MỞ ĐẦU....................................................................................
1. Lý do chọn đề tài:
Gia đình là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quen thuộc với hầu hết
mọi người. Có thể nói gia đình là vấn đề của mọi quốc gia và mọi thời đại. Tuy nhiên, đó
cũng là lĩnh vực kinh tế phong phú, phức tạp, đầy mâu thuẫn và biến động. Việt Nam
đang trong một cuộc chuyển mình vĩ đại: thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa với quy
mơ và tốc độ ngày càng gia tăng. Đồng thời với quá trình này ở Việt Nam là sự chuyển
đổi sang cơ chế kinh tế thị trường. Mặc khác, những chuyển biến kinh tế - xã hội mạnh
mẽ đó khơng thể tác động sâu sắc đến gia đình, một thể chế lâu đời và bền vững song
cũng hết sức nhạy cảm với mọi sự biến đổi của xã hội. Theo Ăngghen, các mơ hình gia
đình trong lịch sử ln gắn với phương thức sản xuất và chế độ xã hội nhất định. Sự vận
động, biến đổi của gia đình phụ thuộc vào sự vận động và biến đổi của xã hội. Gia đình
“là sản vật của một chế độ xã hội nhất định, hình thức đó sẽ phản ánh trạng thái phát triển
của chế độ xã hội đó”. Nguồn gốc phát triển của các hình thức gia đình trong lịch sử là do
sự tác động của quy luật đào thải tự nhiên và do sự phát triển của những điều kiện kinh tế
- xã hội, sự phát triển của tâm lý, đạo đức, tình cảm của con người, trong đó sự phát triển
của các điều kiện kinh tế - xã hội là yếu tố quyết định. Những điều kiện kinh tế - xã hội
trong từng thời kỳ lịch sử nhất định có tác dụng quyết định đến hình thức tổ chức và kết
cấu của gia đình. “Chế độ gia đình hồn tồn bị quan hệ sở hữu chi phối”. Ngược lại, gia
đình và trình độ phát triển của gia đình cũng có tác động rất quan trọng đối với sự tồn tại
và phát triển của xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến việc tái tạo ra bản thân con người để bảo
vệ nòi giống cũng như tái tạo ra sức lao động cho sản xuất xã hội. Để có thể có cái nhìn
khái qt hơn về sự ảnh hưởng của gia đình đối với chính trị, văn hóa, xã hội, sự phát
triển của chế độ xã hội chủ nghĩa tại nước ta và ngược lại, nhóm chúng tơi đã quyết định
chọn đề tài: “ Sự vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về gia đình để xây
dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” làm đề tài tiểu luận
cuối kì của mơn học này.
2. Mục đích và đối tượng nghiên cứu
Tìm hiểu sự ảnh hưởng của gia đình đối với chính trị, văn hóa, xã hội, sự phát
triển của chế độ xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam và ngược lại.
3. Phương pháp nghiên cứu
Tra cứu và thu thập thông tin từ các nguồn tài liệu để trình bày các
khái niệm liên quan đến nội dung nghiên cứu.
• Từ những thơng tin thu thập được, phân tích và tìm hiểu yếu tố tác
động cũng như sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội.
• Tổng hợp thông tin, vận dụng các kiến thức của bản thân để nêu ra
quan điểm, nhận xét về vấn đề đang nghiên cứu một cách khách quan
và đúng đắn nhất. Từ đó đưa ra các phương hướng để xây dựng và
phát triển gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.
•
4. Kết cấu tiểu luân
NỘI DUNG.................................................................................
CHƯƠNG 1: GIA ĐÌNH VÀ QUAN ĐIÉM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ
GIA ĐÌNH
1.1. Khái niệm, vị trí, chức năng của gia đình.
1.1.1. Khái niệm gia đình
Gia đình là một cộng đồng người đặc biệt, có vai trị quyết định đến
sự tồn tại và phát triển của xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen, khi đề cập
đến gia đình đã cho rằng: “ Quan hệ thứ ba tham dự ngay từ đầu vào
quá trình phát triển lịch sử: hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân
mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sơi, nảy nở - đó
là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, cái đó là gia đình”. Cơ
sở hình thành gia đình là hai mối quan hệ cơ bản, quan hệ hôn
nhân (vợ và chồng) Và quan hệ huyết thống (cha mẹ và con
cái..) .Những mối quan hệ này tồn tại trong sự gắn bó đó, liên kết, kết
ràng buộc và phụ thuộc lẫn nhau, bởi nghĩa vụ, quyền lợi và trách
nhiệm của mỗi người, được quy định bằng pháp lý hoặc đạo lý.
Quan hệ hôn nhân là cơ sở nền tảng hình thành nên các mối quan
hệ khác trong gia đình, là cơ sở pháp lý cho sự tồn tại của mỗi gia
đình. Quan hệ huyết thống là quan hệ giữa những người cùng một
dòng máu, nảy sinh từ quan hệ hôn nhân. Đây là mối quan hệ tự
nhiên, là yếu tố mạnh mẽ nhất gắn kết các thành viên trong gia
đình
với
nhau.
Trong gia đình, ngồi hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ giữa vợ và
chồng, quan hệ giữa cha mẹ và con cái, cịn có các mối quan hệ khác,
quan hệ giữa ông bà và cháu chắt, giữa anh chị em với nhau, giữa cơ,
dì, Chú bác với cháu.... Ngày nay, ở Việt Nam cũng như trên thế giới
cịn thừa nhận quan hệ cha mẹ ni ( người đỡ đầu) Với con nuôi
(Được công nhận bằng thủ tục pháp lý) trong quan hệ gia đình. Dù hình
thành từ hình thức nào, trong gia đình tất yếu nảy sinh quan hệ ni
dưỡng, đó là sự quan tâm chăm sóc ni dưỡng giữa các thành viên
trong gia đình cả về vật chất và tinh thần. Nó vừa là trách nhiệm, nghĩa
vụ vừa là một quyền lợi thiêng liêng giữa các thành viên trong gia đình.
Trong xã hội hiện đại, hoạt động ni dưỡng, chăm sóc của gia đình
được xã hội quan tâm chia sẻ, song không thể thay đổi hồn tồn tự
chăm sóc, ni dưỡng của gia đình.
Các mối quan hệ này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và biến đổi,
phát triển phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế và thể chế
chính trị - xã hội.
Như vậy, Gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, được
hình thành, duy trì ì và củng cố chủ yếu dựa trên cơ sở Hôn Nhân,
quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng, cùng với những quy
định về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình.
1.1.2. Vị trí của gia đình trong xã hội
Gia đình là tế bào của xã hội
Gia đình có vai trị quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển
của xã hội. Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Theo Quan điểm duy vật thì nhân tố
quyết định trong lịch sử, cu cho cùng là sản xuất và tái sản xuất ra đời
sống trực tiếp. nhưng bản thân sự sản xuất đó lại có hai loại. Một mặt là
sản xuất ra tư liệu sinh hoạt: Thực phẩm, quần áo, Nhà ở và những công
cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó; mặt khác là sự sản xuất ra bản
thân con người, là sự truyền nòi giống. Những trật tự xã hội, trong đó
những con người là một thời đại lịch sử nhất định và của một nước nhất
định đang sống, là do hai loại sản xuất quyết định: Một mặt là do trình
độ phát triển của lao động và mặt khác là do trình độ phát triển của gia
đình”
Với việc sản xuất ra tư liệu tiêu dùng, tư liệu sản xuất tái sản xuất ra
con người, Gia đình như một tế bào tự nhiên, là một đơn vị cơ sở để tạo
nên cơ thể - xã hội. Không có gia đình để tái tạo ra con người thì xã hội
Khơng thể tồn tại và phát triển được. Vì vậy, muốn có một xã hội phát
triển lành mạnh thì phải quan tâm xây dựng tế bào gia đình tốt, như Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nói: “...Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội,
xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân
của xã hội chính là gia đình”
Tuy nhiên, mất mức độ tác của Gia đình đối với xã hội Lại phụ thuộc
vào bản chất của từng chế độ xã hội, Vào đường lối, chính Sách của
giai cấp cầm quyền, và Phụ thuộc vào chính bản thân mơ hình, Kết cấu,
Đặc điểm của mỗi hình thức gia đình trong lịch sử. vì vậy,Trong mỗi
giai đoạn của lịch sử, tác động của gia đình đối với xã hội thơi khơng
hồn toàn giống nhau. Trong các xã hội dựa trên cơ sở của chế độ Tư
hữu về tư liệu sản xuất, Sự bất bình đẳng trong quan hệ xã hội và quan
hệ gia đình đã hạn chế rất lớn đến sự tác động của gia đình đối với xã
hội. Chỉ khi con người được n ấm, Hịa Thuận trong gia đình, thì Mới
có thể n tâm lao động, sáng Tạo và đóng góp sức mình cho xã hội và
ngược lại. chính Vì vậy, quan tâm Xây dựng quan hệ xã hội, quan hệ
gia đình bình đẳng, Hạnh phúc là vấn đề hết sức quan trọng trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong
đời sống cá nhân của mỗi thành viên.
Từ khi còn nằm trong bụng mẹ, đến lúc lọt lòng và suốt cả cuộc đời,
mỗi cá nhân đều gắn bó chặt chẽ với gia đình. Gia đình là môi trường
tốt nhất để mỗi cá nhân được yêu thương, ni dưỡng, chăm sóc,
trưởng thành, phát triển. Sự n ổn, hạnh phúc của mỗi gia đình là tiền
đề, điều kiện quan trọng cho sự hình thành, phát triển nhân cách, thể lục
để trở thành công dân tốt cho xã hội. Chỉ trong mơi trường n ấm của
gia đình, cá nhân mới cảm thấy bình n, hạnh phúc, có động lực để
phấn đấu trở thành con người xã hội tốt.
Gia đình là cầu nối giữa cá nhân với xã hội
Gia đình là cộng đồng xã hội đầu tiên mà mỗi cá nhân sinh sống, có ảnh
hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của từng người.
Chỉ trong gia đình mới thể hiện được quan hệ tình cảm thiêng liêng, sâu
đậm giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái, anh chị em với nhau mà
không cộng đồng nào có được và có thể thay thế.
Tuy nhiên, mỗi cá nhân lại không thể chỉ sống trong quan hệ tình cảm
gia đình mà cịn có nhu cầu quan hệ xã hội, quan hệ với những người
khác, ngồi các thành viên trong gia đình. Mỗi cá nhân khơng chỉ là
thành viên của gia đình mà cịn là thành viên của xã hội. Quan hệ giữa
các thành viên trong gia đình đồng thời cũng là quan hệ giữa các thành
viên của xã hội.
Ngược lại, gia đình cũng là một trong những cộng đồng để xã hội tác
động đến cá nhân. Nhiều thông tin, hiện tượng của xã hội thơng qua
lăng kính gia đình mà tác động tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát triển
của mỗi cá nhân về tư tưởng, đạo đức, lối sống, nhân cách...Xã hội
nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn về mỗi cá nhân khi xem xét họ trong
các quan hệ xã hội và quan hệ với gia đình. Có những vấn đề quản lý xã
hội phải thông qua hoạt động của gia đình để tác động đến cá nhân.
Nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi cá nhân được thực hiện với sự hợp tác
của các thành viên trong gia đình. Chính vì vậy, ở bất cứ xã hội nào,
giai cấp cầm quyền muốn quản lý xã hội theo yêu cầu của mình, cũng
đều coi trọng việc xây dựng và củng cố gia đình. Vậy nên, đặc điểm của
gia đình ở mỗi chế độ xã hội khác nhau. Trong xã hội phong kiến, để
củng cố, duy trì chế độ bóc lột, với quan hệ gia trưởng, độc đốn,
chun quyền đã có những quy định rất khắt khe đối với phụ nữ, đòi
hỏi người phụ nữ phải tuyệt đối trung thành với người chồng, người cha
- những người đàn ơng trong gia đình. Trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội, để xây dựng một xã hội thật sự bình đẳng, con người được
giải phóng, giai cấp cơng nhân chủ trương bảo vệ chế độ hơn nhân một
vợ một chồng, thực hiện sự bình đẳng trong gia đình, giải phóng phụ
nữ. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “ Nếu khơng giải phóng phụ nữ
là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa". Vì vậy, quan hệ gia đình
trong chủ nghĩa xã hội có đặc điểm khác về chất so với các chế độ xã
hội trước đó.
1.1.3. Chức năng cơ bản của gia đình
Chức năng tái sản xuất ra con người
Đây là chức năng đặc thù của gia đình, khơng một cộng đồng nào có thể
thay thế. Chức năng này khơng chỉ đáp ứng nhu cầu tâm, sinh lý tự
nhiên của con người, đáp ứng nhu cầu duy trì nịi giống của gia đình,
dịng họ mà cịn đáp ứng nhu cầu về sức lao động, duy trì sự trường
tồn của xã hội.
Việc thực hiện chức năng tái sản xuất ra con người diễn ra trong từng
gia đình, nhưng khơng chỉ là việc riêng của gia đình mà là vấn đề xã
hội. Bởi vì, thực hiện chức năng này quyết định đến mật độ dân cư và
nguồn lực lao động của một quốc gia và quốc tế, một yếu tố cấu thành
của tồn tại xã hội. Thực hiện chức năng này liên quan chặt chẽ đến sự
phát triển mọi mặt của đời sống xã hội. Vì vậy, tùy theo từng nơi, phụ
thuộc vào nhu cầu của xã hội, chức năng này được thực hiện theo xu
hướng hạn chế hay khuyến khích. Trình độ phát triển kinh tế, văn hoá,
xã hội ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lực lao động mà gia đình cung
cấp.
Chức năng nuôi dưỡng và giáo dục.
Bên cạnh chức năng tái sản xuất ra con người, gia đình cịn có trách
nhiệm nuôi dưỡng, dạy dỗ con cái trở thành người có ích cho gia đình,
cộng đồng và xã hội. Chức năng này thể hiện tình cảm thiêng liêng,
trách nhiệm của cha mẹ với con cái, đồng thời thể hiện trách nhiệm của
gia đình với xã hội. Thực hiện chức năng này, gia đình có ý nghĩa rất
quan trọng đối với sự hình thành nhân cách, đạo đức, lối sống của mỗi
người. Bởi vì, ngay khi sinh ra, trước tiên mỗi người đều chịu sự giáo
dục trực tiếp của cha mẹ và người thân trong gia đình. Những hiểu biết
đầu tiên, mà gia đình đem lại thường để lại dấu ấn sâu đậm và bền vững
trong cuộc đời mỗi người. Vì vậy gia đình là một mơi trường văn hố,
giáo dục, trong môi trường này, mỗi thành viên đều là những chủ thể
sáng tạo những giá trị văn hoá, chủ thể giáo dục đồng thời cũng là
những người thụ hưởng giá trị văn hoá, và là khách thể chịu sự giáo dục
của các thành viên trong gia đình.
Chức năng ni dưỡng, giáo dục có ảnh hưởng lâu dài và tồn diện đến
cuộc đời của mỗi thành viên, từ lúc lọt lòng cho đến khi trưởng thành
và tuổi già. Mỗi thành viên trong gia đình đều có vị trí, vai trị nhất
định, vừa là chủ thể vừa là khách thể trong việc ni dưỡng, giáo dục
của gia đình. Đây là chức năng hết sức quan trọng, mặc dù trong xã hội
có nhiều cộng đồng khác ( nhà trường, các đồn thể, chính quyền....)
cũng thực hiện chức năng này, nhưng không thể thay thế chức năng
giáo dục của gia đình. Với chức năng này, gia đình góp phần to lớn vào
việc đào tạo thế hệ trẻ, thế hệ tương lai của xã hội, cung cấp và nâng
cao chất lượng nguồn lao động để duy trì sự trường tồn của xã hội,
đồng thời mỗi cá nhân từng bước được xã hội hố. Vì vậy, giáo dục của
gia đình gắn liền với giáo dục của xã hội. Nếu giáo dục của gia đình
khơng gắn với giáo dục của xã hội, mỗi cá nhân sẽ khó khăn khi hòa
nhập với xã hội, và ngược lại, giáo dục của xã hội sẽ không đạt
được
hiệu quả cao khi không kết hợp với giáo dục của gia đình, khơng
lấy
giáo dục của gia đình là nền tảng. Do vậy, cần tránh khuynh hướng
coi
trọng giáo dục của gia đình mà hạ thấp giáo dục của xã hội hoặc
ngược
lại. Bởi cả hai khuynh hướng ấy, mỗi cá nhân đều khơng phát triển
tồn
diện.
Thực hiện tốt chức năng ni dưỡng, giáo dục, địi hỏi mỗi người làm
cha, làm mẹ phải có kiến thức cơ bản, tương đối tồn diện về mọi mặt,
văn hố, học vấn, đặc biệt là phương pháp giáo dục.
Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng
Cũng như các đơn vị kinh tế khác, gia đình tham gia trực tiếp vào quá
trình sản xuất và tái sản xuất ra tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng.
Tuy nhiên, đặc thù của gia đình mà các đơn vị kinh tế khác khơng có
được, là ở chỗ, gia đình là đơn vị duy nhất tham gia vào quá trình sản
xuất và tái sản xuất ra sức lao động cho xã hội.
Gia đình khơng chỉ tham gia trực tiếp vào sản xuất và tái sản xuất ra của
cải vật chất và sức lao động, mà còn là một đơn vị tiêu dùng trong xã
hội. Gia đình thực hiện chức năng tổ chức tiêu dùng hàng hố để duy trì
đời sống của gia đình về lao động sản xuất cũng như các sinh hoạt trong
gia đình. Đó là việc sử dụng hợp lí các khoản thu nhập của các thành
viên trong gia đình vào việc đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần của
mỗi thành viên trong gia đình vào việc đảm bảo đời sống vật chất và
tinh thần của mỗi thành viên cùng với việc sử dụng quỹ thời gian nhàn
rỗi để tạo ra một mơi trường văn hố lành mạnh trong gia đình, nhằm
nâng cao sức khoẻ, đồng thời để duy trì sở thích, sắc thái riêng của mỗi
người.
Cùng với sự phát triển của xã hội, ở các hình thức gia đình khác nhau
và ngay cả ở một hình thức gia đình, nhưng tuỳ theo từng giai đoạn
phát triển của xã hội, chức năng kinh tế của gia đình có sự khác nhau,
về quy mô sản xuất, sở hữu tư liệu sản xuất và cách thức tổ chức sản
xuất và phân phối. Vị trí, vai trị của kinh tế gia đình và mối quan hệ
của kinh tế gia đình với các đơn vị kinh tế khác trong xã hội cũng
khơng hồn tồn giống nhau.
Thực hiện chức năng này, gia đình đảm bảo nguồn sinh sống, đáp ứng
nhu cầu vật chất, tinh thần của các thành viên trong gia đình. Hiệu quả
hoạt động kinh tế của gia đình quyết định hiệu quả đời sống vật chất và
tinh thần của mỗi thành viên gia đình. Thực hiện tốt chức năng
này,
khơng những tạo cho gia đình có cơ sở để tổ chức tốt đời sống,
ni
dạy
con cái, mà cịn đóng góp to lớn đối với sự phát triển của xã hội
Chức năng thoả mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình
Đây là chức năng thường xuyên của gia đình, bao gồm việc thoả
mãn nhu cầu tình cảm, văn hố, tinh thần cho các thành viên, đảm
bảo sự cân bằng tâm lý, bảo vệ chăm sóc sức khỏe người ốm, người già,
trẻ em. Sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau giữa các thành viên trong gia
đình vừa là nhu cầu vừa là trách nhiệm, đạo lý, lương tâm của mỗi
người. Do vậy, gia đình là chỗ dựa tình cảm cho mỗi cá nhân, là nơi
nương tựa về mặt tinh thần chứ không chỉ là nơi nương tựa về vật chất
của con người. Với việc duy trì tình cảm các thành viên, gia đình có ý
nghĩa quyết định đến sự ổn định và phát triển của xã hội. Khi quan hệ
tình cảm gia đình rạn nứt, quan hệ tình cảm trong xã hội cũng có nguy
cơ bị phá vỡ.
Ngồi những chức năng trên gia đình cịn có chức năng văn hố, chức
năng chính trị..Với những chức năng văn hố, gia đình là nơi lưu trữ
truyền thống văn hố của dân tộc. Với chức năng chính trị, gia đình là
một tổ chức chính trị của xã hội, là nơi tổ chức thực hiện chính sách,
pháp luật của của nhà nước và quy chế (hương ước) của làng xã và
hưởng lợi từ hệ thống pháp luật, chính sách quy chế đó. Gia đình là câu
nối của mối quan hệ giữa nhà nước với công dân.
1.2. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
( Duy Phúc )
Qua các thời kỳ phát triển, mặc dù cấu trúc và quan hệ trong gia đình Việt
Nam có những thay đổi, nhưng chức năng cơ bản của gia đình vẫn tồn tại và gia
đình vẫn ln là nhân tố đặc biệt quan trọng, không thể thiếu trong sự trường tồn
của dân tộc và phát triển đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln quan tâm, chăm lo và đề cao vai trị của gia đình
trong xã hội. Người khẳng định “Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà
phải chú ý hạt nhân cho tốt”, “Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình
tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Hạt nhân của xã hội là gia
đình”.
1.2.1.
Cơ sở kinh tế - xã hội
- Là sự phát triển của lực lượng sản xuất và tương ứng trình độ của
lực lượng sản xuất, là quan hệ sản xuất mới, xã hội chủ nghĩa.
- Cốt lõi của quan hệ sản xuất mới ấy là chế độ sở hữu xã hội chủ
nghĩa đối với tư liệu sản xuất từng bước hình thành và củng cố thay thế chế
độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Dựa vào đó, Đảng và nhà nước đã có hướng đi như:
- Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định, sự ổn định của gia đình chính là
một trong những nhân tố quan trọng của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Đảng đã xác định đầu tư cho gia đình, cũng là đầu tư cho phát triển bền
vững. Khẳng định gia đình là hạt nhân của xã hội, là động lực của sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Tổ chức từ thiện, các chương trình giảm nghèo cho các gia đình, khu vực
khó khăn.
- Hội LHPN Việt Nam đã triển khai nhiều hoạt động hỗ trợ phụ nữ phát
triển
kinh tế, khởi nghiệp, giúp phụ nữ thoát nghèo, ổn định cuộc sống, đầu tư giáo dục
cho con cái...
1.2.2.
Cơ sở chính trị - xã hội
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa với tính cách là cơ sở của việc xây dựng
gia
đình trong thời kỳ quá độ lên CNXH, thể hiện rõ nét nhất ở vai trò của hệ
thống pháp luật.
- Hệ thống pháp luật và chính sách xã hội đó vừa định hướng, vừa thúc đẩy
q trình hình thành gia đình mới trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Một số điều mà Đảng và Nhà nước đã thực hiện:
- Tiếp tục hồn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về gia đình theo hướng
lấy hoạt động của gia đình làm trọng tâm, bảo đảm sự gắn kết xã hội và vai trị của
gia đình.
- Các chính sách về gia đình phải hướng đến mục tiêu xây dựng gia đình no
ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh, chú trọng đến đối tượng trẻ em và người bệnh
tật, cao tuổi.
- Đẩy mạnh, đổi mới công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục chính sách,
pháp luật về hơn nhân và gia đình; các chuẩn mực, giá trị văn hóa gia đình; kiến
thức, kỹ năng xây dựng gia đình; các rủi ro đối với gia đình, giúp người dân chủ
động phịng ngừa các ảnh hưởng tiêu cực đến gia đình.
1.2.3.
Cơ sở văn hóa
- Những giá trị văn hóa xây dựng trên nền tảng hệ tư tưởng chính trị của
giai cấp cơng nhân từng bước hình thành và dần dần giữ vai trị chi phối nền
tảng văn hóa, tình thần của xã hội, đồng thời các yếu tố văn hóa, phong tục
tập quán, lối sống lạc hậu do xã hội cũ để lại dần bị loại bỏ.
- Thiếu đi cơ sở văn hóa, hoặc cơ sở văn hóa khơng đi liền với cơ sở kinh tế,
chính trị thì việc xây dựng gia đình sẽ lệch lạc, khơng đạt hiệu quả.
Dựa vào đó, Đảng đã giúp nhân dân:
- Phát triển hệ giá trị gia đình, gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới, đặt
hệ giá trị gia đình vào vị thế vốn rất quan trọng, với tư cách là các tế bào của xã
hội, là hạt nhân lưu giữ và phát huy các giá trị quốc gia, giá trị văn hóa, con người
Việt Nam
- Tập trung đào tạo, bồi dưỡng nhân lực làm cơng tác gia đình theo
hướng tích hợp đa ngành, phân định rõ đào tạo chuyên môn và cán bộ quản lý cơng
tác gia đình.
- Phát triển Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, phát động các phong trào thi
đua, cuộc vận động và tổ chức nhiều hoạt động vận động, hỗ trợ phụ nữ xây dựng
gia đình.
- Duy trì chế độ khen thưởng, tôn vinh kịp thời, định kỳ tổ chức tuyên
dương, nhân rộng các điển hình tiêu biểu xuất sắc trên diện rộng làm nòng cốt cho
mọi nơi noi theo.
1.2.4.
Chế độ hôn nhân tiến bộ
1.2.4.1. Hôn nhân tự nguyện
- Đảm bảo cho nam nữ có quyền tự do trong việc lựa chọn người kết hôn,
không chấp nhận sự áp đặt từ cha mẹ.
- Bao hàm quyền tư do ly hơn khi tình u khơng cịn nhưng khơng khuyến
khích việc ly hôn.
I.2.4.2. Hơn nhân một vợ, một chồng, vợ chồng bình đẳng
- Đây là điều kiện để đảm bảo hạnh phúc gia đình, đồng thời phù hợp với
quy luật tự nhiên, tâm lý, tình cảm, đạo đức con người.
- Vợ chồng bình đẳng trong quyền lợi và nghĩa vụ trong mọi vấn đề cuộc
sống gia đình.
- Tiếp tục vận động mỗi cặp vợ chồng nên có đủ 2 con, đảm bảo quyền và
trách nhiệm trong việc sinh con và nuôi dạy con tốt;
- Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên đã từng kết hôn là 77,5%; dân số đang có
vợ,
chồng chiếm 69,2%. Vun đắp một cuộc hơn nhân tiến bộ, lành mạnh, xây dựng gia
đình hạnh phúc là giá trị phổ quát hiện nay.
- Vẫn đang cố gắng ổn định tỷ số cân bằng giới tính khi sinh.
- Ưu tiên đầu tư cho nghiên cứu khoa học về gia đình; hoạch định, tổ chức
thực hiện và đánh giá chính sách về gia đình; sáng tác các tác phẩm văn học - nghệ
thuật về chủ đề gia đình.
KÊT LUẬN: Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội quan tâm chăm lo, xây
dựng, bồi dưỡng, phát triển toàn diện và được bảo vệ bằng hệ thống pháp luật, chỉ
thị, nghị định, quy định, ... chặt chẽ, đảm bảo công bằng, nghiêm minh. Giúp gia
đình Việt Nam bền vững, phát triển theo hướng tốt và quan trọng hơn hết là khơng
ai bị bỏ lại phía sau.
CHƯƠNG 2: XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI..
2.1. Những yếu tố tác động đến gia đình Việt Nam thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ( Tâm )
2.1.1. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
- Nền kinh tế thị trường đã thúc đẩy nhanh chóng sự tăng trưởng về kinh tế,
tăng thu nhập của các cá nhân là cơ sở cho việc củng cố và duy trì sự bền
vững của gia đình. Dân chủ, bình đẳng trong các quan hệ gia đình được tăng
cường.
- Nền kinh tế thị trường phát triển đang tác động tiêu cực đối với gia đình,
như sự phân hóa giàu nghèo giữa các gia đình, xu hướng ly tâm trong gia
đình, một số giá trị đạo đức gia đình bị xói mịn...
2.1.2. Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
- Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ tác động, làm biến đổi kết cấu, chức năng
kinh tế của gia đình truyền thống và chuyền biến thành gia đình hiện đại.
- Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa làm thay đổi chiến lược sống, các giá trị,
chuẩn mực của gia đình để hình thành chiến lược sống khác với truyền thống
tạo nên hệ thống giá trị chuẩn mực mới.
- Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo ra các tiền đề cần thiết cho quá trình
chuyển đổi cơ sở kinh tế gia đình từ tự túc, tự cấp trở thành kinh tế hàng hóa.
Nó có tác động khơng chi tới mục đích của sản xuất, mà còn làm thay đổi cả
phương thức tiêu dùng và lối sống của gia đình, biến đổi các mối quan hệ và
chức năng của gia đình.
2.1.3. Xu thế tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế
Phân hóa gia đình do mức độ tiếp cận, tận dụng cơ hội và khả năng vượt
qua thách thức do tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế của các gia đình khác
nhau.
- Áp lực của cơng việc, lợi nhuận và cạnh tranh tồn cầu có nguy cơ làm cạn
kiệt thời gian dành cho việc chăm sóc gia đình và thậm chí cịn tạo ra sự bất
bình đẳng mới trong gia đình.
- Nhiều giá trị, kể cả giá trị truyền thống khơng cịn bị khép kín trong biên
giới quốc gia dân tộc, mà có điều kiện mở rộng giao lưu, quảng bá đến thế
giới, qua đó khẳng định nét độc đáo, bản sắc của dân tộc. Sự biến đổi ấy là
một quá trình liên tục bảo tồn, truyền thụ, phát huy những giá trị của gia đình
truyền thống, đồng thời tiếp biến những giá trị tiên tiến, những tinh hoa của
gia đình hiện đại, của các nền văn hóa hiện đại trên thế giới.
2.1.4. Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại
- Mỗi cá nhân và gia đình có nhiều cơ hội tiếp thu tri thức mới trong thực
hiện các chức năng và nâng cao chất lượng sống.
- Việc xây dựng gia đình cũng đạt hiệu quả cao và thuận lợi hơn do ứng dụng
những thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại.
- Sự ra đời của các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là “văn minh màn
hình" đang làm cho thế giới nội tâm của con người trở nên nghèo nàn, làm
giảm sút sự giao cảm giữa cá nhân với thế giới bên ngoài và giữa các thành
viên gia đình với nhau...
- Sự thâm nhập và tiếp cận văn hóa khơng lành mạnh thông qua mạng internet
đã gây ra những vấn đề bức xúc về mặt đạo đức như chủ nghĩa thực dụng,
tâm lý hưởng thụ, sống gấp, chạy theo đồng tiền... của một bộ phận gia đình,
đặc biệt là thế hệ trẻ.
- Mặt khác, hiện nay đang diễn ra tình trạng lạm dụng kỹ thuật công nghệ
trong việc phát hiện giới tính thai nhi sớm, dẫn đến tình trạng mất cân bằng
giới tính đang diễn ra nghiêm trọng ở nhiều nước, trong đó có Việt Nam.
2.1.5. Chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về gia đình
- Ngày 28/6 hàng năm được chọn là “Ngày Gia đình Việt Nam", nhằm nhắc
nhở mỗi thành viên của gia đình và toàn xã hội nêu cao trách nhiệm xây
dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, phát triển bền vững.
- Các bộ luật liên quan đến gia đình được ban hành như: Luật hơn nhân và
gia đình (ban hành năm 2000; sửa đổi, bổ sung năm 2013); Luật bình đẳng
giới (năm 2007); Luật phịng, chống bạo lực gia đình (năm 2008); Pháp lệnh
Dân số (ban hành năm 2003, sửa đổi năm 2008); Luật người cao tuổi (năm
2009) ... nhằm điều chỉnh và hỗ trợ sự phát triển của gia đình.
- Ngày 29/5/2012, “Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020,
và tầm nhìn 2030" được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề
a mục tiêu: “Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh".
2.2.. Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ( Quốc Việt )
Trước tác động của bối cảnh trong thời kỳ quá đô lên chủ nghĩa xã
hơi, các giá trị gia đình Việt Nam đang có những biến đổi nhất định. Gia
đình Việt Nam đã trải qua những biến chuyển quan trọng, từ gia đình truyền
thống sang gia đình với những đặc điểm mới, hiện đại và tự do hơn. Quá
trình hội nhập quốc tế, trong đó có hội nhập và giao lưu văn hóa làm xuất
hiện những quan điểm cởi mở hơn về gia đình Việt Nam.
Gia đình là giá trị quan trọng hàng đầu. Người dân Việt Nam vốn coi
gia đình là ưu tiên hàng đầu trong cuộc sống. Gia đình là một giá trị quan
trọng ở Việt Nam và là thiết chế xã hội phổ biến. Phần lớn những người
được hỏi vẫn khẳng định tầm quan trọng của viêc lâp gia đình. Quan điểm
của nhóm những người chưa kết hơn cho thấy xu hướng hôn nhân
vẫn
là
xu
hướng chủ đạo trong tương lai (với 80,5% số người chưa kết hơn cho
biết
sẽ
“kết hơn, có gia đình”, 46,2% cho rằng “thanh niên đến tuổi trưởng
thành
phải lập gia đình”)
Gia đình Việt Nam trong quá trình vừa bảo lưu các giá trị truyền
thống, vừa tiếp thu yếu tố hiện đại. Trong số các giá trị đạo đức, tâm lý, tình
cảm của gia đình, giá trị chung thủy là giá trị rất được coi trọng. Kết quả
khảo sát cho thấy, có tới 41,6% coi chung thủy là “quan trọng”, và 56,7%
coi chung thủy là “rất quan trọng”. Điều này cho thấy, chung thủy vẫn là
thước đo phẩm giá của bất kỳ cặp vợ chồng nào khi họ được kỳ vọng là
nhân tố giữ gìn cho sự êm ấm, tốt đẹp của gia đình và xã hội. Cùng với đó,
bình đẳng là một giá trị của xã hội hiện đại. Đa số người dân đánh giá khá
cao tầm quan trọng của bình đẳng, cho thấy gia đình Việt Nam đang thích
ứng với sự thay đổi của xã hội hiện đại, ủng hộ bình đẳng giới trong quan hệ
vợ chồng, gia đình. Hiên nay, các gia đình ngày càng nhận thức cao về tầm
quan trọng của trách nhiệm, chia sẻ trong đời sống gia đình. Đó là viêc chia
sẻ những mối quan tâm, lắng nghe tâm tư, suy nghĩ của các thành viên trong
gia đình. Vây nên chúng ta có thể thấy được trong thời kỳ quá đô lên chủ
nghĩa xã hôi gia đình Viêt Nam vẫn giữ gìn, phát huy những truyền thống tốt
đẹp, giàu tính nhân vặn, bản sắc. Ngồi ra, gia đình Viêt Nam cịn ln tiếp
thu những yếu tố hiên đại phù hợp với tiêu chuẩn của dân tôc Viêt Nam và
bài trừ những hủ tục trong viêc vun đắp tổ ấm của mình.
Trong mối quan hệ giữa ông bà, cha mẹ với con cháu , chuẩn mực ông bà, cha mẹ
nhân từ, con cháu hiếu thảo là nét đặc trưng truyền thống của gia đình Việt Nam. Ngồi ra,
người phụ nữ trong gia đình ngày càng được tôn trọng, không bị phân biệt đối xử, khinh thường.
Vd:
Các giá trị truyền thống và xu hướng dịch chuyển sang các giá trị hiện
đại trong tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời trong thời kỳ quá đô lên chủ nghĩa xã
hơi. Cùng với việc coi trọng giá trị gia đình, các tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời
của người Việt Nam vẫn nghiêng về các giá trị truyền thống nhưng đang có
xu hướng dịch chuyển sang các giá trị mang tính cá nhân và hiện đại. Có thể
thấy, tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời của người dân được khảo sát ưu tiên các
phẩm chất về tư cách, đạo đức hơn là các tiêu chuẩn về ngoại hình hay tiêu
chuẩn về kinh tế. Tiêu chuẩn đầu tiên của lựa chọn bạn đời là người đó “có
tư cách đạo đức tốt” (chiếm 66,7%), tiếp theo là tiêu chuẩn “biết cách ứng
xử” (chiếm 45%).Các tiêu chuẩn liên quan đến điều kiện kinh tế, vật chất
được lựa chọn nhưng với tỷ lệ thấp, như biết cách làm ăn (chiếm 28,6%), có
nghề nghiệp ổn định (chiếm 12,9%). Điều này nói lên rằng những giá trị về
tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời đã có sự chuyển đổi rõ nét từ giá trị truyền
thống sang các giá trị hiện đại. Khi cá nhân được giải phóng thì yếu tố tình
cảm và sự tự do lựa chọn hơn nhân được đề cao. Vì thế, hơn nhân đã chuyển
dần từ thể chế kinh tế là chính sang thể chế tâm lý là chính. Tiêu chuẩn lựa
chọn gia đình tương đồng về điều kiện kinh tế, địa vị xã hội “gia đình mơn
đăng hộ đối” hầu như khơng cịn là giá trị cần chú ý trong thang
tiêu
chuẩn
lựa chọn bạn đời.
VD:Ngày xưa “cha mẹ đăt đâu con ngồi đấy”, lâp gia đình theo hình
thức “mơn đăng hơ đối”. Cịn ngày nay mỗi người có quyền chọn đối tượng
kết hơn theo mong muốn của mình, khơng bị cấm cản, ép bc.
Gia đình truyền thống và mức độ chấp nhận cởi mở dần với một số
hiện tượng hơn nhân gia đình mới trong thời kỳ quá đô lên chủ nghĩa xã hôi.
Các kiểu loại gia đình mới như hơn nhân đồng giới, chung sống khơng kết
hôn, làm mẹ đơn thân, tùy từng giai đoạn, thường rất hiếm hoặc khơng có
trong truyền thống nhưng lại có xu hướng gia tăng trong thời kỳ quá đô lên
chủ nghĩa xã hôi. Với những thay đổi lớn trong kinh tế, xã hội và hội nhập
quốc tế, những hình thức hơn nhân gia đình mới ủng hộ tính cá nhân có xu
hướng tăng. Nghiên cứu cho thấy 38,5% người trả lời chấp nhận sống độc
thân - mức độ này được chấp nhận cao hơn ở nữ giới và nhóm xã hội mang
nhiều đặc điểm hiện đại; 28,4% có nhu cầu, mong muốn sống thử trước khi
kết hơn. Ngồi ra, hơn nhân đồng giới ngày càng được nhiều người mở lòng
chấp nhân hơn. Trong xã hội Việt Nam truyền thống, người phụ nữ khơng
lấy chồng nhưng có con thường phải chịu sự lên án gay gắt của xã hội, cộng
đồng và gia đình. Hiện nay, hơn nhân vẫn là quyết định hệ trọng trong cuộc
đời của người phụ nữ. Tuy vậy, cùng với sự tiếp nhận văn hóa phương Tây
cộng với quyền cá nhân ngày càng được pháp luật bảo vệ, người phụ nữ
ngày càng có quyền quyết định việc kết hơn và có con. Qua đó có thể thấy,
gia đình trong thời kỳ quá đô lên chủ nghĩa xã hôi đang dần cởi mở, chấp
nhân những hiên tượng hôn nhân gia đình mới hiên nay.
VD:Hiên nay xuất hiên nhiều kiểu loại gia đình mới như chung sống
khơng kết hơn, làm mẹ đơn thân, hôn nhân đồng giới,... Là những kiểu gia
đình mà hầu như khơng có trong truyền thống gia đình Viêt Nam nhưng
ngày nay đang dần được cởi mở, ít khắt khe hơn
Gia đình Việt: Nam trong thời kỳ q đơ lên chủ nghĩa xã hôi hiện đại
và xu hướng suy giảm tính tập thể, tính cộng đồng. Quan hệ của gia đình với
dịng họ trong xã hội Việt Nam hiện nay còn khá chặt chẽ, gắn kết, mức độ
gắn kết mạnh mẽ hơn ở nhóm mang những đặc điểm truyền thống (như cao
tuổi, học vấn thấp, nghèo, cư trú ở nông thơn); thể hiện ở số gia đình đồng ý
cao với nhận định mỗi gia đình, thành viên cần ln gắn kết với dòng họ để
giúp đỡ lẫn nhau, đạt điểm trung bình 4,04 theo thang đo 5 điểm, coi trọng
việc giữ gìn nền nếp gia phong cho con cháu, đạt điểm trung bình 4,17 theo
thang đo 5 điểm. Thực tế cho thấy có xu hướng suy giảm tính tập thể, tính
cộng đồng theo mức độ hiện đại hóa. So với điểm trung bình về mức độ gắn
kết với dịng họ, mức độ gắn kết giữa gia đình với cộng đồng thấp hơn.
Chẳng hạn, điểm trung bình về nhận định “bạn bè xóm giềng giúp đỡ bất cứ
khi nào tơi cần” là 3,52/5 điểm. Mức độ sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân vì
cái chung giảm dần theo đồn hệ tuổi, cho thấy càng nhóm trẻ, mức độ chấp
nhận tính cộng đồng, tính tập thể càng thấp, tính cá nhân càng cao. Như vây,
có thể thấy sự chấp nhận giá trị cộng đồng, giá trị tập thể đang giảm dần
trong thời kỳ quá đô lên chủ nghĩa xã hôi.
Như vây, các kết quả nghiên cứu về giá trị gia đình Việt Nam hiện
nay cho thấy có sự dịch chuyển từ các giá trị gia đình truyền thống sang giá
trị gia đình hiện đại, đồng thời có sự bền vững tương đối của văn hóa trong
thời kỳ q đơ lên chủ nghĩa xã hôi.
2.3. Phương hướng cơ bản để xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ( Bảo Nguyên )
Đối với mỗi con người Việt Nam:
+Kế thừa, giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp, tiếp thu tư tưởng hiện
đại
Là tinh thần u nước nồng nàn; lịng tự tơn, tự hào dân tộc; truyền thống
cần cù lao động; lòng nhân ái khoan dung; tinh thần hiếu học; tinh thần đoàn
kết...
Cần tránh thái độ bảo thủ, hồi cổ, khư khư ơm lấy những gì thuộc về q
khứ, ngại thay đổi, khơng muốn thay đổi. Đồng thời, cần tránh quan điểm
chiết trung, không có đủ trình độ để phân biệt, nhận thức đâu là giá trị tích
cực, đâu là điểm lạc hậu, lỗi thời của truyền thống văn hóa dân tộc. Việc tiếp
tục kế thừa và phát huy những yếu tố tiêu cực sẽ làm cản trở sự phát triển
của nền văn hóa dân tộc.
Học hỏi, thu nhận những điều hay,những tiến bộ để cải biến, nâng tầm
những giá trị văn hóa Việt Nam. Còn là cơ hội để mở rộng, lan tỏa sự ảnh
hưởng của những giá trị văn hóa Việt Nam ra thế giới.
Gạt bỏ những truyền thống, tư duy lỗi thời, cản trở sự tiến bộ, sự phát triển
của văn hóa dân tộc.
+Trên cơ sở quan hệ hơn nhân tự nguyện, tiến bộ, bảo đảm quyền tự do kết
hôn và ly hơn
Ví dụ:
hơn nhân tự nguyện: hai người nhìn nhận được sự u thích của mình đối
với đối phương và ngược lại; sẵn sàng chung tay, góp sức với nhau xây dựng
một mái ấm chung; sẵn sàng sẻ chia, đỡ đần nhau trong mọi tình huống.
khơng tảo hơn, khơng kết hôn cận huyết
không dọa dẫm, ép buộc, dùng bạo lực để tiếp tục duy trì hơn nhân
được tự do chọn người mình muốn kết hơn, chung sống sau này
+Quan hệ bình đăng, thương u, có trách nhiệm
Bình đẳng được hiểu và vận dụng là sự cân bằng tương ứng giữa quyền lợi
nghĩa vụ trách nhiệm giữa các thành viên gia đình. Ý kiến của một người
được nhiều người lắng nghe, quan tâm đáp ứng. Công việc chung của gia
đình mọi người cùng tham gia.Người phụ nữ được bình đẳng, được phát huy
mọi sở thích, khả năng để làm chủ gia đình và gánh vác cơng việc xã hội.
Ví dụ:
Bố mẹ lắng nghe, thảo luận, thấu hiểu ý kiến của con cái để đi đến thống
nhất chung và ngược lại.
Bố mẹ, con cái quan tâm chăm sóc đỡ đần lẫn nhau trong đời sống.
Người vợ, người mẹ không nên chỉ đảm nhận trách nhiệm nội trợ cho gia
đình; họ nên được phát huy tài năng, sở thích ngồi xã hội
u thương là tiêu chí ứng xử số 1 trong quan hệ gia đình. Gia đình hình
thành từ xuất phát điểm ban đầu là tình yêu. Khi đã nên duyên vợ chồng và
sinh con thì tình thương trở thành báu vật của gia đình.
Trách nhiệm chính của người chồng là kiếm tiền nhằm tạo dựng nền tảng
vững chắc cho gia đình cịn người vợ sẽ là người giữ gìn hơi ấm gia đình.
Tuy nhiên, ngày nay, trách nhiệm đó được san sẻ cho cả vợ và chồng. Vợ
chồng phải cùng nhau gây dựng, chung lưng đấu cật, tìm kiếm cơ hội làm
giàu, phát triển kinh tế gia đình. Dù là vợ hay chồng cũng phải luôn ủng hộ,
giúp đỡ, chia sẻ, cảm thông với nhau trong công việc, sự nghiệp. Tránh
trường hợp mỗi người chỉ biết tạo dựng theo đuổi sự nghiệp cá nhân mà
quên đi hoặc coi khinh người bạn đời của mình. Hoặc đơi khi một người vợ
hoặc chồng chỉ an phận thủ thường, ỷ lại vào người kia, sống lười biếng, vơ
trách nhiệm.
Ví dụ:
người vợ hoặc người chồng trong 1 gia đình đều có quyền mang tài năng, sở
thích của mình ra cống hiến cho xã hội. Đừng vì cơng việc q bận rộn
khơng thể dành thời gian cho gia đình mà bỏ bê gia đình, bỏ bê nửa cịn lại.
Cũng đừng vì cơng việc của người kia không thuận lợi, không tiến triển như
mong muốn liền quay lưng với họ. Hãy cảm thông, chia sẻ, động viên, an ủi
lẫn nhau. Có như vậy gia đình mới đạt được sự cân bằng, ấm áp và hai người
mới có thể gắn bó với nhau lâu dài, bền vững.
+Quan hệ gắn bó với cộng đồng, với các thiết chế, tổ chức ngồi gia đình
Ví dụ:
Duy trì tình làng nghĩa xóm, bạn bè xóm giềng giúp đỡ lẫn nhau.
Đồng nghiệp giúp đỡ lẫn nhau để tăng hiệu quả công việc.
Đối với Đảng và nhà nước :
+Nâng cao nhận thức của xã hội về xây dựng và phát triển gia đình Việt
Nam
Đẩy mạnh, đổi mới cơng tác phổ biến, tun truyền, giáo dục chính sách,
pháp luật về hơn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phịng chống bạo lực gia
đình, ngăn chặn các tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình, các chuẩn mực,
giá trị văn hóa gia đình; kiến thức, kỹ năng xây dựng gia đình, các rủi ro đối
với gia đình; giúp người dân chủ động phòng ngừa các ảnh hưởng tiêu cực
đến gia đình. Tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình.
Phát huy vai trị của gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc xây dựng môi
trường văn hóa, con người Việt Nam giàu lịng nhân ái, khoan dung, chân
thành, tín nghĩa, trọng đạo lý, cần cù, chăm chỉ, tiết kiệm, sáng tạo, khát
vọng, hiện đại.
+Đẩy mạnh công tác tuyên truyền để cán bộ, chính quyền các cấp hiểu được
tầm quan trọng của việc xây dựng gia đình Việt Nam
+Đưa nội dung, mục tiêu của công tác xây dựng và phát triển gia đình vào
chiến lược phát triển kinh tế xã hội
Phát huy vai trị của gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc xây dựng môi
trường văn hóa, con người Việt Nam giàu lịng nhân ái, khoan dung, chân
thành, tín nghĩa, trọng đạo lý, cần cù, chăm chỉ, tiết kiệm, sáng tạo, khát
vọng, hiện đại.
+Đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống vật chất, kinh tế hộ
gia đình
2.4.
Trách nhiệm của sinh viên trong việc xây dựng và phát triển giá trị gia đình
Việt Nam hiện nay ( Xuân Lân )
Có thể nói, gia đình là thiết chế văn hóa, giáo dục đặc biệt, nơi con
người sinh ra, lớn lên và được trao truyền những bài học đầu tiên về đạo lý
làm người, về nhân cách, lối sống và cung cách ứng xử với đồng loại. Trải
qua những thăng trầm lịch sử, các thế hệ gia đình Việt Nam đã
kiến
tạo,
hình
thành lên những giá trị văn hóa tốt đẹp, trở thành sức mạnh, điểm tựa
tinh
thần để mỗi cá nhân khơng ngừng trưởng thành, phát triển và có nhiều
đóng
góp cho xã hội. Trong bối cảnh hiện nay, những giá trị quý báu đó cần
được
lan tỏa, phát huy mạnh mẽ để giáo dục, hình thành nhân cách, phẩm
chất,
đức tính tốt đẹp cho mỗi người - nguồn lực quan trọng bậc nhất bảo
đảm
cho
quá trình phát triển nhanh và bền vững ở nước ta hiện nay. Để xây
dựng
và
phát triển giá trị gia đình Việt Nam hiện nay thì sinh viên cần có trách
nhiệm:
- Thứ nhất, đẩy mạnh và làm tốt cơng tác tuyên truyền, nâng cao nhận
thức đối với các cấp ủy đảng, chính quyền và tồn thể nhân dân về vai trị, vị
trí đặc biệt quan trọng của gia đình mà Chỉ thị 49 đã khẳng định: “Gia đình
là tế bào của xã hội, là nơi duy trì nịi giống, là mơi trường quan trọng hình
thành, ni dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn
hóa truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực
phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, “là một nhân tố quan
trọng, không thể thiếu trong sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước”(8).
Vì thế, sinh viên thuộc các cấp, các ngành cần tạo mọi điều kiện tốt
nhất về cơ chế, chính sách để mỗi gia đình có điều kiện phát triển toàn diện,
nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần. Tiếp tục thực hiện có
hiệu quả các chương trình, chiến lược, đề án, các phong trào, các cuộc vận
động của Chính phủ, các bộ, ngành về cơng tác phát triển gia đình, nhất là
các phong trào: Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, Tồn dân
đồn kết xây dựng nơng thơn mới, văn minh đơ thị; phong trào Gia đình văn
hóa, làng, bản, ấp, thơn văn hóa... Cơng tác tun truyền, vận động cần được
đa dạng hóa, khơng ngừng đổi mới về nội dung, hình thức với những cách
làm hay, sáng tạo để nâng cao nhận thức và thu hút được tham gia đơng đảo,
nhiệt tình của các tầng lớp nhân dân trên mọi vùng miền, tạo ra những đợt
thi đua sôi nổi với những hiệu quả thiết thực, góp phần nâng cao chất lượng
cuộc sống của mỗi gia đình theo hướng phát triển bền vững.
“Tân Thạnh: Đẩy mạnh tuyên truyền về công tác Dân số -Kế hoạch hóa gia
đình (19/10/2018)”
“Ngày hội gia đình (2018), Bộ văn hóa, thể thao và du lịch, Hà Nội”
- Thứ hai, khơi dậy và phát huy mạnh mẽ những giá trị văn hóa của gia
đình truyền thống, như lịng yêu nước, yêu quê hương, yêu thương đùm bọc
lẫn nhau, thủy chung, hiếu nghĩa, hiếu học, cần cù và sáng tạo trong lao
động, bất khuất kiên cường vượt qua mọi khó khăn thử thách. Nâng cao tinh
thần, ý thức trách nhiệm của mỗi thành viên gia đình trong xây dựng gia
đình no ấm, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh.
Song song với việc phát huy những giá trị tốt đẹp của truyền thống
văn hóa gia đình thì việc nhận diện, đẩy lùi những tư tưởng, quan niệm đã
trở nên bất cập, lạc hậu, kìm hãm sự phát triển của cá nhân, gia đình như tư
tưởng trọng nam khinh nữ, sự áp đặt của thế hệ đi trước, sự gia trưởng, tính
bè phái địa phương, thói quen dựa dẫm, bao bọc... là việc làm cần thiết, có ý
nghĩa. Đồng thời, khơng ngừng tiếp thu, bổ sung những giá trị mới, tiến bộ
thông qua quá trình giao lưu học hỏi với các nước trong khu vực và quốc tế
trên cơ sở, nền tảng của những giá trị văn hóa truyền thống, như tinh thần
dân chủ, tự do trong sáng tạo, tôn trọng quyền con người, lối sống văn minh
theo pháp luật, gắn trách nhiệm cá nhân với cộng đồng, xã hội; thực thi tốt
kỷ luật, kỷ cương; có tinh thần chủ động, có tri thức, bản lĩnh, kinh nghiệm
để ứng phó với những tình huống mới, phức tạp nảy sinh.
Tối 21/11, chương trình “Người con hiếu thảo ” tại Hội trường Nhà Văn hóa Thanh niên TP.
Hồ Chí Minh
Chuyện cuối tuần: “Vấn nạn bạo lực học đường” trên VTV9, 21:35
- Thứ ba, triển khai và thực hiện tốt những điều khoản quy định trong hệ
thống cơ chế, chính sách, pháp luật về cơng tác gia đình đã được Nhà nước
ban hành, đặc biệt chú trọng việc bảo đảm quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của
mỗi thành viên đối với gia đình, cộng đồng và xã hội. Đồng thời nghiên cứu,
bổ sung, đóng góp ý kiến để điều chỉnh những điều khoản đã trở nên bất cập.
Dự báo những xu hướng, kịch bản mới mà các gia đình sẽ phải đối diện, từ
đó kiến nghị xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp, kịp thời. Có hình thức xử
lý, giáo dục, răn đe những hành vi vi phạm chuẩn mực đạo đức xã hội, vi
phạm pháp luật về công tác gia đình.
Bên cạnh đó, cần khơng ngừng tham gia các cơ sở giáo dục, y tế, văn
hóa cần thiết, đặc biệt là các không gian sinh hoạt cộng đồng, trung tâm văn
hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, các câu lạc bộ thư giãn, giải trí để bản thân
có cơ hội, điều kiện nâng cao thể trạng, sức khỏe, đời sống tinh thần, tăng
cường khả năng giao lưu, kết nối giữa các gia đình, các cộng
đồng,
các
nhóm xã hội, tạo khơng gian, mơi trường văn hóa lành mạnh, góp phần
nhân
lên những giá trị tốt đẹp, nhân văn, đẩy lùi những tiêu cực, hạn chế.
Không xem hay tuyên truyền những thông tin, xuất bản phẩm văn
hóa trên thị trường cũng như trên khơng gian mạng; nắm bắt tâm tư, tình
cảm của quần chúng, nhất là thanh thiếu niên để có biện pháp giáo dục, điều
chỉnh, hưrág con người đến những giá trị tốt đẹp của chân, thiện, mỹ.
“Đại biểu Quốc hội đề xuất ban hành Luật bảo vệ người làm việc tốt,22-52021,Hà Nội”
“Thời sự VTV1: “STREAMER TỰ DO VÀ TRÁCH NHIỆM” ngày
19/7/2020”
- Thứ tư, phát huy tinh thần nêu gương của những thế hệ đi trước trong
gia đình; xây dựng, hình thành và lan tỏa hình mẫu những con người lý
tưởng có nhân cách, phẩm chất, đạo đức tốt, có tài năng trí tuệ, có hành
động, lối sống đẹp trong đời sống xã hội để truyền đi những thơng điệp nhân
văn. Phát huy vai trị, sứ mệnh của các cơ sở giáo dục trong việc trao truyền
tri thức, kinh nghiệm để cùng với môi trường giáo dục gia đình góp phần