đã tạo điều kiện về cơ sở vật chất
cũng như hệ thống giáo án các bài giảng mơn học để chúng em có cơ hội được học hỏi
và trải nghiệm những kiến thức mới.
Nhóm Lazada chúng em cũng xin chân thành cảm ơn tới thầy TS.Nguyễn Duy
Thành đã tận tình giảng dạy, giúp chúng em tiếp nhận kiến thức cơ bản và có hệ thống
về môn học Kỹ năng đàm phán trong kinh doanh. Qua những tiết học thú vị trên lớp,
chúng em đã tiếp thu được rất nhiều kiến thức. Từ đó chúng em có thể phân tích, đánh
giá và đưa ra giải pháp, quyết định cho các vấn đề kinh doanh trong doanh nghiệp.
Đây chắc chắn sẽ là hành trang vững chãi cho bọn em trong tương lai.
Chúng em đã rất cố gắng và dồn hết tâm sức để hoàn thành bài luận một cách
xuất sắc nhất. Tuy nhiên sẽ không tránh được sai sót, chúng em rất mong được thầy
góp ý, dành những lời khuyên quý báu để bài tiểu luận của chúng em được hoàn chỉnh
hơn.


Cuối cùng, chúng em xin chúc thầy sức khoẻ, có thật nhiều niềm vui và sự nhiệt
huyết trên giảng đường.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC


DANH MỤC HÌNH ẢNH

LỜI MỞ ĐẦU
Tồn cầu hố, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại đã và đang là xu
thế nổi bật của kinh tế thế giới đương đại, mỗi quốc gia nếu không muốn bị tụt lại phía
sau, cần bắt kịp xu thế đó. Trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước, nhất là từ
khi Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), nền kinh tế
Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới. Việc mở cửa nền kinh
tế trở thành động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần khơng nhỏ để
duy trì tốc độ tăng trưởng cao hàng năm của nền kinh tế Việt Nam. Những năm qua,
Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập
kinh tế quốc tế cùng với nỗ lực cải cách môi trường đầu tư, kinh doanh từng bước đưa
Việt Nam khẳng định được vị thế trên trường quốc tế và thu hút các nhà đầu tư.
Việt Nam cũng đã tích cực, chủ động tham gia các tổ chức kinh tế - tài chính và
các hiệp định thương mại. Đến nay, Việt Nam đã hoàn thành ký kết 15 FTA ở cấp độ
song phương và khu vực (trong đó đang thực thi 14 FTA, 1 FTA đã ký nhưng chưa có
hiệu lực), và đang đàm phán 2 FTA. Trong số đó, nổi bật nhất là 3 FTA thế hệ mới
gồm Hiệp định Đối tác Tồn diện và Tiến bộ xun Thái Bình Dương (TPP), Hiệp
định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) và Hiệp định
thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland
(UKVFTA) và 1 FTA có quy mơ lớn nhất thế giới trong khuôn khổ ASEAN là Hiệp
định Đối tác Kinh tế tồn diện khu vực (RCEP).

Trong đó đặc biệt nhất phải kể đến việc kí kết Hiệp định Đối tác Tồn diện và
Tiến bộ xun Thái Bình Dương (TPP), chính thức có hiệu lực đối với Việt Nam từ
ngày 14/1/2019. Sự kiện này giúp Việt Nam tăng cường mối liên kết cùng có lợi giữa
các nền kinh tế thành viên và thúc đẩy thương mại, đầu tư và tăng trưởng kinh tế trong
khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Vì nhận thấy được sự cần thiết của vấn đề này, những thành viên nhóm Lazada
đã lựa chọn đề tài: “Phân tích tiến trình đàm phán Việt Nam gia nhập TPP” để làm đề
tài nghiên cứu với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé vào sự nghiệp phát triển của
đất nước.


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH
DƯƠNG (TPP)
.1.

Tổng quan về TPP

Tháng 2 năm 2016, Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific
Strategic Economic Partnership Agreement - TPP), một Hiệp định thương mại tự do
giữa 12 nước thuộc hai bờ Thái Bình Dương, đến nay đã trải qua 19 vịng đàm phán
chính thức và nhiều cuộc gặp khơng chính thức. TPP được kỳ vọng sẽ trở thành một
khn khổ thương mại tồn diện, có chất lượng cao và là khuôn mẫu của thế kỷ 21.
Văn kiện TPP bao trùm rất nhiều vấn đề, từ các vấn đề thương mại truyền thống
(hàng hóa, dịch vụ, đầu tư…) đến các vấn đề thương mại chưa hoặc ít được đề cập
trong các FTA (mua sắm công, thương mại điện tử, doanh nghiệp nhà nước…) và cả
các vấn đề khác có liên quan đến thương mại (lao động, mơi trường…). TPP bao gồm
12 thành viên ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương là Hoa Kỳ, Canada, Mexico, Peru,
Chile, New Zealand, Australia, Nhật Bản, Singapore, Brunei, Malaysia và Việt Nam.
Cuối năm 2016, sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump đắc cử, theo chính sách
mới của Donald Trump, Mỹ đã chính thức rút khỏi hiệp định này. Sau khi Mỹ rút khỏi

TPP, 11 nước còn lại đã tiếp tục thúc đẩy và đạt được thoả thuận ký kết hiệp định TPP11 vào ngày 8-3-2018 tại thành phố Santiago (Chile), đồng thời thống nhất tên mới
cho hiệp định là CPTPP- Comprehensive and Progressive Agreement for Trans –
Pacific Partnership Agreement.

(Nguồn: Internet)
Hình 1. Hình ảnh minh hoạ Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
1.1.1. Quá trình hình thành của Hiệp định
Khởi đầu, Hiệp định TPP có 4 nước tham gia là Brunei, Chile, New Zealand,
Singapore và vì vậy được gọi tắt là Hiệp định P4.
Ngày 22 tháng 9 năm 2008, Hoa Kỳ tuyên bố tham gia vào P4 nhưng đề nghị
không phải trong khuôn khổ Hiệp định P4 cũ, mà các bên sẽ đàm phán một Hiệp định


hoàn toàn mới, gọi là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Ngay sau đó,
các nước Australia và Peru cũng tuyên bố tham gia TPP.
Năm 2009, Việt Nam tham gia TPP với tư cách là quan sát viên đặc biệt. Sau 3
phiên đàm phán, Việt Nam chính thức tham gia Hiệp định này nhân Hội nghị Cấp cao
APEC tổ chức từ ngày 13 đến ngày 14 tháng 11 năm 2010 tại thành phố Yokohama
(Nhật Bản).
Cùng với quá trình đàm phán, TPP đã tiếp nhận thêm các thành viên mới là
Malaysia, Mexico, Canada và Nhật Bản, nâng tổng số nước tham gia lên thành 12.
Trải qua hơn 30 phiên đàm phán ở cấp kỹ thuật và hơn 10 cuộc đàm phán ở cấp
Bộ trưởng, các nước TPP đã kết thúc cơ bản toàn bộ các nội dung đàm phán tại Hội
nghị Bộ trưởng tổ chức tại Atlanta, Hoa Kỳ vào tháng 10 năm 2015. Ngày 04 tháng 02
năm 2016, Bộ trưởng của 12 nước tham gia Hiệp định TPP đã tham dự Lễ ký để xác
thực lời văn Hiệp định TPP tại Auckland, New Zealand.
Tuy nhiên, vào ngày 30 tháng 01 năm 2017, Hoa Kỳ đã chính thức tuyên bố rút
khỏi Hiệp định TPP. Trước sự kiện này, các nước TPP cịn lại đã tích cực nghiên cứu,
trao đổi nhằm thống nhất được hướng xử lý đối với Hiệp định TPP trong bối cảnh mới.
Tháng 11 năm 2017, tại Đà Nẵng, Việt Nam, 11 nước còn lại đã thống nhất đổi

tên Hiệp định TPP thành Hiệp định CPTPP với những nội dung cốt lõi.
Ngày 08 tháng 3 năm 2018, các Bộ trưởng của 11 nước tham gia Hiệp định
CPTPP đã chính thức ký kết Hiệp định CPTPP tại thành phố San-ti-a-gơ, Chile.
Đối với Việt Nam, Hiệp định có hiệu lực từ ngày 14 tháng 01 năm 2019.
1.1.2. Mục tiêu
Mục tiêu mà TPP hướng tới là tạo điều kiện cho các quốc gia tham gia đàm
phán:
Thứ nhất, Tiếp cận thị trường một cách tồn diện, theo đó hàng hóa của các
nước thành viên được tiếp cận thị trường của nhau một cách dễ dàng hơn do ít nhất
90% các dịng thuế được cắt giảm ngay hoặc thực hiện với lộ trình rất ngắn xuống 0%.
Đồng thời, các hạn chế về dịch vụ được đồng loạt xóa bỏ nhằm tạo ra những cơ hội
mới cho người lao động và doanh nghiệp cũng như những lợi ích trực tiếp cho người
tiêu dùng.
Thứ hai, Xây dựng một hiệp định khu vực toàn diện nhằm tạo điều kiện thuận
lợi cho thương mại và phát triển chuỗi sản xuất và cung ứng giữa các thành viên TPP,
hỗ trợ mục tiêu tạo việc làm, nâng cao mức sống và cải thiện phúc lợi tại các nước
thành viên.


Thứ ba, hình thành khung hiệp định trên cơ sở những thỏa thuận đã thực hiện
trong khuôn khổ Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) và các
diễn đàn khác và bằng việc đưa vào TPP vấn đề mới và mang tính xun suốt gồm:
gắn kết mơi trường chính sách, năng lực cạnh tranh và tạo thuận lợi cho kinh doanh,
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển.
Thứ tư, coi các vấn đề mới nổi lên trong thương mại toàn cầu như một phần của
đàm phán TPP. Các công nghệ mới sẽ tạo ra những cơ hội mới cho thương mại và đầu
tư giữa các thành viên, đồng thời cũng làm nảy sinh những vấn đề thương mại mới
tiềm ẩn cần giải quyết để có thể thúc đẩy thương mại hàng hóa và dịch vụ, đảm bảo tất
cả các nền kinh tế các nước TPP đều được hưởng lợi.
Thứ năm, xây dựng TPP thành một hiệp định mở, cho phép hiệp định này tiếp

tục phát triển để đáp ứng những tiến triển mới trong thương mại, công nghệ hoặc các
vấn đề và thách thức mới.
1.2. Nội dung cam kết chính của Hiệp định TPP
Hiệp định Đối tác Tồn diện và Tiến bộ xun Thái Bình Dương TPP bao gồm 07
Điều và 01 Phụ lục, quy định chặt chẽ về mối quan hệ thương mại song phương và đa
phương giữa 11 nước thành viên.
Nội dung chính của Hiệp định TPP gồm 30 chương và 9 phụ lục và có những
cam kết về các vấn đề chính như sau:
Cam kết về cắt giảm thuế quan: Các thành viên TPP đưa ra cam kết về mở cửa
thị trường hàng hóa. Theo đó, các thành viên TPP đều cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu
đối với gần như toàn bộ Biểu thuế quan nhập khẩu của nước mình. Các cam kết mở
cửa thị trường được thể hiện chi tiết theo từng dịng thuế trong Biểu thuế nhập khẩu
của mỗi nước TPP.
Nhìn chung, phần lớn các nước TPP áp dụng một mức thuế nhập khẩu chung cho
tất cả các đối tác khác. Các nước áp dụng chung Biểu thuế quan nhập khẩu bao gồm
Australia, Brunei, Malaysia, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam. Trong khi
đó, một số nước khác áp dụng Biểu thuế nhập khẩu riêng cho từng nước TPP khác
nhau (Canada, Chile, Nhật Bản và Mexico). Tuy nhiên, một số nước trong nhóm này
như Chile và Canada chỉ áp dụng mức thuế nhập khẩu riêng với một số ít dịng thuế,
cịn lại thì áp dụng chung đối với phần lớn Biểu thuế. Về cơ bản, các cam kết về xóa
bỏ và cắt giảm thuế quan nhập khẩu trong TPP được chia làm ba nhóm chính: nhóm
xóa bỏ thuế nhập khẩu ngay, nhóm xóa bỏ thuế nhập khẩu theo lộ trình, nhóm áp dụng
hạn ngạch thuế quan (TRQ).


Cam kết về lao động: Hiệp định TPP là một hiệp định FTA thế hệ mới có quy
định nội dung về lao động, nhưng không đưa ra tiêu chuẩn riêng mà chỉ áp dụng theo
các tiêu chuẩn về lao động đã được nêu trong Tuyên bố năm 1998 về Những nguyên
tắc và quyền cơ bản trong lao động của ILO, thể hiện trong 8 Công ước cơ bản, bao
gồm các nội dung: (1) Quyền tự do liên kết và thương lượng tập thể của người lao

động và người sử dụng lao động (theo Công ước số 87 và số 98); (2) Xóa bỏ lao động
cưỡng bức và lao động bắt buộc (theo Công ước số 29 và số 105); (3) Cấm sử dụng lao
động trẻ em, xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất (theo Công ước số 138
và số 182); (4) Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử về việc làm và nghề nghiệp
(theo Công ước số 100 và số 111).
Cam kết về dịch vụ - đầu tư: Đối với lĩnh vực dịch vụ - đầu tư, các nước TPP
được quyền đưa ra các biện pháp bảo lưu trái với 4 nghĩa vụ chính của chương Dịch
vụ (Đối xử quốc gia, Đối xử tối huệ quốc, Tiếp cận thị trường, và Hiện diện tại nước
sở tại) và 4 nghĩa vụ chính của Chương Đầu tư (Đối xử quốc gia, Đối xử tối huệ quốc,
Yêu cầu thực hiện, và Quản lý nhân sự cấp cao và ban giám đốc) dưới hình thức là
một danh mục gọi là “Danh mục các biện pháp bảo lưu khơng thương thích với nghĩa
vụ chính của chương Dịch vụ và chương Đầu tư”, bao gồm 02 Phụ lục: bảo lưu các
biện pháp hiện hành và bảo lưu các biện pháp lâu dài.
Cam kết về mua sắm chính phủ: Mua sắm Chính phủ (MSCP) được hiểu là
khoản chi do một cơ quan nhà nước hoặc cơ quan do nhà nước ủy quyền thực hiện để
nhằm mục đích của chính phủ, do vậy, MSCP là một thị trường mà người mua gắn liền
với Nhà nước như cơ quan nhà nước, doanh nghiệp nhà nước. Hiệp định TPP đưa ra
các quy tắc, quy trình trong quá trình lựa chọn nhà thầu, tuy nhiên, ở mức độ u cầu
cao hơn về tính cơng bằng, cơng khai, minh bạch. Các nội dung chính của chương
MSCP bao gồm: Không phân biệt đối xử; Không sử dụng các biện pháp ưu đãi hàng
hóa hoặc nhà thầu trong nước; và Biểu cam kết mở cửa thị trường MSCP quyết định
phạm vi mở cửa của từng nước.
Cam kết về môi trường: Thúc đẩy sự tương hỗ lẫn nhau giữa các chính sách về
thương mại và mơi trường; tăng cường bảo vệ môi trường ở mức độ cao và thực thi
hiệu quả luật pháp về môi trường; tăng cường năng lực của các Bên để giải quyết các
vấn đề về môi trường liên quan đến thương mại, bao gồm cả việc thông qua hợp tác.
Chương Môi trường bao gồm khoảng 25 trang với 23 Điều khoản và 02 Phụ lục, điều
chỉnh hoạt động nhiều lĩnh vực và vấn đề mơi trường có liên quan đến thương mại.
Các quy định này đã được đưa vào thành những nghĩa vụ cam kết mang tính chất ràng
buộc và bắt buộc các nước thành viên phải thực thi thông qua việc sử dụng công cụ về

kinh tế, cụ thể là việc áp dụng cơ chế tham vấn và cơ chế giải quyết tranh chấp (có áp


dụng chế tài thương mại) đối với những vấn đề phát sinh hoặc các tranh chấp về mơi
trường có liên quan đến thương mại và đầu tư giữa hai hay nhiều Bên.
Cam kết về doanh nghiệp Nhà nước-doanh nghiệp vừa và nhỏ: Các nghĩa vụ
chính theo Hiệp định bao gồm: (1) Các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) phải hoạt
động theo cơ chế thị trường; (2) Các DNNN khơng được có hành vi phản cạnh tranh
khi có vị trí độc quyền, gây ảnh hưởng đến thương mại và đầu tư; (3) Minh bạch hóa
một số thơng tin như tỷ lệ sở hữu của Nhà nước, báo cáo tài chính đã được kiểm tốn
và được phép cơng bố; và (4) Nhà nước không trợ cấp quá mức, gây ảnh hưởng lớn
đến lợi ích của nước khác. Chương Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) đặt ra những
quy định nhằm tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp này được tham gia và tận dụng
được các cơ hội do Hiệp định TPP mang lại. Nội dung chính của chương này bao gồm:
nghĩa vụ chia sẻ thông tin, Thành lập Ủy ban DNVVN.
Cam kết về sở hữu trí tuệ: Các nước TPP tiếp tục khẳng định các mục tiêu của
Hiệp định TRIPS của WTO, khẳng định sự cần thiết phải bảo vệ và thực thi quyền sở
hữu trí tuệ để góp phần thúc đẩy đổi mới và chuyển giao và phổ biến công nghệ nhằm
nâng cao lợi ích xã hội và kinh tế. Các nước được tự do quyết định phương pháp thích
hợp trong việc thực hiện các quy định của Chương phù hợp với hệ thống pháp luật của
mình trong thực tế.
Cam kết về thương mại điện tử: 06 quy định chính liên quan đến thương mại
điện tử bao gồm: Không thu thuế nhập khẩu đối với giao dịch thương mại điện tử,
không phân biệt đối xử sản phẩm số (trừ các khoản trợ cấp nhằm triển khai các chương
trình của chính phủ và các chương trình phát thanh, truyền hình); tự do lưu chuyển
thơng tin qua biên giới bằng phương thức điện tử; không yêu cầu sử dụng hoặc đặt
trang thiết bị tại nước sở tại; hợp tác an ninh mạng; bảo lưu các biện pháp liên quan
đến an ninh, quốc phòng, trật tự công cộng, quyền riêng tư.
1.3. Quy định về hiệu lực, gia nhập và rút khỏi TPP
TPP là một hiệp định mở, cho phép kết nạp thêm thành viên mới, cho phép thành

viên hiện tại có thể rút khỏi Hiệp định với các điều kiện tương đối đơn giản.
Hiệu lực của TPP: Theo quy định tại văn kiện Hiệp định TPP thì Hiệp định này
sẽ chính thức có hiệu lực sau 60 ngày kể từ ngày có ít nhất 06 thành viên hoặc một nửa
số thành viên Hiệp định (tùy số nào ít hơn) thơng báo cho New Zealand (nước đóng
vai trò Cơ quan Lưu chiểu của Hiệp định) về việc đã hoàn tất các thủ tục pháp lý (phê
chuẩn) nội bộ của mình. Đối với các nước khơng thuộc nhóm đề cập ở trên, TPP sẽ có
hiệu lực với nước đó sau 60 ngày để từ ngày nước đó thơng báo với New Zealand về
việc hoàn tất thủ tục phê chuẩn nội bộ của mình.


Về việc kết nạp thêm thành viên mới, TPP cho phép bất kỳ quốc gia hoặc khu
vực lãnh thổ thuế quan nào nếu muốn đều có thể gia nhập Hiệp định, với điều kiện duy
nhất là thỏa thuận được về điều kiện và cách thức với tất cả các thành viên của TPP.
Về việc rút khỏi Hiệp định, TPP quy định nếu một nước Thành viên muốn rút
khỏi Hiệp định thì phải thơng báo bằng văn bản cho Cơ quan lưu chiểu (New
Zealand), đồng thời thông báo cho tất cả các thành viên khác của Hiệp định về việc rút
khỏi này. Việc rút khỏi sẽ có hiệu lực sau 06 tháng kể từ ngày gửi thông báo đến New
Zealand, trừ khi các bên có thỏa thuận khác. Hiệp định sẽ vẫn tiếp tục có hiệu lực với
các thành viên cịn lại.


CHƯƠNG 2. QUÁ TRÌNH VIỆT NAM GIA NHẬP TPP
2.1. Khái quát về tiến trình gia nhập TPP
Giao thoa giữa các nền kinh tế là một xu thế khách quan hiện nay, đó là sự đan
xen giữa các nền kinh tế cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Thương mại là một ngành
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, nhờ có thương mại mà việc mua bán, trao đổi
giữa các quốc gia được dễ dàng và cũng nhờ đó mà mối quan hệ giữa các quốc gia
được thiết lập ngày càng chặt chẽ. Việt Nam là một nước có nền kinh tế nhỏ bé, muốn
vươn lên trở thành một nước phát triển phải lựa chọn cho mình một con đường đi thật
vững vàng. “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các quốc gia trên thế giới, muốn hợp

tác kinh tế với tất cả các quốc gia trên thế giới”, điều đó nó thể hiện rất rõ khi Việt
Nam gia nhập Hiệp định đối tác thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP).
2.2. Việt Nam trước khi gia nhập
Việt Nam có nền kinh tế thị trường còn ở mức sơ khai, thiếu kinh nghiệm tổ
chức, quản lý một nền kinh tế đầy đủ, đặc biệt trình độ khoa học và cơng nghệ của Việt
Nam cũng đang ở vị trí thấp trong số các nước TPP. GDP năm 2014 bằng 0,66% GDP
của các quốc gia thành viên TPP, có tỷ trọng nơng nghiệp lớn nhất, và cũng là nền kinh
tế có trình độ phát triển thấp nhất, nhưng hiện tại lại có mức thuế quan nhập khẩu là
cao nhất. Được coi là một nước đang phát triển chiếm thiểu số trong các nước thành
viên TPP, đồng thời lại là nước xã hội chủ nghĩa duy nhất và chúng ta cũng vẫn đang
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, Quốc hội cũng đang bàn luận, ban hành luật mới
để sửa đổi các luật cũ.
Chúng ta đã phát triển mạnh quan hệ toàn diện và mở cửa buôn bán biên giới với
quốc gia láng giềng, gia nhập hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), tham gia
hiệp định mậu dịch tự do ASEAN, diễn đàn kinh tế-Thái Bình Dương (APEC); là sáng
lập viên Diễn đàn hợp tác Á-Âu (ASEM). Cùng với các nước ASEAN kí kết hiệp định
mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc, ASEAN - Hàn Quốc, ASEAN - Ấn Độ,
ASEAN - Úc và New Zealand. Ký hiệp định thương mại song phương với Hoa Kì
(BTA). Đây là những bước đi quan trọng trong quá trình hội nhập. Thực tiễn những
năm qua chỉ rõ: khi mở cửa thị trường, lúc đầu chúng ta cịn gặp nhiều khó khăn, hàng
hóa nước bạn tràn vào đẩy doanh nghiệp nước ta vào thế bị động, một số ngành sản
xuất “lao đao”, một số doanh nghiệp phải giải thể. Tuy nhiên với thời gian các doanh
nghiệp nước ta đã vươn lên trụ vững và đã có bước phát triển mới. Nhiều doanh
nghiệp đã đổi mới sản xuất, cải tiến kiểu dáng, mẫu mã, nâng cao chất lượng sản
phẩm, nhờ đó mà tăng được sức cạnh tranh, phát triển được sản xuất, mở rộng thị
trường.


Theo “hiệp định mậu dịch tự do ASEAN”, chúng ta đã loại bỏ được hàng rào phi
thuế quan, giảm thuế nhập khẩu. Biểu thuế nhập khẩu ASEAN có thuế xuất chỉ ở mức

0-5%, nhưng các ngành sản xuất của ta vẫn phát triển với tốc độ cao. Trong nhiều năm
qua, sản xuất nơng nghiệp tăng trung bình 15-16%/năm, kim ngạch xuất khẩu tăng
trung bình trên 20%/năm là nhân tố quan trọng đảm bảo tăng trưởng kinh tế cao và
liên tục, tạo thêm nhiều công ăn việc làm. Điều đặc biệt quan trọng có ảnh hưởng lâu
dài là tiến trình đổi mới kinh tế theo cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế, đã từng
bước xuất hiện lớp cán bộ trẻ có trình độ chun mơn cao, thơng thạo ngoại ngữ. Hiện
nay đã có một đội ngũ những nhà doanh nghiệp mới, có kiến thức, năng động và tự tin,
dám chấp nhận mạo hiểm, dám đối đầu cạnh tranh. Đây là nguồn lực q báu cho sự
nghiệp cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
2.3. Sự cần thiết phải gia nhập TPP
Gia nhập TPP, Việt Nam đứng trước rất nhiều cơ hội và nếu tận dụng thành công
sẽ tạo ra được sự thay đổi toàn diện cả về thể chất, chính sách, phân bố và sử dụng
hiệu quả các nguồn lực, vốn, tài nguyên, nhờ đó có thể hội nhập sâu rộng hơn khi được
gia nhập vào sân chơi lớn của khu vực. TPP là một bước ngoặt khác trong quá trình
hội nhập quốc tế của Việt Nam, gắn Việt Nam vào hội nhập sâu hơn vào mạng lưới
thương mại và sản xuất khu vực, từ đó đưa Việt Nam trở thành một đối tác kinh tế và
chiến lược quan trọng đối với các nước thành viên nhờ đó anh ninh, sự thịnh vượng
của Việt Nam sẽ trở thành một vấn đề quan tâm chung của khu vực.
TPP là một hiệp định toàn diện, chất lượng cao trên cơ sở cân bằng lợi ích và có
lưu ý tới trình độ phát triển khác nhau giữa các nước tham gia. Hiệp định được kỳ
vọng sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tại tất cả các nước tham gia; tạo việc làm, giảm
nghèo và nâng cao mức sống của người dân; thúc đẩy sáng tạo, nâng cao năng suất lao
động và sức cạnh tranh; thúc đẩy minh bạch hóa và quản trị tốt; đồng thời củng cố các
tiêu chuẩn về lao động và mơi trường.
Bên cạnh đó, tham gia vào TPP sẽ thúc đẩy quan hệ của Việt Nam chặt chẽ hơn
với Mỹ cũng như với các cường quốc khu vực khác, trong đó có Nhật Bản, để đối
trọng với Trung Quốc trên biển Đông. Điều này sẽ làm giảm sự phụ thuộc về quan hệ
thương mại của Việt Nam vào Trung Quốc. Do đó, khi TPP có hiệu lực, Trung Quốc
có thể vẫn còn là đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam trong tương lai nhiều thập
kỷ tới, tuy nhiên, ảnh hưởng kinh tế của Trung Quốc đối với Việt Nam theo đó cũng sẽ

suy giảm, nhờ đó tạo ra cho Việt Nam một vị thế chiến lược tốt hơn.
2.4. Quá trình ký kết
-

Năm 2007 Hoa Kì tiếp cận và bắt đầu tham gia thảo luận với các nước P4.


-

Năm 2008 Hoa Kỳ tham dự các cuộc họp đàm phán của P4 và các dịch vụ tài
chính đầu tư.

-

Tháng 9/2008 đại diện thương mại Hoa kỳ thông báo dự định nước này sẽ tham
gia đàm phán Hiệp Định Thương Mại Tự Do với P4.

-

Tháng 11/2008 Hoa Kỳ, Australia, Peru, Việt Nam thông báo sẽ cùng đàm phán
với các nước P4 nhằm đi đến ký kết một Hiệp định Thương mại “thế hệ tiếp
theo”.

-

Đầu năm 2009 Việt Nam nhận được lời mời tham gia TPP.

Năm 2009 việc khởi động các đàm phán TPP bị trì hỗn và đến tháng 12 đại diện
thương mại Hoa Kỳ thông báo lên Quốc Hội về việc tham gia đàm phán TPP.
2.4.1. Vòng đàm phán đầu tiên.

Vòng đàm phán đầu tiên diễn tại thành phố Melbourne, Australia (15-19/3/2010).
Các bên nhất trí trao đổi quan điểm, thu thập thông tin và soạn thảo tài liệu, với
sự tham gia của hơn 200 quan chức của Australia, Hoa Kỳ, New Zealand, Chile,
Singapore, Brunei, Peru và Việt Nam. Kết quả đạt được từ vòng đàm phán này đã đem
lại cho TPP một khởi đầu mạnh mẽ.
Các nhà đàm phán TPP trao đổi quan điểm về các vấn đề sẽ được đưa vào các
cuộc đàm phán và nêu ra các phương pháp tiếp cận mới đối với những trở ngại mà các
doanh nghiệp trong khu vực gặp phải và các lĩnh vực mới nổi của thương mại quốc tế
như dịch vụ, thương mại điện tử và công nghệ xanh. Hoa Kỳ đề nghị làm chủ nhà của
vòng đàm phán tới, dự định tổ chức từ ngày 14/6/2010. Các đối tác TPP cũng dự định
tổ chức các vòng đàm phán tiếp theo vào tháng 10 và 12 năm 2010, với mục tiêu đạt
được tiến triển đáng kể trước năm 2011.
2.4.2. Vòng đàm phán thứ 2.
Vòng đàm phán thứ 2 tại thành phố San Francisco, bang California, Hoa Kỳ (1418/6/2010).
Các bên tập trung thảo luận về cấu trúc của TPP và mối quan hệ của TPP với
Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) và đã đạt được những tiến triển đáng kể cả về cấu
trúc của Hiệp định cũng như hàng loạt các vấn đề cụ thể trong TPP. Các nước TPP
thống nhất rằng các Hiệp định thương mại song phương giữa các nước TPP sẽ tiếp tục
tồn tại song song với TPP, điều này sẽ giúp cho các doanh nghiệp lựa chọn sử dụng
hiệp định nào tốt hơn cho hàng hóa, dịch vụ hay đầu tư của mình. Các trưởng đồn
đàm phán cũng đạt được sự thống nhất về hàng loạt các vấn đề chung quan trọng của
thế kỷ 21 định hướng cho các cuộc đàm phán như:
- Thúc đẩy sự tham gia của các doanh nghiệp nhỏ vào thương mại;


- Giải quyết các vấn đề liên quan đến biên giới như giảm thủ tục hải quan;
- Thúc đẩy tính thống nhất pháp lý, bao gồm thơng qua khuyến khích hợp tác
giữa các cơ quan quản lý;
- Xem xét cách thức để tăng tính cạnh tranh của các nước đối tác TPP;
- Tập trung vào tính minh bạch trong quản lý và điều hành;

- Tính đến nhu cầu của các nước đang phát triển.
Ngoài ra, các nhà đàm phán TPP cũng đạt được các tiến triển về hàng loạt các
vấn đề truyền thống của FTA bao gồm hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, mua sắm chính phủ,
sở hữu trí tuệ, các rào cản kỹ thuật đối với thương mại, chính sách cạnh tranh, các vấn
đề pháp lý và xây dựng năng lực. Các nước TPP cũng nhất trí về chương trình làm việc
sắp tới theo đó các bên sẽ bắt đầu đàm phán dự thảo hiệp định vào vòng đàm phán thứ
3 tại Brunei.
2.4.3. Vòng đàm phán thứ 3.
Vòng đàm phán thứ 3 diễn ra tại Brunei (4-9/10/2010).
Các bên điều chỉnh nội dung hiệp định và đưa ra các gợi ý cho hoạt động hợp tác.
Các trưởng đoàn đàm phán hài lòng với tiến triển đạt được trong suốt tuần đàm
phán, tạo điều kiện chuẩn bị tốt cho vòng đàm phán thứ 4 sẽ được tổ chức tại New
Zealand vào tháng 12 năm 2010. 24 nhóm đàm phán đã gặp gỡ và thảo luận về các vấn
đề như hàng hóa công nghiệp, nông nghiệp, các tiêu chuẩn, dịch vụ, đầu tư , dịch vụ
ngân hàng, sở hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ, cạnh tranh, lao động và mơi trường.
Các nước TPP cũng tiếp tục đàm phán về các cam kết nền, bao gồm:
- Tăng kết nối thông qua tạo cơ hội tối đa hiệu quả của chuỗi cung ứng trong
khu vực;
- Tăng tính thống nhất về pháp lý trong khu vực;
- Tạo điều kiện để các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tận dụng được TPP.
Ngồi ra, một tọa đàm hỗ trợ kỹ thuật nhằm nâng năng lực về các vấn đề vệ sinh
dịch tễ, lao động và môi trường liên quan đến thương mại đã được tổ chức song song
với các cuộc đàm phán.
2.4.4. Vòng đàm phán thứ 4.
Vòng đàm phán thứ 4 diễn ra tại thành phố Auckland, New Zealand (610/12/2010).
Các nhóm chuyên gia soạn thảo nội dung cho từng chương của hiệp định với sự
tham gia của 9 nước (Australia, Brunei, Chile, Malaysia, New Zealand, Peru,
Singapore, Mỹ và Việt Nam), tiếp tục đạt được tiến bộ về tất cả các vấn đề đàm phán.



Các nước TPP cũng hoan nghênh sự tham gia lần đầu tiên của Việt Nam với tư
cách là thành viên đầy đủ sau khi Việt Nam tuyên bố chính thức tham gia TPP bên lề
Hội nghị các nhà lãnh đạo APEC tại Yokohama vào tháng 11 năm 2010, như vậy Việt
Nam đã hoàn tất các thủ tục cần thiết trong nước để chuyển từ thành viên vị thế thành
viên liên kết sang thành viên đầy đủ trong các cuộc đàm phán.
Với chỉ đạo từ các nhà lãnh đạo TPP nhằm kết thúc đàm phán càng sớm càng tốt,
các cuộc đàm phán đã diễn ra khẩn trương ở cả 24 nhóm đàm phán về các vấn đề như
hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ, cạnh tranh, các tiêu
chuẩn, dịch vụ tài chính, xây dựng năng lực, lao động và mơi trường.
2.4.5. Vịng đàm phán thứ 5.
Vòng đàm phán thứ 5 diễn ra tại thành phố Santiago, Chile (14-18/2/2011).
Các nước tổ chức từng phiên họp chuyên đề nhằm thảo luận về thuế quan với sự
tham gia của 9 nước Australia, Brunei, Chile, Malaysia, New Zealand, Peru,
Singapore, Hoa Kỳ và Việt Nam, tiếp tục những bước tiến mới nhằm đạt được một
Hiệp định thương mại khu vực toàn diện chất lượng cao thế kỷ 21.
Các bên cũng đồng ý trao đổi các bản chào về tiếp cận thị trường đối với dịch vụ,
đầu tư và mua sắm chính phủ trước vịng đàm phán tới. Các bản chào dịch vụ và đầu
tư sẽ được thực hiện trên cơ sở chọn bỏ, đối với tất cả các nước TPP.Các bên cũng
đang xem xét các đề xuất về các cam kết nền về các vấn đề chung, tập trung vào:
- Một đề xuất về tăng cường cạnh tranh và thúc đẩy kinh doanh trong khu vực;
- Làm thế nào để tăng cường sự tham gia của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vào
thương mại khu vực;
- Làm thế nào để làm sâu sắc thêm mối liên kết sản xuất và chuỗi cung ứng giữa
các nước TPP;
- Làm thế nào để tăng cường sự gắn kết giữa các hệ thống pháp luật của các
nước TPP nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho thương mại;
- Làm thế nào để thúc đẩy sự phát triển.
Vòng đàm phán tiếp theo của TPP dự định được tổ chức tại Singapore vào cuối
tháng 3/2011.
2.4.6. Vòng đàm phán thứ 6.

Vòng đàm phán thứ 6 diễn ra tại Singapore (24/3-1/4/2011)
Các bên tiếp tục đạt được các tiến triển về một hiệp định thế kỷ 21 chất lượng
cao. Các nhà đàm phán tại vòng đàm phán này tập trung vào thu hẹp khoảng cách về
vị thế trên Bản thảo và thảo luận các bản chào ban đầu về tiếp cận thị trường của các
nước. Bản thảo hiện tại đang được đưa ra thảo luận trong mỗi nhóm đàm phán và các


cuộc thảo luận đã đạt được kết quả trong việc làm rõ hơn và hài hòa các khoảng cách
về vị thế. Dự đốn rằng sẽ tiếp tục có các đề xuất mới được đưa ra trước hoặc trong
vòng đàm phán tới, các nhà đàm phán đã trao đổi danh sách các yêu cầu cải thiện các
bản chào ban đầu trước vòng đàm phán này và các bản chào thuế quan sửa đổi sẽ được
trao đổi trước vòng đàm phán tới tại Việt Nam.
Các cuộc thảo luận cũng đạt được các tiến triển về các cam kết nền về các vấn đề
chung, như gia tăng sự tham gia của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vào thương mại
quốc tế, tăng cường hài hòa pháp lý, thúc đẩy chuỗi cung ứng và sản xuất trong khu
vực. Vòng đàm phán tới của TPP dự định tổ chức tại Việt Nam.
2.4.7. Vòng đàm phán thứ 7.
Vòng đàm phán thứ 7 diễn ra ở thành phố Hồ Chí Minh (20-21/6/2011).
Với sự tham gia của các Đoàn đàm phán đến từ 9 nền kinh tế của 3 châu lục là
Australia, Brunei, Chile, Hoa Kỳ, Malaysia, New Zealand, Peru, Singapore và Việt
Nam. Theo thông tin từ các Trưởng đoàn đàm phán tại các sự kiện bên lề của Vòng
đàm phán thứ 7, đàm phán đang được tiến hành đồng thời, khẩn trương trên tất cả các
lĩnh vực và đang đi vào những nội dung thực chất. Một số lĩnh vực cụ thể như vấn đề
cắt giảm thuế đối với hàng nơng sản, sở hữu trí tuệ, mua sắm công, ưu tiên đối với các
nước đang phát triển...đang được đàm phán, một số lĩnh vực đã có những tiến triển
nhất định, một số vấn đề khác đang được nghiên cứu, tham vấn.
Cùng với quá trình đàm phán từ cấp chính phủ, một trong những sự kiện bên lề
vịng đàm phán đáng chú ý là một Diễn đàn dành cho các bên liên quan bao gồm Hiệp
hội, Doanh nghiệp, các nhóm lợi ích chung có thể trực tiếp bày tỏ quan điểm trước các
thành viên của Đoàn đàm phán. Dù Việt Nam là quốc gia tổ chức Vòng đàm phán thứ

7, hầu hết các Hiệp hội Việt Nam không tham gia trình bày quan điểm, chưa tận dụng
được cơ hội để các Đồn đàm phán hiểu thêm tình hình và thuyết phục họ chấp nhận
một mức độ cam kết phù hợp với lợi ích của ngành. Một lần nữa cho thấy sự thiếu chủ
động từ các doanh nghiệp, hiệp hội Việt Nam trong đàm phán thương mại quốc tế. Sau
vòng đàm phán thứ 7 tại Việt Nam, các vòng đàm phán tiếp theo dự kiến sẽ diễn ra tại
Hoa Kỳ vào tháng 9/2011 và Peru vào tháng 10/2011.
2.4.8. Vòng đàm phán thứ 8.
Vòng đàm phán thứ 8 diễn ra ở thành phố Chicago, Mỹ (6-15/9/2011).
Phiên đàm phán lần thứ 8 Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) diễn
ra tại thành phố Chicago, Mỹ đã đạt được nhiều tiến bộ quan trọng với việc các bên đã
đưa ra đề xuất cuối cùng cho nhiều lĩnh vực đàm phán, điều kiện tiên quyết để các bên
có thể bước vào giai đoạn đàm phán thực chất. Ngồi ra, cịn có những kết quả đáng


khích lệ trong đàm phán các vấn đề xuyên suốt toàn bộ hiệp định, là những vấn đề mới
xuất hiện như phương thức giúp đỡ các nước đang phát triển thực thi tốt TPP trong
tương lai, làm thế nào để chính sách của tất cả các nước tham gia TPP trong tương lai
có độ hội tụ nhất định, tạo ra một sân chơi bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp, tạo
thuận lợi cho sự phát triển của các chuỗi cung ứng trong khu vực....
Tại phiên đàm phán lần thứ 8, có khoảng 450 nhà đàm phán tham dự, chia làm
nhiều nhóm. Đồn Việt Nam có 30 thành viên tham gia đàm phán. Hiện chỉ còn hai
lĩnh vực là lao động và thương mại là chưa có đủ đề xuất cuối cùng của các nước tham
gia đàm phán, trong đó có Mỹ. Chúng ta hy vọng tại vịng đàm phán tiếp theo diễn ra
tại Peru vào nửa cuối của tháng Mười tới, các bên sẽ có được đề xuất cuối cùng cho tất
cả các lĩnh vực.
2.4.9. Vòng đàm phán thứ 9.
Vòng đàm phán thứ 9 diễn ra ở thành phố Lima, Peru (18-28/10/2011).
Sau 10 ngày đàm phán với 870 đại biểu tham dự, bao gồm các nhà đàm phán, các
bên liên quan và giới truyền thơng. Vịng đàm phán lần này tiếp tục đạt được các tiến
triển mới, đặc biệt ở một số chương về các vấn đề Vệ sinh và dịch tễ, Rào cản Kỹ thuật

đối với Thương mại và các Quy định về Nguồn gốc xuất xứ. Ngoài ra, có một số đề
xuất phức tạp và nhạy cảm cũng được đưa ra, bao gồm vấn đề sở hữu trí tuệ và tính
minh bạch. Mặc dù các bên đã cam kết đàm phán theo hướng xây dựng, những vấn đề
này sẽ mất khá nhiều thời gian để đạt được một kết quả mà có thể thỏa mãn được cả 9
bên. Cần lưu ý rằng bất kỳ thành viên TPP nào có quyền tự do đưa ra các đề xuất lựa
chọn của mình nhưng một đề xuất sẽ chỉ được thông qua nếu tất cả các thành viên
đồng ý. Đây là vòng đàm phán cuối cùng của TPP trước Hội nghị cấp cao APEC tại
Hawaii.
2.4.10. Vòng đàm phán thứ 10.
Vòng đàm phán thứ 10 diễn ra ở thành phố Kuala Lumpur, Malaysia (59/12/2011).
Chỉ có một vài nhóm đàm phán gặp mặt và làm việc trong suốt cả tuần, bao gồm
các nhóm đàm phán về nguồn gốc xuất xứ, dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ. Các nhóm
đàm phán về tiếp cận thị trường hàng công nghiệp, nông nghiệp và dệt may cũng có
buổi gặp mặt. Tất cả đều tạo nên những tiến bộ hơn nữa trong việc thu hẹp khoảng
cách giữa các vấn đề trong các bản dự thảo và đàm phán về các hiệp định tiếp cận thị
trường.
Các nhà lãnh đạo của 9 nước thành viên đã tuyên bố rằng đã đạt được một hiệp
định khung về TPP và thông qua báo cáo từ các bộ trưởng thương mại của các nước


TPP, bao gồm cam kết về một FTA toàn diện và tham vọng mà sẽ giúp xóa bỏ các
hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối với thương mại và đầu tư.
Các nước cũng yêu cầu các cuộc đàm phán phải đẩy nhanh hơn nữa để có thể đạt
được một thỏa thuận cuối cùng càng sớm các tốt. Để đạt được mục tiêu này, các
trưởng đoàn đàm phán ở Kuala Lumpur đã có cuộc gặp mặt để thảo luận về con đường
đi đến kết thúc đàm phán.
2.4.11. Vòng đàm phán thứ 11.
Vòng đàm phán thứ 11 diễn ra ở Melbourne, Australia (1-9/3/2012).
Đây là vòng đàm phán đầy đủ đầu tiên bao gồm tất cả các nhóm đàm phán kể từ
hội nghị các nhà lãnh đạo TPP tại Honolulu giữa tháng 11 năm ngối. Tại vịng đàm

phán lần này có 200 nhà đàm phán từ Australia, Brunei, Chile, Malaysia, New
Zealand, Peru, Singapore, Mỹ và Việt Nam.
Các nhóm đàm phán đã làm việc cùng nhau nhằm phát triển và thực hiện các kế
hoạch chi tiết để chấm dứt đàm phán. Đàm phán đã đạt được tiến triển đáng kể ở các
vấn đề như thống nhất pháp lý, minh bạch, cạnh tranh và tạo điều kiện cho kinh doanh,
lợi ích của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, và phát triển. Một số nhóm đồng ý gặp mặt
giữa kỳ để đẩy nhanh đàm phán.
Các cuộc đàm phán về tiếp cận thị trường đối với hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và
mua sắm chính phủ đều đạt được tiến triển. Một vài nước đã đệ trình bản chào sửa đổi
đối với dịch vụ, đầu tư và mua sắm chính phủ. Vịng đàm phán lần này cũng có sự
tham gia của hơn 250 bên liên quan tham dự một diễn đàn dành cho các bên liên quan
ngày 4 tháng 3 Các nhà đàm phán từ tất cả các nước TPP cũng tham dự diễn đàn này.
Vòng đàm phán tiếp theo của TPP sẽ diễn ra vào tháng 5/2012.
2.4.12. Vòng đàm phán thứ 12.
Vòng đàm phán thứ 12 diễn ra thành phố Dallas, bang Texas, Mỹ (8-18/5/2012).
Vịng đàm phán đã đạt được những tiến triển ngồi dự kiến. Các nhà đàm phán
của Hoa Kỳ thì vịng đàm phán lần này tiếp tục thụ hẹp được khoảng cách về quan
điểm giữa các nước và các nhóm đàm phán đã có thể nhìn thấy một con đường rõ ràng
để kết thúc phần lớn hiệp định gồm hơn 20 chương này. Một số ít nhóm đàm phán sẽ
tiếp tục thảo luận tại Texas về một vài vấn đề còn lại trong tuần.
Trong vòng đàm phán lần này, Hoa Kỳ đã đưa ra một hình thức mới, theo đó các
nhà đàm phán có thể tham gia vào diễn đàn bên lề vòng đàm phán với hơn 300 bên
liên quan từ Hoa Kỳ và các quốc gia TPP khác. Nhiều bên liên quan tận dụng cơ hội
này để thảo luận trực tiếp với các nhà đàm phán của 9 quốc gia trong một phiên họp
kéo dài 4 giờ. Nhiều bên liên quan nhận định rằng hình thức tham vấn mới này thực sự


hữu hiệu hơn khi cuộc đàm phán đang trong một giai đoạn cuối, cho phép họ cung cấp
những thông tin cần thiết cho các nhà đàm phán về các vấn đề cụ thể hiện còn đang
trên bàn đàm phán. Vòng đàm phán tới sẽ được tổ chức tại San Diego, California.

2.4.13. Vòng đàm phán thứ 13.
Vòng đàm phán thứ 13 diễn ra tại thành phố San Diego, bang California, Mỹ (210/7/2012).
Tại vòng đàm phán, các nhà đàm phán tiếp tục tiến đến kết thúc hơn 20 chương
của Hiệp định. TPP là một sáng kiến thương mại quan trọng của Chính quyền Obama
nhằm tạo công ăn việc làm cho người dân thông qua đẩy mạnh xuất khẩu sang khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương năng động, thúc đẩy sản xuất, sáng tạo đổi mới và hoạt
động kinh doanh. Đồng thời, Hiệp định cũng đề cập đến những vấn đề khác như quyền
của người lao động và mơi trường.
Chín quốc gia đàm phán cũng tiếp tục thảo luận chuyên sâu về các gói thuế quan
đầy tham vọng mà có thể giúp các quốc gia này tiếp cận thị trường của nhau trên các
lĩnh vực dệt may, nông nghiệp và công nghiệp. Họ cũng đã thảo thuận về việc làm thế
nào để thúc đẩy các chuỗi cung ứng trong khu vực nhằm tối đa hóa lợi ích của hiệp
định. Ngồi ra, họ cũng thảo luận về các cam kết cụ thể về tư do hóa thị trường dịch
vụ, một nội dung mà Hoa Kỳ và các quốc gia TPP khác đều nhìn thấy những cơ hội
tiềm năng mới từ hiệp định.
Nhận thấy vai trò quan trọng của việc lấy ý kiến cộng đồng làm nền tảng cho các
đàm phán, Hoa Kỳ đã tổ chức một diễn đàn bên lề vòng đàm phán cho hơn 300 bên
liên quan bao gồm đại diện của các ngành, các tổ chức phi chính phủ, các nhà nghiên
cứu và cơng chúng tham gia thảo luận và trình bày quan điểm của họ trước các nhà
đàm phán… Vòng đàm phán TPP lần thứ 14 sẽ được diễn ra tại Leesburg, Virginia.
2.4.14. Vòng đàm phán thứ 14.
Vòng đàm phán thứ 14 ở thành phố Leesburg, bang Virginia, Mỹ (6-15/9/2012).
Lần này tiếp tục tập trung vào giải quyết những vấn đề quan trọng mà vẫn còn
nhiều khác biệt trong quan điểm của các bên. Sau 10 ngày đàm phán, các nhà đàm
phán từ các nước đối tác TPP đã nỗ lực làm việc trên 29 chương của Hiệp định. Các
nhóm đàm phán đã đạt được những tiến triển ở một loạt các chương như tiếp cận thị
trường, hải quan, nguồn gốc xuất xứ, rào cản kỹ thuật đối với thương mại, các tiêu
chuẩn vệ sinh dịch tễ, dịch vụ xuyên biên giới, truyền thơng, mua sắm chính phủ và
các vấn đề khác.
Vịng đàm phán này cũng có sự tham gia của hơn 250 bên liên quan đại diện cho

93 tổ chức xã hội, doanh nghiệp, người lao động và các tổ chức phát triển khu vực


trong một diễn đàn dành cho các bên liên quan. Vòng đàm phán thứ 15 TPP sẽ được tổ
chức tại Auckland, New Zealand.
2.4.15. Vòng đàm phán thứ 15.
Vòng đàm phán thứ 15 ở thành phố Auckland, New Zealand (3-12/12/2012)
Các nhà đàm phán tiếp tục đạt được các tiến triển nhằm thu hẹp khoảng cách
giữa các nước về các vấn đề đàm phán. Theo đó các nhà lãnh đạo tái khẳng định ưu
tiên của họ nhằm đi đến kết thục một hiệp định thương mại toàn diện càng sớm càng
tốt và kết nạp các thành viên mới Canada và Mexico vào đàm phán. Các nhà lãnh đạo
của 11 nước TPP đã nhất trí mở cửa thị trường tồn diện cho hàng hóa và dịch vụ của
nhau ở tất cả các lĩnh vực. Ngồi ra, đàm phán về các gói thuế quan đối với hàng hóa
cơng nghiệp, nơng nghiệp, dệt may cũng như là nguồn gốc xuất xứ để phát triển chuỗi
cung ứng trong khu vực cũng đạt được thêm nhiều kết quả. Các sự kiện bên lề vòng
đàm phán cũng đã diễn ra với sự tham gia của hơn 300 bên liên quan đến từ các nước.
Vòng đàm phán thứ 16 của TPP sẽ diễn tại Singapore.
2.4.16. Vòng đàm phán thứ 16.
Vòng đàm phán thứ 16 diễn ra ở Singapore (4-13/3/2013).
Mặc dù các nhà đàm phán đã đạt được nhiều tiến triển trong một số lĩnh vực
nhưng đối với những lĩnh vực khó khăn nhất thì mới chỉ bắt đầu. Theo lịch trình hiện
tại, trước khi Hội nghị thượng đỉnh các nhà lãnh đạo cấp cao APEC diễn ra vào tháng
Mười sẽ có một vịng đàm phán TPP vào tháng Chín với mục tiêu đi đến kết thúc các
thảo luận. Tuy vậy, nhiều khả năng các quốc gia TPP sẽ cần thêm một vòng đàm phán
nữa vào tháng Bảy để tranh thủ đạt được nhiều thoả thuận hơn trước khi hội nghị
thượng đỉnh APEC diễn ra.
Một trong những vấn đề then chốt cần được giải quyết giữa Việt nam và Hoa Kỳ là
hàng dệt may và đã có một vài dấu hiệu tích cực trong vịng đàm phán này. USTR đã
đưa ra định nghĩa về "nguồn cung ngắn hạn" cho quy tắc xuất xứ nghiêm ngặt "từ sợi
trở đi" (yarn – forward) đối với dệt may mà Hoa Kỳ đề xuất trước đó. Về phía mình,

Việt nam ít nhất cũng thể hiện việc "sẵn sàng xem xét" hướng tiếp cận này. Việt Nam
thể hiện rõ ràng mong muốn được tìm hiểu kỹ càng hơn về những ngoại lệ này để xem
đó có phải là một "hướng đi tốt" hay khơng. Về vấn đề tiếp cận thị trường nói chung,
Hoa Kỳ và Việt Nam vẫn chưa đạt được một tiến triển đáng kể nào.
2.4.17. Vòng đàm phán thứ 17.
Vòng đàm phán thứ 17 diễn ra ở Lima, Peru (15-24/5/2013).
Với sự tham gia lần đầu tiên của Nhật Bản – nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới – vòng
đàm phán lần này được dư luận đặc biệt quan tâm bởi lẽ TPP được cho là một tiến


trình hội nhập thương mại kinh tế tham vọng nhất trong lịch sử khu vực châu Á -Thái
Bình Dương. Tuy nhiên, việc đạt được thỏa thuận, theo giới phân tích, sẽ rất khó khăn
vì TPP đang vấp phải sự phản đối của những người theo chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch,
trong khi những lợi ích mà nó mang lại chỉ có thể nhận thấy rõ ràng trong dài hạn.
Đồn đàm phán Việt Nam gồm 35 thành viên từ các Bộ, ngành liên quan do Thứ
trưởng Bộ Công Thương Trần Quốc Khánh, Trưởng đồn đàm phán Chính phủ dẫn
đầu đã tham gia phiên đàm phán này cùng với hơn 700 cán bộ đàm phán của 10 nước.
Tại Phiên đàm phán, các nước đã thảo luận những nội dung còn tồn tại trong
nhiều lĩnh vực và đạt được tiến bộ đáng kể trong các chương như các biện pháp vệ
sinh và kiểm dịch động thực vật, phòng vệ thương mại, thương mại điện tử, dịch vụ
xuyên biên giới, quy tắc xuất xứ, pháp lý và thể chế.
Đến nay, Việt Nam đã ký kết FTA với Brunei, Singapore, Malaysia (AFTA); với
Australia, New Zealand (trong Khu vực thương mại tự do ASEAN – Australia và New
Zealand được thiết lập bởi FTA và quan hệ kinh tế thân thiện toàn diện ASEAN –
Australia và New Zealand- AANZFTA) và với Nhật Bản (trong Khu vực thương mại
tự do ASEAN – Nhật Bản được thiết lập bởi Hiệp định đối tác Kinh tế toàn diện
ASEAN – Nhật Bản AJCEP). Ngoài việc ký kết và tham gia các FTA với tư cách là
thành viên khối ASEAN thì FTA đầu tiên mà Việt Nam ký kết với tư cách là một bên
độc lập là Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA năm 2008), tiếp đó
là FTA Việt Nam – Chile (năm 2011); hiện đang đàm phán FTA với Peru.

Trong các FTA khu vực, Việt Nam cam kết mức độ tự do hóa thương mại cũng
như cắt giảm thuế theo lộ trình nên khi TPP được ký kết thì hiện trạng thương mại
giữa Việt Nam với các nước này cũng sẽ không thay đổi. Riêng với Mỹ – đối tác
thương mại lớn nhất của Việt Nam (đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu) thì Việt Nam lại
chưa ký kết FTA với Mỹ, vậy cần lưu ý hơn đến các nội dung cam kết về cắt giảm thuế
quan, bãi bỏ các điều kiện đối với đầu tư dịch vụ để hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam sẽ
được ưu tiên hơn khi tiếp cận thị trường Mỹ, cũng như thị trường nước khác.
2.4.18. Vòng đàm phán thứ 18.
Vòng đàm phán thứ 18 diễn ra tại Malaysia.
Các nhóm đàm phán đã thảo luận về các vấn đề đầu tư, những quy định trái với
thỏa thuận về đầu tư, cạnh tranh, thâm nhập thị trường, nguồn gốc xuất xứ và những
rào cản kỹ thuật đối với thương mại. Vòng đàm phán thứ 18 diễn ra trong bối cảnh các
bên tham gia đàm phán đang nỗ lực đẩy nhanh đàm phán nhằm đạt được thỏa thuận
này vào cuối năm nay. Hơn 650 nhà đàm phán từ các nước Australia, Brunei, Canada,
Chile, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, Hoa Kỳ và Việt Nam tham


gia vòng đàm phán thứ 18 đều đưa ra cam kết về thời hạn chót kết thúc đàm phán vào
cuối năm 2013.
TPP đặt ra tiêu chuẩn rất cao ở các lĩnh vực như quyền sở hữu trí tuệ, nên cũng là
rất khó khăn cho các quốc gia như Malaysia và Việt Nam trong việc thỏa thuận về các
điều khoản liên quan đến doanh nghiệp nhà nước vốn đóng vai trị chủ chốt trong nền
kinh tế. Đoàn Việt Nam do Thứ trưởng Bộ Cơng Thương, Trưởng đồn Đàm phán
Chính phủ về kinh tế và thương mại quốc tế Trần Quốc Khánh dẫn đầu cùng đại diện
các Bộ, ngành liên quan đã tham dự phiên đàm phán.
Nhật Bản chính thức tham gia TPP vào ngày 23/7/2013
2.4.19. Vòng đàm phán thứ 19.
Vòng đàm phán thứ 19 diễn ra tại Brunei (22-30/8/2013).
Đàm phán sẽ tập trung vào một số lĩnh vực còn tồn đọng nhiều vấn đề quan trọng
mặc dù Đại diện Thương mại Hoa Kỳ Michael Froman cho rằng cuộc đàm phán đang

vào giai đoạn cuối. Các nước TPP tiến hành đàm phán thuế quan trên cơ sở song
phương thay vì đàm phán đa phương. Một nguồn tin công nghiệp cho biết các nước
TPP đang đặt mục tiêu kết thúc đàm phán phần lời văn của chương Tiếp cận thị trường
tại vòng đàm phán này.
Hoa Kỳ và Việt Nam đã sẵn sàng tham gia vào các thảo luận sâu hơn về mặt
hàng da giày so với trước đây, có thể tại vịng đàm phán thứ 19 này. Việt Nam đang
tìm kiếm mức thuế thấp hơn của Hoa Kỳ đối với hàng da giày nhập khẩu, mặc dù việc
giảm thuế bị các nhà sản xuất nội địa của Hoa Kỳ phản đối. Việt Nam cũng đang tìm
kiếm sự tiếp cận rộng hơn vào thị trường Hoa Kỳ cho các sản phẩm may mặc. Các
thảo luận đến thời điểm này chủ yếu tập trung vào quy tắc xuất xứ đối với hàng may
mặc, với việc Hoa Kỳ kiên quyết theo đuổi quy tắc “từ sợi trở đi”, sẽ ngăn cản Việt
Nam sử dụng sợi và vải từ các nước không thuộc TPP như Trung Quốc để hàng may
mặc đủ điều kiện hưởng cắt giảm thuế quan theo quy tắc này.
2.4.20. Vòng đàm phán bổ sung.
Vòng đàm phán bổ sung tại Singapore tháng 12/2013.
Mỹ là một trong những đối tác đàm phán khó tính nhất, cũng đã có động thái
muốn đẩy nhanh q trình đàm phán TPP và đại diện thương mại Mỹ đã có chuyến
thăm Việt Nam và gặp gỡ, trao đổi với các nhà lãnh đạo trong nước xung quanh vấn đề
này. Liên quan đến lợi ích cốt lõi của Việt Nam là xuất khẩu, trong đó có dệt may. Việt
Nam mong muốn được hưởng ưu đãi thuế quan (bằng 0%) ngay khi hiệp định có hiệu
lực, nhưng Mỹ và các thành viên TPP khác muốn trao đổi qua đàm phán. Nếu Mỹ và
các thành viên khác không giải quyết vấn đề hợp lý, Việt Nam sẽ không nhượng bộ


trong các lĩnh vực khác, bao gồm cả “quyết định chính trị”. Và khi đó, hiệp định TPP
sẽ vẫn bế tắc.
Các trưởng đoàn đàm phán họp tại thành phố Washington, Mỹ vào 9/2013.
Các bộ trưởng họp tại đảo Bali, Indonesia vào 10/2013.
Quan chức và các chuyên gia đàm phán tại thành phố Bắc Kinh, Trung Quốc vào
12/2014.

Trưởng các đoàn đàm phán gặp nhau tại thành phố New York, Mỹ vào 1/2015.
Các bộ trưởng họp tại bang Hawaii, Mỹ vào 7/2015.
Trưởng các đoàn đàm phán thảo luận tại thành phố Atlanta, bang Georgia vào
9/2015.
Trưởng đoàn của 12 nước thành viên TPP chính thức tuyên bố kết thúc đàm phán
và đạt được thoả thuận cuối cùng cho Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương tại
Atlanta, Hoa Kỳ (5/10/2015).
Việt Nam ký Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) tại Auckland,
New Zealand (4/2/2016).
Như vậy trải qua 5 năm đàm phán rất gay go, quyết liệt, các nước tham gia đàm
phán đã tháo gỡ những nút thắt trong tiến trình tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc
tế sâu sắc. Việt Nam đã chính thức gia nhập TPP là thành viên chính thức của Hiệp
định thương mại xun Thái Bình Dương, được đánh giá là một Hiệp định thế kỷ có
tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển của Việt Nam nói riêng và cộng đồng
kinh tế quốc tế nói chung.
Việt Nam là một trong những nước được đánh giá sẽ hưởng lợi lớn từ TPP, nhất
là các lĩnh vực dệt may, da giày, đồ gỗ… Việc tham gia TPP sẽ mở ra nhiều cơ hội cho
Việt Nam khi tham gia vào sân chơi chung của khu vực có tổng giá trị chiếm tới 40%
kinh tế toàn cầu và đóng góp cho GDP thế giới gần 300 tỷ USD mỗi năm.

(Nguồn: Reuters)


Hình 2. Lãnh đạo các nước TPP gặp mặt vào tháng 12/2014


CHƯƠNG 3. BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
3.1. Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam khi gia nhập TPP
“Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương, cơ hội và thách thức-Hành động của
chúng ta” của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng.


(Nguồn:VGP/Nhật Bắc)
Hình 3. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng
3.1.1. Cơ hội khi gia nhập TPP.
- Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế:
TPP giúp Việt Nam tăng thêm hơn 2% GDP vào năm 2030, thậm chí, tăng trưởng
có thể lên tới 3,5% GDP nếu có kích thích tăng năng suất. Ngồi tác động tích cực tới
tăng trưởng kinh tế, TPP có vai trị quan trọng trong việc chống lại chủ nghĩa bảo hộ
mậu dịch đang cản trở tăng trưởng thương mại toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh cuộc
chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc đang leo thang và có nguy cơ lan rộng.
Việt Nam cịn được tiếp cận những thị trường tốt hơn với thuế suất thấp hơn và
những thị trường mà hiện Việt Nam chưa ký kết hiệp định tự do thương mại. Hiệp
định sẽ bổ sung động lực cho mơ hình tăng trưởng dựa trên đầu tư và xuất khẩu của
Việt Nam.
- Cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu:
Tham gia TPP giúp Việt Nam đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, từ đó thúc đẩy
tăng trưởng nhiều ngành sản xuất trong nước. Dệt may và da giày được cho là những


×