Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Phân tích quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng XHCN. Liên hệ thực tiễn Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.7 KB, 16 trang )

f

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------***-------

BÀI TẬP LỚN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ 7: Phân tích quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc và giải
quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng XHCN. Liên hệ thực tiễn Việt Nam.

Họ và tên SV: Nguyễn Quốc Ý
Lớp tín chỉ: CNXHKH(121)_29
Mã SV: 11207513
GVHD: TS NGUYỄN VĂN HẬU

........................................................................
HÀ NỘI, NĂM 2020
29


MỤC LỤC


A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong xã hội có rất nhiều dạng quan hệ giữa người với người. Trong đó quan hệ giữa
các dân tộc là mối quan hệ cơ bản và có tác động mạnh mẽ và trực tiếp tới bản thân con
người nói riêng và của tồn xã hội nói chung. Vì vậy nghiên cứu vấn đề dân tộc và giải
quyết vấn đề dân tộc là rất cần thiết. Chủ nghĩa Mác- Lênin đã nghiên cứu vấn đề dân tộc
rất chi tiết, khoa học, có hệ thống trong cách mạng XHCN và được ứng dụng vào việc
xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa.
B. NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DÂN TỘC.


Khái niệm dân tộc thường được dùng với hai nghĩa:
Thứ nhất, theo nghĩa rộng dân tộc dùng để chỉ cộng đồng người ổn định làm thành
nhân dân một nước, có lãnh thổ riêng, nền kinh tế thống nhất, có ngơn ngữ chung và ý
thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền
thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng
nước và giữ nước.
Thứ hai, theo nghĩa hẹp dân tộc dùng để chỉ một cộng đồng người hình thành trong
lịch sử, có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có chung ý thức tự giác tộc người, ngơn ngữ
và văn hóa.
Như vậy, nếu theo nghĩa thứ nhất, dân tộc là toàn bộ nhân dân một nước, dùng để chỉ
một quốc gia, cịn theo nghĩa thứ hai thì dân tộc là một bộ phận hay thành phần quốc gia.
Hai khái niệm này gắn bó mật thiết, khơng tách rời nhau.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, dân tộc là q trình phát triển lâu dài của
xã hội lồi người, trải qua các hình thức cộng đồng từ thấp đến cao, bao gồm: thị tộc, bộ
lạc, bộ tộc, dân tộc.
3


Tình hình quan hệ dân tộc trên thế giới
Quan hệ giai cấp, dân tộc diễn biến phức tạp, khó lường do sự tác động của cách mạng
khoa học công nghệ, xu thế tồn cầu hố kinh tế diễn ra mạnh mẽ. Đảng ta nhận định:
Tồn cầu hố và các vấn đề toàn cầu làm cho sự hiểu biết lẫn nhau và sự phụ thuộc lẫn
nhau giữa các dân tộc tăng lên, thúc đẩy xu thế khu vực hoá. Đồng thời các dân tộc đề
cao ý thức độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, chống can thiệp áp đặt và cường quyền.
Quan hệ sắc tộc, dân tộc hiện nay trên thế giới vẫn diễn ra rất phức tạp, nóng bỏng ở cả
phạm vi quốc gia, khu vực và quốc tế. Mâu thuẫn, xung đột dân tộc, sắc tộc, xu hướng li
khai, chia rẽ dân tộc đang diễn ra ở khắp các quốc gia, các khu vực, các châu lục trên thế
giới. Đảng ta nhận định: “Những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột
dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đốt, li khai, hoạt động khủng
bố, những tranh chấp biên giới, lãnh thổ, biển đảo và các tài nguyên thiên nhiên tiếp tục

diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp”. Điều này gây nên những hậu quả
nặng nề về kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội, mơi trường cho các quốc gia, đe doạ hồ
bình, an ninh khu vực và thế giới
II. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC LÊNIN VỀ DÂN TỘC VÀ GIẢI
QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC.
2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về dân tộc
Thứ nhất, về quan hệ giữa dân tộc và giai cấp. Với V.I.Lênin, vấn đề dân tộc luôn được
xem xét khi đặt nó trong tiến trình của cách mạng xã hội chủ nghĩa, như là một bộ phận
không thể tách rời của cuộc cách mạng đó. Ơng nhấn mạnh rằng, vấn đề dân tộc là vấn đề
bộ phận phụ thuộc vào vấn đề giai cấp, vấn đề cách mạng xã hội chủ nghĩa. Quan điểm
này của V.I.Lênin diễn đạt đúng vai trò chi phối của phương thức sản xuất đối với sự phát
triển dân tộc; phản ánh đúng thực tế lịch sử là từ khi dân tộc xuất hiện, các phong trào
dân tộc luôn gắn với cuộc đấu tranh giai cấp và chịu tác động chi phối của cuộc đấu tranh
giai cấp; đồng thời chỉ cho giai cấp công nhân thấy rõ muốn thành công trong việc xây
dựng những quan hệ dân tộc mới thì phải biết bắt đầu từ việc xây dựng những quan hệ
giai cấp, quan hệ xã hội mới. Mặt khác, V.I.Lênin khẳng định, vấn đề dân tộc có tầm quan
4


trọng đặc biệt, giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc sẽ góp phần có ý nghĩa quyết định vào
sự thắng lợi của cuộc đấu tranh giai cấp, của cách mạng xã hội chủ nghĩa. V.I.Lênin kiên
quyết đấu tranh chống xu hướng coi nhẹ vấn đề dân tộc, chỉ thấy vấn đề giai cấp mà
không thấy vấn đề dân tộc. Quan điểm này của ơng có căn cứ ở chỗ nhấn mạnh tính độc
lập tương đối, tính năng động của vấn đề dân tộc. Tính năng động đó làm cho việc giải
quyết đúng đắn vấn đề dân tộc bao giờ cũng tác động tích cực trở lại vấn đề giai cấp.
Thứ hai, về hai xu hướng khách quan trong sự phát triển dân tộc. Tiếp tục nghiên cứu
vấn đề dân tộc ở giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, V.I.Lênin phát hiện hai xu hướng khách
quan.
Xu hướng thứ nhất, cộng đồng dân cư muốn tách ra để hình thành cộng đồng dân tộc
độc lâp. Nguyên nhân là do sự chín muồi của ý thức dân tộc, sự thức tỉnh về quyền sống

của mình, các cộng đồng dân cư muốn tách ra để thành lập các cộng đồng dân tộc độc
lập. Thực tế này đã diễn ra ở những quốc gia, khu vực có nhiều cộng đồng dân cư với
nguồn gốc tộc người khác nhau trong chủ nghĩa tư bản. Xu hướng này biểu hiện thành
phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc muốn
thốt khỏi sự áp bức, bóc lột của các nước thực dân đế quốc Trong xu hướng đó, nhiều
cộng đồng dân cư đã ý thức được rằng, chỉ trong cộng đồng dân tộc độc lập họ mới có
quyền quyết định con đường phát triển của dân tộc mình.
Xu hướng thứ hai, các dân tộc ở trong từng quốc gia, thậm chí các dân tộc kể ở nhiều
quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Nguyên nhân là do sự phát triển của lực lượng sản
xuất, của giao lưu kinh tế, văn hóa trong chủ nghĩa tư bản đã tạo nên mối liên hệ quốc gia
và quốc tế mở rộng giữa các dân tộc, xóa bỏ sự biệt lập, khép kín, thúc đẩy các dân tộc
xích lại gần nhau.
Xu hướng thứ nhất là xu hướng phân lập; xu hướng thứ hai là các dân tộc xích lại gần
nhau. Hai xu hướng cùng tác động trong cả hai giai đoạn của chủ nghĩa tư bản, nhưng xu
hướng thứ nhất tác động mạnh hơn ở giai đoạn đầu, còn xu hướng thứ hai tác động mạnh
5


hơn ở giai đoạn sau. Xu hướng các dân tộc xích lại gần nhau trên cơ sở bình đẳng và tự
nguyện bị chủ nghĩa đế quốc phủ nhận, thay vào đó là những khối liên hiệp được lập ra
nhằm duy trì sự áp bức, bóc lột đối với các dân tộc, quốc gia đó. Chỉ trong điều kiện của
chủ nghĩa xã hội, khi tình trạng người bóc lột người bị thủ tiêu, tình trạng dân tộc này áp
bức nơ dịch dân tộc khác bị xóa bỏ thì hai xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc
và mối quan hệ giữa các dân tộc mới có điều kiện thể hiện đầy đủ. Trong thời đại ngày
nay, hai xu hướng diễn ra với những biểu hiện rất phong phú, đa dạng. Ở các quốc gia đa
dân tộc đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xu hướng thứ nhất biểu hiện
trong sự nỗ lực của từng dân tộc để đi tới sự tự chủ, phồn vinh của dân tộc mình. Xu
hướng thứ hai tạo nên sức thúc đẩy mạnh mẽ để các dân tộc trong cộng đồng quốc gia
xích lại gần nhau hơn trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Trên phạm vi quốc tế, xu hướng
thứ nhất hướng đến độc lập tự chủ thể hiện trong phong trào giải phóng dân tộc nhằm

chống lại chủ nghĩa đế quốc và chính sách thực dân bảo hộ. Xu hướng thứ hai thể hiện ở
việc các dân tốc hợp tác hình thành liên minh dân tộc ở phạm vi khu vực hoặc toàn cầu
tạo điều kiện để các dân tộc tận dụng tối đa những cơ hội, thuận lợi từ bên ngồi để phát
triển phồn vinh dân tộc mình.
Hai xu hướng trên có sự thống nhất biện chứng với nhau trong tiến trình phát triển của
mỗi quốc gia và của tồn nhân loại. Hai xu hướng này ln có sự tác động qua lại với
nhau, hỗ trợ cho nhau, mọi sự vi phạm quan hệ biện chứng này đều dẫn tới những hậu
quả tiêu cực khó lường.
2.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về giải quyết vấn đề dân tộc.
Giải quyết vấn đề dân tộc là một trong những vấn đề có ý nghĩa quyết định đến sự ổn
định, phát triển hay khủng hoảng, tan rã của một quốc gia dân tộc.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, vấn đề dân tộc là một bộ phận của những
vấn đề chung về cách mạng vô sản và chuyên chính vơ sản. Do đó, giải quyết vấn đề dân
tộc phải gắn với cách mạng vô sản và trên cơ sở của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ
nghĩa Mác - Lênin cũng nhấn mạnh rằng, khi xem xét và giải quyết vấn để dân tộc phải
6


đáp ứng vững trên lập trường giai cấp công nhân. Điều đó cũng có nghĩa là việc xem xét
và giải quyết vấn đề dân tộc phải trên cơ sở và vì lợi ích cơ bản, lâu dài của dân tộc.
Giải quyết vấn để dân tộc thực chất là xác lập quan hệ cơng bằng, bình đẳng giữa các dân
tộc trong một quốc gia, giữa các quốc gia dân tộc trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội. Trên cơ sở tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen về vấn đề dân tộc và giai cấp,
cùng với sự phân tích hai xu hướng của vấn đề dân tộc, V.I.Lênin đã nêu ra "Cương lĩnh
dân tộc" với ba nội dung cơ bản: các dân tộc hồn tồn bình đẳng; các dân tộc được
quyền tự quyết; liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc. Đây được coi là cương lĩnh dân
tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin là một bộ
phận không thê tách rời trong cương lĩnh cách mạng của giai câp công nhân; là tuyên
ngôn về vấn đề dân tộc của đảng cộng sản trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp và giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc. Cương lĩnh đã trở thành

cơ sở lý luận cho chủ trương, đường lối và chính sách dân tộc của các đảng cộng sản và
nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Thứ nhất: Các dân tộc hoàn tồn bình đẳng
Quyền bình đẳng giữa các dân tộc là quyền thiêng liêng của dân tộc. Tất cả các dân tộc,
dù đơng người hay ít người, có trình độ phát triển cao hay thấp đều có quyền lợi và nghĩa
vụ như nhau, khơng có đặc quyền đặc lợi về kinh tế, chính trị, văn hóa, ngơn ngữ cho bất
cứ dân tộc nào.
Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được pháp
luật bảo vệ và phải được thực hiện trong thực tế. Trong quan hệ xã hôi cung như quan hệ
quốc tế, không một dân tộc nào có quyền đi áp bức, bóc lột dân tộc khác.
Để thực hiện quyền bình đẳng dân tộc, trước hết phải thủ tiêu tình trạng áp bức giai cấp,
trên cơ sở đó xóa bỏ tình trạng áp bức dân tộc, đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt
chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc cực đoan.

7


Thứ hai: Các dân tộc được quyền tự quyết
Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc, quyền tự quyết định con
đường phát triển kinh tế, chính trị - xã hội của dân tộc mình. Quyền dân tộc tự quyết bao
gồm quyền tự do phân lập thành cộng đồng quốc gia dân tộc độc lập (vì lợi ích của các
dân tộc, chứ khơng phải vì mưu đồ và lợi ích của một nhóm người nào) và quyền tự
nguyện liên hiệp lại với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng.
Khi xem xét giải quyết quyền tự quyết của dân tộc, cần đứng vững trên lập trường của
giai cấp công nhân: ủng hộ các phong trào dân tộc tiến bộ, kiên quyết đấu tranh chống lại
những mưu toan lợi dụng quyền dân tộc tự quyết làm chiêu bài để can thiệp vào công
việc nội bộ các nước, đòi ly khai chia rẽ dân tộc.
Thứ ba: Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc
Đây là tư tưởng, nội dung cơ bản trong "Cương lĩnh dân tộc" của V.I.Lênin. Tư tưởng này
là sự thể hiện bản chất quốc tế của giai cấp công nhân, phong trào công nhân và phản ánh

tính thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp.
Đồn kết giai cấp cơng nhân các dân tộc có ý nghĩa lớn lao đối với sự nghiệp giải phóng
dân lộc. Nó có vai trò quyết định đến việc xem xét, thực hiện quyền bình đẳng dân tộc và
quyền dân tộc tự quyết. Đồng thời, đây cũng là yếu tố tạo nên sức mạnh bảo đảm cho
thắng lợi của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc.

III. SỰ VẬN DỤNG SÁNG TẠO QUAN ĐIỂM CỦA LÊNIN VÀO THỰC TIỄN
CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Tư tưởng lý luận Mác - Lênin về vấn đề dân tộc được vận dụng vào nước ta thông qua
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt. Tư tưởng chỉ đạo và phương pháp luận cơ
bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung
8


và lý luận Mác - Lênin về vấn đề dân tộc nói riêng là kết hợp tinh thần kiên định với phát
triển sáng tạo.
3.1 Tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân
tộc.
Hồ Chí Minh ln kiên định lập trường Mác - Lênin về mối quan hệ giữa vấn đề dân
tộc và vấn đề giai cấp: Vấn đề dân tộc ln gắn bó với vấn đề giai cấp và phải được xem
xét, giải quyết trên lập trường của giai cấp cơng nhân. Đồng thời, xuất phát từ tình hình
thực tế nước ta, Người cũng nhấn mạnh tính độc lập tương đối, vị trí, vai trị vơ cùng
quan trọng của vấn đề dân tộc. Năm 1941, khi từ nước ngoài trở về nước để trực tiếp lãnh
đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã phân tích sâu sắc tình hình trong nước và chỉ
rõ: “Lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết. Chúng ta phải đồn kết lại đánh
đổ bọn đế quốc và bọn việt gian đặng cứu giống nịi ra khỏi nước sơi lửa nóng” (Hồ Chí
Minh: Tồn tập. Tập 3, 1995b, tr.198). Nhìn nhận vấn đề dân tộc “cao hơn hết thảy” là
hoàn toàn đúng đắn, chẳng những phản ánh đúng mâu thuẫn của xã hội ta lúc đó, mà cịn
vì nếu khơng giành được độc lập cho dân tộc thì cơng cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã

hội mới theo con đường xã hội chủ nghĩa nhằm giải phóng giai cấp cơng nhân và nhân
dân lao động, giải phóng tồn xã hội chỉ là những mong muốn viển vông. Phát triển tư
tưởng trên đây trên cơ sở tổng kết thực tiễn cách mạng nước ta và cách mạng thế giới, Hồ
Chí Minh khẳng định “Khơng có gì q hơn độc lập tự do”. Điều đó đã trở thành chân lý
lớn của thời đại.
Trên cơ sở lĩnh hội thực chất nội dung Cương lĩnh dân tộc của V.I.Lênin và từ thực tế
các dân tộc ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên tư tưởng về bình đẳng, đồn kết,
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ ở nước ta. Ngay từ năm 1946, trong thư gửi Đại hội các dân
tộc thiểu số ở miền Nam tại Pleiku, Hồ Chí Minh đã viết: “Ngày nay nước Việt Nam là
nước chung của chúng ta... giang sơn và Chính phủ là giang sơn và chính phủ chung của
chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc chúng ta phải đồn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta,
để ủng hộ Chính phủ ta. Chúng ta phải thương yêu nhau, phải kính trọng nhau, phải giúp
đỡ nhau để mưu cầu hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu chúng ta. Sơng có thể
cạn, núi có thể mịn, nhưng lịng đồn kết của chúng ta khơng bao giờ giảm bớt” (Hồ Chí
9


Minh: Tồn tập. Tập 4, 1995, tr.217). Đoạn trích trên thể hiện những nội dung cốt lõi của
tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa các dân tộc ở nước ta. Theo đó,
bình đẳng dân tộc được Người nhấn mạnh đầu tiên. Các dân tộc bình đẳng về quyền lợi
trong đó quyền lợi tối cao là cùng nhau làm chủ đất nước “Nước Việt Nam là nước chung
của chúng ta”, “giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta”;
vậy cho nên các dân tộc cùng bình đẳng về nghĩa vụ, trong đó nghĩa vụ nặng nề và cao cả
nhất là “cùng nhau giữ gìn nước non ta, “ủng hộ Chính phủ ta”. Nội dung thứ hai được
Người nhấn mạnh là đoàn kết và chỉ rõ đây là đoàn kết giữa các dân tộc anh em vốn gắn
bó máu thịt trong cùng một quốc gia, do đó là sự đồn kết “thương u nhau”, “kính
trọng nhau”. Đồn kết để đấu tranh chống kẻ thù, giữ vững nền độc lập của Tổ quốc, để
xây dựng xã hội mới làm cho mọi người các dân tộc được ấm no, hạnh phúc. Nội dung
thứ ba được Người nhấn mạnh, đó là “các dân tộc phải giúp đỡ nhau”. Đây là sự giúp đỡ
nhau trên tinh thần bình đẳng, có đi có lại, trong đó dân tộc đa số và các dân tộc thiểu số

có điều kiện phát triển cao hơn có trách nhiệm và vinh dự giúp đỡ các dân tộc thiểu số có
hồn cảnh khó khăn và hiện đang cịn ở trình độ lạc hậu để cùng tiến lên phía trước. Đó
là sự giúp đỡ chân thành, vô tư không giống sự ban ơn, chiếu cố...
Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng trực tiếp để Đảng và Nhà nước ta xây dựng đường
lối, chính sách dân tộc trong các thời kỳ cách mạng ở nước ta cũng như lãnh đạo, tổ chức
thực hiện chính sách đó.
Trong giải quyết vấn đề dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng thường xuyên
đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo cán bộ và nhất là cán bộ dân tộc thiểu số “Cán bộ là
cái gốc của mọi cơng việc”, thì “Huấn luyện cán bộ là cơng việc gốc của Đảng”. Việc đó
khơng được làm qua loa, đại khái. Đó là cơng việc mà Đảng phải bỏ nhiều công sức, phải
được tiến hành “chu đáo, công phu”. “Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn
vun trồng những cây cối quý báu”. Giống cây có tốt, có q đến mấy nhưng nếu khơng
được vun trồng, chăm sóc cẩn thận thì cũng khơng tránh khỏi sâu bệnh, úng hạn, rất dễ bị
thui chột, cằn cỗi, không thể phát triển, không thể đơm hoa kết trái.

10


3.3 Quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về vấn đề dân tộc và
giải quyết vấn đề dân tộc.
3.3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về vấn đề dân tộc và giải quyết
vấn đề dân tộc.
Một là, phải làm sao để quan điểm Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ
giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc được quán triệt trong mọi lĩnh vực hoạt động của
xã hội ta. Chẳng hạn, chúng ta đang xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc; nhưng cũng rất cần làm cho tiến trình phát triển kinh tế ở nước ta được triển khai trên
cơ sở phát huy tối đa những tiềm năng kinh tế của đất nước, những kinh nghiệm truyền
thống của dân tộc, để trở thành một chủ thể kinh tế độc lập mang đặc trưng dân tộc hịa
nhập vào mơi trường kinh tế thế giới. Trong đổi mới bộ máy nhà nước, cần quan tâm đến
cơng việc cải cách hành chính, cần quan tâm thích đáng đến việc kế thừa và phát huy mọi

giá trị truyền thống của khoa học và nghệ thuật “trị quốc” của cha ông ta. Trong công tác
giáo dục chính trị tư tưởng, song song với nội dung giáo dục, rèn luyện về lập trường, ý
thức giai cấp công nhân phải quan tâm đầy đủ đến nội dung giáo dục, rèn luyện về chủ
nghĩa yêu nước. Ở nước ta, ý thức xã hội chủ nghĩa vừa là kết quả của sự phát triển ý
thức giai cấp đến độ chín muồi, vừa là kết quả của sự phát triển ý thức dân tộc, tinh thần
yêu nước đến độ thuần thục. Cơng việc cải cách giáo dục căn bản, tồn diện hiện nay
phải làm sao tiếp thu được những tri thức giáo dục hiện đại của thế giới, nhưng trước hết
phải kế thừa được những tinh hoa của nền giáo dục dân tộc có hàng ngàn năm lịch sử.
Hai là, V.I.Lênin đã phát hiện hai xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc. Hiện
nay cần xem xét biểu hiện của hai xu hướng đó trong bối cảnh tồn cầu hóa và tìm cho
được giải pháp phát huy những thuận lợi cho sự phát triển đất nước.
Xem xét dưới góc độ của vấn đề dân tộc, nét bao quát của giai đoạn lịch sử hiện nay so
với giai đoạn của V.I.Lênin là tồn cầu hóa diễn ra với nhịp độ ngày càng tăng gây nên
những tác động vừa tích cực vừa tiêu cực. Tồn cầu hóa gây nên tác động làm thu hẹp
quyền lực, phạm vi, hiệu quả hoạt động của các nhà nước dân tộc, quốc gia, quá trình này
gây nên tác động tiêu cực đối với nền độc lập và chủ quyền của dân tộc, quốc gia. Trong
lĩnh vực tinh thần tồn cầu hóa có thể tác động như là sự đồng hóa cưỡng bức về văn hóa,
11


làm mất bản sắc độc đáo của nền văn hóa dân tộc, quốc gia, đồng thời tạo điều kiện cho
sự quốc tế hóa cả những hiện tượng phản văn hóa như các tệ nạn xã hội, mất an ninh trật
tự…
Ở nước ta cần vận dụng giải pháp tổng thể cho vấn đề này là: Đảng và Nhà nước ta
thực hiện chính sách mở cửa để hội nhập vào dịng vận động chung của nhân loại đang
tiến lên phía trước, đồng thời có phương sách hữu hiệu giữ gìn, phát huy bản sắc của dân
tộc, quốc gia, lấy nó làm nền tảng để giữ vững độc lập, chủ quyền, tránh nguy cơ bị đồng
hóa do các thế lực lợi dụng xu hướng tồn cầu hóa gây nên. Cần tìm cách thức hữu hiệu
để phổ cập nhận thức đó trong tồn dân.
Ba là, từ vận dụng lý luận của Lênin trong vấn đề dân tộc, giải phóng dân tộc và tư

tưởng chiến lược đại đoàn kết, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định đúng vị trí
và tầm quan trọng của vấn đề dân tộc thiểu số ở nước ta, chỉ ra một số nội dung cần vận
dụng trong thời kỳ mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế
Trong vấn đề dân tộc, quan điểm của Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh là
chúng ta cần nhận thức đúng và khơi dậy những tiềm năng to lớn ở vùng đồng bào các
dân tộc thiểu số và miền núi để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, làm cơ sở vững chắc
thực hiện bình đẳng, tơn trọng, đồn kết, giúp nhau cùng phát triển. Trong đó chỉ ra 5
điểm lớn về xây dựng văn hóa dân tộc như sau: (1) Xây dựng tâm lý: Tinh thần độc lập tự
cường. (2) Xây dựng luân lý: Biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng. (3) Xây dựng
xã hội: Mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội. (4) Xây dựng
chính trị: Dân quyền. (5) Xây dựng kinh tế” (Hồ Chí Minh: Tồn tập. Tập 3, 1995a,
tr.431).
3.3.2. Chính sách dân tộc của Việt Nam.
Chính sách dân tộc của Việt Nam trong hơn 90 năm qua, đặc biệt là trong thời kỳ đổi
mới, có thể thấy một số nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một trong những nhiệm vụ có tính
chất chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong tất cả các văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ
đổi mới đều xác định, vấn đề dân tộc “có vị trí chiến lược lớn’’, “ln ln có vị trí chiến
12


lược’’, “có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta"... Việc xác định
vị trí chiến lược lâu dài của cơng tác dân tộc chính là xuất phát từ đặc điểm của cộng
đồng dân tộc ở nước ta. Bởi vì, vấn đề dân tộc vừa là vấn đề giai cấp, vừa là vấn đề quốc
phòng - an ninh và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trong điều kiện của một quốc gia đa tộc
người, đa dạng về văn hóa như ở Việt Nam. Đó là một đặc điểm lớn, là đặc trưng, diện
mạo lịch sử, văn hóa của Việt Nam. Nếu các văn kiện Đại hội Đảng từ lần thứ II đến lần
thứ V đều nhấn mạnh ngun tắc “Đồn kết, bình đẳng giữa các dân tộc’’, thì từ lần thứ
VI đến lần thứ XI, nguyên tắc này tiếp tục được khẳng định và bổ sung là: “Đồn kết,
bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau’’ (Đại hội VI, VII), “Bình đẳng, đồn kết, tương trợ’’ (Đại

hội VIII), “Bình đẳng, đồn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển’’ (Đại hội IX),
“Bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ’’ (Đại hội X), “Bình đẳng,
đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ” (Đại hội XI), “Bình đẳng, đồn kết, giải quyết hài
hịa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển” (Đại hội XII). Đến Đại hội
XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định vị trí chiến lược của chính sách đồn kết các dân tộc
trên cơ sở “bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đồn kết, tơn trọng, giúp nhau cùng phát
triển”.
Đảng ta ln quan tâm xây dựng khối đại đồn kết tồn dân tộc, coi đó là nhân tố quan
trọng, có ý nghĩa then chốt đối với sự phát triển đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng
nhấn mạnh: “Chính sách dân tộc của chúng ta là nhằm thực hiện sự bình đẳng, giúp nhau
giữa các dân tộc để cùng nhau tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Chính sách đại đồn kết tồn
dân tộc của Đảng ta khơng chỉ hướng tới mục tiêu xây dựng đất nước Việt Nam “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”, mà cịn phát huy các giá trị truyền
thống quý báu của từng dân tộc, của mỗi thành viên trong đại gia đình các dân tộc Việt
Nam, tạo thành sức mạnh tổng hợp của tồn dân tộc. Đó là cơ sở để thực hiện thắng lợi
đường lối, chính sách dân tộc của Đảng, là động lực mạnh mẽ của tiến trình phát triển đất
nước hiện nay.
Thứ hai, bình đẳng giữa các dân tộc là quyền ngang nhau của các dân tộc, không phân
biệt dân tộc đó là đa số hay thiểu số, trình độ văn hóa, dân trí cao hay thấp, là bình đẳng
13


trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và được bảo đảm bằng pháp luật.
Theo đó, bình đẳng giữa các dân tộc thể hiện trước hết ở sự bảo đảm và tạo mọi điều kiện
để các dân tộc có cơ hội phát triển ngang nhau. Điều này được Đảng ta khẳng định nhất
quán trong các văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới. Do đó, Đảng và Nhà nước ban
hành nhiều đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội chung cho cả nước, đồng thời
cũng ban hành những đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội đặc thù cho các dân
tộc thiểu số, vùng dân tộc thiểu số.
Theo quan điểm của Đảng, thực hiện chính sách bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để

bảo đảm công bằng xã hội giữa các dân tộc. Thực hiện chính sách bình đẳng giữa các dân
tộc phải trải qua một quá trình lâu dài, cịn thực hiện cơng bằng xã hội giữa các dân tộc
có thể đạt được trong một thời gian nhất định, bởi tiêu chí cơng bằng xã hội luôn gắn với
từng giai đoạn lịch sử. Công bằng xã hội khơng có nghĩa là cào bằng, dàn đều, mà thể
hiện ở khâu phân phối tư liệu sản xuất và phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện
cho mọi người, mọi cộng đồng, dân tộc có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực, tiềm
năng, thế mạnh của mình.
Thứ ba, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc là quan điểm xuyên suốt của
Đảng trong thời kỳ đổi mới. Đại hội VI của Đảng khẳng định: “Trong việc phát triển kinh
tế, xã hội ở những nơi có đơng đồng bào các dân tộc thiểu số, cần thể hiện đầy đủ chính
sách dân tộc, phát triển mối quan hệ tốt đẹp gắn bó giữa các dân tộc trên tinh thần đồn
kết, bình đẳng, giúp đỡ nhau cùng làm chủ tập thể”. Với góc nhìn và tư duy mới, vấn đề
dân tộc được đặt trong xây dựng quan hệ giữa các dân tộc và con đường phát triển của
các dân tộc; chính sách dân tộc được gắn với đường lối chính trị, với chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội đất nước, với các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm cũng
như hằng năm. Để xây dựng quan hệ dân tộc theo những mục tiêu trên, đòi hỏi phải thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vì vậy, Đảng
ta chủ trương: “Đầu tư thêm và tập trung sự cố gắng của các ngành, các cấp, kết hợp với
động viên tinh thần tự lực, tự cường của nhân dân các dân tộc để khai thác, bảo vệ và
phát triển thế mạnh về kinh tế ở các vùng có đồng bào các dân tộc thiểu số cư trú. Đẩy
14


mạnh công tác định canh, định cư, ổn định sản xuất và đời sống của đồng bào, trước hết ở
các vùng cao, biên giới, các vùng căn cứ cũ của cách mạng và kháng chiến”. Điều này thể
hiện rõ mục tiêu trong chính sách dân tộc của Đảng ta là khơng ngừng nâng cao đời sống
kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị của từng dân tộc; làm cho mỗi dân tộc được phát triển
một cách toàn diện và bền vững; đồng thời, qua đó, củng cố và tăng cường khối đại đoàn
kết giữa các dân tộc.
Thứ tư, chú trọng tính đặc thù của từng vùng, từng dân tộc. Tại Đại hội VII (tháng 61991), Đảng ta quan tâm cụ thể hơn vấn đề dân tộc, nhấn mạnh, sự phát triển kinh tế - xã

hội của vùng đồng bào dân tộc thiểu số phải gắn với đặc điểm riêng của từng dân tộc và
điều kiện, đặc điểm của từng vùng: “Có chính sách phát triển kinh tế hàng hóa ở các vùng
dân tộc thiểu số phù hợp với điều kiện và đặc điểm của từng vùng, từng dân tộc, bảo đảm
cho đồng bào các dân tộc thiểu số khai thác được thế mạnh của địa phương để làm giàu
cho mình và đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.” Cũng tại Đại hội
VII, xuất phát từ tình hình thực tế của đồng bào người Hoa và đồng bào người Khmer,
Đảng ta đã có quan điểm cụ thể về vấn đề này: “Bảo đảm cho người Hoa quyền và nghĩa
vụ cơng dân, tơn trọng văn hố, chữ viết, tạo điều kiện để bà con người Hoa yên tâm làm
ăn, góp phần xây dựng đất nước Việt Nam và vun đắp quan hệ hữu nghị giữa nhân dân
hai nước Việt - Trung. Tơn trọng văn hố, tơn giáo của đồng bào dân tộc Khmer, có chính
sách giúp đỡ bà con người Khmer về đời sống, nhất là ở những vùng đồng bào có nhiều
khó khăn”

C. KẾT LUẬN
Vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc đã được V.I.Lênin chỉ ra rằng: Trong các
cuộc cách mạng việc giải quyết đúng đắn quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, hai xu hướng
khách quan trong sự phát triển dân tộc; đấu tranh chống chủ nghĩa dân tộc cực đoan và
cần thực hiện tốt cương lĩnh về vấn đề dân tộc đó là việc làm của những người cộng sản
trong thực hiện các cuộc cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
15


trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, đã vận dụng lý luận của Lênin một cách sáng tạo
trong vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc và từ tư tưởng chiến lược - đại đoàn kết dân
tộc trong các cuộc cách mạng. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định đúng vị trí
và tầm quan trọng của vấn đề dân tộc ở nước ta, chỉ ra những nội dung cần vận dụng
trong thời kỳ mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế: “Bình đẳng, tơn trọng, đoàn kết, giúp nhau
cùng phát triển” giữa các dân tộc.
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO


/> /> />020030.pdf
/>
16



×