Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM HÊGHEN & VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.3 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài số 10:
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM HÊGHEN &
VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA
TRIẾT HỌC MÁC
HVTH: Chương Minh Luân
STT: 34
Nhóm: 4
Lớp: Cao học Ngày 4 – K22
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12/2012
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
PHẦN MỞ ĐẦU
Một trong những cống hiến vĩ đại của Mác, Ănghen là để lại cho nhân loại
một di sản lý luận đồ sộ. Mục tiêu của Đảng ta hiện nay là: nghiên cứu học tập
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm cho học thuyết này chiếm vị trí
thống trị trong đời sống văn hóa, tinh thần của xã hội ta, làm cho chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động của Đảng Cách mạng Việt Nam. Do đó, việc học tập và nắm vững
triết học Mác – Lênin là vô cùng quan trọng. Một tài liệu tốt để học tập chủ nghĩa
Mác chính là nghiên cứu về tiền đề triết học của ông. Trong đó, triết học Hêghen
– đỉnh cao của chủ nghĩa duy tâm vào thời kỳ cuối của triết học cổ điển Đức - có
ý nghĩa rất to lớn, được Mác nghiên cứu một cách nghiêm túc và kế thừa xuất sắc
phương pháp biện chứng của Hêghen.
Với ý nghĩa đó, em cùng tập thể nhóm 4 quyết định lựa chọn đề tài “Phép
biện chứng duy tâm Hegel & vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác”
nhằm mục tiêu nghiên cứu nội dung và vai trò của triết học Hegel đến sự ra đời
của triết học Mác, từ đó giúp em hiểu sâu hơn về triết học của ông.


Xin chân thành cảm ơn thầy TS. Bùi Văn Mưa cùng các thầy cô trong ban
triết học, khoa lý luận chính trị, trường Đại học Kinh tế TPHCM đã biên soạn tài
liệu “Đại cương về lịch sử triết học – phần I” là nguồn tài liệu tham khảo chính
giúp em hoàn thành bài tiểu luận này.
Tuy em đã có nhiều cố gắng nhưng do hạn chế về kiến thức, thời gian và
nguồn tài liệu tham khảo nên các vấn đề nghiên cứu trong tiểu luận chắc chắn
còn nhiều thiếu sót, kính mong thầy chiếu cố. Em xin chân thành cảm ơn thầy.
CHƯƠNG I - TỔNG QUAN TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC
HÊGHEN
I.1. Tiểu sử Hêghen:
George Wilhelm Friedrich Hêghen ( 27/8/1770 – 14/11/1831) là một nhà
triết học người Đức, cùng với Johann Gottlieb Fichte và Friedrich Wilhelm
Joseph Schelling, Hêghen được coi là người sáng lập ra chủ nghĩa duy tâm Đức.
Hêghen là người có ảnh hưởng tới vô số các nhân vật, bao gồm cả những
người hâm mộ ông (Bauer, Mác, Bradley, Sartre, Küng) lẫn những người nói xấu
ông (Schelling, Kierkegaard, Schopenhauer, Nietzsche, Heidegger, Russell). Ông
bàn luận về mối quan hệ giữa tự nhiên và tự do, tính nội tại và sự siêu nghiệm, về
sự thống nhất của hai mặt mà không phải loại trừ hay giảm bớt thái cực nào.
Những khái niệm có tầm ảnh hưởng của ông là về Logic phân tích, Biện Chứng,
Chủ Nghĩa Duy Tâm Tuyệt Đối, tinh thần, biện chứng về "ông chủ/nô lệ", về
cuộc sống đạo đức và tầm quan trọng của lịch sử. Hêghen bị kết tội là cha đẻ của
Chủ nghĩa phát xít, dù nhiều người ủng hộ ông lại không đồng ý với quan điểm
này.
Dù thế nào đi nữa thì Hêghen vẫn là người có công lớn trong việc phát triển
triết học thế giới vì ông là người đầu tiên sử dụng phép biện chứng một cách có
hệ thống, chính nhờ vào phép biện chứng của Hêghen mà Mác đã có những
thành công rực rỡ trong việc phát triển lý luận Chủ Nghĩa Xã Hội khoa học, là
hạt nhân của Chủ Nghĩa Mác-Lenin ngày nay.
I.1. Bối cảnh ra đời triết học Hêghen:
I.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội và khoa học:

Nước Đức vào cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX vẫn còn là một quốc
gia phong kiến điển hình, với 360 tiểu vương quốc tự lập trong một liên bang
Đức chỉ còn là hình thức, lạc hậu về kinh tế và chính trị. Thủ công nghiệp, công
nghiệp, nông nghiệp bị đình đốn. Triều đình vua Phổ Phriđrich Vin Hem vẫn tăng
cường quyền lực duy trì chế độ quân chủ, cản trở đất nước phát triển theo con
đường tư bản chủ nghĩa. Cả đất nước bao trùm bầu không khí bất bình của đông
đảo quần chúng.
Trong khi đó ở nước Pháp đã tiến hành cuộc cách mạng tư sản, ở nước Anh
thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp làm rung chuyển châu Âu, đưa châu Âu
bước vào nền văn minh công nghiệp. Tấm gương của các nước Tây Âu đã thức
tỉnh tinh thần cách mạng của giai cấp tư sản Đức và những bộ phận tiến bộ khác
của xã hội Đức. Nhưng vì giai cấp tư sản Đức và những lực lượng tiến bộ khác
nằm rải rác ở những vương quốc nhỏ tách rời nhau, nhỏ bé về số lượng, yếu kém
về kinh tế và chính trị nên không thể tiến hành cách mạng tư sản trong thực tiễn,
mà chỉ tiến hành cách mạng về phương diện tư tưởng. Họ muốn thỏa hiệp với
tầng lớp phong kiến quý tộc Phổ, giữ lập trường cải lương trong việc giải quyết
những vấn đề phát triển đất nước.
Trước đòi hỏi của quá trình phát triển phương thức sản xuất tư bản ở các
nước Tây Âu, khoa học tự nhiên đã đạt nhiều thành tựu lớn: phát hiện ra điện,
phát hiện ra ôxy và bản chất sự cháy của Lavoadie; việc phát hiện ra tế bào của
Lơvenhuc; học thuyết về dưỡng khí của Pritski và Sielo Những thành tựu đó
chứng tỏ sự hạn chế của phương pháp tư duy siêu hình trong việc lý giải bản chất
của các hiện tượng tự nhiên và thực tiễn xã hội đang diễn ra. Nó đòi hỏi cần có
cách nhìn mới, phương pháp mới, quan niệm mới về vai trò và khả năng của con
người. Triết học cổ điển Đức ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu đó.
I.1.2. Đặc điểm của triết học cổ điển Đức:
Triết học cổ điển Đức chứa đựng một nội dung cách mạng nhưng hình thức
của nó cực kỳ “rối rắm”, bảo thủ. Đặc điểm này thể hiện rõ nét nhất trong triết
học của Cantơ và Hêghen.
Đề cao vai trò tích cực của hoạt động con người, coi con người là một thực

thể hoạt động, là nền tảng và điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học. Con người
là chủ thể đồng thời là kết quả của quá trình hoạt động của mình; tư duy và ý
thức của con người chỉ có thể phát triển trong quá trình con người nhận thức và
cải tạo thế giới.
Tiếp thu tư tưởng biện chứng trong triết học cổ đại, triết học Đức xây dựng
phép biện chứng trở thành phương pháp luận triết học độc lập với phương pháp
tư duy siêu hình trong lĩnh vực nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Giả
thuyết hình thành vũ trụ của Cantơ; việc phát hiện ra những quy luật và phạm trù
của Hêghen đã làm cho phép biện chứng trở thành một khoa học thực sự mang ý
nghĩa cách mạng trong triết học. Đây là một đặc điểm nổi bật của triết học cổ
điển Đức.
Với cách nhìn bao quát, biện chứng, nhiều nhà triết học Đức có tham vọng
xây dựng một hệ thống triết học vạn năng không những làm nền tảng cho thế giới
quan của con người mà còn trở thành một thứ khoa học của các khoa học. Do
vậy, trong học thuyết triết học của Cantơ, Duyrinh, Hêghen thường bàn đến
nhiều vấn đề như: khoa học tự nhiên, pháp quyền, lịch sử, luân lý, mỹ học.
I.2. Những tư tưởng triết học của Hêghen:
I.2.1. Hiện tượng luận tinh thần:
Hêghen thừa nhận tồn tại ý niệm tuyệt đối. Ý niệm tuyệt đối chính là nền
tảng của hiện thực, là sự đồng nhất giữa tư duy và tồn tại, giữa tinh thần và vật
chất, là Đấng tối cao sáng tạo ra giới tự nhiên, con người và lịch sử nhân loại. Ý
niệm tuyệt đối phát triển theo tam đoạn thức: “chính đề - phản đề - hợp đề”. Đó
cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn giữa cái vật chất và cái tinh
thần, giữa khách thể và chủ thể…trong ý niệm tuyệt đối. Theo Hêghen, ý thức con
người là sản phẩm của lịch sử nhân loại; còn lịch sử nhân loại là hiện thân của ý
niệm tuyệt đối, là đỉnh cao của ý niệm tuyệt đối trên trần gian. Trong Hiện tượng
luận tinh thần, Hêghen cũng cho rằng triết học là học thuyết về ý niệm tuyệt đối, là
khoa học của mọi khoa học, là khoa học vạn năng đóng vai trò nền tảng cho toàn
bộ thế giới quan và tư tưởng con người. Mỗi hệ thống triết học của một thời đại
đều là sự chắt lọc, kết tinh toàn bộ tư tưởng triết học trước đó. Do đó, triết học và

lịch sử triết học thống nhất với nhau để bao quát toàn bộ lịch sử phát triển của ý
niệm tuyệt đối.
I.2.2. Khoa học lôgích
Khoa học lôgích là bộ phận quan trọng nhất của hệ thống Hêghen, vì nó
nghiên cứu tinh thần tuyệt đối ở giai đoạn sơ khai nhất, nhưng là điểm xuất phát
và nền tảng của toàn bộ hệ thống. Cũng như các nhà lôgích truyền thống, Hêghen
coi lôgích là khoa học về tư duy, về những phạm trù và quy luật của tư duy. Tư
duy với tư cách là đối tượng của khoa học lôgích được Hêghen hiểu là tư tưởng
thuần túy, là tinh thần tuyệt đối. Hêghen phân biệt hai dạng tư duy: tư duy tự nó -
chính là tinh thần tuyệt đối tạo thành bản chất của toàn bộ hiện thực; tư duy cho
nó - tức tư duy con người, là tư duy tự nó ở giai đoạn phát triển cao nhất, là giai
đoạn tư duy có ý thức
Luận điểm xuyên suốt toàn bộ lôgích học cũng như hệ thống của Hêghen là
“ cái gì hợp lý thì hiện thực và cái gì hiện thực thì hợp lý”. Nhiệm vụ của khoa
học lôgích là đào thải những hình thức của tư tưởng không thể hiện đúng bản
chất đích thực của tư duy sống động, đồng thời vũ trang cho con người một
phương pháp tư duy biện chứng nhằm khám phá ra chân lý, đi tới tự do.
Hêghen đưa ra các nguyên lý cơ bản xác định điểm khởi đầu khoa học
lôgích: tính khách quan, buộc các nhà nghiên cứu không được coi xuất phát điểm
một cách tùy tiện theo ý muốn chủ quan của mình, mà phải tuân theo tính khách
quan tùy thuộc vào từng đối tượng nghiên cứu một cách cụ thể; đơn giản và trừu
tượng nhất: Mọi quá trình vận động khách quan đều theo xu hướng từ đơn giản
đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện tới chỗ ngày càng hoàn thiện hơn, cho nên điểm
khởi đầu phải là cái sơ khai nhất, chưa hoàn thiện nhất, trừu tượng nhất; nguyên
tắc mâu thuẫn khẳng định điểm khởi đầu phải là điểm xuất phát có khả năng phát
triển thành toàn bộ hệ thống, tức là phải chứa đựng mâu thuẫn cơ bản của toàn bộ
hệ thống – đó là mâu thuẫn giữa tinh thần và vật chất; nguyên tắc thống nhất giữa
tính lịch sử và tính lôgích trong việc xác định điểm khởi đầu: Hêghen coi khoa
học lôgích của mình là sự tổng kết toàn bộ tiến trình phát triển tư tưởng triết học
của nhân lịch.

Trong khoa học lôgích, Hêghen hiểu tư duy như một quá trình phát triển
biện chứng thể hiện như sự thống nhất của ba yếu tố sau:
- Thính giác: Đây là tư duy phù hợp với lối suy nghĩ thông thường của mọi
người. Tư duy này con mang nặng tính trực quan, xem xét mọi vật một cách
cứng đờ, tách rời những mắt đối lập mà nhận thấy sự thống nhất giữa chúng.
- Yếu tố biện chứng: Khác với các quan niệm truyền thống coi phép biện
chứng là nghệ thuật tranh luận, Hêghen hiểu đây là một khoa học về sự phát triển
của các khái niệm được ông đồng nhất với bản chất của sự vật. Phép biện chứng
là nguyên tắc của mọi vận động, mọi sự sống và mọi hoạt động trong phạm vi
hiện thực. Cái biện chứng còn là linh hồn của mọi nhận thức khoa học chân
chính
- Yếu tố tư biện: thực hiện như sự thống nhất hai yếu tố trên, đồng thời là
kết quả phát triển của chúng, chỉ ơ đây thì phép biện chứng mới đạt đến sự phát
triển chín muồi. Đây là giai đoạn thể hiện bản chất đích thực của mọi cái như sự
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Và ông tự coi triết học của mình
tương ứng với giai đoạn này trong sự phát triển của tư duy nhân loại.
Sự phân chia này chỉ mang tính tương đối còn trên thực tế chúng liên hệ
hữu cơ, không tách rời nhau trong từng giai đoạn phát triển của sự vật và khái
niệm. Chúng là những yếu tố của phép biện chứng – linh hồn sống của khoa học
lôgích.
I.2.3. Triết học tự nhiên
Theo Hêghen: là sự nghiên cứu lý luận giới tự nhiên được hiểu như tồn tại
khách quan của tinh thần, hay sự tồn tại của tinh thần dưới dạng các sự vật vật
chất. Thế giới chúng ta, theo cách hiểu của Hêghen, là một chỉnh thể thống nhất
trong đó mọi sự vật đều có mối liên hệ hữu cơ với nhau, không ngừng vận động
và phát triển.
Triết học tự nhiên của Hêghen gồm ba phần: thế giới cơ học, thế giới vật lý
học, thế giới các cơ thể sinh học. Ông đã nhìn thấy mối quan hệ khăng khít
không thể tách rời giữa vật chất và vận động. Theo ông “không có vận động nào
là vận động thiếu vắng vật chất và cũng không hoàn toàn giống như không có vật

chất nào là vật chất không vận động”. Tuy nhiên, ông chỉ dừng lại ở quan niệm di
dời vị trí trong không gian, hoặc sự lặp lại tuần hoàn của cái đã có từ trước. Và
những phạm trù trên vẫn bị ông giải thích một cách duy tâm.
I.2.4. Triết học tinh thần
Triết học tinh thần của Hêghen bao gồm học thuyết về tinh thần chủ quan,
học thuyết về tinh thần khách quan và học thuyết về tinh thần tuyệt đối. Tinh thần
chủ quan thể hiện sự tồn tại của mình trước hết trong linh hồn con người, sau đó
thể hiện trong ý thức để phân biệt với cơ thể, sau cùng thể hiện trong tri thức – cái
tinh thần bắt thế giới bên ngoài phục tùng nó. Trong khi đó, tinh thần khách quan
là sự phủ định biện chứng của tinh thần chủ quan. Ý niệm tuyệt đối thể hiện trong
pháp quyền, thông qua ý chí cá nhận. Khi cá nhân pháp lý trở thành chủ thể thì ý
niệm tuyệt đối thể hiện trong đạo đức học. Tinh thần khách quan hoàn thành quá
trình tự phát triển trong phong hóa, khi ý niệm tuyệt đối trở thành tự do trong các
hình thức sinh hoạt gia đình, xã hội công dân và nhà nước. Tinh thần tuyệt đối là
sự thống nhất giữa tinh thần chủ quan và tinh thần khách quan. Ý niệm tuyệt đối
lần lượt thể hiện và hoàn thiện trong nghệ thuật, tôn giáo, triết học. Đây chính là
các hình thức mà ý niệm tuyệt đối sử dụng để khám phá chính mình, quay về với
mình với cái khởi đầu trong tính toàn vẹn và đầy đủ của nó, trong đó, triết học là
quá trình nhận thức đầy đủ và trọn vẹn nhất của ý niệm tuyệt đối. Ý niệm tuyệt đối
quay về với mình trong học thuyết về tinh thần tuyệt đối.
Triết học tinh thần của Hêghen thực chất bàn về sự phát triển thức cá nhân
và thức xã hội; bàn về sự phát triển trí tuệ con người. Theo Hêghen, con người
vừa là chủ thể, vừa là kết quả hoạt động của mình,
nhận
thức và tư duy của con
người được hình thành trong chừng mực con người
nhận
thức và cải tạo thế
giới. Ý thức của mỗi cá nhân là sự khái quát lại toàn bộ
ý

thức mà nhân loại
đã trải qua. Hêghen đã thấy được
vai
trò của lao động đối với sự hình thành
và phát triển của ý thức. Lao động
đã
giải phóng hai tri thức của loài người,
đưa con người đi lên thẳng đứng,
tách
con người ra khỏi thế giới loài vật.
Cũng chính lao động, con người đã tạo
thức
ăn mới hoàn thiện não bộ. Trong
lao động, con người tác động vào thế
giới
xung quanh, bộc lộ những đặc
điểm, tính chất để con người nhận thức.
Cũng
chính trong quá trình lao động,
con người tự hoàn thiện chính bản thân
mình.
Vậy không có quá trình lao
động, con người không tách khỏi loài vật, bộ óc
con
người không hoàn thiện,
không nảy sinh nhu cầu nhận thức về thế giới,
không
có ý thức của con người.
Hêghen khẳng định ý thức và tư duy của con người
hình

thành trong chừng
mực con người nhận thức và cải tạo thế giới, chứng tỏ
rằng
đã bắt đầu thấy
vai trò của lao động đối với sự hình thành và phát triển ý
thức
và tư duy. Từ
đó Hêghen cho rằng: bằng cách đó, con người tác động vào giới
tự
nhiên, tạo ra
giới tự nhiên thứ hai cho mình và làm chủ giới tự nhiên. Theo Hêghen, con
người là sản phẩm của lịch sử, lịch sử lại mang tính kế
thừa.
Vì vậy, ý thức
của mỗi cá nhân, của mỗi con người là khái quát lại toàn bộ
lịch
sử mà tư
tưởng nhân loại đã trải qua. Nhà nước là hiện thân của ý niệm tuyệt đối. Nó ra
đời nhằm duy
trì,
bảo tồn các gia đình, xã hội và công dân. Nhà nước ra đời
từ những mâu
thuẫn
trong xã hội nhằm điều hòa mâu thuẫn các giai cấp, đẳng
cấp khác nhau. Bản
chất
của nhà nước là tổng thể các quy chế, kỷ cương về
chính trị, văn hóa, pháp
luật…
I.3. Nhận xét chung về hệ thống triết học Hêghen:

Một là, thế giới quan duy tâm là thế giới quan xuyên suốt toàn bộ nội dung
triết học Hêghen: Mọi sự vật, quá trình dù là vật chất hay tinh thần đều là hiện
thân của ý niệm tuyệt đối. Ý niệm tuyệt đối chi phối mọi sự sinh thành, tồn tại và
tiêu vong của hết thảy mọi cái trong thế giới. Vật chất, giới tự nhiên chỉ là sự tự
tha hóa, một sự tồn tại khác, một sản phẩm sơ cứng bất động của ý niệm tuyệt
đói mà thôi. Đề cao cái tinh thần, khẳng định tính quyết định của nó trong việc
đưa ra các phương thức giải quyết cho các vấn đề thuộc về lý luận cũng như thực
tiễn là tư tưởng chủ đạo được trình bày trong toàn bộ nội dung triết học Hêghen.
Hai là, phép biện chứng là linh hồn sống động của hệ thống triết học
Hêghen: Tư tưởng về mối liên hệ phổ biến và tư tưởng về sự phát triển là những
tư tưởng cơ bản xuyên suốt, là mạch suối ngầm thấm chảy qua toàn bộ hệ thống
của Hêghen.
- Phát triển là một quá trình thay đổi từ thấp lên cao, bằng cách chuyển hóa qua
lại giữa lượng và chất, do sự giải quyết những mâu thuẫn nội tại trong các
hình thức cụ thể của ý niệm tuyệt đối tạo nên. Trên cơ sở mổ xẻ quá trình tự
vận động của ý niệm tuyệt đối, Hêghen đã phát hiện ra các quy luật cơ bản
của phép biện chứng và các quy luật không cơ bản – các cặp phạm trù.
- Hêghen còn xây dựng các nguyên tắc của logic biện chứng, các quan điểm
biện chứng về nhận thức, ông đã đặt nền móng cho sự thống nhất giữa phép
biện chứng, logic học và nhận thức luận. Theo Hêghen, nhận thức phải đi từ
trừu tượng đến cụ thể, nhận thức lý thuyết phải thống nhất với hoạt động thực
tiễn. Chân lý phải mang tính cụ thể, tính quá trình và là sự phù hợp của khái
niệm với thực tiễn. Tuy nhiên, đối với Hêghen, nhận thức là khám phá ra ý
niệm tuyệt đối chứ không phải khám phá ra giới tự nhiên vật chất; và thực
tiễn không phải là hoạt động vật chất mà chỉ là những hoạt động tinh thần của
chủ thể sáng tạo ra tư tưởng mà thôi.
- Phép biện chứng của Hêghen không chỉ là lý luận biện chứng về sự phát triển
của thế giới ý niệm, mà còn là phương pháp biện chứng nghiên cứu thế giới ý
niệm. Thông qua phép biện chứng của ý niệm, Hêghen đã đoán được phép
biện chứng của sự vật, vì vậy, nó là phép biện chứng duy tâm.

Nhìn chung, phép biện chứng của Hêghen về thực chất là tích cực và cách
mạng, nhưng nó lại bị giam hãm trong hệ thống triết học duy tâm thần bí của
ông. Vì vậy, trong triết học của Hêghen, bên cạnh những nội dung biện chứng,
tiến bộ, vạch thời đại, khoa học và cách mạng lại có không ít quan điểm siêu
hình, phản động, phản khoa học và bảo thủ, tư biện; nghĩa là trong nó chứa đựng
nhiều mâu thuẫn.
CHƯƠNG II - VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC HÊGHEN ĐỐI
VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA CHỦ NGHĨA MÁC:
II.1. Triết học Hêghen là đỉnh cao của Triết học cổ điển Đức – nguồn gốc lý
luận của triết học Mác:
Triết học của Hêghen là hệ thống phong phú nhất trong lịch sử triết học
trước Mác. Hêghen đã tổng kết hầu như toàn bộ tư tưởng cũ ở Tây phương, trình
bày mọi chủ nghĩa với ý nghĩa lịch sử của nó, bộc lộ những mâu thuẫn nội bộ
xuất hiện trong tư tưởng ở mỗi giai đoạn, những mâu thuẫn ấy bắt phải thủ tiêu
hình thái cũ và tiến lên một trình độ cao hơn. Đỉnh cao của triết học Hêghen
chính là phép tư duy biện chứng mà ông để lại.
Tính cách mạng trong tư duy biện chứng của triết học Hêghen chính là đã
kết liễu vĩnh viễn tính tối hậu của những kết quả của tư tưởng và của hành động
con người. Theo Hêghen, chân lý mà triết học có nhiệm vụ phải nhận thức,
không còn là một tập hợp những nguyên lý giáo điều có sẵn mà người ta chỉ có
việc học thuộc lòng, một khi đã tìm ra được. Từ nay, chân lý nằm trong chính
ngay quá trình nhận thức, trong sự phát triển lịch sử lâu dài của khoa học tiến từ
trình độ hiểu biết thấp lên đến trình độ hiểu biết cao hơn, song không bao giờ đạt
đến điểm khiến cho nó không còn có thể tiến xa hơn nữa. Đó là điều xảy ra ở
trong lĩnh vực triết học cũng như ở trong mọi lĩnh vực nhận thức khác và cả
trong lĩnh vực hoạt động thực tiễn. Tương tự, lịch sử cũng không bao giờ có thể
đạt tới một sự hoàn tất tột cùng trong một trạng thái lý tưởng hoàn thiện của loài
người, nghĩa là, tất cả những chế độ lịch sử nối tiếp nhau chỉ là những giai đoạn
quá độ trong tiến trình vô cùng tận của xã hội loài người từ thấp đến cao. Mỗi
giai đoạn đề là tất yếu, và do đó là chính đáng trong thời đại và trong những điều

kiện đã sản sinh ra nó, song trong những điều kiện mới, cao hơn, đang dần dần
phát triển ở ngay trong lòng nó, nó sẽ trở nên không vững chắc và không chính
đáng. Giống như giai cấp tư sản, nhờ đại công nghiệp, cạnh tranh và thị trường
thế giới, đã thực tế phá tan tất cả các thể chế vững chắc vẫn được tôn sùng từ bao
thế kỷ. Như vậy, đối với triết học biện chứng, không có gì là tối hậu, là tuyệt đối,
là thiêng liêng cả. Nó chỉ ra – trên mọi sự vật và trong mọi sự vật – dấu ấn của sự
suy tàn tất yếu, và đối với nó, không có gì tồn tại ngoài quá trình không ngừng
của sự hình thành và sự tiêu vong, của sự tiến triển vô cùng tận từ thấp lên cao.
Bản thân nó cũng chỉ là sự phản ánh đơn thuần của quá trình đó vào trong bộ óc
biết tư duy.
Triết học Hêghen đã bao trùm một lĩnh vực hết sức rộng, rộng hơn lĩnh vực
của bất cứ hệ thống nào trước kia, và phát triển phong phú về tư tưởng mà ngày
nay người ta vẫn còn ngạc nhiên. Trong tất cả các lĩnh vực như hiện tượng học về
tinh thần, triết học lịch sử, triết học pháp quyền, triết học tôn giáo, mỹ học…,
Hêghen đều cố gắng phát hiện ra và chứng minh sự tồn tại của một sợi chỉ đỏ của
sự phát triển xuyên suốt các lĩnh vực ấy. Vì Hêghen không những chỉ là một
thiên tài sáng tạo, mà còn là một nhà bác học có tri thức bách khoa, nên trong
mọi lĩnh vực, những phát biểu của ông đã tạo thành thời đại.
II.2. Mâu thuẫn cơ bản trong triết học Hêghen là mâu thuẫn giữa phép biện
chứng với hệ thống triết học duy tâm:
Nếu phép biện chứng là mặt tiến bộ của triết học Hêghen, thì ngược lại, hệ
thống triết học của Hêghen lại duy tâm, siêu hình. Chính yêu cầu của hệ thống đã
dẫn Hêghen đến việc thừa nhận điểm cuối cùng trong nhận thức triết học và thực
tiễn lịch sử. Đặc điểm đó của triết học Hêghen phản ánh sự thỏa hiệp của giai cấp
tư sản Đức nhỏ bé, yếu hèn về kinh tế và chính trị không đủ sức làm cuộc cách
mạng tư sản như cuộc cách mạng tư sản Pháp (1789), mà chỉ mong muốn có
những cải cách ôn hòa của giai cấp thống trị.
- Hêghen đã phủ nhận sự phát triển trong giới tự nhiên. Ông bất chấp hay phủ
nhận nhiều thành tựu của khoa học tự nhiên bấy giờ nếu chúng không dung
hợp với ý niệm tuyệt đối.

- Hêghen coi nhà nước Đức, văn minh Đức là đỉnh cao của hiện thân tinh thần
tuyệt đối trên rần gian, là chuẩn mực cuối cùng mà mọi dân tộc trên thế giới
phải vươn đến.
- Hêghen coi, trong triết học Đức – triết học Hêghen, ý niệm tuyệt đối đã khám
phá ra chính mình từ cái không phải là mình để quay về với mình; do đó, tại
đây, mọi sự phát triển tiếp tục đều chấm dứt.
Chính những mâu thuẫn cơ bản trên đã nảy sinh ra những trường phái khác
nhau. Phái Hêghen già là phái bảo thủ bám lấy hệ thống của triết học Hêghen;
phái Hêghen trẻ là phái bám lấy phương pháp biện chứng của triết học Hêghen.
Cuộc đấu tranh của hai phái này xoay quanh hai vấn đề tôn giáo và chính trị.
Mặc dù là phái cấp tiến, nhưng phái Hêghen trẻ vẫn chưa thoát khỏi mâu thuẫn
cố hữu của triết học Hêghen, vì phái Hêghen trẻ đề cao vai trò của “tự ý thức”,
coi “tự ý thức” có vai trò to lớn đối với hiện thực. Tuy nhiên, đông đảo những
người kiên quyết nhất trong phái Hêghen trẻ bị những tất yếu thực tiễn của cuộc
đấu tranh của họ chống lại tôn giáo hiện có, bị kéo trở về chủ nghĩa duy vật Anh-
Pháp.
Thành tựu mà triết học Hêghen mang lại – phép biện chứng tư duy – là một
cống hiến vĩ đại cho kho tàng tư tưởng của nhân loại, tuy nhiên, tư tưởng này của
ông lại bị hạn chế bởi hệ thống triết học duy tâm thần bí. Như vậy, cứu lấy phép
biện chứng, giải phóng hạt nhân biện chứng ra khỏi lớp vỏ duy tâm thần bí của
Hệ thống Hêghen là một yêu cầu cấp bách của triết học bấy giờ.
II.3. Giải phóng hạt nhân duy lý - Sự ra đời của triết học Mác:
Xét cho đến cùng, nội dung tư tưởng của Hêghen căn bản xuất phát từ thực
tế khách quan, chính là tư tưởng của duy vật. Nội dung ấy lại bao quát hầu như
toàn bộ lịch sử thế giới, Hêghen đã xây dựng được quan điểm tiến hóa và phương
pháp luận lý biện chứng, quan điểm và phương pháp ấy tuy có bị lập trường duy
tâm đảo lộn, nhưng cũng đã làm tiền đề cho chủ nghĩa Mác. Mác – Anghen đã
viết trong cuốn Góp phần phê phán kinh tế Chính trị học của mình như sau: “Đặc
điểm của phương thức tư tưởng của Hêghen đối với các triết gia khác là quan
điểm lịch sử lớn lao làm cơ sở cho nó. Dù hình thức có trừu tượng và duy tâm

đến đâu chăng nữa, quá trình phát triển tư tưởng bao giờ cũng đi song song với
quá trình lịch sử thế giới, lịch sử thế giới hình như kiểm tra cuộc diễn biến tư
tưởng. Và tuy do đấy quan hệ chân chính giữa thực tại và tư tưởng đã bị đảo
ngược từ đầu xuống chân, nhưng nội dung thực tế của nó cũng đã thấm nhuần
toàn bộ triết học… Hêghen là người đầu tiên đã cố gắng chứng minh rằng lịch sử
có đường lối phát triển, có quan hệ liên kết bên trong. Và dù bây giờ chúng ta có
cho nhiều điểm trong triết học lịch sử của ông ta là kỳ quái, nhưng tính chất vĩ
đại của quan niệm cơ bản của triết học ấy, đến ngày nay vẫn còn đáng phục…
Cái quan niệm lịch sử ấy đã đánh dấu một thời đại, và đã làm tiền đề lý luận trực
tiếp cho quan điểm duy vật mới, và do đấy cũng là một khởi điểm cho phương
pháp luận lý”
Mác là người độc nhất có năng lực nêu lên trong triết học Hêghen cái hạt
nhân bao gồm những phát kiến chính đáng của Hêghen, gạt bỏ cái màn duy tâm
và thiết lập phương pháp biện chứng với hình thức đơn giản và độc nhất đúng
đắn để phát triển tư tưởng. Mác đã lộn lại biện chứng pháp Hêghen, gạt bỏ cái
màn duy tâm để nêu lên cái Hạt nhân duy lý, thiết lập phương pháp biện chứng
duy vật.
- Ở Hêghen, sự phát triển biện chứng biểu hiện trong giới tự nhiên và trong lịch sử
chỉ là sự sao chép lại sự tự vận động của ý niệm, một sự tự vận động diễn ra vĩnh
viễn, không biết ở đầu, nhưng độc lập đối với tư duy con người. Mác thấy rằng,
sự xuyên tạc mang tính chất tư tưởng ấy là cái cần phải gạt bỏ, bởi theo Mác,
những ý niệm trong đầu óc của chúng ta là những phản ánh của sự vật hiện thực,
chứ không xem những sự vật hiện thực là những phản ánh của giai đoạn này hay
giai đoạn khác của ý niệm tuyệt đối. Do đó, phép biện chứng được quy thành
khoa học về các quy luật chung của sự vận động của thế giới bên ngoài cũng như
của tư duy con người. Như vậy, bản thân biện chứng của ý niệm cũng chỉ đơn
thuần là sự phản ánh có ý thức của sự vận động biện chứng của thế giới hiện
thực. Việc làm đó đã giúp cho phép biện chứng của Hêghen được lộn ngược lại,
trả về đúng ý nghĩa của nó.
Mác không phải chỉ cải tạo một cách đơn thuần phép biện chứng của

Hêghen, mà thực ra đã sáng tạo lại hoàn toàn phương pháp biện chứng trên lập
trường duy vật, theo một nội dung mới. Vì tuy nội dung hệ thống triết học của
Hêghen có bao gồm lịch sử thực tại, nhưng Hêghen lại thu hẹp nó vào phần tinh
thần, biến nó thành hiện tượng duy tâm thuần túy, do đấy phương pháp biện
chứng cũng phải xuất hiện dưới một hình thức thần bí. Chỉ có trên lập trường duy
vật mới có thể phát triển nội dung chân chính phản ánh đúng đắn thực tế khách
quan, và nhờ đấy xây dựng phương pháp tư tưởng ăn khớp với quy luật mâu
thuẫn và biến chuyển của thực tại.
Phương pháp biện chứng duy vật của Mác, tuy có sử dụng những phát kiến
chính đáng của Hêghen, nhưng xét về căn bản và thực chất thì nó là một phát
kiến mới trên một cơ sở mới, một công trình sáng tạo của Mác, mở một kỷ
nguyên mới cho lịch sử nhân loại. tuy nhiên, không phải vì thế mà triết học
Hêghen đã mất đi giá trị tiến bộ của nó.

PHẦN KẾT LUẬN
Triết học của Hegel là hệ thống phong phú nhất trong lịch sử triết học trước
Marx. Hegel đã tổng kết hầu như toàn bộ tư tưởng cũ ở Tây phương, trình bày
mọi chủ nghĩa với ý nghĩa lịch sử của nó, bộc lộ những mâu thuẫn nội bộ xuất
hiện trong tư tưởng ở mỗi giai đoạn, những mâu thuẫn ấy bắt phải thủ tiêu hình
thái cũ và tiến lên một trình độ cao hơn. Tuy nhiên, Hegel lại diễn tả quá trình đó
một cách trừu tượng trong phạm vi tinh thần, và do đấy xây dựng chủ nghĩa duy
tâm tuyệt đối. Quá trình diễn biến tư tưởng trong tinh thần được coi như là một
vận động hoàn toàn độc lập và tự túc, tách rời cơ sở thực tế khách quan, thậm chí
lại phủ định thực tế khách quan. Tuy nhiên, hệ thống biện chứng pháp theo lối
duy tâm của Hegel đã được C.Marx kế thừa xuất sắc, thông qua giải phóng hạt
nhân biện chứng ra khỏi lớp vỏ duy tâm thần bí, để trở thành phép biện chứng
duy vật - một công cụ không thể thiếu trong lý luận và thực tiễn ngày nay.
Như vậy, chủ nghĩa duy vật là triết lý của chủ nghĩa Mác, nhưng Mác
không bị hạn chế vào chủ nghĩa duy vật thế kỷ 18, mà đã đi xa hơn. Mác đã làm
cho nó phong phú thêm bằng những thành tựu của triết học cổ điển Đức, đặc biệt

là hệ thống triết học của Hêghen - hệ thống này đã đưa đến chủ nghĩa duy vật của
Feuerback, một chủ nghĩa đã phủ định những thành tựu của Triết học Hêghen và
cũng là một tiền đề của triết học Mác. Và do đó, vai trò của triết học Hêghen có
một ý nghĩa rất lớn đến sự hình thành của triết học Mác sau này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Triết học cổ điển Đức, website: />hoc-phuong-tay/9855-triet-hoc-co-dien-duc.html, Đại học Mỏ địa chất.
2. Trần Đức Thảo, “Hạt nhân duy lý” trong triết học Hêghen, Tập San Đại
Học số 6-7, 1956, trang 18-36.
3. Ph. Ăng ghen, Lút-vích Phoi-ơ-Bắc và sự cáo chung của triết học cổ điển
Đức, Nhà xuất bản sự thật, năm 1976.
4. TS. Bùi Văn Mưa, Đại cương về lịch sử triết học – phần I, Đại học Kinh
tế Tp HCM.
5. C.Mác và Ph.Ănghen - Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, 1995, tập 20.

×