Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

NHỮNG điểm mới của bộ LUẬT HÌNH sự 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.92 KB, 36 trang )

NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

I. GIỚI THIỆU SƠ BỘ VỀ BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015
1. Sự cần thiết phải ban hành Bộ luật hình sự năm 2015
Bộ luật hình sự (BLHS) hiện hành được Quốc hội khóa X thơng qua ngày
21/12/1999 trên cơ sở kế thừa truyền thống của pháp luật hình sự Việt Nam, phát
huy thành tựu của BLHS năm 1985 (đã được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989,
1991, 1992 và 1997).
Sau hơn 14 năm thi hành, BLHS năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm
2009) đã có những tác động tích cực đối với cơng tác phịng, chống tội phạm, bảo
vệ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần tích cực vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
tốt hơn quyền con người, quyền công dân.
Tuy nhiên, kể từ sau khi BLHS năm 1999 được ban hành, tình hình đất
nước ta đã có những thay đổi lớn về mọi mặt. Việc thực hiện đường lối, chính sách
của Đảng, Nhà nước về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN mà nội dung cơ bản là ghi nhận và bảo đảm
thực hiện các quyền con người, quyền cơ bản của cơng dân; chiến lược hồn thiện
hệ thống pháp luật, chiến lược cải cách tư pháp và chủ động hội nhập quốc tế của
Việt Nam đã mang lại những chuyển biến lớn, tích cực về kinh tế - xã hội và đối
ngoại của đất nước. Bên cạnh đó, tình hình tội phạm nhìn chung vẫn diễn biến hết
sức phức tạp với những phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Số lượng tội
phạm ln có xu hướng gia tăng, nghiêm trọng hơn cả về quy mô và tính chất, nhất
là trong các lĩnh vực kinh tế, môi trường. Điều này đã làm cho BLHS hiện hành trở
nên bất cập không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Mặc dù, năm 2009, Quốc
hội khoá XII đã sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS, nhưng do phạm vi sửa đổi
chỉ giới hạn trong một số điều, nên chưa thể khắc phục được đầy đủ, toàn diện
những bất cập của BLHS trong thực tiễn.
Ngoài ra, BLHS hiện hành cũng còn nhiều bất cập về mặt kỹ thuật lập pháp
liên quan đến sự thống nhất giữa Phần chung và Phần các tội phạm; các dấu hiệu
định tội, định khung của nhiều tội danh; các tội ghép; cách thiết kế khung hình phạt


cũng như khoảng cách khung hình phạt của một số tội danh; chưa có sự nhất quán
trong cách phân chia các chương tội phạm... Những bất cập này cũng ảnh hưởng
lớn đến việc hướng dẫn thi hành và áp dụng các quy định của BLHS trên thực tế.
Theo Bộ Tư pháp, những hạn chế, bất cập nêu trên đã ảnh hưởng không
nhỏ đến hiệu lực và hiệu quả cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm; chưa thực


sự tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập
quốc tế của đất nước cũng như cho việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm
các quyền của người dân. Do đó, việc xây dựng BLHS năm 2015 là hết sức cần
thiết.
2. Giới thiệu khái quát về Bộ luật hình sự năm 2015
Bộ luật hình sự nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (viết tắt là
BLHS năm 2015) được Quốc hội khóa XIII kỳ họp thứ 10 thông qua ngày
27/11/2015, được Chủ tịch nước công bố vào ngày 18/12/2015 và chính thức có
hiệu lực từ ngày 01/7/2016. BLHS năm 2015 ra đời đánh dấu một bước tiến mới
trong kỹ thuật lập pháp, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập cũng như
phù hợp với giai đoạn phát triển mới của đất nước sau Hiến pháp năm 2013. Đồng
thời, phát huy hơn nữa vai trò của BLHS với tư cách là công cụ pháp lý sắc bén,
hữu hiệu trong đấu tranh phòng, chống tội phạm; góp phần bảo vệ chủ quyền, an
ninh của đất nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ
và thúc đẩy nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa phát triển đúng hướng, bảo
đảm trật tự, an tồn xã hội, tạo mơi trường xã hội và mơi trường sinh thái an tồn,
lành mạnh cho mọi người dân, đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế của
nước ta. Phạm vi sửa đổi, bổ sung BLHS lần này được xác định là cơ bản và toàn
diện. Trên cơ sở phạm vi sửa đổi như vậy, BLHS năm 2015 có 26 chương và được
thiết kế thành 03 phần trên cơ sở kế thừa hai phần của BLHS năm 1999 và bổ sung
thêm Phần thứ ba quy định về điều khoản thi hành. So với BLHS năm 1999 sửa
đổi bổ sung năm 2009 (viết tắt là BLHS năm 1999) đã thêm 82 điều, 1 phần điều
khoản thi hành và 2 chương (đó là chương IV: Những trường hợp loại trừ trách

nhiệm hình sự; chương XI: Những quy định đối với pháp nhân phạm tội); giữ
nguyên 17 điều, bổ sung mới 49 điều, sửa đổi 362 điều và bãi bỏ 08 điều.
3. Những điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015
PHẦN I - NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG:
1. Bổ sung quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
phạm các tội trong lĩnh vực kinh tế, môi trường.
BLHS năm 1999 chỉ quy định trách nhiệm hình sự đối với cá nhân mà
khơng quy định trách nhiệm hình sự của các pháp nhân. Nay BLHS năm 2015 quy
định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm các tội trong lĩnh vực
kinh tế, môi trường. Cụ thể là BLHS năm 2015 đã bổ sung quy định trách nhiệm
hình sự của các pháp nhân thương mại tại các điều: Điều 2, Điều 6, Điều 8, Điều
33 và các điều từ Điều 74 đến Điều 89; đồng thời xác định pháp nhân thương mại


chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về 31 tội phạm trong lĩnh vực kinh tế và môi
trường được quy định cụ thể tại Điều 76 của BLHS năm 2015 như sau:
“Điều 76. Phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
Pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội phạm
sau đây:
1. Điều 188 (tội buôn lậu); Điều 189 (tội vận chuyển trái phép hàng hóa,
tiền tệ qua biên giới); Điều 190 (tội sản xuất, buôn bán hàng cấm); Điều 191 (tội
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm); Điều 192 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả); Điều
193 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực
phẩm); Điều 194 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng
bệnh); Điều 195 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn ni,
phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi); Điều 196
(tội đầu cơ); Điều 200 (tội trốn thuế); Điều 203 (tội in, phát hành, mua bán trái
phép hóa đơn, chứng từ); Điều 209 (tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che
giấu thơng tin trong hoạt động chứng khốn); Điều 210 (tội sử dụng thơng tin nội
bộ để mua bán chứng khốn); Điều 211 (tội thao túng thị trường chứng khoán);

Điều 213 (tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm); Điều 216 (tội trốn đóng bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động); Điều 217
(tội vi phạm quy định về cạnh tranh); Điều 225 (tội xâm phạm quyền tác giả,
quyền liên quan); Điều 226 (tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp); Điều 227
(tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên); Điều 232
(tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng); Điều 234 (Tội vi phạm quy
định về quản lý, bảo vệ động vật hoang dã);
2. Điều 235 (tội gây ô nhiễm môi trường); Điều 237 (tội vi phạm phịng
ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường); Điều 238 (tội vi phạm quy định về
bảo vệ an tồn cơng trình thủy lợi, đê điều và phòng, chống thiên tai; vi phạm quy
định về bảo vệ bờ, bãi sông); Điều 239 (tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam);
Điều 242 (tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản); Điều 243 (tội huỷ hoại rừng); Điều 244
(tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm); Điều 245
(tội vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên); Điều 246 (tội nhập
khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại).
Cũng cần lưu ý là đối với trường hợp pháp nhân thương mại phạm tội, điều
kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại là:
“Điều 75. Điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
1. Pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các
điều kiện sau đây:
a) Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại;
b) Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại;
c) Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp
thuận của pháp nhân thương mại;


d) Chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và
khoản 3 Điều 27 của Bộ luật này”
Cũng cần lưu ý là việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự
khơng loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân (Khoản 2 Điều 75) và pháp nhân

thương mại chỉ có thể bị áp dụng một hình phạt chính nhưng có thể bị áp dụng
cùng lúc nhiều hình phạt bổ sung được quy định tại Điều 33 của BLHS năm 2015.
“Điều 33. Các hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội
1. Hình phạt chính bao gồm:
a) Phạt tiền;
b) Đình chỉ hoạt động có thời hạn;
c) Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn.
2. Hình phạt bổ sung bao gồm:
a) Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định;
b) Cấm huy động vốn;
c) Phạt tiền, khi khơng áp dụng là hình phạt chính.
3. Đối với mỗi tội phạm, pháp nhân thương mại phạm tội chỉ bị áp dụng
một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung”
2. Hồn thiện chính sách xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi.
Bổ sung nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội (Điều 91)
( Đã thay đổi cụm từ “người chưa thành niên” trong BLHS năm 1999 thành người
“dưới 18 tuổi”).
Sửa đổi nguyên tắc quy định tại khoản 4 Điều 69 BLHS năm 1999 “Khi xét
xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên
phạm tội, thì tịa án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp được quy định tại
Điều 70 của Bộ luật này”. Theo đó tại khoản 4, Điều 91 BLHS năm 2015 quy định:
“Khi xét xử, tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu
xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy
định tại Mục 2 hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng quy
định tại Mục 3 Chương này khơng bảo đảm hiệu quả giáo dục, phịng ngừa”.
Nhằm tăng cường tính minh bạch của BLHS, qua đó nâng cao hiệu quả
việc phòng ngừa tội phạm đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, BLHS năm
2015 sửa đổi theo hướng xác định rõ hơn trách nhiệm hình sự người chưa thành
niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, cụ thể:
- Tại khoản 2, Điều 12 BLHS năm 2015 quy định người từ đủ 14 trở lên,

nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội giết người, tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm,
tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản và tội rất nghiêm trọng,
tội đặc biệt nghiêm trọng (bao gồm 22 tội).


- Về nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, BLHS năm
2015 quy định: “Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt
nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa
chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Việc xử
lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức của họ
về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện
gây ra tội phạm”.
- Tại khoản 2, khoản 3, Điều 91 BLHS năm 2015 quy định:
“2. Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và
có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không
thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn trách
nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp quy định tại mục 2 Chương này:
a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội
nghiêm trọng, trừ trường hợp quy định tại Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm); Điều 171 (tội
cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng
trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều
251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của
Bộ luật này;
b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý
quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ trường hợp quy định tại Điều 123
(tội giết người); Điều 134, các khoản 4, 5 và khoản 6 (tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm), Điều 142

(tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi); Điều 144 (tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi
đến dưới 16 tuổi); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người
dưới 16 tuổi); Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều
248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma
túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái
phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này;
c) Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm nhưng có vai trị khơng đáng kể
trong vụ án”.
BLHS năm 2015 đã bổ sung thêm 02 biện pháp có tính chất giám sát, giáo
dục người dưới 18 tuổi phạm tội khi họ thực hiện tội phạm mà cơ quan có thẩm
quyền xét thấy không cần thiết phải áp dụng trách nhiệm hình sự đối với họ gồm:
khiển trách (Điều 93), hịa giải tại cộng đồng (Điều 94), ngồi các biện pháp giáo
dục tại xã, phường, thị trấn (Điều 95) và đưa vào giáo dục tại trường giáo dưỡng
(Điều 96) như BLHS năm 1999.
Như vậy, theo tinh thần của BLHS năm 2015, Tòa án cần hạn chế đến mức
thấp nhất việc áp dụng hình phạt tù đối người người chưa thành niên phạm tội như


hiện nay, tăng cường áp dụng các biện pháp tư pháp nhằm mục đích giáo dục, giúp
đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.
3. Mở rộng đối tượng khơng bị áp dụng hình phạt tử hình và khơng thi hành
án tử hình:
Bổ sung đối tượng khơng áp dụng hình phạt tử hình là người từ 75 tuổi trở
lên khi phạm tội hoặc người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ
mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối
lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý
tội phạm hoặc lập công lớn (Điều 40).
4. Bổ sung quy định đối với trường hợp Đồng phạm:
Bổ sung quy định rõ đối với trường hợp đồng phạm thì người đồng phạm
khơng phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành.

(Khoản 4 Điều 17).
5. Cụ thể hóa các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự, loại trừ trách
nhiệm hình sự:
BLHS năm 2015 đã cụ thể hóa các trường hợp được miễn trách nhiệm hình
sự theo hướng: Phân biệt rõ các trường hợp đương nhiên được miễn trách nhiệm
hình sự và những trường hợp có thể được miễn trách nhiệm hình sự; sửa đổi và bổ
sung một số trường hợp có thể được miễn trách nhiệm hình sự nhằm khắc phục
những bất cập khi áp dụng biện pháp này trong thời gian vừa qua. Cụ thể như sau:
“Điều 29. Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự
1. Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những
căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách,
pháp luật làm cho hành vi phạm tội khơng cịn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi có quyết định đại xá.
2. Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong
các căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà
người phạm tội khơng cịn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm
nghèo dẫn đến khơng cịn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa;
c) Người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc
phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội
phạm và lập cơng lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa
nhận.
3. Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng
do vơ ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của
người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện


hịa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm

hình sự”.
BLHS năm 2015 đã bổ sung một chương riêng (chương IV) với 07 điều
quy định về những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, trong đó, tiếp tục duy
trì và cụ thể hóa 04 trường hợp như Bộ luật hiện hành (sự kiện bất ngờ, phịng vệ
chính đáng, tình thế cấp thiết và tình trạng khơng có năng lực trách nhiệm hình sự),
đồng thời, bổ sung thêm 03 trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự là: gây thiệt
hại trong khi bắt giữ người phạm pháp; rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp
dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ; thi hành mệnh lệnh của người chỉ
huy hoặc của cấp trên (các điều 24, 25, 26) nhằm tạo hành lanh pháp lý an tồn để
khuyến khích người dân an tâm, tích cực tham gia phịng chống tội phạm; tham gia
các hoạt động sản xuất, nghiên cứu khoa học có tính chất “đột phá” vì lợi ích
chung.
6. Sửa đổi, bổ sung về quyết định hình phạt; các tình tiết giảm nhẹ, tăng
nặng trách nhiệm hình sự; quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình
phạt được áp dụng; về chuẩn bị phạm tội; miễn, giảm hình phạt:
BLHS năm 2015 đã bổ sung quy định căn cứ quyết định hình phạt (Điều
50): Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngồi căn cứ đã quy định, Tịa án căn
cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của người phạm tội.
BLHS năm 2015 đã bổ sung các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự sau
(Khoản 1 Điều 51):
+ Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phịng vệ chính đáng;
+ Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải
do lỗi của mình gây ra;
+ Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
+ Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
+ Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có cơng với
cách mạng.
- Quy định rõ “Đầu thú” có thể được Tịa án coi là tình tiết giảm nhẹ
(khoản 2).
BLHS năm 2015 đã làm rõ các tình tiết tăng nặng sau (Điều 52)

+ Trường hợp phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai và người già được
quy định lại: “Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai, người đủ 70
tuổi trở lên”.
+ Trường hợp phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai, người già, người ở
trong tình trạng khơng thể tự vệ được hoặc đối với người lệ thuộc mình về mặt vật
chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác được quy định lại: “Phạm tội đối với
người ở trong tình trạng khơng thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết


tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình
về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác”.
BLHS năm 2015 đã quy định lại nội dung về quyết định hình phạt nhẹ hơn
thành “quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp
dụng” (Được quy định cụ thể tại Điều 54); đã làm rõ các trường hợp quyết định
hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng.
+ Theo Điều 54 BLHS năm 2015, Tịa án có thể quyết định một hình phạt
dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung
hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết
giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật HS 2015.
+ Tịa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung
hình phạt được áp dụng nhưng khơng bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề
nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án
đồng phạm nhưng có vai trị khơng đáng kể.
+ Nhưng nếu điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó
là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tịa án có thể quyết định chuyển sang một hình
phạt khác thuộc loại nhẹ hơn.
Như vậy, theo quy định mới thì Tịa án có thể quyết định một hình phạt
dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng mà không bị ràng buộc điều
kiện phải trong khung liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu
là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trị khơng đáng kể.

Theo hướng thu hẹp phạm vi trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị
phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng. Theo đó, chỉ xử
lý hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm 21 tội danh được liệt kê cụ thể trong Bộ
luật; không xử lý hình sự đối với trẻ em từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có hành vi
chuẩn bị phạm tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng quy định tại
điểm a, d khoản 2 Điều 14. Đồng thời, sửa đổi, bổ sung quy định của Bộ luật hình
sự 1999 về che giấu tội phạm theo hướng người che giấu tội phạm là ông, bà, cha,
mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội chỉ phải chịu
trách nhiệm hình sự trong trường hợp che giấu các tội xâm phạm an ninh quốc gia
và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác được Bộ luật này quy định (khoản
2 Điều 18).
Bên cạnh đó, BLHS 2015 cũng sửa đổi, bổ sung quy định về án treo theo
hướng quy định rõ các nghĩa vụ mà người được hưởng án treo phải thực hiện trong
thời gian thử thách cũng như hậu quả của việc vi phạm các nghĩa vụ này (Điều 65).
Đối với hình phạt tù, BLHS 2015 khẳng định ngun tắc khơng áp dụng hình phạt
tù đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý (khoản 2 Điều 38).
BLHS mới cũng bổ sung quy định về tha tù trước hạn có điều kiện với những điều
kiện chặt chẽ nhằm một mặt tạo điều kiện cho phạm nhân chấp hành án tốt được
sớm trở về với gia đình, mặt khác bảo đảm trật tự trị an xã hội (Điều 66).


7. Sửa đổi, bổ sung các quy định về điều kiện và thủ tục xóa án tích:
BLHS năm 2015 quy định về xóa án tích theo hướng thay đổi căn bản quy
định về xóa án tích đương nhiên nhằm đề cao trách nhiệm của cơ quan Nhà nước,
tạo điều kiện thuận lợi cho người bị kết án sớm ổn định cuộc sống, tái hòa nhập
cộng đồng (các Điều 69 - 73). Tại Điều 69 BLHS năm 2015 ghi như sau:
“Điều 69. Xóa án tích
1. Người bị kết án được xóa án tích theo quy định tại các điều từ Điều 70
đến Điều 73 của Bộ luật này. Người được xóa án tích coi như chưa bị kết án.
2. Người bị kết án do lỗi vơ ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm

nghiêm trọng và người được miễn hình phạt khơng bị coi là có án tích”.
Như vậy những người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội
phạm nghiêm trọng và người được miễn hình phạt khơng bị coi là có án tích. Đây
là điểm mới có lợi cho người phạm tội cần được áp dụng ngay.
Đồng thời Bộ luật mới đã bãi bỏ quy định cấp Giấy chứng nhận khi được
Tòa án xóa án tích; bổ sung quy định: “Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư
pháp có trách nhiệm cập nhật thơng tin về tình hình án tích của người bị kết án và
khi có u cầu thì cấp phiếu lý lịch tư pháp xác nhận khơng có án tích, nếu có đủ
điều kiện quy định đương nhiên được xóa án tích” (Khoản 4 Điều 70); sửa đổi quy
định về thời hạn xóa án tích trong trường hợp chưa được xóa án tích mà phạm tội
mới: “Người bị kết án chưa được xóa án tích mà thực hiện hành vi phạm tội mới và
bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật thì thời hạn để xóa án tích cũ
được tính lại kể từ ngày chấp hành xong hình phạt chính hoặc thời gian thử thách
án treo của bản án mới hoặc từ ngày bản án mới hết thời hiệu thi hành” (Khoản 2
Điều 73); bổ sung quy định sau: “Người bị kết án trong trường hợp phạm nhiều tội
mà có tội thuộc trường hợp đương nhiên được xóa án tích, có tội thuộc trường hợp
xóa án tích theo quyết định của Tịa án thì căn cứ vào thời hạn quy định tại Điều 71
của Bộ luật này Tịa án quyết định việc xóa án tích đối với người đó” (Khoản 3
Điều 73).
PHẦN II - CÁC TỘI PHẠM
A. Sơ lược về nội dung thay đổi, bổ sung:
1. Bãi bỏ hình phạt tử hình đối với một số tội danh:
Để thể chế hóa các quan điểm của Đảng về hạn chế áp dụng hình phạt tử
hình được thể hiện trong Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính
trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, cũng như quán triệt tinh thần
Hiến pháp năm 2013 trong việc ghi nhận và bảo vệ quyền sống của con người, trên
cơ sở nghiên cứu, tổng kết thực tiễn áp dụng hình phạt tử hình và tình hình phát
triển kinh tế - xã hội của nước ta trong thời gian tới, BLHS năm 2015 đã sửa đổi,
bổ sung quy định về hình phạt tử hình theo hướng hạn chế áp dụng hình phạt tử
hình đối với những tội danh cịn giữ lại hình phạt tử hình theo hướng quy định rõ



ràng, chặt chẽ, cụ thể các điều kiện áp dụng để tòa án cân nhắc, áp dụng trong từng
trường hợp cụ thể; mở rộng diện đối tượng không bị áp dụng hình phạt tử hình; mở
rộng các trường hợp khơng thi hành án tử hình và chuyển hình phạt tử hình thành
tù chung thân nhằm hạn chế việc thi hành án tử hình trên thực tế.
Cụ thể như sau:
- BLHS năm 2015 đã bãi bỏ hình phạt tử hình đối với 07 tội gồm: Tội cướp
tài sản (Điều 168); Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ
gia thực phẩm (Điều 193); Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 249); Tội
chiếm đoạt chất ma túy (Điều 252); Tội phá hủy cơng trình, cơ sở, phương tiện
quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 303); Tội chống mệnh lệnh (Điều 394); Tội
đầu hàng địch (Điều 399).
2. Những nội dung sửa đổi, bổ sung BLHS nhằm khắc phục những bất cập,
hạn chế trong thực tiễn, đáp ứng u cầu đấu tranh phịng, chống tội phạm trong
tình hình mới.
- Những tội phạm mới:
Những tội phạm mới được quy định trong BLHS 2015 bao gồm: Tội sử
dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147); tội mua bán, chiếm
đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người (Điều 154); tội xâm phạm quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí, tiếp cận thơng tin, quyền biểu tình của cơng dân (Điều 167); tội
tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại (Điều 187); tội làm giả tài liệu trong
hồ sơ chào bán, niêm yết chứng khoán (Điều 212); tội gian lận trong kinh doanh
bảo hiểm (Điều 213); tội gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp (Điều
214); tội gian lận bảo hiểm y tế (Điều 215); tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động (Điều 216); tội vi phạm quy
định về cạnh tranh (Điều 217); tội vi phạm quy định về hoạt động bán đấu giá tài
sản (Điều 218); Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây
thất thốt, lãng phí (Điều 219); tội vi phạm quy định của Nhà nước về quản lý và
sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 220); tội vi phạm quy

định của Nhà nước về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 221); tội vi phạm
quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 222); tội thông đồng, bao
che cho người nộp thuế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 223); tội vi phạm quy
định về đầu tư cơng trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 224); tội vi
phạm quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (Điều
230); tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật hoang dã (Điều 234); tội vi
phạm quy định về bảo vệ an tồn cơng trình thủy lợi, đê điều và phòng, chống
thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông (Điều 238); tội sản xuất, mua
bán, trao đổi hoặc tặng, cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích
trái pháp luật (Điều 285); Tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, cơng khai hóa
trái phép thơng tin về tài khoản ngân hàng (Điều 291); tội cung cấp dịch vụ trái
phép trên mạng máy tính, mạng viễn thơng (Điều 292); tội sử dụng trái phép tần số


vơ tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an tồn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu
nạn, quốc phịng, an ninh (Điều 293); tội cố ý gây nhiễu có hại (Điều 294); tội
cưỡng bức lao động (Điều 297); tội bắt cóc con tin (Điều 301); tội cướp biển (Điều
302); tội đăng ký hộ tịch trái pháp luật (Điều 336); tội tổ chức, môi giới cho người
khác xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép (Điều 348); tội vi phạm
quy định về giam giữ (Điều 388); tội gây rối trật tự phiên tòa (Điều 391); tội ra
mệnh lệnh trái pháp luật (Điều 393) và tội chiếm đoạt hoặc huỷ hoại di vật của tử
sỹ (Điều 418).
- Những hành vi được coi là tội phạm nay đã được bãi bỏ:
BLHS năm 2015 đã bãi bỏ bảy tội danh được quy định trong BLHS năm
1999 gồm: (1) tảo hôn; (2) kinh doanh trái phép; (3) báo cáo sai trong quản lý kinh
tế; (4) vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; (5) sử
dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng; (6) khơng chấp
hành các quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc đưa
vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính; (7) tội hoạt động phỉ.
- Cụ thể hóa các tình tiết có tính chất định tính:

BLHS năm 2015 đã cụ thể hóa các tình tiết có tính chất định tính, vốn là
một trong những bất cập của BLHS năm 1999 như: “gây hậu quả nghiêm trọng”,
“gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”; “số lượng
lớn”, “số lượng rất lớn”, “số lượng đặc biệt lớn”; “thu lợi bất chính lớn”, “thu lợi
bất chính rất lớn”, “thu lợi bất chính đặc biệt lớn”; “đất có diện tích lớn”, “đất có
diện tích rất lớn”, “đất có diện tích đặc biệt lớn”; “giá trị lớn”, “giá trị rất lớn”, “giá
trị đặc biệt lớn”; “quy mơ lớn” là các tình tiết định tội, định khung tăng nặng hình
phạt của các điều luật có quy định các tình tiết này, nhằm đảm bảo tính minh bạch.
Điều này làm cho BLHS năm 2015 có thể áp dụng được ngay mà không phải chờ
văn bản hướng dẫn như chúng ta đã từng làm trước đây.
3. Nội luật hóa các quy định có liên quan của điều ước quốc tế mà nước ta
là thành viên, góp phần tăng cường hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống
tội phạm.
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung quy định về chuẩn bị phạm tội theo hướng bên
cạnh các hành vi chuẩn bị phạm tội đã được quy định trước đây (như: tìm kiếm,
sửa soạn cơng cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội
phạm), còn bổ sung thêm hành vi thành lập, tham gia nhóm tội phạm để thực hiện
một tội phạm cụ thể (Điều 14). Quy định này tạo cơ sở pháp lý để chủ động ngăn
chặn sớm tội phạm xảy ra, góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm, đồng
thời phù hợp với tinh thần của Cơng ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc
gia.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung cơ bản cấu thành của tội mua bán người và tội
mua bán người dưới 16 tuổi trên tinh thần Nghị định thư về phịng, chống bn bán
người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em (Điều 150 và Điều 151).


Thứ ba, bổ sung tội bắt cóc con tin (Điều 301) và tội cướp biển (Điều 302)
trên tinh thần các quy định của Cơng ước chống bắt cóc con tin năm 1979 và Công
ước quốc tế về Luật biển năm 1982.
Thứ tư, bổ sung tội cưỡng bức lao động (Điều 297) trên tinh thần Công ước

số 29 của ILO về lao động cưỡng bức (năm 1930).
Thứ năm, sửa đổi, bổ sung tội rửa tiền nhằm đáp ứng đầy đủ yêu cầu của
các khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính về phịng, chống rửa tiền
(Điều 324).
Thứ sáu, sửa đổi, bổ sung các tội: bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật;
dùng nhục hình và bức cung (các điều 157, 373, 374) trên tinh thần Công ước
chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ
nhục.
Thứ bảy, sửa đổi, bổ sung vào cấu thành của một số tội phạm về chức vụ
hành vi tham nhũng trong khu vực tư nhằm xử lý hành vi tham nhũng trong khu
vực này; bổ sung hành vi đưa hối lộ cho cơng chức nước ngồi hoặc công chức
đang làm việc trong các tố chức quốc tế công nhằm đáp ứng yêu cầu thực thi Công
ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng.
B. Một số sửa đổi, bổ sung cụ thể theo các nhóm tội
- Những sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của con người (Chương XIV):
Bổ sung thêm trường hợp chuẩn bị phạm tội giết người với khung hình phạt
từ 1 – 5 năm tù (khoản 3 Điều 123); tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích
khiêu dâm (Điều 147) và tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người
(Điều 154). Tăng nặng hình phạt đối với trường hợp phạm tội khơng cứu giúp
người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng dẫn đến chết nhiều người
(khoản 3 Điều 132). Bổ sung thêm tình tiết định khung là “Dùng a-xít sunfuric
(H2SO4) hoặc hóa chất nguy hiểm khác gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác” cho tội Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khoẻ của người khác tại (Điều 134).
- Những sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm quyền tự do của con
người, quyền tự do dân chủ của công dân (Chương XV):
Bổ sung thêm một tội danh mới, tội xâm phạm quyền tự do ngôn luận, tự
do báo chí, tiếp cận thơng tin, quyền biểu tình của cơng dân (Điều 167). Đồng thời,
bổ sung thêm hành vi phạm tội đối với hai tội danh khác là hành vi xâm phạm

quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân (Điều 160) và hành vi làm sai lệch
kết quả trưng cầu ý dân (Điều 161). Tăng nặng hình phạt đối với 6 tội thuộc nhóm
này (các điều 158, 159, 162, 163, 164, 166).
- Những sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm sở hữu (Chương XVI):
BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm sở hữu theo
hướng bảo đảm đối xử bình đẳng giữa chính sách xử lý hành vi xâm phạm tài sản


của Nhà nước với hành vi xâm phạm tài sản của cá nhân theo tinh thần của Hiến
pháp 2013; tăng mức phạt tiền bổ sung đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu; đồng
thời, cụ thể hóa hành vi phạm tội, bổ sung tình tiết định khung tăng nặng đối với
các tội phạm thuộc nhóm này, nhất là cụ thể hóa trường hợp xử lý hình sự đối với
hành vi trộm cắp tài sản có giá trị dưới mức định lượng tối thiểu 02 triệu đồng
nhằm góp phần bảo vệ tài sản của nhân dân, nhất là người nghèo (khoản 1 Điều
173).
- Những sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm chế độ hơn nhân và gia
đình (Chương XVII):
Để thể hiện tinh thần Hiến pháp năm 2013 về bảo vệ quyền con người
trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình cũng như đảm bảo tính thống nhất và phù hợp
với Luật Hơn nhân và gia đình, BLHS năm 2015 đã hình sự hóa 03 hành vi sau: 1)
cưỡng ép ly hôn; 2) cản trở ly hôn (Điều 181); 3) tổ chức mang thai hộ vì mục đích
thương mại (Điều 187).
- Những sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
(Chương XVIII):
BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm trật tự quản
lý kinh tế (Chương XVIII) theo hướng:
+ Không hình sự hóa đối với các tội: kinh doanh trái phép (Điều 159 BLHS
năm 1999); báo cáo sai trong quản lý kinh tế (Điều 167 BLHS năm 1999); vi phạm
quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (Điều 170 BLHS năm
1999); sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng (Điều

178 BLHS năm 1999);
+ Đã thay thế tội Cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh
tế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 165 BLHS năm 1999) bằng những tội danh cụ
thể trong các lĩnh vực quản lý kinh tế như: Tội vi phạm quy định về quản lý, sử
dụng tài sản nhà nước gây thất thốt, lãng phí (Điều 219); Tội vi phạm quy định
của Nhà nước về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng
(Điều 220); Tội vi phạm về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 222); Tội vi
phạm các quy định về quản lý đất đai (Điều 229); Tội vi phạm quy định về bồi
thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (Điều 230)... Quy định này
nhằm tăng cường tính minh bạch, tạo hành lang pháp lý an toàn để các doanh
nghiệp thực hiện quyền tự do kinh doanh trong các lĩnh vực mà pháp luật không
cấm. Tuy nhiên, đối với những người làm công tác truy tố, xét xử, cần phải đặc biệt
chú ý đến sự khác biệt về cấu thành tội phạm giữa các tội danh nhằm tránh áp dụng
sai điều luật.
+ Bổ sung một số tội mới trong lĩnh vực chứng khoán, bảo hiểm, cạnh
tranh: Điều 212. Tội làm giả tài liệu trong hồ sơ chào bán, niêm yết chứng khoán;
Điều 216. Tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho
người lao động;..


+ Tăng hình phạt tiền với tính chất là hình phạt chính đối với các tội xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế.
- Những sửa đổi, bổ sung nhóm các tội phạm về môi trường (Chương
XIX):
BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung nhóm các tội phạm về mơi trường
(Chương XIX) theo hướng:
+ Cụ thể hóa các hành vi phạm tội gây ô nhiễm môi trường, tội vi phạm
quy định về xử lý chất thải nguy hại (Điều 227. Tội vi phạm các quy định về
nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên; Điều 228. Tội vi phạm các quy định về
sử dụng đất đai);

+ Tăng mức phạt tiền (cả phạt chính và phạt bổ sung) đối với các tội phạm
về môi trường.
Đồng thời, bổ sung tội vi phạm quy định về bảo vệ an tồn cơng trình thủy
lợi, đê điều và phòng, chống thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông
(Điều 238). Đặc biệt, Bộ luật quy định pháp nhân thương mại phải chịu trách
nhiệm hình sự đối với 09 tội danh trong chương này. Đó là những tội phạm gây ơ
nhiễm cho mơi trường, hủy hoại các loài động vật, thực vật, gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến sự đa dạng sinh học và cân bằng sinh thái.
- Những sửa đổi, bổ sung nhóm các tội phạm về ma túy (Chương XX):
BLHS hiện hành quy định một số tội phạm ghép thuộc chương các tội
phạm về ma túy. Với những quy định này thì những hành vi có tính chất, mức độ
nguy hiểm khác nhau nhưng lại có chung chính sách xử lý hình sự. Do vậy, để đảm
bảo việc phân hóa trách nhiệm hình sự, Chương XX BLHS năm 2015 đã tách 04
tội ghép trong chương các tội phạm về ma túy (các Điều 194, 195, 196, 200 BLHS
năm 1999) thành 14 tội danh khác nhau, đồng thời cụ thể hóa các hành vi phạm tội.
Đó là các tội liên quan đến tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt chất ma túy; tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng
vào việc sản xuất trái phép chất ma túy; sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán
các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma
túy; cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy (các điều từ 250
đến 261 và các điều 264, 265) với chính sách xử lý khác nhau, đảm bảo phù hợp
với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội đồng thời điều chỉnh lại các
mức định lượng cho phù hợp với tình hình mới. Ví dụ: Điều 247. Tội trồng cây
thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy; Điều
248. Tội sản xuất trái phép chất ma túy; Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma
túy; Điều 250. Tội vận chuyển trái phép chất ma túy; Điều 251. Tội mua bán trái
phép chất ma túy; Điều 252. Tội chiếm đoạt chất ma túy…
- Những sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm an tồn cơng cộng, trật
tự cơng cộng (Chương XXI):



Đối với nhóm các tội xâm phạm an tồn cơng cộng, trật tự công cộng
(Chương XXI), BLHS năm 2015 quy định phạt tiền là hình phạt chính áp dụng đối
với trường hợp phạm tội nghiêm trọng thuộc các tội: vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ; cản trở giao thông đường bộ; tổ chức đua xe trái phép; đua
xe trái phép (các Điều 260, 261, 265, 266). Đồng thời, bổ sung 8 tội danh mới
trong lĩnh vực này gồm: sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết
bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật (Điều 285); Tội thu thập,
tàng trữ, trao đổi, mua bán, cơng khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân
hàng (Điều 291); Tội cung cấp dịch vụ trái phép trên mạng máy tính, mạng viễn
thông (Điều 292); Tội sử dụng trái phép tần số vơ tuyến điện dành riêng cho mục
đích cấp cứu, an tồn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, quốc phịng, an ninh (Điều 293);
cố ý gây nhiễu có hại (Điều 294); cưỡng bức lao động (Điều 297); bắt cóc con tin
(Điều 301); cướp biển (Điều 302).
Cần lưu tâm là BLHS năm 2015 đã tăng mức tối thiểu truy cứu trách nhiệm
hình sự về các tội Đánh bạc (Điều 321), Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc (Điều 322)
lên 5.000.000 đồng.
- Những sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý hành
chính (Chương XXII):
BLHS năm 2015 đã tách 03 tội ghép trong chương các tội xâm phạm trật tự
quản lý hành chính (các Điều 263, 270, 275 BLHS năm 1999) thành 07 tội danh
khác nhau, đồng thời cụ thể hóa hành vi phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng
định khung hình phạt. Đó là các tội: cố ý làm lộ bí mật nhà nước; mua bán bí mật
nhà nước; chiếm đoạt, tiêu hủy bí mật nhà nước; vi phạm các quy định về quản lý
nhà ở; xây dựng, sửa chữa cơng trình xây dựng trái phép; xây dựng trên đất cấm
xây dựng; tổ chức người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép;
cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép (các điều
348, 349, 355, 356, 357, 362, 363)
- Những nội dung sửa đổi, bổ sung nhóm các tội phạm về chức vụ (Chương
XXIII):

BLHS năm 2015 có những nội dung sửa đổi, bổ sung góp phần tăng cường
cơng tác đấu tranh phịng, chống tham nhũng ở nước ta thể hiện ở hai điểm cơ bản:
một là Điều 28 đã bổ sung quy định không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với tội tham ô, tội nhận hối lộ thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng
(khoản 3 và khoản 4 của các điều 353, 354 BLHS) nhằm truy đến cùng những tội
phạm tham nhũng lớn, góp phần tăng cường cơng tác đấu tranh phòng, chống tham
nhũng; hai là, BLHS năm 2015 đã mở rộng phạm vi một số tội tham nhũng cũng
như một số tội thuộc Chương XXIII - Các tội phạm về chức vụ ra cả khu vực tư
(ngoài Nhà nước), theo đó, người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp,
tổ chức ngoài Nhà nước mà thực hiện hành vi tham ơ tài sản, nhận hối lộ thì cũng
bị xử lý về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ theo quy định tại các điều 353, 354


của BLHS. Ngồi ra, người có hành vi đưa hối lộ hoặc mơi giới hối lộ cho cơng
chức nước ngồi, cơng chức của tổ chức quốc tế cơng, người có chức vụ trong các
doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước thì cũng bị xử lý về tội đưa hối lộ hoặc tội
môi giới hối lộ theo quy định tại các điều 364, 365 của BLHS. Quy định này nhằm
góp phần tăng cường đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
- Những sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp
(Chương XXIV):
BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm hoạt động tư
pháp (Chương XXIV) theo hướng: bổ sung tình tiết tăng nặng định khung đối với 6
tội danh trong chương này (các Điều 368, 369, 370, 371, 373, 374). Bên cạnh đó,
Bộ luật này cịn sửa đổi, bổ sung tội dùng nhục hình (Điều 373) và tội bức cung
(Điều 374) trên tinh thần cập nhật nội dung Công ước chống tra tấn mà nước ta là
thành viên; sửa đổi, bổ sung tội làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc (Điều 375) theo
hướng mở rộng chủ thể tội này. Theo đó, ngồi Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm
phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của
đương sự thì những người khác có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp cũng có thể
trở thành chủ thể của tội này vì họ có cơ hội tiếp xúc với hồ sơ vụ án, vụ việc. Bổ

sung 3 tội danh: cản trở việc thi hành án (Điều 381); vi phạm quy định về giam giữ
(Điều 388) và gây rối trật tự phiên toàn (Điều 391).
II. GIỚI THIỆU SƠ BỘ VỀ BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM
2015
1. Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) hiện hành được Quốc hội khóa XI, kỳ
họp thứ 4 thơng qua ngày 26 tháng 11 năm 2003 trên cơ sở kế thừa truyền thống
của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, phát huy thành tựu của BLTTHS năm
1988 và các luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS được Quốc hội thông
qua năm 1990, năm 1992 và năm 2000.
Sau hơn 11 năm thi hành, BLTTHS năm 2003 đã khẳng định vai trị quan
trọng của trong cơng cuộc đấu tranh phịng, chống tội phạm, góp phần giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, bảo vệ cuộc sống bình n của nhân dân, tạo
mơi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế, xây dựng
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Mặc dù vậy, thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003 cũng bộc lộ những
vướng mắc, bất cập, chủ yếu là: (1) Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ
quan tiến hành tố tụng có những nội dung chưa phù hợp nên ảnh hưởng đến chất
lượng, hiệu quả hoạt động; điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán là những người
trực tiếp giải quyết vụ án nhưng chỉ được giao những thẩm quyền rất hạn chế nên
đã ảnh hưởng đến chất lượng và tiến độ giải quyết vụ án; (2) Còn thiếu một số


quyền quan trọng bảo đảm cho người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người
bào chữa thực hiện tốt việc bào chữa, gỡ tội; (3) Quy định về căn cứ tạm giam cịn
định tính đang là ngun nhân dẫn đến việc lạm dụng tạm giam trong thực tiễn;
quy định về một số biện pháp cưỡng chế tố tụng còn chưa đầy đủ và cụ thể, thiếu
cơ chế ràng buộc trách nhiệm trong trường hợp người tham gia tố tụng vi phạm
pháp luật; (4) Quy định về chứng cứ còn bất cập, chưa phù hợp với diễn biến tình
hình tội phạm, chưa thể hiện được yêu cầu tranh tụng đã trở thành nguyên tắc Hiến

định và chưa theo kịp sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại, chủ yếu vẫn
chỉ ghi nhận những nguồn chứng cứ truyền thống, chưa công nhận là chứng cứ đối
với các dữ liệu điện tử được thu thập từ mạng in-tơ-nét, từ các thiết bị điện tử; (5)
Chế định thời hạn tố tụng chưa thật hợp lý, vẫn còn những hoạt động tố tụng chưa
bị ràng buộc bởi thời hạn; thời hạn tạm giam còn dài; một số thời hạn quá chặt chẽ
nên thiếu tính khả thi; (6) Bộ luật hiện hành mới chỉ quy định thủ tục áp dụng cho
người chưa thành niên phạm tội, chưa quy định thủ tục cho người chưa thành niên
là bị hại, người làm chứng; thiếu các biện pháp bảo vệ người làm chứng và những
người tham gia tố tụng khác; (7) Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm thiếu chặt chẽ
đang là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến kháng nghị giám đốc thẩm còn nhiều như
hiện nay; (8) Nhiều quy định của BLTTHS hiện hành mới dừng ở những quy định
chung; chưa quy định rõ về giá trị của các nguồn tư liệu có được thơng qua hoạt
động tương trợ tư pháp hình sự; thiếu các quy định cụ thể về trình tự, thủ tục, mối
quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm thực hiện tốt các cam
kết quốc tế.
Để xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Đảng ta đã đề ra
nhiều chủ trương cải cách tư pháp như: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 26/5/2005, Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005, Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010, Kết luận số 92-KL/TW
ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị; Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần X, XI
của Đảng. Các nghị quyết của Đảng đều nhấn mạnh yêu cầu cải cách mạnh mẽ thủ
tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ
nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động
tư pháp; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh
tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để
nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp. Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội khóa
XIII thơng qua tại kỳ họp thứ 6 một lần nữa đã thể hiện sâu sắc quan điểm của
Đảng ta về tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, bổ sung
nhiều nguyên tắc tư pháp tiến bộ, bổ sung và làm rõ hơn nhiệm vụ của Tòa án và
Viện kiểm sát khi thực hiện chức năng Hiến định. Thêm vào đó, thời gian qua,

Quốc hội đã ban hành nhiều đạo luật liên quan đến tố tụng hình sự như: Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Luật sư, Luật
Trợ giúp pháp lý, Luật thi hành án hình sự v.v… nên BLTTHS hiện hành cũng cần


được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp
luật.
2. Giới thiệu khái quát về Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
BLTTHS năm 2015 gồm có 510 điều, được bố cục thành 9 phần, 36
chương. So với BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 tăng thêm 154 điều.
Trong đó, bổ sung 176 điều mới, sửa đổi 317 điều, giữ nguyên 17 điều, bãi bỏ 26
điều. Về bố cục, tách chương quyết định việc truy tố khỏi phần khởi tố, điều tra vụ
án hình sự để xây dựng thành một phần độc lập (Phần thứ ba: Truy tố); ghép phần
xét xử sơ thẩm và phần xét xử phúc thẩm điều chỉnh trong một phần (Phần thứ tư:
xét xử vụ án hình sự). Cụ thể như sau:
- Phần thứ nhất: Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 142).
- Phần thứ hai: Khởi tố, điều tra vụ án hình sự (từ Điều 143 đến Điều 235).
- Phần thứ ba: Truy tố (từ Điều 236 đến Điều 249).
- Phần thứ tư: Xét xử vụ án hình sự (từ Điều 250 đến Điều 362).
- Phần thứ năm: Một số quy định về thi hành bản án, quyết định của Tòa án
(từ Điều 363 đến Điều 369).
- Phần thứ sáu: Xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật (từ
Điều 370 đến Điều 412).
- Phần thứ bảy: Thủ tục đặc biệt (từ Điều 413 đến Điều 490).
- Phần thứ tám: Hợp tác quốc tế (từ Điều 491 đến Điều 508).
- Phần thứ chín: Điều khoản thi hành (Điều 509 và Điều 510).
3. Những điểm mới của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
So với quy định của BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 có những sửa
đổi, bổ sung quan trọng sau đây:
A. Một số nội dung thay đổi chính

- Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính tư pháp; tăng quyền, trách
nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán.
- Mở rộng diện người tham gia tố tụng; bổ sung diện người tham gia tố
tụng, một số cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra; quy định rõ
quyền hạn, nhiệm vụ của cấp trưởng, cấp phó các cơ quan được giao tiến hành một
số hoạt động điều tra.
- Bổ sung quyền của những người tham gia tố tụng theo hướng mở rộng
hơn diện người tham gia tố tụng.
- Điều chỉnh khái niệm chứng cứ, nguồn, thu thập chứng cứ; xử lý chặt chẽ
hơn về vật chứng.
- Quy định về rút ngắn thời hạn tạm giam, việc gia hạn tạm giam cùng
nhiều bổ sung về hoạt động điều tra, truy tố, xét xử trong vụ án hình sự...
B. Một số sửa đổi, bổ sung cụ thể theo từng phần, từng chương:


PHẦN THỨ NHẤT: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
1. Về những nguyên tắc cơ bản (Chương II)
Nhằm bảo đảm các quy định về nguyên tắc cơ bản đúng nghĩa là những tư
tưởng chỉ đạo đối với việc xây dựng và thực hiện BLTTHS, tạo cơ sở cho việc hình
thành những chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của các chủ thể trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự, từ 30 nguyên tắc hiện hành, BLTTHS năm 2015 đã bổ
sung một số nguyên tắc mới nhằm phù hợp với Hiến pháp năm 2013, đồng thời,
loại bỏ những quy định không mang tính nguyên tắc, cụ thể như sau:
Thứ nhất, điều chỉnh nội dung của 25 nguyên tắc hiện hành nhằm khắc
phục những hạn chế thời gian qua, đồng thời bảo đảm phù hợp với yêu cầu mới
của Hiến pháp năm 2013.
Thứ hai, bổ sung 05 nguyên tắc mới nhằm bảo đảm tốt hơn quyền con
người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp năm 2013, gồm: Công dân
Việt Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác (Điều 11); suy đốn
vơ tội (Điều 13); khơng ai bị kết án hai lần vì một tội phạm (Điều 14); tranh tụng

trong xét xử được bảo đảm (Điều 26); bảo đảm sự kiểm tra, giám sát trong hệ
thống từng cơ quan tố tụng và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan tiến hành tố
tụng (Điều 33).
Thứ ba, đưa một số quy định khơng mang tính ngun tắc mà chỉ có tính
chất là thủ tục hoặc là trách nhiệm của các cơ quan để quy định trong các chương
khác tương ứng của BLTTHS nhằm bảo đảm tính khoa học, chặt chẽ của hệ thống
các nguyên tắc cơ bản. Ví dụ: giám đốc việc xét xử; trách nhiệm của các tổ chức và
cơng dân trong đấu tranh phịng ngừa và chống tội phạm; sự phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước với các cơ quan tiến hành tố tụng…
2. Về cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (Chương III)
2.1. Về phạm vi điều chỉnh và tên chương
BLTTHS năm 2015 đã mở rộng phạm vi điều chỉnh của chương này theo
hướng không chỉ điều chỉnh đối với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng, mà còn điều chỉnh cả cơ quan và người được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra. Trên cơ sở đó, điều chỉnh tên chương thành: “Cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng”.
2.2. Về phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính tư pháp với trách
nhiệm, quyền hạn tư pháp; tăng quyền, tăng trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm
sát viên, Thẩm phán (các điều 36, 37, 41, 42, 44, 45)
* BLTTHS năm 2015 quy định:
(1) Trong lĩnh vực được phân cơng phụ trách, cấp phó khơng chỉ được giao
thẩm quyền tiến hành tố tụng như hiện hành, mà cịn được giao thẩm quyền quản
lý hành chính tư pháp;
(2) Phân định thẩm quyền giữa Thủ trưởng cơ quan tiến hành tố tụng với
người trực tiếp tiến hành tố tụng theo hướng những thẩm quyền có tính chất quyết


định việc “đóng, mở” một giai đoạn tố tụng, những thẩm quyền liên quan đến việc
hạn chế quyền con người, quyền công dân giao cho Thủ trưởng Cơ quan điều tra,
Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định; hầu hết những thẩm quyền có tính chất phát

hiện hoặc làm sáng tỏ sự thật vụ án giao cho Điều tra viên, Kiểm sát viên trực tiếp
quyết định. Tăng cơ bản thẩm quyền cho Thẩm phán được phân cơng chủ tọa phiên
tịa.
Trên cơ sở đó, việc tăng thẩm quyền cho Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thẩm phán được quy định cụ thể như sau:
- Tăng cho Điều tra viên các thẩm quyền: (1) Yêu cầu hoặc đề nghị cử,
thay đổi người bào chữa; yêu cầu cử, thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật;
(2) Triệu tập và lấy lời khai người tố giác, báo tin về tội phạm, người bị tố giác, bị
kiến nghị khởi tố, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân; (3) Quyết định áp
giải người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ; quyết định
dẫn giải người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại; (4) Quyết định giao
người dưới 18 tuổi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm giám sát; (5)
Quyết định thay đổi người giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội; (6) Thi hành lệnh
phong tỏa tài khoản.
- Tăng cho Kiểm sát viên các thẩm quyền: (1) Trực tiếp giải quyết và lập hồ
sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm; (2) Triệu tập và lấy lời khai người tố giác, báo
tin về tội phạm, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người đại diện theo
pháp luật của pháp nhân; (3) Yêu cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi người bào chữa;
yêu cầu cử, đề nghị thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật; (4) Bắt buộc có
mặt khi Cơ quan điều tra tiến hành đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói, thực
nghiệm điều tra, khám xét; (5) Yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã, đình nã bị can;
(6) Quyết định áp giải người bị bắt, bị can; quyết định dẫn giải người làm chứng,
người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố, bị hại; (7) Quyết định giao người dưới 18
tuổi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân để giám sát; quyết định thay đổi người giám sát
người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Tăng cho Thẩm phán các thẩm quyền: (1) Quyết định áp dụng, thay đổi
hoặc hủy bỏ biện biện pháp cưỡng chế; (2) Quyết định trưng cầu giám định, giám
định bổ sung hoặc giám định lại, thực nghiệm điều tra; thay đổi hoặc yêu cầu thay
đổi người giám định; yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu thay đổi người định giá tài
sản; (3) Yêu cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi người bào chữa; thay đổi người giám

sát người dưới 18 tuổi phạm tội; (4) Yêu cầu cử, thay đổi người phiên dịch, người
dịch thuật; (5) Quyết định việc thu thập, bổ sung chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử.
2.3. Mở rộng diện người tiến hành tố tụng (các điều 38, 43, 48)
Để phù hợp với Luật tổ chức VKSND năm 2014, Luật tổ chức TAND năm
2014 và thực tiễn giải quyết vụ án hình sự thời gian qua, BLTTHS năm 2015 bổ
sung diện người tiến hành tố tụng gồm: Cán bộ điều tra, Kiểm tra viên, Thẩm tra


viên và quy định cụ thể nhiệm vụ của họ khi được phân công giúp việc cho Điều
tra viên, kiểm sát viên, Chánh án Tòa án.
2.4. Bổ sung cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra (Điều 35)
BLTTHS năm 2015 bổ sung cơ quan Kiểm ngư được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra. Đồng thời, quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn
của cấp trưởng, cấp phó, Cán bộ điều tra của lực lượng Kiểm ngư được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
2.5. Quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của cấp trưởng, cấp phó các cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (Điều 39, 40)
BLTTHS năm 2015 bổ sung hai điều luật mới nhằm quy định cụ thể nhiệm
vụ, quyền hạn của cấp trưởng, cấp phó các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra.
3. Về người tham gia tố tụng (Chương IV)
3.1. Bổ sung diện người tham gia tố tụng
BLTTHS năm 2015 bổ sung 09 diện người tham gia tố tụng, gồm: (1)
Người tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố; (2) Người bị tố giác, người bị
kiến nghị khởi tố; (3) Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; (4) Người bị bắt;
(5) Người chứng kiến; (6) Người định giá tài sản; (7) Người dịch thuật; (8) Người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố; (9)
Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phạm tội. Đồng thời, Bộ luật quy

định cụ thể quyền và nghĩa vụ của họ khi tham gia tố tụng.
3.2. Bổ sung một số quyền của người bị buộc tội (các điều 58, 59, 60, 61)
Nhằm bảo đảm cho người bị buộc tội thực hiện tốt quyền bào chữa và bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, BLTTHS năm 2015 bổ sung cho người bị
bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo một số quyền sau đây: (1) Được nhận các quyết định
tố tụng liên quan đến mình; (2) Đưa ra chứng cứ; (3) Trình bày ý kiến về chứng cứ,
tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm
tra, đánh giá; (4) Có quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, khơng buộc phải
đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; (5) Đề nghị
giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người định giá tài sản, người dịch
thuật; (6) Bị can có quyền đọc, ghi chép bản sao hoặc tài liệu đã được số hóa liên
quan đến việc buộc tội họ trong hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra theo quy định
của Bộ luật này khi có yêu cầu; (7) Bị cáo có quyền trực tiếp hỏi những người
tham gia tố tụng nếu được Chủ tọa phiên tòa đồng ý; (8) Một số quyền khác.
Cùng với việc bổ sung quyền, BLTTHS năm 2015 quy định rõ hơn nghĩa
vụ của người bị buộc tội phải chấp hành các quyết định tố tụng của cơ quan có
thẩm quyền.
3.3. Xác định đầy đủ diện của bị hại và bổ sung một số quyền của họ (Điều
62)


BLTTHS năm 2015:
- Quy định diện người bị hại không chỉ gồm cá nhân bị thiệt hại như hiện
hành mà còn bao gồm tổ chức bị thiệt hại.
- Để bị hại bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, BLTTHS năm
2015 bổ sung cho bị hại và người đại diện theo pháp luật của họ các quyền: (1)
Được cơ quan tố tụng thơng báo, giải thích quyền và nghĩa vụ của họ; (2) Đưa ra
chứng cứ; (3) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; (4) Đề nghị giám định,
định giá tài sản; đề nghị thay đổi người định giá, người dịch thuật; (5) Đề nghị chủ

tọa phiên tòa hỏi bị cáo và người tham gia phiên tòa và một số quyền khác.
- Quy định rõ hơn nghĩa vụ và trách nhiệm của người bị hại nhằm tăng
cường trách nhiệm của họ trong việc phối hợp với cơ quan có thẩm quyền tố tụng
trong việc phát hiện, xử lý tội phạm: (1) Nghĩa vụ chấp hành các quyết định tố tụng
của cơ quan có thẩm quyền; (2) Trường hợp cố ý vắng mặt hoặc có hành vi gây
khó khăn, cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bị dẫn giải.
3.4. Bổ sung một số quyền của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án (các điều 63, 64, 65)
- Để bảo đảm cho những chủ thể này bảo vệ tốt hơn quyền và nghĩa vụ của
mình khi tham gia tố tụng, phù hợp với Luật giám định tư pháp, BLTTHS năm
2015 bổ sung một số quyền của họ như: (1) Quyền đưa ra chứng cứ; (2) Quyền
trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; (3) Yêu cầu giám định, định giá tài sản;
đề nghị thay đổi người định giá tài sản, người dịch thuật; (4) Quyền được thông
báo kết quả giải quyết vụ án; (5) Quyền đề nghị chủ tọa hỏi những người tham gia
phiên tòa; (6) Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình;
Và một số quyền khác.
BLTTHS năm 2015 quy định rõ hơn nghĩa vụ của những chủ thể này phải
chấp hành các quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền nhằm tăng cường
trách nhiệm của họ trong quá trình giải quyết vụ án, bảo đảm việc giải quyết vụ án
nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật.
3.5. Sửa đổi các quy định liên quan đến người làm chứng (Điều 66)
* BLTTHS năm 2015 quy định thời điểm người làm chứng tham gia tố tụng
sớm hơn, kể từ khi cơ quan có thẩm quyền xác minh các nguồn tin về tội phạm.
Đồng thời, xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức nơi người làm chứng
làm việc hoặc học tập phải tạo điều kiện để họ tham gia tố tụng.
4. Về bào chữa và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự
(Chương V)
BLTTHS năm 2015 xây dựng một chương mới để điều chỉnh vấn đề này
với những nội dung sửa đổi, bổ sung chủ yếu sau đây:

4.1. Mở rộng diện người được bảm đảm quyền bào chữa (Điều 58)


Để phù hợp với Hiến pháp năm 2013, ngoài 03 đối tượng được bảo đảm
quyền bào chữa như hiện hành, BLTTHS năm 2015 bổ sung “người bị bắt” được
bảo đảm quyền bào chữa.
4.2. Mở rộng diện người bào chữa (Điều 72)
Để bảo đảm tốt hơn quyền của người bị buộc tội, phù hợp với Luật trợ giúp
pháp lý, BLTTHS năm 2015 bổ sung diện người bào chữa là Trợ giúp viên pháp lý
để bào chữa miễn phí cho các đối tượng thuộc diện chính sách.
4.3. Đổi mới quy định về cấp đăng ký bào chữa (Điều 78)
Nhằm bảo đảm người bào chữa nhanh chóng tham gia tố tụng, BLTTHS
năm 2015 đã thay quy định cấp giấy chứng nhận người bào chữa bằng thủ tục đăng
ký bào chữa. Theo đó, trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ theo luật
định, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm: kiểm tra giấy tờ do
người bào chữa cung cấp, nếu thấy đủ điều kiện luật định thì vào sổ đăng ký bào
chữa và gửi ngay văn bản thông báo người bào chữa cho người đăng ký và cơ sở
giam giữ. Văn bản thông báo người bào chữa có giá trị sử dụng trong suốt q
trình tố tụng.
4.4. Bổ sung một số quyền và cơ chế bảo đảm người bào chữa thực hiện tốt
các quyền luật định (Điều 73, các điều 79-82)
Để người bào chữa thực hiện tốt việc bào chữa, gỡ tội, BLTTHS năm 2015
bổ sung một số quyền của người bào chữa, gồm: (1) Quyền có mặt khi lấy lời khai
của người bị bắt; Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết
thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, bị tạm giữ, bị can thay vì chỉ được
hỏi khi cơ quan tiến hành tố tụng đồng ý như hiện nay; (2) Được cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và
thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật
này; (3) Thu thập chứng cứ; kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài
liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra,

đánh giá; (4) Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ,
giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản; (5) Đề nghị thay đổi, huỷ bỏ
biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế.
BLTTHS năm 2015 bổ sung các cơ chế để người bào chữa thực hiện tốt
việc bào chữa như: Quy định trách nhiệm của các cơ quan tố tụng phải thông báo
trước cho người bào chữa thời gian và địa điểm tiến hành các hoạt động tố tụng mà
họ có quyền tham gia; Quy định cụ thể thủ tục gặp người bị buộc tội đang bị bắt,
tạm giữ, tạm giam, thủ tục giao nộp chứng cứ, thủ tục đọc, ghi chép, sao chụp tài
liệu trong hồ sơ vụ án.
Đồng thời với việc bổ sung quyền của người bào chữa, nhằm tăng cường
trách nhiệm của người bào chữa, BLTTHS năm 2015 bổ sung nghĩa vụ của người
bào chữa phải có mặt theo yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; khơng
được tiết lộ thơng tin mà mình biết được khi tham gia các hoạt động tố tụng liên


quan đến vụ án hoặc liên quan đến người mà mình bào chữa cho những người
khơng có trách nhiệm giải quyết vụ án.
4.5. Quy định cụ thể thủ tục mời, cử người bào chữa (Điều 75)
Để bảo đảm quyền của người bị buộc tội, nhất là người bị buộc tội đang bị
bắt, tạm giữ, tạm giam, BLTTHS năm 2015 quy định: (1) Bổ sung người thân thích
của người bị buộc tội có quyền mời người bào chữa; (2) Quy định cụ thể thủ tục và
trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cơ quan quản lý người
bị tạm giữ, tạm giam khi tiếp nhận được yêu cầu nhờ người bào từ người buộc tội
phải chuyển yêu cầu này hoặc thông báo cho người bào chữa được họ nhờ biết; có
trách nhiệm tạo điều kiện cho người bào chữa liên hệ với người bị bắt, bị tạm giữ,
tạm giam để thỏa thuận về việc nhờ bào chữa.
4.6. Mở rộng các trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa (Điều 76)
Để thể chế hóa chính sách nhân đạo của Đảng, Nhà nước và phù hợp với
điều kiện cụ thể nước ta, BLTTHS năm 2015 mở rộng trường hợp bắt buộc mời
người bào chữa cho bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất

là 20 năm, tù chung thân, tử hình.
Đồng thời, BLTTHS năm 2015 quy định chặt chẽ về người có nhược điểm
về thể chất theo hướng nhược điểm về thể chất đó phải làm cho người bị bắt, người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo khơng thể tự mình thực hiện được quyền bào chữa.
4.7. Về những trường hợp không được làm người bào chữa (Điều 72)
Để phù hợp với Luật Luật sư và thực tiễn giải quyết vụ án thời gian qua,
BLTTHS năm 2015 bổ sung những đối tượng không được làm người bào chữa,
gồm: (1) Nếu đã tham gia vụ án đó với tư cách là người dịch thuật; (2) Là người
đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; đã bị kết án mà chưa được xố án tích; đang
bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở
giáo dục bắt buộc.
4.8. Về thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng (Điều 74)
Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, BLTTHS năm 2015 quy
định thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng kể từ khi có người bị bắt.
4.9. Về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị
kiến nghị khởi tố, bị hại, đương sự
Nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến
nghị khởi tố, BLTTHS năm 2015 xây dựng hai điều luật (Điều 83 và Điều 84) quy
định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể này với những bổ sung quan
trọng như: (1) Quy định ngay từ giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố đã có quyền có người bảo vệ quyền lợi; (2)
Quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; trình bày ý kiến về chứng cứ, tài
liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra,
đánh giá; (3) Yêu cầu giám định, định giá tài sản; (4) Quyền tham gia các hoạt


động tố tụng để bảo vệ người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại, đương
sự và một số quyền khác.
5. Về chứng cứ và chứng minh (Chương VI)
5.1. Điều chỉnh khái niệm về chứng cứ (Điều 86)

Để phù hợp với yêu cầu của cải cách tư pháp và Hiến pháp năm 2013 về
tăng cường tranh tụng, bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, BLTTHS
năm 2015 điều chỉnh khái niệm về chứng cứ theo hướng khơng chỉ cơ quan, người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng mới được quyền thu thập chứng cứ; người bị buộc
tội, người bào chữa và một số người tham gia tố tụng khác cũng có quyền thu thập
hoặc cung cấp chứng cứ.
5.3. Bổ sung một số nguồn chứng cứ và quy định về loại trừ chứng cứ
(Điều 87)
Để cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, tháo gỡ những vướng mắc đặt
ra trong thực tiễn, phù hợp với sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại và
yêu cầu hội nhập quốc tế, BLTTHS năm 2015 bổ sung vào hệ thống nguồn chứng
cứ gồm: (1) Dữ liệu điện tử; (2) Kết luận định giá tài sản; (3) Kết quả thực hiện ủy
thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác trong đấu tranh chống tội phạm.
Nhằm đáp ứng các yêu cầu của chứng cứ về tính khách quan, tính liên quan
và tính hợp pháp, BLTTHS năm 2015 bổ sung quy định về loại trừ chứng cứ, theo
đó: “Những gì có thật nhưng khơng được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật
này quy định thì khơng có giá trị pháp lý và khơng được dùng làm căn cứ để giải
quyết vụ án hình sự”.
5.4. Quy định cụ thể về nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử và việc thu thập
dữ liệu điện tử (các điều 99, 107)
Nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh chống tội phạm, đặc biệt là các tội phạm
sử dụng công nghệ cao, BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể về dữ liệu điện tử với
tính cách là một loại nguồn chứng cứ như: khái niệm về dữ liệu điện tử; các nguồn
chứa dữ liệu điện tử; yêu cầu về giá trị chứng cứ của dữ liệu điện tử; trình tự, thủ
tục thu thập, phục hồi dữ liệu điện tử nhằm bảo đảm tính khách quan, tính ngun
trạng và tính có thể kiểm chứng của loại chứng cứ này.
5.5. Về phương thức người bào chữa thu thập chứng cứ (Điều 88)
Để phù hợp với yêu cầu tăng cường tranh tụng, BLTTHS năm 2015 quy
định quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa và cách thức người bào chữa thu
thập chứng cứ, gồm: gặp thân chủ, bị hại, người làm chứng, những người biết về

vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ
quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và các tình tiết liên
quan đến việc bào chữa.
5.6. Quy định chặt chẽ và chi tiết việc xử lý vật chứng (Điều 106)
Nhằm đáp ứng yêu cầu giải quyết vụ án hình sự, BLTTHS năm 2015 đã sửa
đổi, bổ sung chi tiết việc xử lý vật chứng theo từng trường hợp: vật chứng là công


×