Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Triết học cđ đức phép biện chứng duy tâm hêghen những giá trị và hạn chế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.3 KB, 30 trang )

Tên đề tài: Phép biện chứng duy tâm Hêghen - những giá trị và hạn chế
Mục lục


A. PHẦN MỞ ĐẦU
Hêghen là nhà biện chứng lỗi lạc của triết học cổ điển Đức. Ông cho rằng
“nguồn gốc của mọi sự vật hiện tượng tự nhiên và xã hội là ý niệm tuyệt đối. Từ
xuất phát này ông đã xây dựng một hệ thống triết học duy tâm khách quan”. Triết
học theo Hêghen là sự xem xét đối tượng một cách có suy nghĩ, “khơng thừa nhận
bất kỳ năng lực tinh thần nào của con người, đặt biệt năng lực quan trọng nhất là lý
tính”. Đối tượng của triết học theo ông là trùng với đối tượng của tơn giáo đó là
khách thể tuyệt đối vơ hạn Thượng đế. Cịn tư duy nói chung là cái làm cho con
người khác với động vật. Thành tựu quan trọng của triết học Hêghen là phương
pháp biện chứng mà hạt nhân hợp lý của nó là tư tưởng về phép biện chứng.
Đề tài tiểu luận này mục đích để nhận thức đúng những nét đặc thù đồng
thời cũng là để đánh giá chính xác hơn ý nghĩa của triết học Hêghen đối với sự
phát triển của tư tưởng triết học nói chung, một khi chúng ta tính đến kinh nghiệm
lịch sử từ lúc xuất hiện triết học đó cho đến nay. Đương nhiên khi xem xét các
quan điểm của những nhà triết học nổi tiếng qua các thời đại trước đây, chúng ta
tuyệt nhiên không được tô vẽ, không được hiện đại hóa quan điểm của họ. Đồng
thời chúng ta cũng không được ca ngợi, không được biện hộ một chiều các quan
điểm đã lỗi thời hoặc bị hạn chế bởi những điều kiện của lịch sử. Một mặt, khi xem
xét di sản của một nhà triết học thì khơng bỏ qua những hạn chế lịch sử những
khiếm khuyết sai lầm của nhà tư tưởng đó, phải đặt nó trong điều kiện lịch sử cụ
thể để có được những đánh giá khách quan và chính xác nhất. Làm tốt được điều
trên đối với hệ thống triết học Hêghen không phải dễ dàng, bởi vì triết học Hêghen
khơng những q đồ sộ và uyên bác về nhiều mặt mà còn chứa đựng trong chính
nó khơng ít những mâu thuẫn, những xu hướng khác nhau, và đó là lý do em chọn
đề tài này.



CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA HÊGHEN
1.1. Điều kiện lịch sử
Nước Đức ở nửa cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, được mở đầu từ hệ
thống triết học của I.Cantơ, trải qua Phíchtơ, Senlinh đến triết học duy tâm khách
quan của Hêghen và triết học duy vật nhân bản của Phoiơbắc. Chỉ trong một thời
kỳ lịch sử khoảng một thế kỷ, triết học cổ điển Đức đã tạo những tiền đề lý luận
hết sức quan trọng cho sự ra đời của triết học Mác vào giữa thế kỷ XIX.
Triết học cổ điển Đức ra đời trong một điều kiện lich sử hết sức đặc biệt.
Nước Đức vào cuối XVIII đầu XIX vẫn còn là một quốc gia phong kiến điển hình
với 360 quốc gia tự lập trong Liên bang Đức hết sức lạc hậu về kinh tế và chính trị.
Trong khi đó, ở nước Anh cuộc cách mạng công nghiệp,ở nước Pháp cuộc cách
mạng tư sản đã nổ ra làm rung chuyển Châu Âu, đưa châu Âu bước vào nền văn
minh cơng nghiệp.
Chính thực tại đau buồn của nước Đức và tấm gương của các nước Tây Âu
đã thức tỉnh tinh thần phản kháng của giai cấp tư sản Đức. Nhưng giai cấp này
sống rải rác ở hững vương quốc nhỏ tách rời nhau, nhỏ bé về số lượng, yếu kém về
kinh tế và chính trị, nên họ vừa muốn làm cách mạng, lại vừa muốn thoả hiệp với
tầng lớp phong kiến qúy tộc Phổ đang thống trị thời đó, giữ lập trường của mình
trong việc giải quyết những vấn đề phát triển của đất nước. Chính điều này đã quy
định nét đặc thù của triết học cổ điển Đức: nội dung cách mạng dưới một hình thức
duy tâm, bảo thủ,đề cao vai trị tích cực của tư duy con người, coi con người là một
thực thể hoạt động, là nền tảng và điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học.
Trên một ý nghĩa nhất định, triết học cổ điển Đức không chỉ là sự phản ánh
những điều kiện kinh tế - chính trị và xã hội nước Đức mà còn của cả các nước
Châu Âu lúc đó.


1.2. Sơ lược về triết học Hêghen
Georg Wilhelm Friedrich Hêghen, sinh ngày 27 tháng 8 năm 1770, mất năm
1831. Hêghen sinh tại Stuttgart vào ngày 27/8/1770, là con trai của Georg Ludwig

Hêghen, một nhân viên hải quan thuộc lãnh địa công tước của Wurttemburg. Là
anh cả trong số ba đứa con (em trai ông, Georg Ludwig, sớm qua đời lúc là một sĩ
quan trong quân đội Napoleon trong chiến dịch Nga), ông được nuôi dưỡng trong
một môi trường Tin Lành ngoan đạo. Mẹ ông dạy ông tiếng Latinh trước khi ông
tới trường, nhưng bà đã mất khi ông lên 11. Ơng rất gắn bó với chị mình,
Christiane, sau này bà thường gây nên những ghen tỵ thất thường trong vợ của ông
khi ông kết hôn vào độ tuổi 40 và đã tự vẫn ba tháng sau cái chết của ông. Hêghen
phải bận tâm rất nhiều đến chứng rối loạn thần kinh của chị ông và phát triển
những ý tưởng về tâm thần học dựa trên những khái niệm biện chứng. Hêghen đã
sớm thông thuộc các học giả kinh điển Hy lạp và La Mã cổ đại khi đang còn học
tại trường trung học Stuttgart và nắm rất rõ văn học và khoa học Đức. Cha ông cổ
vũ ông trở thành một giáo sĩ, và Hêghen đã vào trường dòng tại đại học Tübingen
năm 1788. Ở đó ơng đã phát triển tình bạn với nhà thơ Friedrich Holderlin và nhà
triết học Friedrich Wilhelm Joseph von Schelling. Đặc biệt là do ảnh hưởng từ
Holderlin, Hêghen đã phát triển một niềm say mê sâu sắc đối với văn học và triết
học Hy Lạp. Từ rất sớm và xuyên suốt cả cuộc đời, Hêghen đã ghi lại và nhớ tất cả
những gì ơng đọc – và số lượng ơng đọc thì nhiều vơ kể! Ơng khâm phục Goethe
và tự ln đặt mình thấp hơn những thiên tài đương thời ông, Holderlin và
Schelling. Nước Đức thời Hêghen cực kì lạc hậu về kinh tế, là một liên hợp do rất
nhiều quốc gia nhỏ và lạc hậu hợp lại, tương đối cách ly với những biến động sôi
nổi của châu Âu. Hêghen rất say mê đọc Schiller và Rousseau. Năm Hêghen 18
cũng là lúc nhà ngục Bastille bị đánh chiếm và Nền cộng hịa ra cơng khai ở Pháp,
Hêghen đã nhiệt tình ủng hộ cho cuộc cách mạng, và là thành viên trong một nhóm


ủng hộ được thành lập ở Tübingen. Hêghen hoàn thành tác phẩm vĩ đại đầu tiên
của mình, Hiện tượng học tinh thần vào ngay trước ngày xảy ra cuộc chiến quyết
định Jena, trong đó Napoleon đã phá tan quân đội Phổ và chia cắt Vương quốc đó
ra. Binh lính Pháp ập vào và đốt nhà của Hêghen ngay sau khi ông kịp nhét nốt
trang bản thảo cuối cùng của Hiện tượng học vào trong túi và ẩn náu vào nhà một

viên công chức cao trong thị trấn. Trong Hiện tượng học ơng cố gắng để hiểu được
nỗi kinh hồng cách mạng của những người Gia-cô-banh thông qua những lời phát
biểu của họ về Tự do. Hêghen ăn mừng ngày chiếm ngục Bastille trong suốt cuộc
đời mình.
Sau khi hồn thành khóa học về triết học và thần học và quyết định khơng
vào đồn mục sư, Hêghen đã trở thành một gia sư tư ở Berne, Switzerland. Vào
khoảng năm 1794, theo đề xuất của bạn ông Holderlin, Hêghen bắt đầu nghiên cứu
về Immanuel Kant và Johann Fichte nhưng những trước tác đầu tiên của ơng trong
thời kì này lại là Cuộc đời Jesus và Sự xác thực của đạo Cơ-Đốc.
Năm 1796, Hêghen viết Cương lĩnh đầu tiên cho một hệ thống duy tâm chủ
nghĩa Đức cùng với Schelling. Trong tác phẩm này có đoạn: “… quốc gia là một
cái gì đó hồn tồn máy móc – và khơng có ý niệm (phi vật chất) về một cái máy.
Chỉ cái gì là khách thể của tự do mới có thể gọi là “Ý niệm”. Do đó chúng ta cần
phải vượt quá quốc gia! Mọi quốc gia cần đối xử với những người tự do như những
cái răng trong một cái máy. Và đây chính là điều khơng nên xảy ra; do đó quốc gia
phải bị lụi tàn”. Năm 1797, Holderlin tìm được cho Hêghen một địa điểm ở
Frankfurt, nhưng hai năm sau đó cha ơng mất, giải thốt cho ơng khỏi nghề gia sư.
Triết học Hêghen là biểu hiện của sự phát triển đầy đủ nhất và rực rỡ nhất
của chủ nghĩa duy tâm cổ điển Đức. Hêghen là nhà tư tưởng của giai cấp tư sản
Đức, người thể hiện chính sách thoả hiệp về chính trị của giai cấp tư sản với giai


cấp phong kiến quý tộc Phổ. Quan điểm triết học của ông là hệ thống duy tâm cổ
điển cuối cùng, là trình độ cao nhất của sự phát triển phép biện chứng duy tâm.
Hêghen là nhà duy tâm khách quan. Ông coi tinh thần thế giới là cái có
trước, vật chất với tính cách dường như là sự thể hiện, sự biểu hiện cụ thể của tinh
thần thế giới, là cái có sau; tinh thần là đấng sáng tạo ra vật chất. Tinh thần thế giới
– ý niệm tuyệt đối tồn tại vĩnh viễn và chứa đựng dưới dạng tiềm năng tất cả mọi
hiện tượng của tự nhiên và xã hội. Nó là nguồn gốc và động của nó diễn ra qua các
giai đoạn khác nhau, ngày càng thể hiện đầy đủ nội dung bên trong của nó. Đầu

tiên nó trong bản thân nó, sau đó nó thể hiện dưới hình thức tự nhiên – thế giới vơ
cơ, hưu cơ và con người, tiếp nữa là thể hiện dứoi hình thức nhà nước, nghệ thuật,
tôn giáo và triết học. Theo hệ thống của Hêghen, tồn bộ thế giới mn màu, muôn
vẻ là sản phẩm của sự tự nhiên của ý niệm với tính cách là lực lượng sáng tạo, là
tổng hồ của mọi hình thức khác nhau của sự biểu hiện của ý niệm. Bởi vậy, học
thuyết của Hêghen coi tính thứ nhất là tinh thần, tính thứ hai là vạt chất. Đó cũng
chính là sự thể hiện riêng về mặt triết học những lời khẳng định của tôn giáo rằng
Thượng đế sáng tạo ra thế giới có trước giới tự nhiên, nó tự thiết định bản thân nó
và tự phân biệt với bản thân. Ý niệm tuyệt đối được hiểu như một đấng sáng tạo tối
cao sản sinh ra toàn bộ giới tự nhiên và con người; tất cả các sự vật, hiện tượng, từ
những sự vật tự nhiên cho đến các sản phẩm hoạt động của con người, đều được
coi là hiện thân của ý niệm tuyệt đối.
Ý niệm tuyệt đối là một thực thể biện chứng, luôn luôn vận động và phát
triển tự thân. Hêghen là người đầu tiên nhìn nhận tồn bộ giới tự nhiên, xã hội và
tư duy là một quá trình phát triển thống nhất, nhưng theo tinh thần duy tâm - coi sự
phát triển của ý niệm là nền tảng cho sự phát triển của tự nhiên và con người. Sự
phát triển của “Ý niệm tuyệt đối” được diễn đạt theo mơ hình Tam đoạn thức là:
chính đề - phản đề - hợp đề (theo quy luật phủ định của phủ định), trong đó các yếu


tố có mối liên hệ hữu cơ và chuyển hóa lẫn nhau. Sự phát triển của ý niệm tuyệt
đối được coi là hiện thân của quá trình phát triển lịch sử của nhân loại (chủ yếu là
phát triển của đời sống tinh thần mà biểu hiện cao nhất là tư tưởng), tuy được
Hêghen phân ra thành tám phần khác nhau nhưng theo C. Mác nó chỉ bao gồm qua
ba giai đoạn chính là: tinh thần thuần túy (tư duy), tinh thần khách quan (tự nhiên
và xã hội), tinh thần tuyệt đối (hoạt đông nhận thức và cải tạo thế giới của con
người).
Tinh thần thuần túy là giai đoạn ý niệm tuyệt đối tồn tại và phát triển trong
mình. Theo Hêghen, trong sự vận động biện chứng ý niệm tuyệt đối đã đạt tới sự
phát triển đầy đủ từ trước khi giới tự nhiên xuất hiện. Nó mang trong mình đầy đủ

những tính quy định sau này, giống như cái mầm cây mang sẵn trong mình tồn bộ
bản chất của cái cây như mùi, vị, hình dáng quả… Sự phát triển của tinh thần thần
túy là phi không gian và phi thời gian.
Sự phát triển của tinh thần thuần túy, khi đạt đến đầy đủ thì “tha hóa” ra
thành giới tự nhiên - tức “Tinh thần khách quan”. Như vậy giới tự nhiên chỉ là một
giai đoạn trong quá trình phát triển của ý niệm tuyệt đối, là sự “tha hóa” của ý
niệm, là “Hình thức tồn tại khác” của ý niệm. Hêghen giải thích: sở dĩ ý niệm tuyệt
đối tha hóa thành giới tự nhiên vì nó là một thực thể tinh thần, bản tính của nó là
ham hiểu biết, để hiểu biết về mình thì nó phải tha hóa ra thành một cái khác mình
nhưng vẫn là chính mình.
Con người được coi là sản phẩm, là giai đoạn phát triển cao nhất của ý niệm
tuyệt đối. Thông qua hoạt động nhận thức và thực tiễn cải tạo thế giới của con
người để ý niệm tuyệt đối tự nhận thức chính mình. Như vậy q trình nhận thức
của con người chẳng qua chỉ là quá trình tự nhận thức mình của ý niệm tuyệt đối.
Theo Hêghen, nhận thức khái niệm là dạng nhận thức cao nhất của con người.


Khái niệm được coi là bản chất tinh thần, là linh hồn của các sự vật: “Nếu như gọi
tri thức là khái niệm, còn bản chất hay chân lý - là tồn tại, tức sự vật, thì vấn đề là
xác định liệu khái niệm có phù hợp với sự vật hay khơng (giải thích: khái niệm với
tính cách là kết quả nhận thức?). Nếu chúng ta gọi bản chất (hay tồn tại - tự nó) của
sự vật là khái niệm và … sự vật là khái niệm như một sự vật (giải thích: khái niệm
có trước sự vật với tính cách là bản chất của sự vật) thì vấn đề là xác định liệu sự
vật có phù hợp với khái niệm của mình khơng. Hiển nhiên là hai cách hiểu trên đây
là như nhau. Khi nào con người nhận thức đầy đủ giới tự nhiên thì khi đó ý niệm
tuyệt đối sẽ quay trở về với chính nó, đó chính tà tinh thần tuyệt đối. Như vậy,
điểm khởi đầu của sự phát triển là tinh thần, nhưng đó là “Tinh thần thế giới” (phi
cá nhân) và điểm kết thúc của sự phát triển cũng là tinh thần, nhưng đó là “tinh
thần tuyệt đối” tồn tại ở mỗi các nhân con người. Nó biểu hiện dưới các hình thức
nhận thức tơn giáo, nghệ thuật và triết học của con người, trong đó triết học là hình

thức cao nhất. Như vậy hệ thống triết học của Hêghen là duy tâm khách quan và
siêu hình. Duy tâm khách quan ở chỗ nó thừa nhận tinh thần là có trước và quyết
định; siêu hình ở chỗ nó thừa nhận sự kết thúc của quá trình phát triển, cho rằng
khi con người nhận thức hết về giới tự nhiên thì nó khơng vận động, phát triển về
thời gian mà chỉ vận động trong không gian. Tương ứng với ba giai đoạn phát triển
của ý niệm tuyệt đối hệ thống triết học của Hêghen được phân ra thành ba học
thuyết: Khoa học lơgích - triết học tự nhiên - triết học tinh thần.
Coi tinh thần tuyệt đối là thực thể và bản chất của toàn bộ thế giới, trong đó
con người và xã hội là giai đoạn phát triển cao nhất, Hêghen cho rằng có ba hình
thức thể hiện nó, đó là: nghệ thuật, tơn giáo và triết học. Trong đó triết học là hình
thức biểu hiện cao nhất của tinh thần tuyệt đối.
Theo Ông, triết học là học thuyết về tinh thần tuyệt đối mà lịch sử nhân loại
(chủ yếu là lịch sử tư tưởng) là giai đoạn cao nhất của nó. Cho nên mỗi học thuyết


triết học là một giai đoạn phát triển của lịch sử tư tưởng nhân loại, thể hiện tinh
hoa tinh thần của thời đại, là thời đại thể hiện dưới dạng tư tưởng. Ông coi triết học
là “Khoa học của mọi khoa học”, cho nên nó đóng vai trị là nền tảng của toàn bộ
thế giới quan con người.
Lịch sử triết học cho chúng ta một bức tranh khái quát về tồn bộ tiến trình
phát triển của tư tưởng nhân loại. Đó khơng phải là sự sưu tầm các học thuyết triết
học, mà là là lịch sử phát triển của bản thân triết học theo những quy luật tất yếu:
“Lịch sử triết học chỉ ra, thứ nhất, tất cả các học thuyết triết học tưởng như khác
nhau đều thực chất chỉ là một triết học trên các giai đoạn phát triển khác nhau của
nó; thứ hai, những nguyên lý đặc thù, mà mỗi chúng là nền tảng của một hệ thống
nào đó, thực chất chỉ là những chi nhánh của cùng một chỉnh thể. Học thuyết triết
học cuối cùng, và do vậy cần phải chứa đựng các nguyên lý của tất cả chúng, cho
nên nó là học thuyết triết học phát triển nhất, cụ thể nhất”. Như vậy, đối tượng của
lịch sử triết học cũng chính là đối tượng của bản thân triết học; sự thống nhất giữa
chúng là sự thống nhất giữa lịch sử và lơgích.

1.2.2. Triết học tự nhiên
Triết học tự nhiên là sự nghiên cứu lý luận về giới tự nhiên. Giới tự nhiên
được Hêghen hiểu là một hình thức tồn tại khác của ý niệm tuyệt đối, nó nằm trong
q trình phát triển thống nhất của ý niệm tuyệt đối cho nên không ngừng vận động
và phát triển.
Tiếp thu những thành tựu khoa học tự nhiên ông khẳng định sự tồn tại nhiều
cấp độ khác nhau của vật chất như cơ học, vật lý, hóa học, sự sống… với những
đặc điểm khác nhau về bản chất và vận động. Tuy triết học tự nhiên là điểm yếu
nhất trong hệ thống của Hêghen, nhưng ông cũng đã nêu được nhiều tư tưởng biện


chứng sâu sắc về nó, thấy được sự thống nhất giữa vật chất với vận động, không
gian với thời gian…
1.2.3. Quan điểm về xã hội của Hêghen
Tuy coi lịch sử nhân loại là lịch sử phát triển của đời sống tinh thần, là hiện
than của ý niệm tuyệt đối theo tinh thần duy tâm, nhưng Hêghen đã nêu những tư
tưởng biện chứng sâu sắc về sự phát triển xã hội.
Hêghen giải thích nguồn gốc nhà nước khơng phải từ khế ước xã hội, mà từ
mâu thuẫn xã hội. Ơng khơng cho rằng con người sinh ra vốn đã bình đẳng, mà
ngược lại là bất bình đẳng. Do đó trong xã hội ln có sự khác biệt về đẳng cấp,
của cải… vì vậy cần có nhà nước để điều hồ mâu thuẫn. Ông cho rằng nhà nước
tồn tại vĩnh viễn, ở mọi thời kỳ lịch sử. Nó là hiện thân của ý niệm tuyệt đối, nhờ
nó mà gia đình và xã hội công dân mới tồn tại được. xét về bản chất, nhà nước
không chỉ là cơ quan hành pháp, mà còn bao gồm tổng thể các quy chế, kỷ cương,
chuẩn mực và mọi lĩnh vực đạo đức, pháp quyền, chính trị, văn hóa… Ơng coi Nhà
nước Qn chủ Phổ là đỉnh cao của sự phát triển xã hội, là “Nhà nước qn chủ
chân chính”, trong đó tất cả mọi người đều được tự do.
Ơng đề cao vai trị của chiến tranh, cho rằng nó tồn tại vĩnh viễn mà nhờ nó
các dân tộc mới “Tránh khỏi sự thối nát”. Ơng theo chủ nghĩa Sôvanh, đề cao dân
tộc Đức.

Hêghen coi lịch sử là sự thống nhất giữa tính khách quan và tính chủ quan.
Một mặt, lịch sử là q trình tất yếu, vận động theo quy luật khách quan, theo xu
thế thời đại. Nhưng mặt khác, lịch sử phải do các cá nhân, các dân tộc thực hiện.
Tuy nhiên, hoạt động của con người phải tuân thủ tính tất yếu, phải phù hợp với xu
thế của thời đại; vĩ nhân phải suy nghĩ và hành động theo những gì là hợp thời.


Ông coi phát triển tự do của con người là chuẩn mực, ưu việt của thời đại
này so với thời đại khác, tuy nhiên lại hiểu tự do một cách duy tâm. Ông coi “Tự
do là hiểu và làm theo ý Chúa”; “Lịch sử toàn thế giới là lịch sử tiến bộ trong ý
thức tự do”; “ Tự do là cái tất yếu đã được nhận thức”.


CHƯƠNG II: NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA PHÉP BIỆN
CHỨNG DUY TÂM HÊGHEN
2.1. Những giá trị của phép biện chứng duy tâm Hêghen
Hêghen là người đầu tiên xây dựng nên một phép biện chứng tự giác, có hệ
thống và tương đối tồn diện mà cốt lõi của nó là học thuyết về sự phát triển. Tuy
nhiên phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng duy tâm, là phép biện
chứng “lộn đầu xuống đất”. Các tư tưởng biện chứng được Hêghen trình bày trong
cả ba phần, nhưng tập trung nhất là trong “Khoa học lơgích”.
Đối tượng và nhiệm vụ của khoa học lơgích
Nghiên cứu các học thuyết lơgích học trước đó Hêghen chỉ ra hạn chế của
chúng là: Thứ nhất, tư duy với tính cách là đối tượng của lơgích học, mới chỉ được
hiểu theo nghĩa hẹp, đó là tư duy chủ quan trong phạm vi ý thức cá nhân. Thứ hai,
việc xác định ranh giới giữa lơgích học với các khoa học khác về tư duy như tâm lý
học, nhân bản học là chưa rõ ràng. Thứ ba, lơgích học trước đây chỉ dựa trên
những phạm trù bất động, khơng có sự liên hệ và chuyển hóa với nhau.
Hêghen cho rằng phải xây dựng một lơgích học mới. Tuy vẫn xác định
lơgích học là khoa học về tư duy, nhưng cần phải hiểu một cách biện chứng về tư

duy. Tư duy ở đây không phải là ý thức cá nhân, mà là tinh thần thuần túy (dưới
khía cạnh tơn giáo thì đó là Chúa). Như vậy, Hêghen phân biệt hai loại tư duy là:
thứ nhất, tư duy tự nó - tức ý niệm tuyệt đối, là nền tảng và bản chất của mọi tồn
tại; và tư duy cho nó - tức tư duy cá nhân con người. Tư duy con người là giai đoạn
cao nhất, trong đó ý niệm tuyệt đối có thể tự ý thức về mình, nên tư duy con người
phải hoạt động theo những quy luật khách quan chung của tư duy.


Giới tự nhiên cũng chỉ là hình thức biểu hiện khác của tư duy, là tư duy
khách quan vô thức. Chúng đồng nhất về nội dung, chỉ khác nhau về hình thức.
Như vậy, đối tượng của lơgích học là tư duy lơgích, nó là sự thống nhất giữa tư
tưởng và hiện thực, giữa tinh thần và vật chất, giữa chủ quan và khách quan. Cho
nên, “lơgích học vì vậy đồng nhất với siêu hình học – khoa học về các sự vật được
thể hiện trong tư tưởng”.
“Cái gì hợp lý, thì hiện thực và cái gì hiện thực, thì hợp lý”
Đây là ngun lý xuất phát của khoa học lơgích. Luận điểm này không chỉ
nhằm bảo vệ cho nhà nước quân chủ Phổ, mà chủ yếu là khẳng định rằng không
phải mọi cái đang tồn tại đều là hiện thực; cái hiện thực phải là cái tồn tại tất yếu:
“Tính hiện thực, trong sự phát triển của nó, tự biểu lộ ra là tính tất yếu”.
Ăngghen chỉ ra thực chất của luận điểm này là trong quá trình phát triển,
những gì trước đây là hiện thực thì nay trở thành khơng hiện thực, mất đi tính tất
yếu, mất quyền tồn tại và bị tiêu vong; những gì là hợp lý trong tư duy con người,
dù có mâu thuẫn với hiện thực bề ngoài cũng được quy định trở thành hiện thực.
Cho nên mệnh đề trên trở thành một mệnh đề khác: “Cái gì đang tồn tại đều đáng
tiêu vong”.
Theo nguyên lý trên của Hêghen, cần phải hiểu là: thứ nhất, các phạm trù tư
duy khơng phải là hình thức trống rỗng, chủ quan của tư duy mà còn là bản chất
của sự vật khách quan. Lênin nhận xét: “lơgích khơng phải là những hình thức bên
ngồi của tư duy, mà là học thuyết về những quy luật phát triển của “tất thảy mọi
sự vật vật chất, tự nhiên và tinh thần”, … tức là sự tổng kết, tổng số, kết luận của

lịch sử nhận thức thế giới”. Thứ hai, nó khẳng định sự thống nhất giữa tư duy và
tồn tại, tư tưởng và hiện thực như một quá trình phát triển biện chứng. Cho nên, để
thể hiện bản chất của tư duy các phạm trù, quy luật lơgích cũng phải không ngừng


vận động, phát triển, liên hệ và chuyển hóa lẫn nhau. Nhiệm vụ của khoa học
lơgích là phải đào thải những hình thức tư tưởng khơng thể hiện đúng bản chất của
tư duy sống động, trang bị phương pháp tư duy biện chứng để khám phá chân lý.
Ba yếu tố của tư duy
Hêghen coi tư duy là một quá trình phát triển biện chứng, bao gồm ba yếu tố
cơ bản là: giác tính, biện chứng và tư biện.
Giác tính: là yếu tố phù hợp với tư duy thông thường của mọi người. Tư duy
này cịn mang nặng tính trực quan, nên xem xét sự vật trong trạng thái cứng đờ,
tách rời các mặt đối lập với nhau, không thấy được sự thống nhất giữa chúng. Trình
độ này của tư duy tương ứng với giai đoạn trước I.Cantơ.
Yếu tố biện chứng: Hêghen hiểu phép biện chứng không phải là nghệ thuật
tranh luận, mà là học thuyết về sự phát triển của các khái niệm với tính cách là bản
chất tinh thần của mọi sự vật. Cho nên mọi sự vật vật chất và tinh thần đều phát
triển theo các quy luật biện chứng. Đó là q trình thống nhất giữa chất và lượng;
là quá trình nảy sinh và giải quyết mâu thuẫn và là sự phủ định của phủ định. Như
vậy, theo tinh thần phép biện chứng khơng có gì là đứng vững nổi, khơng có gì là
cố định, vĩnh viễn… Yếu tố này tương ứng với giai đoạn I.Cantơ.
Yếu tố tư biện: là sự thống nhất của hai yếu tố trên, đồng thời là kết quả phát
triển của chúng. Chỉ ở đây phép biện chứng mới đạt đến trạng thái chín muồi, khi
mà bản chất đích thực của mọi cái đều được biểu hiện ra là sự thống nhất và sự đấu
tranh giữa các mặt đối lập. Yếu tố này tương ứng với triết học của Hêghen.
Theo Hêghen, sự phân chia các yếu tố như trên chỉ mang tính chất tương đối
về không gian và thời gian. Trong thực tế chúng liên hệ mật thiết với nhau trong
từng giai đoạn phát triển của sự vật và khái niệm. Mối khái niệm, phạm trù lơgích



học và tồn bộ triết học nói chung đều chứa đựng đầy đủ cả ba yếu tố trên. Mỗi
phạm trù lơgích học thể hiện một khía cạnh hay một giai đoạn nào đó trong q
trình phát triển của tư duy.
Những nguyên lý cơ bản xác định điểm khởi đầu của khoa học lơgích
Q trình nhận thức phải đi từ hiện tượng đến bản chất, từ cảm tính đến lý
tính, cuối cùng mới đi đến khái niệm. Tương ứng với quá trình này Hêghen chia
khoa học lơgích ra thành ba học thuyết: học thuyết về tồn tại, học thuyết về bản
chất, học thuyết về khái niệm. Để xây dựng khoa học lơgích cần xác định điểm
khởi đầu của nó. Hêghen đã chỉ ra những nguyên lý cơ bản xác định điểm khởi đầu
của khoa học lơgích, đồng thời cũng là điểm khởi đầu của nhận thức lý luận nói
chung.
Một là, tính khách quan là nguyên lý hàng đầu, đòi hỏi các nhà nghiên cứu
phải xuất phát từ bản thân sự vật khách quan, phù hợp với từng sự vật chứ không
được tuỳ tiện, chủ quan.
Hai là, nguyên lý đơn giản và trừu tượng. Điểm khởi đầu phải là cái đơn
giản nhất, chưa hoàn thiện nhất, trừu tượng nhất. Như vậy Hêghen là người đầu
tiên đề xuất nguyên tắc đi từ trừu tượng đến cụ thể.
Ba là, nó phải chứa đựng mâu thuẫn cơ bản của tồn bộ hệ thống – đó là
mâu thuẫn giữa tinh thần và vật chất. Mâu thuẫn được coi là nguồn gốc của sự phát
triển, có mặt ở mọi sự vật vật chất và tinh thần. Hêghen đã chỉ ra cơ chế phát triển
của mâu thuẫn thông qua phạm trù bản chất.
Bốn là, Sự thống nhất giữa lịch sử và lơgích. Hêghen hiểu lơgích khơng phải
là sự khái quát lịch sử, mà ngược lại lịch sử chính là hiện than của lơgích. Cho nên
lơgích là có trước và quyết định đối với lịch sử (duy tâm).


Tóm lại, biện chứng của khái niệm nói riêng, của tồn bộ hiện thực vật chất
và tinh thần nói chung được hiểu là:
Thứ nhất, các khái niệm không chỉ khác nhau, mà cịn làm trung giới cho

nhau, có liên hệ mật thiết với nhau.
Thứ hai: Mỗi khái niệm đều nằm trong quá trình phát triển, được thực hiện
theo ba quy luật phổ biến là lượng - chất, mâu thuẫn và phủ định của phủ định.
Ý nghĩa của phép biện chứng duy tâm Heghen
Điều này là hoàn toàn hợp quy luật vì rằng nhiều vấn đề tuổi học hiện đại đã
được đặt ra ở các thời đại phát triển khác nhau xa xôi trước kia của triết học. Hơn
bất cứ một khoa học nào khác triết học kể cả các khuynh hướng mới về nguyên tắc
đều đòi hỏi phải dựa vào cội nguồn lịch sử kể từ khi mới hình thành và vào tồn bộ
tiến trình phát triển lịch sử của mình.
Nếu xem xét một cách cẩn thận và khoa học thì chúng ta thấy rằng các phạm
trù cơ bản của triết học vẫn giữ được ý nghĩa của chúng suốt nhiều thế kỷ mặc dù
nội dung của chúng có thể biến đổi và trở nên phong phú hơn rất nhiều.
Các tác phẩm triết học lớn đã tồn tại đã vượt qua được sự thẩm định hết sức
nghiêm khắc của các thời đại và cho đến hiện nay vẫn tiếp tục tỏ rõ vai trị của
chúng trong đời sống trí tuệ của nhân loại.
Lịch sử đã chỉ ra cho chúng ta thấy rằng từ trước đến nay các học thuyết triết
học có ảnh hưởng nhất vốn là kết quả của sự sáng tạo cá nhân của những nhà triết
học kiệt xuất bằng cách này hay cách khác ở mức độ này hay mức độ khác đều
được phục hồi ở các thời đại sau đó dù cho điều kiện lịch sử đã có những thay đổi
rất lớn chẳng hạn đó là học thuyết Platôn. học thuyết Arixtốt học thuyết R.Đêcáctơ
học thuyết I.Cantơ học thuyết G.Hêghen.v.v..


Trong nghiên cứu triết học cần hết sức chú ý một điều là khơng nên đi tìm
hoặc quy ảnh hưởng của một học thuyết triết học nào đó chỉ ở hoặc về một nhóm
các đồ đệ trực tiếp của nó nghĩa là vào một trường phái xác định nào đó. Và điều
này cũng hoàn toàn đúng với học thuyết của Hêghen. Chúng ta không cần phải mất
công sức chứng minh việc triết học Hêghen đã có ảnh hưởng vượt ra khỏi khuôn
khổ của thuyết Hêghen ra sao tức là khuôn khổ của một trường phái đã thừa nhận
các tiền đề xuất phát của hệ thống triết học Hêghen.

Xét một cách thật chặt chẽ thì học thuyết Hêghen hiện nay khơng phải là
một trào lưu tư tưởng triết học đáng kể. Mặc dù vậy sự quan tâm tới triết học
Hêghen đặc biệt là số lượng các cơng trình nghiên cứu về triết học không những
không hề giảm bớt mà trái lại cịn tăng lên liên tục. Hơn thế nữa có một điều khá
đặc biệt là các nhà nghiên cứu về di sản triết học của Hêghen thường lại không
phải là những người theo trường phái Hêghen. Một điều nổi bật khác ở đây là cả
các nhà duy tâm lẫn các nhà duy vật, cả những người bảo vệ chủ nghĩa duy lý lẫn
những người ủng hộ chủ nghĩa phi duy lý đều tích cực nghiên cứu triết học
Hêghen. Trong số các nhà triết học duy tâm lý giải triết học Hêghen và cố gắng
đồng hố các tư tưởng của ơng thì thậm chí chúng ta lại bắt gặp những người cố
gắng bảo vệ các khuynh hướng triết học hết sức xa lạ với học thuyết Hêghen chẳng
hạn chủ nghĩa hiện sinh. chủ nghĩa nhân cách triết học phân tích thần học biện
chứng.v.v..
Vậy thì điều gì ở trong học thuyết Hêghen đã và đang có sức cuốn hút các
nhà tư tưởng vốn theo đuổi những định hướng triết học rất khác nhau đó đến như
vậy?
Theo tơi đặt vấn đề này ra là cần thiết để nhận thức cho đúng những nét đặc
thù của các trào lưu triết học khác nhau đồng thời cũng là để đánh giá chính xác


hơn ý nghĩa của triết học Hêghen đối với sự phát triển của tư tưởng triết học nói
chung một khi chúng ta tính đến kinh nghiệm lịch sử từ lúc xuất hiện triết học đó
cho đến hơm nay.
Đương nhiên khi xem xét các quan điểm của những nhà triết học nổi tiếng
của các thời đại trước đây tuyệt nhiên chúng ta khơng được tơ vẽ khơng được hiện
đại hố các quan điểm đó của họ.
Đồng thời chúng ta cũng khơng được ca ngợi không được biện hộ một chiều
các quan điềm đã lỗi thời hoặc bị hạn chế bởi nhừng điều kiện lịch sử hoặc những
thiên kiến đương thời. Muốn vậy phải biết phận biệt những gì là giá trị trong di sản
triết học với những sự xuyên tạc hoặc lý giải tuỳ tiện về di sản đó. Một mặt, khi

xem xét di sản của một nhà tư tưởng thì không bỏ qua những hạn chế lịch sử
những khiếm khuyết và sai lầm của nhà tư tưởng đó: những mặt khác chúng ta cần
rút ra và nhấn mạnh những gì trong di sản đó đã vượt qua được thử thách ngặt
nghèo của thời gian đã trở thành một khâu hữu ích trong quá trình phát triển của tư
tưởng triết học.
Làm tốt được điều trên đây đối với triết học Hêghen khơng phải là dễ dàng.
Bởi vì triết học Hêghen khơng những quá đồ sộ quá bách khoa quá uyên bác về
nhiều mặt mà cịn chứa đựng trong mình nó khơng ít những mâu thuẫn những xu
hướng khác nhau kể cả các xu hướng bài trừ nhau. Những cái đó một phần là
nguyên cớ một phần cũng là căn cứ cho những cách lý giải hết sức khác nhau đối
với học thuyết Hêghen.
Cho dù có những ý kiến đánh giá khác nhau về triết học Hêghen song không
thể phủ nhận được rằng cái có giá trị nhất và có sức sống mạnh mẽ nhất trong triết
học của ơng chính là phép biện chứng mà thực chất đó là học thuyết về sự phát
triển toàn diện với tư cách là sự vận động tiến tới và sự chuyển hoá về chất, với tư


cách là sự đi lên theo thang bậc lơgích có tuần tự về tính chất mâu thuẫn của sự
phát triển bao gồm sự tương tác giữa các mặt đối lập sự phủ định tồn tại hiện có và
đồng thời là sự giữ lại cái tích cực từ quá khứ.
Phép biện chứng hiện nay trở nên đặc biệt cấp bách là do tính chất biện
chứng trong sự phát triển của xã hội và của sự nhận thức khoa học hiện đại ngày
càng bộc lộ rõ nét hơn. Những chuyển biến mang tính lịch sử tồn cầu và vơ cùng
đa dạng đang diễn ra hết sức mạnh mẽ trong đời sống xã hội trên khắp hành tinh
chúng ta hiện nay. Bên cạnh đó trong sự phát triển của mình khoa học tự nhiên
hiện đại cũng đang vấp phải khơng ít các vấn đề biện chứng của chính sự phát
triển. Giờ đây sự tiến hoá của giới tự nhiên đang được nghiên cứu ở mọi cấp độ
cấu trúc. Quan điểm biện chứng về sự phát triển đã xâm nhập vào nhận thức khoa
học tự nhiên cả ở mức độ vĩ mô lẫn mức độ vi mô. Nguyên tắc phát triển thực sự
đã trở thành nguyên tắc phổ biến trong nghiên cứu khoa học.

Sự tiến bộ và những thành công tuyệt vời của sinh học mấy năm gần đây
đánh dấu bước ngoặt mới của sự xâm nhập ngày càng sâu hơn vào các bí mật trong
cấu trúc và trong sự phát triển của thế giới vật chất sống. Điều nổi bật nhất về mặt
này chính là ở chỗ sinh học phân tử ngày càng quay trở lại mạnh hơn với tư tưởng
về sự phát triển và sự tự phát triển.
Bí mật của sự tự phát triển của các cơ thể sống đang dần dần được mở ra qua
những thành công của kỹ thuật di truyền của công nghệ sinh học. Cơ sở phân tử và
dưới phân tử của sự phát triển cá thể và của sự tiến hố nói chung vì vậy đang thù
hút mạnh mẽ trí tuệ của nhiều nhà sinh học và nhiều phịng thí nghiệm lớn của thế
giới hơn bao giờ hết.
Nguyên tắc phát triển đang trở thành nguyên tắc cơ bản của toàn bộ nhận
thức sinh học hiệp đại. Vai trò to lớn của của tư tưởng phát triển đối với sự tiến bộ


của khoa sinh thái học và của thực tiễn sinh thái ngày càng rõ nét hơn và hiển
nhiên hơn. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại đã làm bộc lộ
những mâu thuẫn của sự tiến bộ mà trong quá khứ thường được xem như là sự làm
chủ của con người đối với các lực lượng tự phát của tự nhiên như là sự thống trị
của con người đối với giới tự nhiên. Tiếc rằng trên thực tế sự làm chủ đó sự thống
trị đó khơng chỉ đem lại toàn những cái hay những điều tốt mà cịn gây nên cả
những tổn thất khơng nhỏ cho chính con người lẫn cho giới tự nhiên một khi con
người khơng kiểm sốt được nó. Đồng thời: việc áp dụng hợp lý các thành tựu
khoa học và công nghệ mới nhằm góp phần bảo vệ giới tự nhiên phát triển bản
thân con người thúc đấy sự phát triển xã hội trên nền tảng của chủ nghĩa nhân đạo
chỉ có thể thực hiện được một khi đặt chúng trong mối quan hệ biện chứng. Chính
sự biến đổi sự cải tạo môi trường tự nhiên và xã hội một cách hợp lý và trên cơ sở
nhân đạo là chiếc chìa khố để giải quyết các vấn đề bức bách đang được đặt ra
trước nhân loại.
Rõ ràng là việc vai trò của phép biện chứng tăng lên một cách đặc biệt
không phụ thuộc vào bản thân triết học Hêghen. Tuy nhiên chính học thuyết của

Hêghen là thứ triết học đã biến phép biện chứng thành trung tâm, thành hạt nhân
đích thực của toàn bộ hệ vấn đề triết học. Phép biện chứng được Hêghen lý giải là
phương pháp đúng đắn để nhận thức các vấn đề triết học. Phương pháp tư duy biện
chứng được ống nghiên cứu một cách đầy đủ nhất và có căn cứ vững chắc là
phương pháp chưa từng thấy trong lịch sử triết học trước Mác. Trong triết học
Hêghen phép biện chứng biểu hiện ra là lý luận nhận thức và là hình thức cao nhất
của lơgíc học của tư duy lơgíc. Đồng thời nó cũng chế định một thế giới quan đặc
biệt cần đặt trên niềm tin vào tính tất yếu của sự tiến bộ với tư cách là kết, quả của
sự phát triển hợp quy luật.


Do tính hạn chế của các điều kiện lịch sử và thiên hướng động hoà với trật
tự xã hội phổ hiện tồn thời đó mà Hêghen đã có những kết luận mâu thuẫn và
không nhất quán. Trái với các nguyên tắc xuất phát của mình. Hêghen đã đặt ra
một giới hạn cho sự phát triển của nhân loại kể cả cho sự phát triển của triết học
sau khi tuyên bố rằng học thuyết của mình là sự kết thúc tuyệt đối hoàn thiện của
tư tưởng triết học.
Nhưng ngay cả những điều ấy cũng không làm mất đi ý nghĩa tiến bộ của
các nguyên tắc biện chứng xuất phát của Hêghen. Phù hợp với chúng Hêghen quan
niệm lịch sử toàn cầu là sự tiến bộ trong nhận thức về tự do. Cho dù bản chất của
tự do có được hiểu khác nhau xong việc thừa nhận nó vẫn trở thành một trong
những tiêu chuẩn quan trọng của chủ nghĩa nhân đạo và về sự cơng bằng xã hội.
Đó chính là lý do tại sao sự quan tâm của nhiều nhà triết học hiện đại đến học
thuyết Hêghen trở thành sự quan tâm có cơ sở sâu sắc và mang ý nghĩa thiết thực.
Nhân đây cần phải nhắc đến sự đánh giá của C. Mác đối với phép biện
chứng của Hêghen vì chính C. Mác khơng những đã chỉ phê phán một cách sâu sắc
phép biện chứng của Hêghen mà còn cải tạo phép biện chứng đó xây dựng nên
phép biện chứng duy vật duy nhất và thực sự khoa học với mẫu mực tuyệt vời của
nó là tác phẩm chủ yếu của ơng - bộ "Tư bản". C.Mác viết: "Tính chất thần bí mà
phép biện chứng đã mắc phải ở trong tay Hêghen tuyệt nhiên không ngăn cản

Hêghen trở thành người đầu tiên trình bày một cách bao qt và có ý thức những
hình thái vận động chung của phép biện chứng ấy ở Hêghen phép biện chứng bị
lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện được cái hạt nhân
hợp lý của nó ở đằng sau lớp vỏ thần” .
Triết học duy vật biện chứng chính là giải pháp cho nhiệm vụ nghiên cứu đã
được C. Mác đặt ra đó C. Mác và Ph.Ăngghen khơng gán ghép hay hợp nhất một


cách đơn giản phép biện chứng của Hêghen với chủ nghĩa duy vật trước đó. trước
hết là chủ nghĩa duy vật của L. Phoiơbắc. Trên thực tế các ông đã phải tiến hành
một công việc hết sức phức tạp và đồ sộ là chỉnh lý cải tạo một cách duy vật đối
với phép biện chứng duy tâm của Hêghen: chỉnh lý và cải tạo một cách biện chứng
đối với chủ nghĩa duy vật máy móc và siêu hình.
Trong triết học Mác phép biện chứng và chủ nghĩa duy vật không phải là các
bộ phận cấu thành riêng biệt tách rời nhau mà chúng chuyến hoá lẫn nhau xâm
nhập vào nhau và tạo thành một chỉnh thế hữu cơ. Chủ nghĩa duy vật trong hệ
thống triết họe mácxít khơng những là lý luận mà còn là phương pháp nghiên cứu
duy vật. Đồng thời phép biện chứng mác xít khơng chỉ là phương pháp mà còn là
lý luận hơn thế nữa là lý luận hoàn thiện nhất đầy đủ nhất toàn diện nhất và không
phiến diện nhất về sự phát triển.
Cần phải đặc biệt nhấn mạnh rằng các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác khơng
bao giờ coi cơng việc của mình nhằm chỉnh lý và cải tạo một cách duy vật đối với,
phép biện chứng của Hêghen đã là hoàn tất. Trái lại cho đến tận cuối đời các ông
vẫn không ngừng nhắc nhở rằng cần phải có những nghiên cứu chuyên sâu và
những khái quát mới về phép biện chứng Hêghen. Điều mà tiếc thay các ông chưa
kịp thực hiện.
Noi theo tấm gương của C. Mác và Ph. Ăngghen. V. I . Lênin cũng kiên trì nhấn
mạnh về sự cần thiết phải tiếp tục công việc chỉnh lý một, cách duy vật đối với
phép biện chứng Hêghen. Trong bài viết "Về tác dụng của chủ nghĩa duy vật chiến
đấu" - tác phẩm được coi một cách xác đáng là di chúc triết học của Lênin - ông

kêu gọi thành lập "Hội những người bạn duy vật của phép biện chứng Hêghen" để
tiến hành cơng tác nghiên cứu giải thích và tun truyền phép biện chứng của
Hêghen: "Dựa vào cách của Mác đã vận dụng phép biện chứng của Hêghen hiểu


theo quan điểm duy vật chúng ta có thể và cần phải nghiên cứu phép biện chứng đó
trên tát cả các mặt".
Những chỉ dẫn rất: quan trọng và quý báu đó cũng đồng thời là những kết,
luận được chính Lênin rút ra từ các nghiên cứu riêng của ông về triết học Hêghen
và trước hết là về phép biện chứng Hêghen. Ngay từ giữa những năm 90 thế kỷ
XIX Lênin đã vạch ra một cách sâu sắc ý nghĩa xã hội của phép biện chứng
Hêghen của mặt cách mạng của nó mà thậm chí phái Hêghen mới đã bỏ qua trong
bài viết nhan đề "Phriđrích Ăngghen" Lênin viết: "Lịng tin của Hêghen vào lý tính
của con người và vào quyền lợi của con người và nguyên lý cơ bản của triết học
Hêghen cho rằng trong thế giới luôn diễn ra một q trình liên tiếp biến hố và
phát triển đã dẫn những học trò của nhà triết học ở Béclanh khơng muốn điều hồ
với hiện trạng đến ý nghĩ cho rằng ngay cả cuộc đấu tranh chống hiện trạng cuộc
đấu tranh chống bất công đang tồn tại và chống điều ác đang hoành hành cũng bắt
rễ từ quy luật phổ biến là sự phát triển không ngừng. Nếu mọi cái đều phát triển
nếu những thể chế này bị thể chế khác thay thế vậy thì tại sao chế độ chuyên chế
của vua phổ hay của Nga hoàng việc một thiểu số rất nhỏ làm giàu trên lưng tuyệt
đại đa số sự thống trị của giải cấp tư sản đối với nhân dân lại cứ tồn tại mãi?"Như
vậy tiềm năng cách mạng trong phép biện chứng của Hêghen đã được Lênin vạch
ra; tiềm năng đó biểu hiện nội dung cơ bản của nó: tính có quy luật nội tại của sự
phát triển sự đấu tranh giữa các mặt đối lập sự phủ định biện chứng với tư cách
một bậc thang tất yếu của sự phát triển.
Như mọi người đều biết trong những năm chiến tranh thế giới lần thứ nhất
cho dù phải bận tâm với cuộc đấu tranh chính trị trực tiếp với việc phải phân tích
q trình diễn tiến và sự chín muồi của cách mạng Nga. Lênin vẫn tìm được thời
gian để nghiên cứu một cách có hệ thống triết học Hêghen đặc biệt là "Khoa học

lơgíc" và "Những bài giảng về lịch sử triết học" của Hêghen. Các bản tóm tắt sâu


sắc và cô đọng về những tác phẩm thiên tài này tạo thành bộ phán đáng kể và hơn
nữa là bộ phận quan trọng nhất trong "Bút ký triết học" nổi tiếng của V.I. Lênin.
trong đó khơng những ơng đã vạch rõ sự phong phú tuyệt vời của các tác phẩm cơ
bản của Hêghen mà còn đưa ra các kết luận triết học mới góp phần làm phong phú
thêm chủ nghĩa duy vật biện chứng. "Bút ký triết học" của V.I. Lênin chứng tỏ đầy
sức thuyết phục rằng công việc chỉnh lý một cách duy vật đối với phép biện chứng
Hêghen cịn lâu mới hồn tất rằng trong lĩnh vực này sẽ có những nghiên cứu khám
phá và thành tựu mới. Trong khuôn khổ bài viết này chúng tôi không thể xem xét
một, cách thật sự có hệ thống và thật đầy đủ sự phân tích của Lênin về "Khoa học
lơgíc". Do vậy chúng tơi chỉ đề cập đến sự đánh giá chung và khái quát của Lênin
đối với học thuyết lơgíc của Hêghen. Thực chất của sự đánh giá này là: dưới hình
thức lộn ngược học thuyết Hêghen phản ánh bức tranh khách quan về thế giới.
Phân tích quan niệm của Hêghen về “ý niệm mà rốt cuộc hoá ra là giới tự nhiên.
Lênin viết: "Hêghen đã đoán được một cách tài tình biện chứng của sự vật (của
những hiện tượng của thế giới của giới tự nhiên) trong biện chứng của khái niệm".
Nói cách khác các quy luật phổ biến của sự phát triển của giới tự nhiên của
xã hội lồi người và của sự nhận thức khơng thể được mơ hình hố chỉ phù hợp với
các quy luật của một mình sự nhận thức của một mình tư duy như hệ thống Hêghen
giả định. Không thể rút ra các quy luật của tồn tại từ tư duy. Từ một thực tế là các
quy luật của tồn tại được phản ánh trong tư duy. Hêghen đã rút ra một kết luận sai
lầm rằng tồn tại thực chất là tư duy. Quan hệ hiện thực đã bị Hêghen thần bí hố bị
đặt lộn ngược chân lên đầu. Nhưng dù sao Hêghen cũng đã luận chứng theo kiếu
duy tâm luận điểm cho rằng các hình thức của tư duy là sự phản ánh các mối quan
hệ vốn có trong tự nhiên và trong xã hội không phụ thuộc vào tư duy. Quay trở lại
vấn đề này ở một chỗ khác. Lêmn viết: "Hêghen đã chứng minh rằng những hình
thức lơgíc và những quy luật lơgíc khơng phải là một cái vỏ trống rỗng: mà là phản



ánh của thế giới khách quan. Nói đúng hơn khơng phải ơng đã chứng minh như
vậy mà đã đốn thấy một cách tài tình như vậy".
Khi phân tích "Khoa học lơgíc" của Hêghen. Lênin thường xun đối chiếu
nó với "Tư bản" của Mác vì phương pháp luận của "Tư bản" là kết quả của một
việc làm đồ sộ là chỉnh lý theo cách duy vật đối với phép biện chứng duy tâm của
Hêghen. Trong tác phẩm cơ bản này của mình Mác đã nghiên cứu. thứ nhất sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản; thứ hai sự phát triển của nhận thức về kinh tế tư bản
chủ nghĩa (lịch sử của kinh tế học chính trị) và thứ ba sự phát triển của các phạm
trù kinh tế học mà thông qua đó việc nghiên cứu quan hệ sản xuất và trao đổi tư
bản chủ nghĩa được thực hiện.
Vạch ra sự thống nhất của bả mặt cơ bản nay (bản 'thể luận nhận thức luận
và lơgíc học) trong việc nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Lênin
đã đi đến một kết luận vô cùng quan trọng: "Mác không để lại cho chúng ta "lơgíc
học" (với chữ L. viết hoa), nhưng đã để lại cho chúng ta lơgíc của "Tư bản" và cần
phải tận dụng đầy đủ nhất lơgíc đó để giải quyết vấn đề mà chúng ta đang nghiên
cứu. Trong "Tư bản". Mác áp dụng lơgíc phép biện chứng và lý luận nhận thức . . .
của chủ nghĩa duy vật vào một khoa học duy nhất: mà chủ nghĩa duy vật thì đã lấy
ở Hêghen tất cả cái gì có giá trị và phát triển thêm lên" Nhờ trí tuệ uyên bác của
Mác mà phép biện chứng duy vật đã được tạo ra và với tất cả sự đối lập với
phương pháp Hêghen nó vẫn thừa nhận và nhấn mạnh sự giống nhau của mình với
phương pháp đó Như trên đã nói cho đến nay sự quan tâm đối với di sản triết học
của Hêghen vẫn không ngừng tăng lên. Phải coi đây là hiện tượng tích cực vì về
thực chất sự quan tâm ngày một tăng lên này là sự quan tâm không những đối với
thứ triết học đã tổng kết về mặt lý luận lịch sử biện chứng đã có từ trước đó mà cịn
là sự quan tâm đối với toàn bộ lịch sử nhận thức nói chung. Sẽ thật là ngây thơ nếu
như khơng nhận thấy rằng tuỳ thuộc vào định hướng khoa học và ý thức hệ mà các



×