Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

TIỂU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG: Phân tích quá trình Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền giai đoạn 1930 – 1945? Ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đối với sự nghiệp xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.37 KB, 23 trang )

BÀI TẬP LỚN
BỘ MÔN : LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI

Phân tích q trình Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính

quyền giai đoạn 1930 – 1945? Ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Tám
năm 1945 đối với sự nghiệp xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay.

Hà Nội- 12/2021

MỤC LỤC TIỂU LUẬN

A, LỜI MỞ ĐẦU:............................................................................................................. 3
I, ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN ( 1930 – 1945).........3
1, Phong trào cách mạng 1930 – 1935:........................................................................3
1,1. Cao trào cách mạng 1930 – 1931 và Luận cương chính trị (10/1930).............3
1,2. Cuộc đấu tranh khôi phục tổ chức và phong trào cách mạng, Đại hội Đảng
lần thứ nhất ( 3/1935):...............................................................................................6
2, Cuộc vận động dân chủ 1936 – 1939:......................................................................7
2,1. Điều kiện lịch sử và chủ trương của Đảng.........................................................7

1


2,2. Phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hịa bình.............................9
3, Phong trào giải phóng dân tộc (1939- 1945)..........................................................11
3,1 Bối cảnh lịch sử và chủ trương chiến lược mới của Đảng................................11
3,2 Quá trình chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền..........................14
3,3 Cao trào kháng Nhật cứu nước:........................................................................15
3,4 Cách mạng tháng 8 1945 :.................................................................................16


II, Ý nghĩa lịch sử của cách mạng tháng Tám 1945:...................................................19
III, Ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đối với sự nghiệp xây
dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay.......................................................................20
1, Vận dụng trong việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện nay........................................20
C. KẾT LUẬN................................................................................................................ 22
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO:.......................................................................................22

2


A, LỜI MỞ ĐẦU:
Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa nói chung và Việt Nam nói riêng,
muốn đi đến thành cơng thì phải có một chính Đảng đứng ra lãnh đạo. Với vai trò là đội
ngũ tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam từ khi ra đời
đến nay đã có những chủ trương, đường lối để đưa cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt
Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đặc biệt trong giai đoạn 1930 – 1945, Đảng
ta phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thử thách. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản Đông Dương - đứng đầu là Nguyễn Ái Quốc, bằng tài năng, sự nhạy bên trong việc
nắm bắt tình hình thế giới và trong nước, Đảng ta đã kịp thời có những sự chỉ đạo chiến
lược để đưa cách mạng Việt Nam vượt qua khó khăn và đi đến thắng lợi, giành lại độc lập
cho non sông Tổ quốc. Vì vậy em đã quyết định chọn đề tài “Q trình Đảng lãnh đạo
đấu tranh giành chính quyền giai đoạn 1930 – 1945” để đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu về
quá trình lãnh đạo như thế nào để giành thắng lợi vẻ vang như vậy.
B, NỘI DUNG:
I, ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN ( 1930 – 1945)

1, Phong trào cách mạng 1930 – 1935:
1,1. Cao trào cách mạng 1930 – 1931 và Luận cương chính trị (10/1930)
*Phong trào cách mạng 1930 – 1931:
Trong thời gian 1929-1933, khi Liên Xô đang đạt được những thành quả quan trọng trong

cơng cuộc xây dựng đất nước, thì ở các nước tư bản chủ nghĩa diễn ra một cuộc khủng
hoảng kinh tế trên qui mô lớn với những hậu quả nặng nề, làm cho những mâu thuẫn
trong lòng xã hội tư bản phát triển gay gắt. Phong trào cách mạng thế giới dâng cao.
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 ảnh hưởng lớn đến : nước thuộc địa và phụ thuộc,
làm cho mọi hoạt động sản xuất đỉnh đốn. Ở Đông Dương, thực dân Pháp tăng cường bóc
lột để bù đắp những hậu quả của cuộc khủng hoảng ở chính quốc tăng cường bóc lột
3


quốc, đồng thời tiến hành một chiến dịch khủng bố trắng nhằm vào cuộc khởi nghĩa Yên
Bái (2-1930). Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp và tay sai càng phát
triển gay gắt, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với hệ thống tổ chức thống nhất và Cương
lĩnh chính trị đúng đắn, nắm quyền lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam đã
“lãnh đạo ngay một cuộc đấu tranh kịch liệt chống thực dân Pháp"
Từ tháng 1 đến tháng 4-1930, bãi công của công nhân nổ ra liên tiếp ở nhà máy xi măng
Hải Phòng, hãng dầu Nhà Bè (Sài Gòn), các đồn điền Phú Riềng, Dầu Tiếng, nhà máy dệt
Nam Định, nhà máy điêm và nhà máy cưa Bến Thủy. Phong trào đấu tranh của nông dân
cũng diễn ra ở nhiều địa phương như Hà Thái Nam. Thái Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh...
Từ tháng 5-1930, phong trào phát triển thành cao trào. Ngày 1-5-1930, nhân dân Việt
Nam kỷ niệm Ngày Quốc tế Lao động với những hình thức đấu tranh phong phú. Riêng
trong tháng 5-1930 đã nổ ra 16 cuộc bãi công của cơng nhân, 34 cuộc biểu tình của nơng
dân và 4 cuộc đấu tranh của các tầng lớp nhân dân thành thị. Từ tháng 6 đến tháng 81930 đã nổ ra 121 cuộc đấu tranh, nổi bật nhất là cuộc tổng bãi công của công nhân khu
công nghiệp Bến Thủy-Vinh (8/1930), đánh dấu “một thời kỳ mới, thời kỳ đấu tranh kịch
liệt đã đến”.
Trước sức mạnh của quần chủng, bộ máy chính quyền của đế quốc và tay sai ở nhiều nơi
tan rã. Các tổ chức đang lãnh đạo ban chấp hành nông hội thôn, xã đứng ra quản lý mọi
mặt đời sống xã hội ở nông thôn, thực hiện chuyên chính với kẻ thu, dân chủ với quần
chủng nhân dân, làm chức năng, nhiệm vụ một chính quyển cách mạng dưới hình thức
các uy ban tự quản theo kiểu Xơ viết.
Tháng 9-1930, Ban Thường vụ Trung ương Đang gửi thông tri cho Xứ ủy Trung Kỳ vạch

rõ chủ trương bạo động riêng lẽ trong vài địa phương lúc đó là quả sớm vì chưa đủ điều
kiện. Trách nhiệm của Đảng là phải tổ chức quần chúng chống khủng bố, giữ vững lực
lượng cách mạng, “duy trì kiến cố ảnh hưởng của Đảng, của Xô Viết trong quần chúng,
để đến khi thất bại thì ý nghĩa Xơ viết ăn sâu vào trong óc quần chúng và lực lượng của
Đảng và Nơng hội vẫn duy trì".
4


Khi chính quyền Xơ viết ra đời cũng là lúc phong trào cách mạng lên tới cao nhất. Từ
cuối năm 1930, thực dân Pháp tập trung lực lượng đàn áp, kết đỉnh cao hợp thủ đoạn bạo
lực với những thủ đoạn chính trị như cưỡng bức dân cày ra đầu thú, tổ chức rước cỡ
vàng, nhận thề quy thuận... Hàng nghìn chiến sĩ cộng sản, hàng vạn người yêu nước bị
bắt, bị giết hoặc bị tù đây. Toàn bộ Ban Chấp hành Trung ương Đảng bị bắt, khơng cịn
lại một ủy viên nào36, “Các tổ chức của Đảng và của quần chúng tan rã hầu hết".
Tuy bị đế quốc và tay sai dìm trong máu lửa, nhưng cao trào cách mạng năm 1930-1931
là bước thắng lợi đầu tiên có ý nghĩa quyết định đến tiến trình phát triển về sau của cách
mạng Việt Nam. Nó đã “ khẳng định trong thực tế quyền lãnh đạo và năng lực lãnh đạo
cách mạng của giai cấp vô sản mà Đại biểu là Đảng ta.”. Sự lãnh đạo của Đảng và khối
liên minh công nông là những nhân tố chiến lược đảm bảo thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Cao trào bước đầu tạo ra trận địa và lực lượng cách mạng, rèn luyện đội ngũ cán
bộ, đảng viên và quần chúng yêu nước. Đặc biệt, “Xô viết Nghệ An bị thất bại, nhưng đã
có ảnh hưởng lớn. Tinh thần anh dũng của nó ln ln nồng nàn trong tâm hồn quần
chúng, và nó đã mở đường cho thắng lợi về sau.
*Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đơng Dương (10/1930)
Tháng 4-1930, giữa lúc phong trào cách mạng đang phát triển, Trần Phú từ Liên Xô về
nước. Tháng 7-1930, ông được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời và tham
gia chuẩn bị cho Hội nghị lần thứ nhất của Trung ương.
Từ ngày 14 đến ngày 31-10-1930, Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ nhất
tại Hương Cảng tức Hồng Kông (Trung Quốc), quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt
Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Trần Phú được bau làm Tổng Bí thư của Đảng.

Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đơng Dương với các nội dung:
Xác định mâu thuẫn giai cấp ngày căng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên là
“một bên thì thợ thuyền, dân cây và các phần tử lao khổ; một bên thì địa chủ, phong kiến,
tư bản và đế quốc chủ nghĩa".

5


Về phương hướng chiến lược của cách mạng, Luận cương nêu rõ tính chất của cách mạng
Đơng Dương lúc đầu là một cuộc “cách mạng tư sản dân quyền", “có tính chất thổ địa và
phản để . Sau đó sẽ tiếp tục “phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bốn mà tranh đấu thẳng lên con
đường xã hội chủ nghĩa".
Nhiệm vụ của cách mạng là đánh đổ phong kiến và đế quốc. Hai nhiệm vụ đó khăng
khích với nhau.
Giai cấp vơ sản và nơng dân là hai động chính của cách mạng tư sản dân quyển, trong đó
giai cấp vơ sản là động lực chính và mạnh.
Vể lãnh đạo cách mạng là Đảng Cộng sản Đông Dương. Về phương pháp cách mạng,
Luận cương nêu rõ phải ra sức chuẩn bị cho quần chúng về con đường “vũ trang bạo
động”.
Cách mạng Đông Dương phải là một bộ phận của cách mạng vơ sản thế giới, vì thế giai
cấp vơ sản Đơng Dương phải đồn kết gắn bó với giai cấp vơ sản thế giới, trước hết là
giai cấp vô sản Pháp, và phải mật thiết liên hệ với phong trào các nước thuộc địa và nửa
thuộc địa. cách mạng ở các
Luận cương chính trị tháng 10-1930 đã xác định nhiều vấn đề cơ bản về chiến lược cách
mạng. Tuy nhiên, Luận cương đã không vạch rõ mâu thuẫn chu yếu của xã hội Việt Nam
thuộc địa, không nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân tộc, mà nặng về đấu tranh giai cấp
và cách mạng ruộng đất; không để ra được một chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp
rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược và tay sai. Nguyên nhân của
những hạn chế đó là do nhận thức chưa đầy đủ về thực tiễn cách mạng thuộc địa và chịu
ảnh hưởng của tư tưởng tả khuynh, nhấn mạnh một chiều đấu tranh giai cấp đang tồn tại

trong Quốc tế Cộng san và một số Đảng Cộng sản anh em trong thời gian đó.

6


1,2. Cuộc đấu tranh khôi phục tổ chức và phong trào cách mạng, Đại hội
Đảng lần thứ nhất ( 3/1935):
Pháp tiến hành đàn áp, khủng bố khiến cho lực lượng cách mạng bị tổn thất nặng. Các cơ
quan lãnh đạo của Đảng, cơ sở cách mạng bị phá vỡ, hàng vạn đảng viên, cán bộ bị bắt và
tù đày giết hại, tù chính trị bị giam tại Hỏa Lị, Khám lớn, Cơn Đảo…
Pháp tiến hành chính sách mị dân nhằm lơi kéo hay mê hoặc các tầng lớp nhân dân:Về
chính trị, tăng số đại diện người Việt vào cơ quan lập pháp cấp Kỳ. Về kinh tế, cho người
Việt tham gia đấu thầu một số cơng trình. Về văn hóa - xã hội, cho tổ chức một số trường
Cao đẳng; lợi dụng tơn giáo để chia rẽ khối đồn kết dân tộc.
Những hoạt động khôi phục phong trào: Những đảng viên trong tù đấu tranh kiên trì bảo
vệ lập trường, quan điểm cách mạng của Đảng, tổ chức vượt ngục; đảng viên khơng bị
bắt tìm cách gây dựng lại tổ chức Đảng và quần chúng. Một số đảng viên hoạt động ở
Trung Quốc và Thái Lan trở về nước họat động. Năm 1932, theo chỉ thị của Quốc tế
Cộng sản, Lê Hồng Phong đã cùng một số đảng viên cộng sản hoạt động ở trong và nước
ngoài tổ chức ra Ban lãnh đạo Trung ương Đảng.
Tháng 6/1932, Ban lãnh đạo Trung ương thảo ra chương trình hành động của Đảng, chủ
trương đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ cho nhân dân lao động, thả tù chính trị, bỏ các
thứ thuế bất cơng, củng cố và phát triển các đồn thể cách mạng của quần chúng. Phong
trào đấu tranh của quần chúng được nhen nhóm như hội cấy, hội cày, hội hiếu hỉ, hội đọc
sách báo…Nhiều cuộc đấu tranh của công nhân nổ ra. Cuối năm 1933, tổ chức Đảng dần
hồi phục và củng cố. Đầu năm 1934, các Xứ ủy Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ được lập lại.
Đến đầu năm 1935, các tổ chức Đảng và phong trào quần chúng được hồi phục.
Tháng 3-1935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng họp ở Ma Cao (Trung Quốc), đề ra
ba nhiệm vụ trước mắt: Củng cố và phát triển Đảng, Đẩy mạnh cuộc vận động tập hợp
quần chúng. Mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xô và

ủng hộ cách mạng Trung Quốc... Đại hội thơng qua Nghị quyết chính trị, Điều lệ Đảng và
các n về vận động quần chúng. Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương mới do Lê Hồng
7


Phong làm Tổng Bí thư, bầu đồn đại biểu đi dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản. Nguyễn
Ái Quốc được cử làm đại diện của Đảng bên cạnh Quốc tế Cộng sản. Đại hội lần thứ nhất
của Đảng (3-1935) vẫn chưa đề ra một chủ trương chiến lược phù hợp với thực tiễn cách
mạng Việt Nam, chưa đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và tập hợp lực lượng
toàn dân tộc. Đại hội lần thứ nhất đánh dấu sự phục hồi hệ thống tổ chức của Đảng và
phong trào cách mạng quần chủng, tạo điều kiện để bước vào một cao trào cách mạng
mới.

2, Cuộc vận động dân chủ 1936 – 1939:
2,1. Điều kiện lịch sử và chủ trương của Đảng
Để giải quyết những hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933, giai cấp tư sản ở
một số nước như Đức, Italia, Tây Ban Nha... chủ trương dùng bạo lực đàn áp phong trào
đấu tranh trong nước và chuẩn bị phát động chiến tranh thế giới để chia lại thị trường.
Chủ nghĩa phát xít xuất hiện và tạm thời thắng thế ở một số nơi. Nguy cơ chủ nghĩa phát
xít và chiến tranh thế giới đe doạ nghiêm trọng nền hịa bình và an ninh quốc tế.
Quốc tế Cộng sản họp Đại hội VII tại Mátxcova (Liên Xô) (7-1935), xác định kẻ thù
nguy hiểm trước mắt của nhân dân thế giới là chủ nghĩa phát xít. Nhiệm trước mắt của
giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động thế giới chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến
tranh bảo vệ dân chủ và hòa binh. Để thực hiện nhiệm vụ đó, giai cấp cơng nhân các
nước trên thế giới phải thống nhất hàng ngũ, lập mặt trận nhân dân rộng rãi.
Ở Pháp, tháng 6/1936 Mặt trận Nhân dân Pháp thắng cử và lên cầm quyền Chính phủ liên
hiệp của Mặt trận Nhân dân Pháp và các đảng phái tiến bộ đã ban hành nhiều chính sách
tiến bộ trong nước và thi hành một số chính sách tự do, dân chủ ở thuộc địa.
Ở Việt Nam, mọi tầng lớp xã hội đều mong muốn có những cải cách dân chủ nhằm thốt
khỏi tình trạng ngột ngạt do khủng hoảng kinh tế khủng bó và chính sách trắng do thực

dân Pháp gây ra. Đảng Cộng sản Đông Dương đã phục hối hệ thống tổ chức sau một thời
gian đấu tranh cực kỳ gian khổ vả tranh thủ cơ hội thuận lợi để xây dựng, phát triển tổ
chức đảng và các tổ chức quần chúng rộng rãi.

8


Ngày 26-7-1936, Ban Chấp hành Trung ương Đảng hợp Hội nghị tại Thượng Hải (Trung
Quốc), do Lê Hồng Phong chủ trì. Hội nghị xác định nhiệm vụ trước mặt là chống phát
xít, chống chiến tranh để quốc, chống phân động thuộc địa và tay sai, đổi tự do, dân chủ,
cơm áo và hịa bình; “lập Mặt trận nhân dân phản để rộng rãi bao gồm các giai cấp. các
đảng phải, các đồn thể chính trị và tín ngưỡng tơn giáo khác nhau, các dân tộc ở xứ
Đông Dương để cùng nhau tranh đấu để đòi những điều dân chủ đơn sợ. Hội nghị chủ
trương chuyển hình thức tổ chức bí mật, khơng hợp pháp sang các hình thức tổ chức và
đấu tranh công khai, nửa công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp, kết hợp với bí mật, bất hợp
pháp. Đồng chí Hà Huy Tập là Tống Bí thư của Đảng từ tháng 8-1936 đến tháng 3-1938.
Các Hội nghị lần thứ ba (3-1937) và lần thứ tư (9-1937) Ban Chấp hành Trung ương
Đảng bản sâu hơn về công tác tổ chức của Đảng. quyết định chuyển mạnh hơn nữa về
phương pháp tổ chức và hoạt động để tập hợp đông đảo quần chúng trong mặt trận chống
phản động thuộc địa, đòi tự do, dân chủ, cơm áo. hịa bình.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 3-1938 nhấn mạnh “lập Mặt trận dân
chủ thống nhất là một nhiệm vụ trung tâm của Đảng trong giai đoạn hiện tại. Cùng với
việc đề ra chủ trương cụ thể, trước mắt để lãnh đạo phong trào dân chủ 1936-1939, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng đặt vấn đề nhận thức lại mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ
phản để và điền địa.
Trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới (tháng 10-1936), Đảng nêu quan
điểm: “Cuộc dân tộc giải phóng khơng nhất thiết phải kết chặt với cuộc cách mạng điển
địa. Nghĩa là khơng thể nói rằng muốn đánh đổ để quốc cần phải phát triển cách mạng
điển địa, muốn giải quyết vấn đề điền địa thì cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có
chỗ khơng xác đáng”; “Nói tóm lại, nếu phát triển cuộc tranh đấu chia đất mà ngăn cản

cuộc tranh đấu phản để thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước.
Nghĩa là chọn dịch nhân chính, nguy hiểm nhất, để tập trung lực lượng của một dân tộc
mà đánh cho được toàn thắng". Với văn kiện này. Trung ương Đảng đã nêu cao tỉnh thần
đấu tranh, thẳng thắn phê phán quan điểm chưa đúng và bước đầu khắc phục hạn chế
trong Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đơng Dương tháng 10-1930. Đó cũng là
nhận thức mới, phù hợp với tinh thần trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng tại
9


Hội nghị thành lập Đảng (2-1930) và lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn
Ái Quốc.

2,2. Phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc vận động dân chủ diễn ra trên quy mô rộng lớn, lôi
cuốn đông đảo quần chúng tham gia với những hình thức đấu tranh phong phú. Nắm cơ
hội Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp quyết định trả tự do một số tù chính trị, thi hành
một số cải cách xã hội cho lao động ở các thuộc địa Pháp và cử một ủy ban điều tra thuộc
địa đến Đông Dương, Đảng phát động một phong trào đấu tranh công khai của quần
chúng, mở đầu bằng cuộc vận động lập Ủy ban trù bị Đông Dương đại hội" nhằm thu
thập nguyện vọng quần chúng. tiến tới triệu tập Đại hội đại biểu nhân dân Đông Dương.
Hưởng ứng chủ trương của Đảng, quần chúng sơi nổi tổ chức các cuộc mít tỉnh, hội họp
để tập hợp “dẫn nguyện". Trong một thời gian ngắn, ở khắp các nhà máy, hầm mỏ, đồn
điển, từ thành thi đến nông thôn đã lập ra các “Ủy ban hành động" để tập hợp quần
chúng. Riêng ở Nam Kỳ có 600 ủy ban hành động.
Đầu năm 1937, nhân dịp phải viên của chính phủ Pháp là Gơđa (Godard) đi lý Đơng
Dương và Bréviê (Brévié) sang nhận chức tồn quyền Đơng Dương, Đảng vận động hai
nghĩa “đón rước", một tinh thìợc biểu dương lực lượng quần chúng dưới danh nghĩa biểu
tình, đưa đơn “dân nguyện”
Ngày 5-5-1937, Tổng Bí thư Hà Huy Tập với bút danh Thanh Hương xuất bản cuốn
Torotkit và phản cách mạng phê phán những luận điệu “tả” khuynh của các phần tử

Torotkit ở Việt Nam như Tạ Thu Thâu, Hồ Hữu Tưởng góp phần xây dựng Đảng về tư
tưởng, chính trị. Theo sáng kiến của Đảng, Hội truyền bá quốc ngữ ra đời. Từ cuối năm
1937 phong trào truyền bá phát triển mạnh . Hội nghị Trung ương Đảng (29 - 30-3.1938)
quyết định lập Mặt trận Dân để tập hợp lực lượn, phát triển phong trào. Hội nghị bầu
đồng chí Nguyễn Văn Cừ làm Tổng Bí thư của Đảng. Các hình thức tổ chức quần chúng
phát triển rộng rãi, bao gồm các hội tương tế, hội ái hữu. Trong những năm 1937-1938,
Mặt trận Dân chủ còn tổ chức các cuộc vận động tranh cử vào các Viện dân biểu Bắc Kỳ,
Trung Kỳ, Hội đồng quản hạt Nam Kỳ, Hội đồng kinh tế lý tài Đông Dương.

10


Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (9-1939), thực dân Pháp đàn áp cách mạng.
Đảng rút vào hoạt động bí mật. Cuộc vận động dân chủ kết thúc. Đó thực sự là một
phong trào cách mạng sơi nổi, có tinh thần quần chúng rộng rãi, nhằm thực hiện mục tiêu
trước mắt là chống phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hịa
bình. Đảng nhận thức đầy đủ rằng, “những u sách đó tự nó khơng phải là mục đích
cuối cùng” bằng cách không thể nào thay đổi một cách căn bản trật tự xã hội cũ". Song
muốn đi đến mục đích cuối cùng, cách mạng phải vượt thắng lợi từng bước nhiều chặng
đường quanh co, từ thấp đến cao, giành tiền lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Qua cuộc vận động dân chủ, Đội quân chính trị quần chúng gồm hàng triệu người được
tập hợp, giác ngộ và rèn luyện. Uy tín và ảnh hưởng của Đảng được mở rộng. Tổ chức
Đảng được củng cố và phát triển. Đến tháng 4-1938, Đang có 1.597 dừng viên hoạt động
bí mật và hơn 200 đảng viên hoạt động công khai. Số hội viên trong các tổ chức quần
chủng công nhân, nông dân, phụ nữ, học sinh, cứu tế là 35.009 người
Đảng tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm mới. Đó là kinh nghiệm về chỉ đạo chiến lược:
giải quyết mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu trước mắt về xây dựng một
mặt trận thống nhất rộng rãi phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, phân hỏa và cơ
lập cao độ kẻ thù nguy hiểm nhất; về kết hợp các hình thức tổ chức bí mật và cơng khai
để tập hợp quần chúng và các hình thức, phương pháp đấu tranh, tổ chức Đông Dương

đại hội, đấu tranh nghị trường, trên mặt trận báo chí, địi dân sinh, dân chủ, bãi cổng lớn
của công nhân vùng mỏ (12-11-1936), kỷ niệm Ngày Quốc tế lao động 1-5. Thực tiễn
phong trào chỉ ra “Việc gì đúng với nguyên vọng nhân dân thì được quần chúng nhân dân
ủng hộ và hăng hái đấu tranh. Tháng 10-1938, Nguyễn Ái Quốc rời Mátxcơva (Liên Xơ)
trở lại Trung Quốc trên lộ trình trở về Tổ quốc. Năm 1939, từ Trung Quốc, Người đã gửi
nhiều thư cho Trung ương Đảng ở trong nước, truyền đạt quan điểm của Quốc tế Cộng
sản và góp nhiều ý kiến quan trọng về sự lãnh của Đảng. Cuộc vận động dẫn chủ 19361939 đã làm cho trận địa và lực lượng cách mạng được mở rộng ở cả nông thôn và thành
thị, thực sự là một bước chuẩn bị cho thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám sau này.

11


3, Phong trào giải phóng dân tộc (1939- 1945)
3,1 Bối cảnh lịch sử và chủ trương chiến lược mới của Đảng
Tháng 9-1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Chính phủ Đaladie (Daladier) thi
hành một loạt biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong trào cách mạng
ở thuộc địa. Mặt trận Nhân dân Pháp tan vỡ. Ở Đông Dương, bộ máy đàn áp được tăng
cường, lệnh thiết quân luật được ban bổ.
Tháng 6-1940, Đức tiến cơng Pháp. Chính phủ của Thủ tướng Pêtanh (Pétain) kí văn ban
đầu hàng Đức. Tướng Đờ Gơn (Charles De Gaulle) ra nước ngoài để xây dựng lực lượng
kháng chiến chống Đức. Sau khi chiếm một loạt nước châu Âu, tháng 6-1941 Đức tiễn
công Liên Xô.
Ở Đông Dương, thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến, phát xít hóa thị bộ máy
thống trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng, thực hiện chính sách “kinh tế chỉ huy”
nhằm tăng cường vợ vết sức người, sức của để phục vụ cuộc chiến tranh đế quốc. Tháng
9-1940, quân phiệt Nhật vào Đông Dương, thực dân Pháp đầu hàng và câu kết với Nhật
để thống trị và bóc lột nhân dân Đông Dương, làm cho nhân dân Đông Dương phải chịu
cảnh “một cổ hai trong”.
Từ giữa năm 1941, tình hình trong nước và thế giới có nhiều biến chuyển, Tháng 121941, chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ. Quân phiệt Nhật lần lượt đánh chiếm nhiều
thuộc địa của Mỹ và Anh ở trên biển và trong đất liền. Ngay khi Chiến tranh thế giới thứ

hai mới bùng nổ, Đảng kịp thời rút vào hoạt động bí mật, chuyển trọng tâm cơng tác về
nông thôn, đồng thời vẫn chủ trọng các đô thị. Ngày 29-9-1939, Trung ương Đảng gửi
tồn Đảng một thơng bảo quan trọng chỉ rõ: “Hồn cảnh Đơng Dương sẽ tiến bước đến
vấn đề dân tộc giải phóng". Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (11-1939) tại Bà
Điểm (Hóc Mơn, Gia Định) phân tích tình hình và chỉ rõ: “Bước đường sinh tồn của các
dân tộc Đông Dương không có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ để quốc
Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng
độc lập”. Hội nghị nhấn mạnh “chiến lược cách mệnh tư sản dân quyền bây giờ cũng phải
12


thay đổi ít nhiều cho hợp với tỉnh thế mới”. “Đứng trên lập trưởng giải phóng dân tộc, lấy
quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vẫn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền địa
cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mã giải quyết". Khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất"
phải tạm gác và thay bằng các khẩu hiệu chống địa tổ cao, chống cho vay lãi nặng, tịch
thu ruộng dắt của đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc chia cho dân cày. Hội
nghị chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương, thu hút tất
cả các dân tộc, các giai cấp, đảng phải và cá nhân yêu nước ở Đông Dương nhằm đánh đổ
đế quốc Pháp và tay sai, giành lại độc lập hoàn toàn cho các dân tộc Đông Dương.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 11-1939 đã đáp ứng yêu dùng cầu
khách quan của lịch sử, dưa nhân dẫn bước vào thời kỳ trực tiếp vận động giải phóng dân
tộc. Sau 130 năm hoạt động ở nước ngoài, ngày 28-1-1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về
nước và làm việc ở Cao Bằng. Tháng 5-1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ
tám Ban chấp hành Trung ương Đảng, “Vấn đề chính là nhận định cuộc cách mạng trước
mắt của Việt Nam là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, lập Mặt trận Việt Minh,
khẩu hiệu chính là: Đồn kết tồn dân, chống Nhật, chống Pháp, đấu tranh giành lại độc
lập: hoãn cách mạng ruộng đất”. Trung ương bầu đồng chi Trường Chinh làm Tổng Bí
thư. Hội nghị Trung ương nêu rõ những nội dung quan trọng:
Hội nghị chỉ rõ: Nhân dân Đông Dương phải chịu những hậu quả nặng nề của cuộc chiến
tranh thế giới, vì vậy thái độ chính trị của các giai cấp có thay đổi khá lớn. Mâu thuẫn chủ

yếu phải được giải quyết cấp bách lúc này là mâu thuẫn giữa các dân tộc Việt Nam với
bọn đế quốc phát xít Pháp - Nhật. Hội nghị tán thành Nghị quyết của các Hội nghị Trung
ương lần thứ sáu, bảy về chuyển hướng chiến lược và sách lược. Hội nghị đề ra nhiều chủ
trương, chính sách cụ thể, nhấn mạnh tầm quan trọng của vấn đề dân tộc, nhấn mạnh
Đảng của giai cấp công nhân, nếu muốn tập hợp lực lượng tồn dân thì phải giương cao
ngọn cờ dân tộc, phải đoàn kết hết sức rộng.
Theo đề nghị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt
Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh). Các tổ chức quần chúng yêu nước chống
đế quốc trong Mặt trận đều lấy tên là Hội Cứu quốc như Hội Công nhân Cứu quốc, Hội
13


Nông dân Cứu quốc, Hội Phụ nữ Cứu quốc, Hội Thanh niên Cứu quốc, Hội Phụ lão Cứu
quốc, Hội Nhi đồng Cứu quốc, Hội Quân nhân Cứu quốc... Với các dân tộc Lào, Cao
Miên, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận ở mỗi nước, tiến tới thành lập một Mặt trận
chung Đông Dương.
Nhằm triệt để phát huy yếu tố dân tộc, phân hoá hàng ngũ giai cấp địa chủ. Hội nghị tiếp
tục thực hiện chủ trương tạm gác khẩu hiệu đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân
cày thay bằng khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày
nghèo, chia lại ruộng công, giảm tô, giảm tức.
Hội nghị xác định: phương pháp cách mạng là "cuộc cách mạng Đông Dương kết liễu
bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang". Hội nghị quyết định phải xúc tiến công tác chuẩn bị
khởi nghĩa vũ trang, khi thời cơ đến “với lực lượng sẵn có ta có thể lãnh đạo một cuộc
khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường
cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn".
Hội nghị quyết định đặt vấn đề dân tộc trong khuôn khổ của một nước Việt Nam, Lào,
Khơ me, thi hành đúng quyền “dân tộc tự quyết", với tinh thần liên hệ mật thiết, giúp đỡ
nhau giành thắng lợi...
Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh chủ trương
thay đổi chiến lược cách mạng được đề ra từ Hội nghị tháng 11-1939, có ý nghĩa quyết

định đến thắng lợi của Cách mạng tháng tám 1945.

3,2 Quá trình chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền
*Xây dựng lực lượng chính trị:
Lực lượng chính trị được xác định là lực lượng quyết định đến thắng lợi của cách mạng,
trọng tâm của xây dựng lực lượng chính trị là xây dựng khối đại đồn kết tồn dân tộc.
Một trong những nhiệm vụ cấp bách của Đảng là vận động quần chúng tham gia Mặt trận
Việt Minh. Chủ trương thành lập các Hội cứu quốc như công nhân cứu quốc, nông dân
cứu quốc, thanh niên cứu quốc, phụ nữ cứu quốc, .. nhằm nhấn mạnh nhiệm vụ cứu quốc
là nhiệm vụ trọng tâm, hàng đầu.
Cao Bằng thí điểm xây dựng các Hội Cứu quốc. Đến năm 1942, khắp 9 châu của tỉnh
Cao Bằng đều có Hội cứu quốc trong đó có 3 châu “hồn tồn”.
14


Đến năm 1943, ủy ban Việt Minh Cao- Bắc – Lạng phát triển xuống miền xuôi.
Năm 1943, Đảng đề ra bản Đề cương văn hóa Việt Nam. Nam 1944, thành lập Đảng dân
chủ Việt Nam và Hội Văn hóa Cứu quốc Việt Nam đều đứng trong Mặt trận Việt Minh.
Ngày 16/4/1945 Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam và Ủy ban Dân tộc giải phóng các
cấp thành lập.
*Xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ đia cách mạng:
Lực lượng vũ trang được xác định là nòng cốt, mũi nhọn xung kích trong tổng khởi
nghĩa nên được Đảng đặc biệt coi trọng. Bộ phận nòng cốt ban đầu là đội du kích Bắc
Sơn, đến năm 1941 thống nhất các đội du kích ở Bắc Sơn – Võ Nhai thành trung đội Cứu
quốc quân I. Tiếp đó các Trung đội Cứu quốc Quân II và III ra đời. Cuối năm 1941, ở
Cao Bằng Nguyễn Ái Quốc thành lập đội vũ trang tự vệ, tổ chức các lớp huân luyện quân
sự. Ngày 22/11/1944 theo chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh Đội Việt Nam tuyên truyền
giải phóng quân ra đời gồm 34 chiến sĩ do Võ Nguyên Giáp chỉ huy, đây là tiền thân của
Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ ngày 15 đến ngày 20/4/1945, Hội nghị Quân sự Cách
mạng Bắc Kì họp đã quyết định: Mở trường đào tạo cán bộ quân sự, chính trị, phát triển

lực lượng vũ trang; Thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam Giải phóng qn;
Phát triển chiến tranh du kích; Xây dựng căn cứ kháng Nhật, chuẩn bị Tổng khởi nghĩa
cho kịp thời cơ.
Sau khởi nghĩa Bắc Sơn, Đảng chỉ thị thành lập căn cứ địa đầu tiên Bắc Sơn – Võ
Nhai. Khi Bác mới về nước, Người chỉ thị thành lập căn cứ địa Cao Bằng. Năm 1943,
thành lập căn cứ Cao – Bắc – Lạng, lập 19 ban xung phong Nam tiến để liên lạc với căn
cứ Bắc Sơn – Võ Nhai. Tháng 5/1941, Bác chọn Tân Trào ( Tuyên Quang) làm trung tâm
chỉ đạo phong trào cách mạng trong cả nước. Ngày 4/6/1946 Khu giải phóng Việt Bắc
được thành lập gồm 6 tỉnh Cao – Bắc – Lạng – Hà – Tuyên – Thái, Tân Trào được chọn
làm thủ đô kháng chiến. Ủy ban lâm thời Khu giải phóng được thành lập. Việt Bắc trở
thành căn cứ địa chính của cách mạng cả nước, là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam
mới.

3,3 Cao trào kháng Nhật cứu nước:
*Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945)
15


Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc, nước Pháp được
giải phóng. Chính phủ Đờ-Gơn trở về Pa-ri.
Ở mặt trận Thái Bình Dương, phát xít Nhật bị nguy khốn trước địn tấn cơng dồn dập của
quân Anh - Mĩ cả ở trên biển và trên bộ.,
Quân Pháp ờ Đông Dương ráo riết chuẩn bị, chờ thời cơ để giành lại địa vị thống trị cũ.
Tình thế trên buộc Nhật phải đảo chính Pháp, nhằm độc chiếm Đông Dương.
*Tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945
Ngay khi tiếng súng đảo chính của Nhật vừa nổ. Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã
họp hội nghị mở rộng. Hội nghị đã ra chỉ thị : "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của
chúng ta xác định kẻ thù chính, cụ thể, trước mắt của nhân dân Đơng Dương lúc này là
phát xít Nhật. Hội nghị quyết định phát động một cao trào “Kháng Nhật, cứu nước” mạnh
mẽ làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa.

Từ giữa tháng 3-1945 trở đi, cách mạng đã chuyển sang cao trào, phong trào đấu tranh vũ
trang và những cuộc khởi nghĩa từng phần liên tiếp nổ ra ở nhiều địa phương. Ở khu căn
cứ địa Cao - Bắc - Lạng, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân đã
phối hợp với lực lượng chính trị của quần chúng giải phóng hàng loạt xã, châu, huyện ở
nhiều địa phương, quần chúng cách mạng đã cảnh cáo bọn quan lại tổng lí cường hào cố
ý chống lại cách mạng, trừng trị bọn Việt gian, ở nhiều thị xã, thành phố và ngay cả ở Hà
Nội, các đội danh dự Việt Minh đã táo bạo trừ khử một số tên tay sai đắc lực của địch,
kích thích tinh thần cách mạng của quần chúng.
Giữa lúc cao trào kháng Nhật, cứu nước đang cuồn cuộn dâng lên thì ngày 15 - 4 - 1945
Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kì họp ở Hiệp Hịa (Bắc Giang), Hội nghị quyết định
thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam Giải phóng quân phát triển hơn nửa
lực lượng vũ trang và nửa vũ trang; mở trường đào tạo cán bộ quân sự và chính trị : đề ra
nhiệm vụ cần kíp là phải tích cực phát triển chiến tranh du kích, xây dựng căn cứ địa
kháng Nhật để chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ.
Ủy ban Qn sự cách mạng Bắc Kì được thành lập, có nhiệm vụ chỉ huy các chiến khu
miền Bắc và giúp đỡ tồn quốc về mặt qn sự. Tiếp đó, Khu giải phóng Việt Bắc, ra đời
(4 - 6 - 1945) bao gồm hầu hết các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn Tuyên Quang, Hà
16


Giang, Thái Nguyên và một số vùng lân cận thuộc các tỉnh miền trung du (Bắc Giang,
Phú Thọ, Yên Bái, Vinh Yên). Ủy ban Lâm thời Khu giải phóng đã thi hành 10 chính
sách của Việt Minh nhằm đem lại quyền lợi cho nhân dân. Khu giải phóng Việt Bắc trở
thành căn cứ địa của cả nước và là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới.
Phong trào quần chúng trong cả nước đang trên đà phát triển mạnh mẽ ở cả vùng nơng
thơn và thành thị thì nạn đói diễn ra nghiêm trọng hơn ở các tỉnh miền Bắc và Bắc Trung
Bộ. Khẩu hiệu “Phá kho thóc', giải quyết nạn đói” được kịp thời đưa ra đã dấy lên phong
trào đánh chiếm kho thóc của Nhật để chia cho dân nghèo. Một bầu khơng khí tiền khởi
nghĩa lan tràn khắp cả nước.


3,4 Cách mạng tháng 8/1945 :
*Thời cơ lịch sử:
Mùa Thu năm 1945 Liên Xô thực hiện cam kết ở hội nghị Yalta tuyện chiến với Nhật,
đánh tan đội quân Quan Đông tinh nhuệ của chúng. Cũng lúc đó Mỹ ném hai quả bom
nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki, Nhật đầu hàng Đồng Minh vơ điều kiện. Trước
đó vào ngày 8-5-1945 phát xít Đức đã đầu hàng Đồng Minh, ngày 14-8-1945 thế chiến
thứ lui kết thúc. Tình hình thế giới lúc này đã có những ảnh hưởng tích cực tới nước ta.
Cách mạng nước ta tiến nhanh đến ngày quyết định.
Trong nước Đảng đã có sự chuẩn bị đầy đủ về đường lối và phương pháp cách mạng. Lực
lượng cách mạng cũng đã được chuẩn bị chu đáo trong 15 năm kể từ khi Đảng ra đời.

*Tổng khởi nghĩa tháng tám:
Ngày 13-8-1945 sau khi hay tin Nhật đầu hàng Đồng Minh, trung ương Đảng và tổng bộ
Việt Minh đã thành lập ngay ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Đúng 23 giờ cùng ngày, Ủy
ban khởi nghĩa đã ban bố quân lệnh số 1 hạ lệnh tổng khởi nghĩa và được nhân dân
hưởng ứng mạnh mẽ.
16-8-1945 tại Tân Trào, đại hội quốc dân do tổng bộ Việt Minh triệu tập gốm hơn 60 đại
biểu thay mặt cho các đảng phái chính trị, các đồn thể cứu quốc, các dân tộc, các tôn
giáo từ Hà Nội... Đại hội tán thành chủ tương tổng khởi nghĩa của Đảng thơng qua 10
chính sách của mặt trận Việt Minh và chọn lá cờ đỏ sao vàng làm quốc kỳ, bài Tiến Quân
Ca là quốc ca và cử ra ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam tức Chính Phủ làm cách mạng
17


lâm thời. Cùng ngày trước đình Tân Trào, ủy ban làm lễ tuyên thệ, quyết hoàn thành sứ
mệnh cao cả cứu nước, cứu dân, Hồ chủ tịch gửi thủ kêu gọi tổng khởi nghĩa.
Với tinh thần “dù hi sinh với đấu, dù phải đối chảy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên
quyết giành cho được độc lập" như Hồ Chủ tịch kêu gọi nhân dân ta đã nhanh chóng
chớp lấy thời cơ, toàn dân nổi dậy, triệu người như một. Ý chi quật cường của dân tộc
mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Tại Thái Nguyên; đúng 2h chiều ngày 16-8-1945 một đơn vị bộ đội chủ lực của là đã tiến
xuống đánh thị xã Thái Nguyên. Giải phong quân từ Tân Trào tiến thẳng về Thái Nguyên,
Trưa ngày 19-8-1815 giải phóng quân đã ở phía Tây thị xã Thái Nguyên, mặc dù về mặt
số lượng quân của ta không đủ để tiêu diệt địch nhưng căn cứ vào tình lãnh lúc bấy giờ
thì bộ chỉ huy quyết định hành động. dùng 5h30 ngày 20-8 ta trao tối hậu thư cho tên tỉnh
trưởng. Tỉnh trưởng đầu hàng, lính bảo an giao nộp khi giới. Cùng lúc đó qn giải phóng
tấn cơng doanh tại Nhật, nhưng chúng vẫn ngoan cố và sau nhiều lẫn cơng kích qn
Nhật đã phải rút hết về Hà Nội. Thái Nguyên được giải phóng.
Tại Hà Nội Hà Nội nằm ở vị trí trung tâm Bắc Kì nó có một vị trí chiến lược quan trọng
trong hệ thống phịng thủ cũng như cai trị cho nên tước đây là thực dân Pháp hay sau này
là phát xít Nhật cũng đề rất trú trọng và dấu từ vào hệ thống phịng thủ cũng như cai trị ở
nơi đây. Chính vì vậy Hà Nội cũng là nơi được Đảng ưu tiên phát triển các cơ cở cũng
như các lực lượng để chờ tới khi có thời cơ thì sẽ tiến hành tổng khởi nghĩa giành thắng
lợi. Vào ngày 17-8 sau khi qn Nhật ở Hà Nội đang hoang mang vì thơng tin Nhật hàng
Đơng Minh thì ngay chiều hơm đó cuộc mít tinh của tổng hội cơng chức bắt đầu tại nhà
hát lớn, cuộc tột tỉnh vừa bắt đầu thi cờ đỏ sao vàng xuất hiện làm cho bọn địch hết sức
hoang mạng Ngày 18-8 thì khơng khi chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa diễn ra liễt sức
sôi nổi. Sáng sớm 19-8 Hà Nội rực màu cờ đỏ sao vàng khắp nơi vang lên khẩu hiệu "ủng
hộ Việt Minh, đã đảo bà nhìn, Việt Nam hồn tồn độc lập". Tiếp đó các chiến sĩ tự vệ
dụng áp lực vũ trang chiếm kho và khi và các vị trí then chốt và tới chiều ngày 198 thì
Việt Minh lần lượt giành được chính quyền, làm chủ tàn thành phố. Ngày 25-8 thì chủ

18


tịch Hồ Chí Minh về tới Hà Nội. Việc nhanh chóng giải phỏng được Hà Nội có ý nghĩa
rất to lớn đối với chúng ta.
Tại các địa phương tiêu biểu khác; sau khi lệnh tổng khởi nghĩa được phát động cách
mạng tháng tăm đã có những bước nhảy vọt, các cuộc khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng
khởi nghĩa trên khắp các địa phương trên đất nước. Ngày 14-8 1945 lực lượng vũ trang

Quảng Ngã giành chính quyền thắng lợi. Từ ngày 14 tới 16-8-1915 khắp các địa phương
như Cao Bằng, Bắc Cạn, Yên Bái các tỉnh đồng bằng song Hồng. Thanh Hóa, Nghệ An,
Hà Tĩnh... lần lượt nổi dậy giành chính quyền. Ngày 19-8 nhân dân các tỉnh Thái Bình,
Khánh Hịa cũng giành được độc lập. Ngày 24-8 tại các tỉnh lị Hà Nam, Đak Lak, Phú
n, Gị Cơng cũng giành được thắng lợi... Chỉ trong vòng 2 tuấn cuộc tổng khởi nghĩa
của ta đã giành thắng lợi hoàn toàn, Chế độ thực dân nửa phong kiến từng ngự trì trên đất
nước ta đã xụp đố hồn tồn.
Cách mạng thành công một cách rực rỡ, Ngày 2-9-1945 là một nốt son chỏi lại trong lịch
sử nước ta, từ sáng sớm hàng chục ngàn người đà hàng ngũ chỉnh tế đổ về quảng trường
Ba Đình. Đúng 14h chiều Chủ tịch Hồ Chí Minh bước ra lễ đài với bộ đồ giản dị tại đây
người đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
đánh dấu một bước tiến choi lại cho dân tộc Việt Nam.
II, Ý nghĩa lịch sử của cách mạng tháng Tám 1945:
Khẳng định ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh viết: “Chẳng
những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và
những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong
lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã
lãnh đạo cách mạng thành cơng, đã nắm chính quyển tồn quốc".
Đối với Việt Nam, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đập tan xiềng xích nơ lệ của chủ
nghĩa đế quốc trong gần một thế kỷ, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế
một nghìn năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước của nhân dân đầu
tiên ở Đông Nam Á, giải quyết thành công vấn đề cơ bản của một cuộc cách mạng xã hội
là vấn đề chính quyền. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, nhân dân Việt Nam từ
19


thân phận nô lệ bước lên địa vị người chủ đất nước, có quyền quyết định vận mệnh của
mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa trở thành một quốc gia độc lập có chủ
quyền, vươn lên cùng các dân tộc trên thế giới đấu tranh cho những mục tiêu cao cả của
thời đại là hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đảng Cộng sản Đơng

Dương từ chỗ phải hoạt động bí mật trở thành một đảng cầm quyền. Từ đây, Đảng và
nhân dân Việt Nam có chính quyền nhà nước cách mạng làm công cụ sắc bên phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám mở ra kỷ
nguyên mới trong tiến trình lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập tự do và hướng tới chủ
nghĩa xã hội.
Về mặt quốc tế, Cách mạng Tháng Tám là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc lần
đầu tiên giành thắng lợi ở một nước thuộc địa, đã đột phá một khâu quan trọng trong hệ
thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu thời kỳ suy sụp và tan rã của chủ nghĩa
thực dân cũ. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám không chỉ là chiến cơng của dân tộc
Việt Nam mà cịn là là chiến công chung của các dân tộc thuộc địa đang đầu tranh vì độc
lập tự do, vì thế nó có sức cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn, sáng tạo
của Đảng và tư tưởng độc lập tự do của Hồ Chí Minh. Nó chứng tỏ rằng: một cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc do Đảng Cộng san lãnh đạo hồn tồn có khả năng thắng lợi ở
một nước thuộc địa trước khi giai cấp cơng nhân ở “chính quốc” lên nắm chính quyển.
Cách mạng Tháng Tám đã góp phần làm phong phú thêm kho tầng lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc.
III, Ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đối với sự nghiệp xây
dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay.
1, Vận dụng trong việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện nay
Sau bao nhiêu năm, những bài học về thành công của cách mạng tháng Tám vẫn được
Đảng ta ghi nhớ, vận dụng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thời gian qua, tình hình thế
giới, khu vực và trên biển Đơng có nhiều biến đổi khơn lường khiến nhiệm vụ phòng thủ,
bảo vệ đất nước, nhất là an ninh trên biển ở Việt Nam trở thành nhiệm vụ khó khăn với
20


nhiều thách thức. Cụ thể, Trung Quốc có hành động xâm phạm chủ quyền biển đảo Việt
Nam. Khởi đầu là tháng 5 năm 2014, Trung Quốc đã hạ đặt trái phép giàn khoan Hải
Dương- 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Hành động này

của Trung Quốc là muốn hiện thực hóa đường “lưỡi bị”, độc chiếm Biển Đơng, muốn
khẳng định Hồng Sa, Trường Sa là của Trung Quốc. Hành động này của Trung quốc đã
vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán trong vùng biển của Việt Nam. Đây chỉ là
một vụ việc trong một chuỗi các vụ việc mà Trung Quốc đã và sẽ làm.
Đảng và Nhà nước ta xác định giữ vững độc lập, tự chủ về đường lối cách mạng với
phương châm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Quan
điểm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, được hiểu một cách tổng
quát là, lấy cái không thay đổi để đối phó với mn sự thay đổi. Đây là quan điểm mang
tính nguyên tắc phương pháp luận biện chứng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong hoạt động
đối ngoại. Chủ quyền biển, đảo là chủ quyền quốc gia trên biển - là thiêng liêng, bất khả
xâm phạm, là cái bất biến; để đấu tranh bảo vệ lợi ích thiêng liêng đó, phải linh hoạt phải ứng vạn biến. Điều đó có nghĩa là giữ vững chủ quyền lãnh thổ quốc gia là “dĩ bất
biến”, còn kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền bằng các biện pháp hịa bình, kể cả đấu
tranh pháp lý trên cơ sở luật pháp quốc tế, thậm chí bằng biện pháp quân sự là “ứng vạn
biến”. Đảng và Nhà nước ta thể hiện cho nhân dân thế giới thấy chúng ta chỉ muốn hịa
bình, lên án mạnh mẽ hành động phi pháp của phía Trung Quốc dùng xâm lược, vẽ lại
bản đồ để khẳng định chủ quyền là việc làm trái đạo lý, trái luật pháp quốc tế, không thể
chấp nhận trong thời đại ngày nay.
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam, điều kiện tiên quyết là phải duy trì hịa bình, ổn định thì mới phát triển kinh tế - xã
hội bền vững. Để bảo vệ Tổ quốc thì phải xây dựng nền quốc phịng tồn dân và thế trận
chiến tranh nhân dân, trong đó xây dựng tiềm lực quốc phòng là nhiệm vụ trung tâm,
chúng ta trang bị vũ khí để phịng thủ, tự vệ; xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh thì
chúng ta mới có thể tự mình bảo vệ chủ quyền được. Cụ thể, để bảo vệ chủ quyền biển
đảo, Chính phủ đã tăng cường xây dựng lực lượng thực thi pháp luật trên biển, kêu gọi
hợp tác đầu tư ở vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam, hỗ trợ ngư dân đóng tàu lớn, hiện
21


đại để vươn ra khơi xa đánh bắt hải sản…là những việc làm hết sức đúng đắn và cần
thiết.

Đồng thời, Đảng và Nhà nước ta đã huy động lực lượng toàn dân, phát huy sức mạnh dân
tộc kết hợp với sức mạnh thời đại vào cuộc đấu tranh chung. Đảng và Nhà nước ta đã tố
cáo hành vi ngang ngược của nhà nước Trung Quốc trên trường quốc tế để tranh thủ dư
luận tiến bộ trên toàn thế giới; đồng thời chúng ta kiên trì dùng ngoại giao để các nước có
chung quyền lợi trên biển Đơng hợp sức với Việt Nam ngăn chặn âm mưu và hành động
độc chiếm biển Đông của Trung Quốc như cách mà Hồ Chủ tịch đã làm trong việc tranh
thủ các lực lượng tiến bộ bên ngoài, phát huy nội lực bên trong tạo nên sức mạnh tổng
hợp để làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám lịch sử.
Biển, đảo Việt Nam là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, có vị trí đặc biệt
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước hiện nay và mai sau.
Bảo vệ chủ quyền biển, đảo là nhiệm vụ trọng yếu và là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta. Cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo hiện nay là lâu dài, gian
khổ, đòi hỏi chúng ta phải kiên quyết, nhưng phải bình tĩnh, kiên trì, vận dụng đúng đắn
những bài học rút ra từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám lịch sử nhằm đạt mục đích
cuối cùng là độc lập, tồn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,
văn minh.

C. KẾT LUẬN
Thông qua việc nghiên cứu quá trình lãnh đạo giành chính quyền của Đảng giai đoạn
1930- 1945. Ta càng thấy rõ vai trò của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam , đưa cách mạng Việt Nam vượt qua những khó khăn thử thách mới của thế giới và
trong nước để đi đến thành cơng. Cùng với đó, nó cho ta thấy được sự nắm bắt tình hình
của Đảng ta là hết sức nhạy bén, kịp thời, Đảng đã biết vận dụng lý luận vào thực tiễn
một cách phù hợp, đúng đắn. Thông qua các Hội nghị từ Hội nghị Trung ương VI đến
Hội nghị Trung ương VIII, đã cho thấy được vai trò của Đảng ta trong việc để ra đường
lối cách mạng Việt Nam, từ đó từng bước hồn chỉnh chủ trương chuyển hướng chỉ đạo
22


chiến lược của Đảng từ năm 1930 – 1945. Chính những sự chiến lược của Đảng ta do là

thành tố quan trọng để đưa đến thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945, với sự
ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Lịch Sử 12, NXB Giáo Dục
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt
Nam, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật.
3. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật.
4. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Bứt phá điểm thi môn khoa học xã hội – Phần Lịch sử, Th.s Lê Đình Hiển, NXB Hồng
Đức.

23



×