Tải bản đầy đủ (.docx) (156 trang)

Thạc sĩ Báo chí học báo mạng điện tử với công tác phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (887.35 KB, 156 trang )

MỤC LỤC
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22

Nội dung
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Tình hình nghiên cứu
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
6. Ý nghĩa khoa học, thực tiễn của vấn đề nghiên cứu
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Thơng tin về cơng tác phịng, chống tham
nhũng trên báo mạng điện tử - Cơ sở lý luận và thực tiễn
1.1. Các khái niệm
1.2. Vai trò và nội dung thơng tin về cơng tác phịng, chống tham nhũng
của báo mạng điện tử
1.3. Tiêu chí đánh giá chất lượng việc thơng tin về cơng tác phịng,
chống tham nhũng trên báo mạng điện tử
1.4. Tổng quan thực tiễn, kinh nghiệm thơng tin về cơng tác phịng, chống
tham nhũng trên báo chí ở Việt Nam và một số quốc gia hiện nay
Chương 2: Thực trạng việc thông tin về cơng tác phịng, chống
tham nhũng trên báo mạng điện tử hiện nay
2.1. Khái quát về các tờ báo khảo sát
2.2. Khảo sát thực trạng việc thông tin về công tác phòng, chống tham
nhũng trên báo mạng điện tử hiện nay
2.3. Đánh giá chung về chất lượng báo mạng điện tử với cơng tác
phịng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng thông tin về cơng tác
phịng, chống tham nhũng trên báo mạng điện tử
3.1. Giải pháp chung
3.2. Một số giải pháp cụ thể
Tài liệu tham khảo
Phụ lục

Trang
5
5
7

13
14
14
16
17
18
18
26
32
39
45
45
47
61
90
90
96


2

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ĐCSVN

: Đảng Cộng sản Việt Nam

CNH, HĐH : Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
BLHS


: Bộ luật hình sự

GS

: Giáo sư

Nxb

: Nhà x́t bản

PCTN

: Phịng, chống tham nhũng

PGS

: Phó Giáo sư

TS

: Tiến sĩ

TP.HCM

: Thành phố Hồ Chí Minh

UBND

: Ủy ban nhân dân


XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Trang
2


3
Biểu đồ 2.1.

Tần suất thông tin về công tác PCTN trên 40 tờ báo in, báo

Biểu đồ 2.2.
Biểu đồ 2.3.

mạng điện tử từ năm 2013-2015
Tần suất thông tin về công tác PCTN trên 3 tờ báo khảo sát
Tỷ lệ % nội dung thông tin, tuyên truyền, phổ biến quan điểm,

47
48
48

Biểu đồ 2.4.

đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về PCTN
Tỷ lệ % nội dung thông tin về những những hành vi, dấu hiệu của
tham nhũng và các khung hình phạt cho tội danh tham nhũng trên


Biểu đồ 2.5.

các báo khảo sát
Tỷ lệ % nội dung thông tin về biểu hiện hành vi tham nhũng,

50

nguyên nhân và những hậu quả xã hội của hành vi này trên 3 báo
Bảng 2.6.
Bảng 2.7.

khảo sát
Bảng tổng hợp thông tin về các vụ việc, vụ án tham nhũng ở 3 báo
Tỷ lệ % những bài viết trên báo mạng điện tử thông tin việc

51
53

biểu dương người tốt, việc tốt trong PCTN
Tỷ lệ % nội dung thông tin, tuyên truyền về những kinh

54

Biểu đồ 2.8.
Biểu đồ 2.9.
Bảng 2.10.

nghiệm quốc tế trong công tác PCTN
Tỷ lệ % sử dụng các thể loại báo chí trong 3 báo khảo sát

Việc sử dụng thể loại báo chí thông tin về PCTN trên 3 tờ báo

56
56

Bảng 2.11.

khảo sát
Các dạng thức thể hiện thông tin về PCTN

57
61

MỞ ĐẦU
1

Lý do chọn đề tài

Hiện nay, tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng đang là chủ đề
không chỉ được đề cập trên nhiều diễn đàn quốc tế và khu vực mà cũng là vấn
đề rất được quan tâm ở Việt Nam.
Ở Việt Nam hiện nay, tham nhũng diễn biến nghiêm trọng, phức tạp, với
những biểu hiện hết sức tinh vi. Tình trạng tham nhũng đã để lại nhiều hệ lụy
làm tổn hại về cán bộ; làm thất thoát tài sản của nhà nước, nhân dân; làm biến
dạng quá trình thực hiện chính sách, pháp luật; làm phân rã ý chí, băng hoại xã
hội, cản trở công cuộc đổi mới đất nước; làm suy giảm niềm tin của nhân dân về
cán bộ, về sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và quản lý, điều hành của Nhà nước.
Để giải quyết vấn nạn này cần tới sự chung tay của nhiều đơn vị liên
quan trong đó có các cơ quan báo chí. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X); Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư (khóa

3


4

XI); Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm (khóa XI); Luật phòng, chống tham
nhũng cũng đã đề cập rõ nét vai trị của báo chí trong cơng tác PCTN, lãng
phí.
Thực tế cho thấy, trong nhiều năm qua, các cơ quan báo chí Trung ương,
các cơ quan báo chí của bộ, ngành, địa phương đã và đang phát huy lợi thế của
mình góp phần cùng cả hệ thống chính trị tham gia vào cuộc đấu tranh chống
tham nhũng; điều này đã làm cho hành vi lợi dụng, vụ lợi để tham nhũng bị hạn
chế, đóng góp tích cực vào việc phịng ngừa tham nhũng. Cùng với đó, báo chí
cịn có vai trị là cơng cụ hữu hiệu trong phát hiện, phản ánh, thúc đẩy, xem xét,
xử lý các hành vi tham nhũng một cách nhanh nhạy, chính xác, khách quan và
đúng pháp luật, là phương tiện góp phần bảo đảm hiệu quả trong hoạt động
phòng ngừa tham nhũng. Với những nỗ lực của các cơ quan báo chí và các nhà
báo trong thông tin, tuyên truyền về PCTN, Đảng, Nhà nước đã đánh giá cao
vai trò của báo chí trong việc góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng
phí.
Tuy nhiên, theo tổng kết tại Nghị quyết Trung ương 5 Ban Chấp hành
Trung ương (khóa XI): “cơng tác PCTN, lãng phí vẫn chưa đạt yêu cầu và mục
tiêu đề ra là ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí. Tham nhũng,
lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện vô cùng tinh vi, phức tạp,
xảy ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành, gây bức xúc trong xã hội và
là thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước” [4].
Đồng hành cùng với cuộc đấu tranh PCTN, thời gian qua, cùng với các loại
hình báo chí khác, báo mạng điện tử đã vào cuộc một cách tích cực, thường xuyên
và kịp thời, thể hiện vai trị của mình trong thực hiện chức năng thông tin, tuyên
truyền về công tác PCTN. Với những ưu điểm vượt trội của mình, đó là báo mạng

điện tử có khả năng truyền thơng tin liên tục với dung lượng lớn; khả năng tương
tác, phát hành thông tin nhanh, không bị trở ngại về không gian, thời gian, biên
giới quốc gia... vì vậy, báo mạng điện tử có nhiều thuận lợi trong việc góp phần
tham gia vào công tác PCTN. Báo mạng điện tử thời gian qua đã tham gia vào
4


5

việc tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước về công tác PCTN; thông tin, tuyên truyền về những hành vi,
dấu hiệu của tham nhũng và các khung hình phạt cho tội danh tham nhũng; phản
ánh các hiện tượng tham nhũng, chỉ ra nguyên nhân và những hậu quả xã hội của
hiện tượng này; phản ánh việc điều tra, xử lý những vụ việc, vụ án tham nhũng;
biểu dương gương người tốt, việc tốt trong đấu tranh PCTN; thông tin, tuyên
truyền về những kinh nghiệm quốc tế trong công tác PCTN... Bằng việc giám sát
tham nhũng và nâng cao dư luận xã hội về tham nhũng, báo mạng điện tử đã góp
phần tích cực vào việc tạo dư luận xã hội tham gia đấu tranh PCTN.
Bên cạnh những ưu điểm đó, báo mạng điện tử cũng tồn tại những hạn chế
nhất định như: đơi khi vẫn cịn những bài báo vi phạm tính xác thực của thông
tin, sử dụng thông tin giật gân, câu khách, do đó khơng ít thơng tin chưa được
bạn đọc tin tưởng. Cùng với đó, báo mạng điện tử còn chưa được phổ cập rộng
rãi ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn - nơi chỉ những người có điều kiện mới
có thể tiếp cận; hay để đọc được báo mạng điện tử thì độc giả phải có máy vi
tính hoặc các thiết bị cầm tay như điện thoại thông minh, máy tính bảng và phải
truy cập được mạng internet... vì vậy mà việc thơng tin, tun truyền về phòng
chống tham nhũng trên báo mạng điện tử nhiều khi chưa như mong mỏi.
Những hạn chế này của báo mạng điện tử, cũng ảnh hưởng rất nhiều đến
nhiệm vụ thơng tin về cơng tác phịng, chống tham nhũng. Cùng với đó, trong
giai đoạn cạnh tranh gay gắt với các loại hình báo chí và trong chính các cơ quan

báo chí để thu hút cơng chúng thì đơi lúc khơng ít nhà báo, các cơ quan báo
mạng điện tử thông tin về vấn đề PCTN cũng còn mắc phải những sai phạm
nghề nghiệp khơng đáng có, thậm chí gây hậu quả lớn, ảnh hưởng đến uy tín,
danh dự của nhà báo và cơ quan báo chí.
Vậy làm thế nào để báo mạng điện tử - một loại hình báo chí phổ biến, hiện
đại khai thác được hết thế mạnh của mình trong truyền thơng về PCTN?; góp
phần cùng với những tờ báo khác, các đơn vị chức năng ngăn chặn, làm giảm
bớt tệ nạn tham nhũng? Và cuối cùng là được cơng chúng hào hứng đón nhận và
5


6

có những phản hồi tích cực hơn?... Đó là những câu hỏi đặt ra, cần sớm có lời
giải đáp trong bối cảnh tình hình tham nhũng ngày càng phức tạp như hiện nay.
Vì vậy, tơi đã chọn đề tài: “Báo mạng điện tử với cơng tác phịng, chống tham
nhũng ở nước ta hiện nay” làm đề tài nghiên cứu tốt nghiệp bậc thạc sỹ báo chí của
mình với mong muốn góp một phần trong việc giải đáp những câu hỏi nêu trên.
2

Tình hình nghiên cứu

Trong những năm qua, việc nghiên cứu, phổ biến, trao đổi kinh nghiệm
về cuộc đấu tranh chống tham nhũng và công tác PCTN ở Việt Nam và thế
giới đã được nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị, các nhà khoa học trong, ngoài
nước quan tâm; đã có khơng ít cơng trình nghiên cứu về vấn đề này được
công bố dưới dạng sách, chuyên đề, đề tài khoa học cấp Ban, Bộ, cơ sở. Có
một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu liên quan đến đề tài như:
2.1. Nhóm các cuốn sách viết về cơng tác PCTN
- TS. Đinh Văn Minh có cuốn sách:“Một số vấn đề về tệ nạn tham nhũng và

những nội dung cơ bản của Luật PCTN năm 2005”, Nxb CTQG ấn hành năm
2006.
Nội dung cuốn sách đã làm rõ một số vấn đề cơ bản về tệ nạn tham
nhũng diễn ra tại Việt Nam thời gian qua; đồng thời, giới thiệu những nội
dung cơ bản của Luật PCTN năm 2005. Qua đó, giúp độc giả có thêm cái
nhìn rõ nét về tệ tham nhũng và nâng cao nhận thức về PCTN.
- Phan Xuân Sơn - Phạm Thế Lực (đồng chủ biên): “Nhận diện tham nhũng
và các giải pháp PCTN ở Việt Nam hiện nay”, Nxb CTQG ấn hành năm 2008.
Cuốn sách đã nghiên cứu và giúp độc giả nhận diện các hành vi tham
nhũng thường xảy ra ở các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đồng thời, hai tác giả
đã phân tích và nêu ra các giải pháp PCTN ở Việt Nam hiện nay, qua đó, để các
cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam có thể tham khảo, xây dựng các văn bản
quy phạm pháp luật về giải pháp PCTN trình cơ quan có thẩm quyền ban hành
và lãnh đạo, chỉ đạo áp dụng trong cả nước.

6


7

- Sách “Báo chí với cuộc đấu tranh chống tiêu cực” của Hội Nhà báo
Việt Nam xuất bản năm 2003.
Nội dung cuốn sách cho thấy, cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham
nhũng là yêu cầu và nhiệm vụ cấp thiết hiện nay của tồn Đảng, tồn dân ta;
trong đó cuốn sách khẳng định báo chí có vai trị hết sức quan trọng trong đấu
tranh PCTN.
- GS, TS. Trần Quang Nhiếp (chủ biên): “Nâng cao hiệu quả của báo chí
trong đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng ở nước ta hiện nay”, Nxb CTQG
ấn hành năm 2005.
Nội dung cuốn sách khẳng định những đóng góp tích cực của các phương

tiện thơng tin đại chúng trong công tác đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng.
Báo chí thực sự là vũ khí sắc bén, là công cụ của Đảng và nhân dân; đưa đường
lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước đến với người dân, góp phần nâng
cao nhận thức, ý thức trách nhiệm cơng dân trong cuộc đấu tranh này.
2.2. Nhóm các đề tài, đề án nghiên cứu về PCTN
- Đề án: “Nâng cao chất lượng hiệu quả công tác nghiên cứu, tham
mưu, đề xuất xử lý vụ việc tham nhũng xảy ra ở các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ”, cử nhân Nguyễn Thế Bình, Vụ trưởng Vụ I, Văn
phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN nghiên cứu năm 2009.
Đề án này đã đưa ra những giải pháp nâng cao chất lượng nghiên cứu,
tham mưu và đề xuất những phương pháp xử lý vụ việc tham nhũng xảy ra ở
các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ. Đề án này đã giúp cho
Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN tham mưu giúp Ban Chỉ đạo
Trung ương về PCTN những giải pháp thiết thực, hiệu quả trong việc xử lý
các vụ việc tham nhũng.
- Đề tài: “Giải pháp bảo vệ người chống tham nhũng”, do cử nhân Ngơ
Đức Hịa, Vụ trưởng Vụ 5, Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN
nghiên cứu năm 2012.

7


8

Nội dung đề tài tập trung cho thấy, hiện nay, cơ chế bảo vệ người tố cáo
tham nhũng chưa đáp ứng được yêu cầu. Các quy định trong hệ thống pháp
luật hiện hành bảo vệ người tố cáo, trong đó có bảo vệ người tố cáo về tham
nhũng chưa thật sự đầy đủ và khả thi. Do đó, đề tài đã đưa ra những kiến nghị
cần sớm ban hành quy định cụ thể để bảo vệ người tố cáo hành vi tham
nhũng.

- Đề án “Khen thưởng người có thành tích xuất sắc tố cáo, phát hiện hành
vi tham nhũng” do cử nhân Nguyễn Quốc An, Phó Chánh Văn phịng Ban Chỉ
đạo Trung ương về PCTN nghiên cứu năm 2012.
Nội dung đề án cho thấy, kết quả một số cuộc khảo sát xã hội học, có tỷ lệ
khá cao cán bộ, công chức, viên chức và người dân không sẵn sàng tố cáo cho
dù biết chắc chắn về một hành vi tham nhũng. Nguyên nhân là do họ không
được bảo vệ, khen thưởng xứng đáng… Do đó, đề án nêu phải tiến hành đồng bộ
việc khen thưởng người tố cáo với cơ chế phát hiện, xử lý tham nhũng và bảo vệ
người tố cáo hiệu quả chắc chắn sẽ phát huy sự tham gia tích cực của cán bộ,
công chức, viên chức và nhân dân trong PCTN.
- Đề tài: “Phát huy vai trị của báo chí Việt Nam trong đấu tranh PCTN
hiện nay”, do PGS, TS. Nguyễn Linh Khiếu, Trưởng Ban Chính trị, Tạp chí
Cộng sản nghiên cứu năm 2013.
Đề tài đã làm rõ yêu cầu cơ bản, vai trò của nhà báo, cơ quan báo chí trong
việc tham gia đấu tranh PCTN trong giai đoạn hiện nay. Đề tài đã chỉ ra thực
trạng báo chí trong đấu tranh PCTN ở nước ta thời gian qua và nêu lên một số
giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục phát huy vai trò của báo chí trong đấu tranh
PCTN giai đoạn hiện nay.
- Đề tài “Vai trị của báo chí và dư luận xã hội trong cuộc đấu tranh chống
tham nhũng ở nước ta hiện nay” do PGS, TS. Lương Khắc Hiếu, Học viện Báo
chí - Tuyên truyền nghiên cứu năm 2009.
Đề tài đã đưa ra những kết quả đạt được trong đấu tranh PCTN thời gian
qua có sự đóng góp khơng nhỏ của báo chí. Đồng thời, cũng cho thấy đội ngũ
8


9

nhà báo nước ta ngày càng nhận thức sâu sắc hơn vai trò to lớn của báo chí
trong cuộc đấu tranh PCTN. Khi nhận thức của toàn xã hội, của báo chí được

nâng cao thì việc đấu tranh PCTN càng được triển khai thực hiện một cách có
hiệu quả hơn trong thực tiễn.
- Đề tài “Cơ chế bảo vệ người đấu tranh chống tiêu cực phục vụ công
tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng” do Cử nhân Trịnh Long Biên,
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương nghiên cứu năm 2010.
Đề tài đã chỉ ra những bất cập trong cơ chế bảo vệ người đấu tranh
chống tiêu cực phục vụ công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng;
đồng thời, đề xuất những giải pháp có tính trước mắt và lâu dài sửa đổi các
điều luật liên quan nhằm bảo vệ người đấu tranh chống tiêu cực.
- Nguyễn Thị Nhung: “Báo chí với cơng tác phịng, chống tham nhũng”,
luận văn tốt nghiệp đại học - Đại học Cần Thơ nghiên cứu năm 2009.
Mặc dù chỉ là một Luận văn cử nhân nhưng tác giả có sự nghiên cứu khá
cơng phu các khía cạnh của báo chí trong đấu tranh chống tham nhũng. Nhiều
kiến giải về vai trò, chức năng của báo chí trong đấu tranh chống tham nhũng
được tác giả đưa ra rất đáng quan tâm, gợi mở nhiều suy nghĩ. Có thể thấy, đây
là một cơng trình khoa học nghiêm túc, cơng phu và có thể khẳng định đây là
một cơng trình có giá trị trong lĩnh vực nghiên cứu báo chí trong PCTN.
- Đinh Đức Hạnh: “Đảng lãnh đạo đấu tranh PCTN ở Việt Nam hiện
nay”, luận văn Cao học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền nghiên cứu năm
2012.
Trên cơ sở lý luận chung về tham nhũng và thực tiễn tình hình tham
nhũng ở Việt Nam hiện nay, cũng như hệ quả chính trị của tham nhũng gây ra,
tác giả làm rõ sự lãnh đạo của Đảng trong PCTN thời gian qua. Từ đó, đề xuất
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng trong PCTN hiện nay,
góp phần làm trong sạch bộ máy Đảng, Nhà nước, làm lành mạnh hóa các
quan hệ xã hội, khơi phục lòng tin của dân chúng đối với sự lãnh đạo của
Đảng.
9



10

- Vũ Thùy Linh: “Báo chí đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực trong cơ
chế thị trường”, Luận văn Cao học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền nghiên
cứu năm 2014.
Nội dung luận văn đã tập trung khẳng định: Báo chí phải trở thành
phương tiện quan trọng góp phần nâng cao nhận thức của tồn xã hội về cơng
tác PCTN. Thông qua báo chí, cán bộ, công chức và người dân được trang bị
thêm nhiều kiến thức cơ bản và mới mẻ cả về lý luận và thực tiễn trong PCTN.
Khơng chỉ cung cấp một cách có hệ thống các tri thức hữu ích, báo chí cịn có
ảnh hưởng nhất định đối với việc nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng tác đấu
tranh PCTN.
- Bùi Thị Thu Huyền: “Báo chí với vấn đề bảo vệ người đấu tranh
chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay”, luận văn Cao học, Học viện Báo chí
và Tuyên truyền nghiên cứu năm 2015.
Nội dung luận văn đã góp phần bổ sung, làm phong phú thêm những vấn
đề lý luận về vai trò của báo chí trong bảo vệ người đấu tranh chống tham
nhũng. Luận văn đánh giá các quy định của pháp luật về vai trò của báo chí
trong bảo vệ người đấu tranh chống tham nhũng và chỉ ra bài học kinh
nghiệm; đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác này.
- Nguyễn Thị Nghĩa: “PCTN trong thực hiện chính sách đất đai ở Việt
Nam hiện nay”, luận văn thạc sỹ, Học viện Báo chí và Tuyên truyền nghiên
cứu năm 2015.
Nội dung luận văn cho thấy, trên cơ sở khái quát những vấn đề lý luận về
tham nhũng, PCTN trong thực hiện chính sách đất đai, ở Việt Nam, tác giả luận
văn đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
PCTN trong tổ chức thực hiện chính sách này ở Việt Nam.
- Nguyễn Đại Nghĩa: “Tổ chức và hoạt động của Ban Chỉ đạo Trung
ương về PCTN hiện nay”, luận văn thạc sỹ, của Học viện Báo chí và Tuyên
truyền nghiên cứu năm 2015.


10


11

Nội dung luận văn đã làm sáng tỏ những cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn về
tham nhũng và PCTN; khảo sát, đánh giá đúng thực trạng tổ chức và hoạt
động của Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN; đề xuất, mục tiêu, phương
hướng, giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Ban Chỉ đạo này ở
nước ta.
2.3. Các nghiên cứu ở nước ngoài
- Một số báo cáo, bài viết nêu kinh nghiệm ở một số nước trên thế giới
và trong khu vực về bảo vệ người đấu tranh chống tham nhũng: Hàn Quốc,
Trung quốc, Singapo, Thụy Điển, Đan Mạch…
- Liên hợp quốc: Công ước về chống tham nhũng. Nội dung Công ước
gồm: Quy định chung; biện pháp phịng ngừa; hình sự hóa và các biện pháp
thi hành pháp luật; hợp tác quốc tế; thu hồi tài sản; hỗ trợ kỹ thuật và trao đổi
thông tin; cơ chế thực hiện; các điều khoản cuối cùng, trong đó đã quy định
việc bảo vệ người đấu tranh chống tham nhũng.
- Liên hợp quốc và Tổ chức Minh bạch quốc tế: Báo cáo thường niên về
chống tham nhũng trên thế giới và Việt Nam...
Qua nghiên cứu thực tế như nêu trên cho thấy, có khá nhiều những tài liệu
khác nhau đã nghiên cứu về vấn đề PCTN, tuy nhiên, thường mới chỉ ở những
nghiên cứu mang tính bao quát chung, chưa có cuốn sách hay cơng trình nào
nghiên cứu một cách tồn diện, có hệ thống về vấn đề báo mạng điện tử với
cơng tác PCTN. Đó là khoảng trống về cả mặt lý luận và thực tiễn cần được
nghiên cứu. Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài “Báo mạng điện tử với cơng tác
phịng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay” để nghiên cứu với mong muốn
có một sự đóng góp phù hợp trong q trình tìm hướng nâng cao hơn nữa vai trị

của báo chí nói chung, đặc biệt là báo mạng điện tử với công tác PCTN ở nước
ta hiện nay.
Trong luận văn, tôi sẽ kế thừa những ý tưởng khai phá của những nhà
nghiên cứu đi trước và coi đó là tiền đề lý luận và thực tiễn để triển khai đề tài
nghiên cứu của mình.
11


12

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa lý thuyết và thực tiễn, luận văn đi vào nghiên
cứu, dựng lên một bức tranh toàn diện, khái quát về thực trạng, làm rõ những
thành công, hạn chế của báo mạng điện tử trong việc thông tin về công tác
PCTN hiện nay; từ đó kiến nghị các giải pháp phù hợp nhằm góp phần nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thông tin về cơng tác PCTN trên loại hình
báo chí này trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn tập trung giải quyết một số nhiệm
vụ sau:
Một là: Làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến vấn đề nghiên cứu: khái
niệm, vai trò, nội dung và những yêu cầu của báo mạng điện tử trong trong việc
tun truyền về cơng tác phịng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng.
Hai là: Tiến hành khảo sát, thống kê, phân tích làm rõ thực trạng, thành
công, hạn chế và chất lượng, hiệu quả của báo mạng điện tử trong việc thực
hiện vai trị thơng tin về công tác PCTN trong thời gian qua.
Ba là: Đề xuất hệ thống những giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả thông tin về PCTN trên báo mạng điện tử thời gian tới.
4


Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Báo mạng điện tử với công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Đối tượng khảo sát
- Thứ nhất: Các bài viết trên báo mạng điện tử có nội dung thơng tin về
cơng tác PCTN ở Việt Nam hiện nay.
Do thời gian, nguồn lực có hạn, tác giả luận văn chỉ tập trung khảo sát 3 tờ
báo điện tử có uy tín, số lượng cơng chúng lớn, có chun trang pháp luật riêng
và lượng thơng tin về cơng tác PCTN khá lớn, đó là: (1) Báo dangcongsan.vn tờ báo đại diện cho các ban của Đảng, trong cơng tác PCTN, tiếng nói của báo
12


13

này là ý kiến chính thống mang ý nghĩa định hướng dư luận xã hội; (2) Báo
baophapluat.vn - tờ báo đại diện cho cơ quan tư pháp, là tờ báo chính thống
của ngành pháp luật; (3) Báo tuoitre.vn - tờ báo có lượng thơng tin và độc giả
quan tâm có thể nói là khá cao so với các tờ báo ngành khác của cả nước, báo
đã ghi dấu ấn trong lòng bạn đọc về tinh thần đấu tranh chống tiêu cực, tham
nhũng.
- Thứ hai: Các nhà báo, các nhà lãnh đạo, quản lý, các phóng viên của
các tờ báo mạng điện tử nói chung và đặc biệt là 03 tờ báo khảo sát nói riêng.
- Thứ ba: Độc giả - đây là những người đón nhận và chịu ảnh hưởng trực
tiếp các bài viết từ 03 tờ báo mạng điện tử được khảo sát.
4.3. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung khảo sát đối tượng là báo
mạng điện tử viết về vấn đề PCTN ở Việt Nam từ năm 2013 đến năm 2015.
5


Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài

5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận là các quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng,
Nhà nước và các chủ trương, định hướng về công tác báo chí, vấn đề PCTN;
một số lý thuyết về báo chí nói chung và báo mạng điện tử nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ được mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, luận văn sử dụng kết hợp một
số phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
Phương pháp này tập trung nghiên cứu tài liệu dạng văn bản, các nghị
quyết, các đề án, chiến lược trong công tác PCTN ở nước ta hiện nay… kết
hợp nghiên cứu, khái quát, hệ thống hóa, bổ sung mặt lý thuyết về báo mạng
điện tử nói chung trong việc thơng tin, tun truyền về cơng tác PCTN. Đó
chính là những lý thuyết cơ sở đánh giá các kết quả khảo sát thực tế và đưa ra
những giải pháp khoa học cho vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp thống kê so sánh:
13


14

Phương pháp này được sử dụng nhằm xác định tần số xuất hiện, mức độ
phát triển, chất lượng, hiệu quả những bài viết có nội dung về PCTN trên báo
mạng điện tử hiện nay; so sánh vấn đề này ở 3 tờ báo khảo sát.
- Phương pháp phân tích, tởng hợp:
Phương pháp này được sử dụng nhằm phân tích, khảo sát thực tế việc
thông tin cũng như đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng về vấn đề
PCTN trên báo mạng điện tử ở Việt Nam hiện nay như thế nào và sau đó tổng

hợp rút ra kết luận về vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra xã hội học:
Để làm rõ được vấn đề nghiên cứu, tác giả luận văn thực hiện điều tra xã
hội học với 250 phiếu phỏng vấn anket theo phương pháp hỏi trực tiếp. Kết
quả: có 50 phiếu khơng hợp lệ, 200 phiếu hợp lệ gồm hai loại đối tượng: công
chúng và nhà báo (140 phiếu hỏi công chúng ở hai vùng trung tâm và nơng
thơn của Hà Nội; 60 phiếu hỏi phóng viên các báo như: Báo Nhân Dân, Hà
Nội mới, Công an nhân dân và VOV điện tử).
- Phương pháp phỏng vấn sâu:
Tác giả luận văn tiến hành phỏng vấn thực tế bằng phương pháp phỏng
vấn qua thư điện tử (email) với các phóng viên trực tiếp viết tin, bài; lãnh đạo
các tờ báo thuộc diện khảo sát… Cụ thể, chúng tơi đã phỏng vấn 04 phóng viên
chun viết về đề tài PCTN, 01 lãnh đạo cơ quan báo chí và 01 cán bộ cơ quan
quản lý báo chí; 06 độc giả là những cán bộ, công chức, viên chức hiện đang
công tác tại một số cơ quan ở Trung ương và địa phương nhằm thu thập ý kiến
đánh giá của cá nhân xung quanh vấn đề nghiên cứu.
6

Ý nghĩa khoa học, thực tiễn của vấn đề nghiên cứu

6.1. Ý nghĩa khoa học
- Luận văn cho thấy cái nhìn tổng thể về vấn đề báo chí với công tác
PCTN và vai trị của báo mạng điện tử nói riêng trong việc thông tin, tuyên
truyền về công tác PCTN ở nước ta hiện nay.

14


15


Qua khảo sát cho thấy, báo chí đã góp phần trong việc phanh phui những
vụ việc, vụ án tham nhũng; cung cấp thông tin cho cơ quan chức năng vào cuộc
điều tra; đôn đốc cơ quan tố tụng trong giải quyết, xử lý đúng tiến độ các vụ án
tham nhũng; nhiều thông tin của báo chí trong phát hiện tiêu cực, tham nhũng
được đăng tải đã giải quyết được vấn đề mà dư luận xã hội quan tâm, góp phần
cung cấp thông tin ban đầu giúp cơ quan chức năng vào cuộc điều tra, khởi tố.
- Luận văn cũng góp phần nêu lên thực trạng xuống cấp về đạo đức
nghề nghiệp của một số nhà báo viết về vấn đề này. Cụ thể, một số nhà báo
lợi dụng nghề nghiệp, nắm bắt điểm yếu để đe dọa doanh nghiệp; thông tin
một chiều làm sai sự thật, tạo áp lực không cần thiết trong dư luận xã hội.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có ý nghĩa khoa học đối với việc góp phần
xác định giải pháp nâng cao vai trò, chất lượng của báo chí, báo mạng điện tử
với công tác PCTN trong giai đoạn hiện nay và thời gian tới.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn có thể góp phần nhỏ dùng làm tài liệu tham khảo cho những
người đang trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện nhiệm vụ PCTN; giúp cơ quan
báo chí nói chung, báo mạng điện tử nói riêng có thêm tài liệu tham khảo trong
thực hiện nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền về công tác PCTN; nâng cao kỹ
năng nghề nghiệp của nhà báo trong phát hiện, điều tra tiêu cực, tham nhũng,
giúp cơ quan chức năng có thêm thơng tin, có cơ sở để tiến hành các bước điều
tra theo đúng quy định của phát luật về tiêu cực, tham nhũng.
- Những giải pháp được đề cập trong luận văn có thể tham khảo và ứng
dụng vào thực tiễn tác nghiệp của những nhà báo trẻ, của các cơ quan báo chí;
vào quá trình thực tiễn hóa khung lý thuyết cơ bản tại các cơ sở đào tạo báo chí.
7

Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được
kết cấu làm 3 chương, gồm:

Chương 1: Thông tin về công tác PCTN trên báo mạng điện tử - Cơ sở
lý luận và thực tiễn
15


16

Chương 2: Thực trạng việc thông tin về công tác PCTN trên báo mạng
điện tử hiện nay
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác PCTN trên
báo mạng điện tử

Chương 1
THƠNG TIN VỀ CƠNG TÁC PHỊNG, CHỐNG THAM NHŨNG
TRÊN BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ - CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1

Các khái niệm

1.1.1. Tham nhũng
Theo Từ điển tiếng Việt: “Tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng
nhiễu dân và lấy của” [31, tr.878]. Khái niệm này cho thấy, đây là hiện tượng
tiêu cực, sai phạm do người có chức, có quyền trong bộ máy nhà nước lợi
dụng quyền hành của mình để nhũng nhiễu, vịi vĩnh nhân dân. Và Luật
PCTN cũng cho rằng: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền
hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi” [26, tr.10].
Quan niệm về thuật ngữ này của các Tổ chức quốc tế cũng có nhiều điểm
tương đồng. Chẳng hạn, theo Ngân hàng Thế giới (World Bank), tham nhũng là
sự “lạm dụng quyền lực cơng cộng nhằm lợi ích cá nhân”; hay Tổ chức Minh
bạch quốc tế (TI) cho rằng, tham nhũng là hành vi “của người lạm dụng chức


16


17

vụ, quyền hạn, hoặc cố ý làm trái pháp luật để phục vụ cho lợi ích cá nhân”
[35].
Khơng chỉ dừng lại ở việc nêu dấu hiệu, biểu hiện của hành vi tham
nhũng, một số khái niệm lại chỉ ra lịch sử, nguồn gốc, nguyên nhân của
“tham nhũng”. Chẳng hạn, theo Công ước của Liên hợp quốc về chống tham
nhũng năm 2003: “Tham nhũng - đó là sự lợi dụng quyền lực của Nhà nước
để trục lợi riêng”; sách “Thuật ngữ nội chính và phòng, chống tham nhũng”
cho rằng: “Tham nhũng là một hiện tượng xã hội tiêu cực có tính lịch sử, xuất
hiện gắn liền với sự xuất hiện chế độ tư hữu và sự xuất hiện Nhà nước” [21,
tr.199]. Như vậy, các quan niệm này cho thấy, hành vi “tham nhũng” chỉ xuất
hiện cùng sự ra đời của Nhà nước và bộ máy nhà nước.
Luật ở Vương quốc Anh, Đan Mạch, Malaysia cũng chỉ ra rằng hành vi
tham nhũng chủ yếu là các hành vi hối lộ của người có chức vụ, quyền hạn
(trong cả khu vực cơng và khu vực tư).
Qua thực tiễn cùng sự phân tích các khái niệm từ các nguồn ở nhiều nước,
nhiều tổ chức khác nhau như nêu trên tác giả luận văn tổng hợp và đưa ra một
quan niệm bao quát về thuật ngữ “tham nhũng” như sau: “Tham nhũng là hành
vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn
được giao để sách nhiễu, tham ô, nhận hối lộ hay cố ý làm trái quy định của
Nhà nước, của cơ quan, tổ chức, đơn vị vì động cơ vụ lợi”.
Qua nghiên cứu và tổng hợp có thể khái quát “tham nhũng” có một số đặc
điểm, tính chất như sau: (i) Tham nhũng là một hiện tượng xã hội tiêu cực, xuất
hiện gắn liền với sự xuất hiện chế độ tư hữu và sự xuất hiện Nhà nước. (ii) Tham
nhũng tồn tại ở mọi chế độ xã hội với những biểu hiện và mức độ khác nhau, tùy

thuộc bối cảnh chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ trong
từng giai đoạn phát triển. (iii) Tham nhũng bao gồm cả về vật chất và tinh thần.
Tuy nhiên, “tham nhũng” là một khái niệm mang tính khái quát, thực tế để
có thể xác định và xử lý được hành vi tham nhũng một cách đích đáng và hiệu

17


18

quả, “tham nhũng” và những hành vi “tham nhũng” được chia thành những nội
dung và mức độ cụ thể. Đó là: “Vụ việc tham nhũng” và “Vụ án tham nhũng”:
- Vụ việc tham nhũng: Là những sự việc nảy sinh trong thực tế với các
hành vi có dấu hiệu tham nhũng, chưa có quyết định khởi tố vụ án hình sự,
đang được các cơ quan có thẩm quyền thụ lý, giải quyết theo trình tự, thủ tục
quy định của Đảng hoặc pháp luật của Nhà nước [21, tr.267].
- Vụ án tham nhũng: Là vụ việc có dấu hiệu của tội phạm về tham nhũng
được quy định trong BLHS đã được cơ quan có thẩm quyền ra quyết định
khởi tố vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự [21, tr.266].
Như vậy, có thể hiểu “vụ việc tham nhũng” và “vụ án tham nhũng” khác
nhau ở mức độ của việc xử lý. “Vụ việc tham nhũng” đang ở mức nghi vấn,
chưa có quyết định khởi tố điều tra; còn “vụ án tham nhũng” đã được cơ quan
có thẩm quyền ra quyết định khởi tố điều tra vụ án, khởi tố bị can, đã xác định
rõ đối tượng phạm tội, mức độ vi phạm của bị can, bị cáo và xác định rõ tài sản
tham nhũng bị thất thốt. Q trình khởi tố vụ án, cụ thể là: Cơ quan điều tra
khởi tố điều tra vụ án, khởi tố bị can, bắt tạm giam đối tượng vi phạm; tiếp đó
Viện kiểm sát tiến hành truy tố các bị can phạm tội; và cuối cùng Tòa án đưa vụ
án ra xét xử theo các quy định của pháp luật hình sự. Việc xác định những tính
chất, nội hàm của tham nhũng và công tác PCTN đúng đắn, sâu sắc sẽ góp
phần giải quyết được mọi việc đúng quy định của pháp luật, tránh sai sót xảy

ra.
1.1.2. Phịng, chống tham nhũng
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Phòng là ngăn ngừa, đề phòng, phòng bị” [23,
tr.794]. Một cuốn sách khác đưa ra quan niệm về “chống”, theo đó, “Chống là
làm cho khỏi bị sụp đổ, bị xâm hại, bị lấn chiếm, bị tởn thương” [22, tr.210].
“Phịng” và “chống” là hai hoạt động có chủ đích của con người.
“Phịng” là hành động diễn ra trước để ngăn ngừa, giảm thiểu một hậu quả
nào đó có thể đem lại. Cịn “chống” có thể hiểu là một điều không tốt đã xảy
ra hoặc đang đe dọa nghiêm trọng tới cuộc sống hay một hoạt động nào đó,
18


19

khiến cho cuộc sống hay hoạt động đó bị đe dọa, diễn biến xấu, vậy nên cần
phải “chống”, phải tìm cách làm giảm thiểu những thiệt hại, khơng cho nó có
cơ hội diễn ra.
Chiến lược quốc gia về PCTN nhấn mạnh: Phòng ngừa tham nhũng là
“ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng”. Đồng thời, chỉ ra: “chống tham
nhũng có nghĩa là kiên quyết đấu tranh chống lại những biểu hiện sai trái,
làm triệt tiêu các điều kiện và cơ hội phát sinh tham nhũng và xử lý triệt để
những biểu hiện vi phạm, sai phạm về tham nhũng” [8].
Cũng như vậy, “phòng ngừa tham nhũng” và “chống tham nhũng” là hành
động có chủ đích. “Phịng ngừa tham nhũng” được triển khai để ngăn ngừa
những biểu hiện, thái độ, hành vi của con người tác động gây ra hậu quả làm thiệt
hại về kinh tế. Còn “chống tham nhũng” là nhằm đấu tranh chống lại những hành
vi vi phạm pháp luật để vụ lợi cá nhân của một tổ chức hoặc một cá nhân nào đó,
gây thiệt hại cho xã hội; vậy nên, “chống tham nhũng” là tìm cách làm giảm
thiểu những thiệt hại cho Nhà nước, cho tổ chức và cá nhân, làm cho những đối
tượng có chức vụ, quyền hạn khơng có cơ hội để thực hiện hành vi sai phạm của

mình.
Từ những phân tích nêu trên về các thuật ngữ “tham nhũng”, “phòng ngừa
tham nhũng” và “chống tham nhũng”, có thể khái quát và đưa ra một quan
niệm về thuật ngữ “phòng, chống tham nhũng” như sau: “Phịng, chống tham
nhũng là hành động có chủ đích của con người nhằm ngăn chặn, từng bước
đẩy lùi tham nhũng, đấu tranh quyết liệt với các biểu hiện tham nhũng, loại bỏ
dần các cơ hội, điều kiện phát sinh tham nhũng, góp phần xây dựng bộ máy
nhà nước trong sạch, vững mạnh, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển; củng cố
được lòng tin của nhân dân và cộng đồng quốc tế”.
Như vậy, PCTN gồm hai hành động, cụ thể là “ngăn ngừa” và “loại bỏ”
hành vi tham nhũng. Hai hành động này để thực thi được phải sử dụng tới
các giải pháp được đặt ra theo quy định của pháp luật và được sử dụng các
phương tiện nghiệp vụ cần thiết, với sự tham gia của các cơ quan chức năng,
như: Công an, thanh tra, kiểm tra, kiểm tốn, kiểm sát, tịa án…
19


20

Mục đích của việc phịng ngừa tham nhũng là khơng để cho tội phạm
tham nhũng có cơ hội thực hiện hành vi của mình, khơng để gây hậu quả, thậm
chí là hậu quả nghiêm trọng cho xã hội, giảm thiểu đáng kể những thiệt hại về
tiền và tài sản của Nhà nước; đồng thời, giảm thiểu được những hành vi sai
phạm, tham nhũng cũng có nghĩa là giảm thiểu những thiệt hại của Nhà nước
trong công tác điều tra, truy tố, xét xử và cải tạo, giáo dục tội phạm tham
nhũng.
Nếu làm tốt việc “phịng ngừa tham nhũng” thì sẽ ngăn ngừa được các
nguyên nhân, xóa bỏ được các tác nhân cấu thành tội phạm và đặc biệt là
không phải thực hiện các biện pháp nghiệp vụ để đấu tranh “chống tham
nhũng”. Ngược lại, nếu thực hiện một cách triệt để việc đấu tranh “chống tham

nhũng” thì cơng tác “phịng ngừa” sẽ được thực hiện đơn giản, tốn ít thời gian
và tiền của của Nhà nước. Khi thực hiện tốt cơng tác PCTN thì trong xã hội sẽ
khơng có những tội phạm tham nhũng hoặc loại tội phạm này sẽ được khống
chế ở mức tối thiểu.
1.1.3. Thông tin về công tác phịng, chống tham nhũng
- Thơng tin
Theo Từ điển tiếng Việt, thông tin là “truyền tin cho nhau để biết” [31,
tr.920]. Thông tin (information) được sử dụng thường ngày. Con người có nhu
cầu đọc báo, nghe đài, xem TV, “lướt web”... để nhận được thông tin mới.
Thông tin mang lại cho con người sự hiểu biết, nhận thức tốt hơn về mọi lĩnh
vực trong đời sống xã hội... giúp họ thực hiện hợp lý công việc cần làm để đạt
tới mục đích một cách tốt nhất. Có thể khái quát lại: “Thông tin nghĩa là qua
một phương tiện truyền tin, hoặc qua một người, một nhóm người thơng báo
tin tức mới cho nhiều người hoặc cũng có thể cho một người khác biết”.
- Thơng tin báo chí
Chức năng thơng tin là chức năng quan trọng hàng đầu của báo chí. Báo chí ra
đời là nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin giao tiếp của công chúng và sự phát triển
của báo chí cũng dựa trên sự gia tăng nhu cầu thông tin - giao tiếp trong xã hội.
20


21

Thơng tin báo chí mang tính thời sự. Nói đến đặc điểm thông tin báo chí,
trước hết là thông tin thời sự. Đặc điểm quan trọng này của báo chí cho thấy,
“báo chí thơng tin sự kiện và vấn đề đã và đang xảy ra, có ý nghĩa xã hội và
được nhiều người quan tâm. Đó là những sự kiện công chúng muốn biết, cần
biết nhưng chưa biết, hoặc những sự kiện lãnh đạo cần thông tin cho công
chúng để thực hiện mục đích chính trị của mình. Sự kiện đã xảy ra từ lâu,
nhưng nay mới biết, hoặc xảy ra đã lâu nhưng nay mang ý nghĩa thời sự” [10,

tr.66].
Trong hoạt động báo chí, thông tin tạo nên sức mạnh, uy tín của nhà báo,
cơ quan báo chí. Có thể khái quát lại về thông tin báo chí như sau: “Thông tin
là khối lượng tri thức, tư tưởng do nhà báo tái tạo và sáng tạo từ hiện thực
cuộc sống. Tất cả những vấn đề, sự kiện, hiện tượng trong tự
nhiên và xã hội được báo chí phản ánh trung thực nhằm phục vụ
nhu cầu tìm hiểu, khám phá của con người để tuyên truyền, phổ biến
qua các phương tiện kỹ thuật, các loại hình chuyển tải nhằm tác động đến
những hành vi của công chúng, định hướng dư luận xã hội, thực hiện chức
năng giám sát, quản lý để góp phần hồn thiện, phát triển xã
hội”.
- Thơng tin về cơng tác phịng, chống tham nhũng
Ở bất cứ giai đoạn lịch sử nào, báo chí đều là kênh thông tin nhạy bén góp
phần tạo nên những thay đổi quan trọng của xã hội. Ở Việt Nam, báo chí luôn
là phương tiện thơng tin đại chúng thiết yếu, là “món ăn tinh thần” quan trọng
của công chúng; là cơ quan ngôn luận của Đảng, Nhà nước, là diễn đàn của
nhân dân. Thông tin trên báo chí luôn hướng đến mục đích định hướng dư luận
xã hội.
Thực tế cho thấy, công tác PCTN đang diễn ra luôn là sự kiện, vấn đề có ý
nghĩa thời sự, là những thơng tin mà báo chí đặc biệt quan tâm cần phản ánh
kịp thời, chính xác về lĩnh vực này. Xét một cách tổng thể, thông tin về các
hành vi vi phạm pháp luật, các vụ việc tiêu cực, tham nhũng... luôn chiếm một
21


22

vị trí quan trọng trên báo chí. Do đặc thù của báo chí là thơng tin nhanh chóng
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; vấn đề tham nhũng và PCTN cũng không
ngoại lệ, luôn được đề cập và thông tin kịp thời.

Chính vì vậy, thời gian qua, báo chí đã khơng nằm ngồi cuộc đối với hoạt
động này, đã thể hiện vai trị rõ nét trong thơng tin, tun truyền về công tác
PCTN. Từ những quan niệm nêu trên về các thuật ngữ: “thơng tin”, “phịng,
chống tham nhũng”, kết hợp phân tích thực tiễn có thể khái qt: “Thơng tin về
PCTN là hoạt động của báo chí thơng qua các sản phẩm của mình nhằm cung
cấp những nội dung liên quan đến vấn đề tham nhũng và PCTN tới đơng đảo
cơng chúng; nhằm nâng cao nhận thức và hình thành tinh thần đấu tranh
chống tham nhũng trong nhân dân”.
1.1.4. Thơng tin về cơng tác phịng, chống tham
nhũng trên báo mạng điện tử
- Khái niệm báo mạng điện tử
Theo Luật báo chí năm 2016, báo mạng điện tử “là loại hình báo chí sử
dụng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được truyền dẫn trên môi
trường mạng” [25]. Một nghiên cứu khác cho biết, báo điện tử “là loại hình
báo chí được xây dựng dưới hình thức một trang web và phát hành dựa trên nền
tảng internet” [35]. Hay, một khái niệm khác cho rằng, báo mạng điện tử “là
một loại hình báo chí được xây dựng dưới hình thức của một trang web, phát
hành trên mạng internet, có ưu thế trong chuyển tải thơng tin một cách nhanh
chóng, tức thời, đa phương tiện và tương tác cao” [19, tr.67]. Hoặc, báo mạng
điện tử, “là loại hình báo chí - truyền thông tồn tại, phát triển trên mạng
internet” [10, tr.122].
Các khái niệm trên cho thấy, báo mạng điện tử tựu chung lại là hoạt động
của một loại hình báo chí phát triển trên mạng internet. So với các loại hình
báo chí khác, báo mạng điện tử ra đời muộn nhất, nhưng lại phát triển vơ cùng
nhanh chóng và mạnh mẽ. Do kế thừa và tích hợp được nhiều tính năng, thế
mạnh của các loại hình như: báo in (chữ viết), phát thanh (audio), truyền hình
22


23


(video), infographic… nhờ đó mà báo mạng điện tử đã chuyển tải đến cơng
chúng những “món ăn tinh thần” một cách nhanh chóng, sinh động và hấp
dẫn.
Trên cơ sở phân tích cùng với những kết quả của các nhà nghiên cứu đi
trước, tác giả luận văn nhận thấy, những khái niệm trên đã bao quát được về
báo mạng điện tử. Tác giả hoàn toàn đồng ý với những quan niệm đã nêu và
khẳng định: “Báo mạng điện tử là loại hình báo chí tích hợp hầu hết các tính
năng, thế mạnh của báo in, báo nói, báo hình... dưới dạng một trang web và
đăng tải, truyền dẫn các thông tin trên mạng internet, đem đến công chúng
những tác phẩm báo chí được thể hiện bằng cả chữ viết, hình ảnh và âm
thanh”.
- Thơng tin về cơng tác phịng, chống tham nhũng trên báo mạng điện tử
Từ những phân tích và các khái niệm đã nêu ở trên cho thấy, thông tin về
công tác PCTN trên báo mạng điện tử là quá trình báo mạng điện tử tham gia vào
việc trình bày, phản ánh các nội dung liên quan đến công tác PCTN trên chuyên
trang của tờ báo. Các tác phẩm chứa đựng những thơng tin về cơng tác PCTN có
thể được tích hợp từ cách làm của nhiều loại hình báo chí: báo viết, báo nói, báo
ảnh, báo hình… mang đến một bức tranh tồn diện, một “món ăn” hấp dẫn, sinh
động cho công chúng.
Đặc biệt, nhờ sự phát triển của công nghệ, máy tính và mạng internet, thông
tin về công tác PCTN trên báo mạng điện tử dễ dàng chuyển tải đến công chúng
nhanh nhạy, kịp thời; giúp công chúng có thể tương tác với nhà báo và tịa soạn,
qua cách thể hiện sinh động, hấp dẫn bằng cả hình ảnh, âm thanh, chữ viết…
Qua những khái niệm cùng các phân tích ở trên có thể hiểu: “Thơng tin
về công tác PCTN trên báo mạng điện tử là hoạt động mà ở đó các tác phẩm
báo chí trình bày, phản ánh những nội dung liên quan đến công tác PCTN
được phát hành trên trang web”.
- Thế mạnh của báo mạng điện tử trong thơng tin về cơng tác phịng,
chống tham nhũng

23


24

So với các loại hình báo chí khác như: báo in, phát thanh, truyền hình...
báo mạng điện tử ra đời muộn hơn rất nhiều, nhưng nhờ có sự phát triển của
công nghệ, kết hợp với sự linh hoạt trong cách thể hiện, báo mạng điện tử đã
khai thác được “tinh hoa” của các loại hình báo chí trước đây để truyền tải
thơng tin trên loại hình báo chí của mình. Đó là, báo mạng có khả năng cung
cấp thơng tin sống động bằng chữ viết, hình ảnh (động và tĩnh) và âm thanh
một cách cập nhật. Đặc biệt, với dung lượng trang hầu như không giới hạn
vậy nên báo mạng điện tử có tính phi định kỳ với số trang khơng hạn chế...
Chính vì vậy, nếu như truyền hình sử dụng ưu thế là hình ảnh, phát thanh
sử dụng âm thanh, báo in sử dụng ngơn từ, hình ảnh tĩnh thì báo mạng điện tử có
thế mạnh là tích hợp đa phương tiện, có thể khai thác tất cả các ưu điểm của các
loại hình báo chí bằng cách sử dụng yếu tố công nghệ cao và truyền tải thông tin
dựa trên mạng internet toàn cầu. Báo mạng điện tử có khả năng cập nhật thơng
tin tức thời, thường xun và liên tục nhờ vào sự phát triển của công nghệ, máy
tính và mạng internet; khả năng đăng tải thông tin mọi lúc, mọi nơi; thông tin
được chuyển tải linh hoạt bằng chữ viết, âm thanh, hình ảnh hoặc phối hợp tất
cả.
Cũng nhờ những đặc trưng nổi trội về công nghệ mà báo mạng điện tử có
khả năng tương tác nhiều chiều giữa nhà báo, tòa soạn với độc giả hoặc giữa
độc giả với nhân vật một cách thuận lợi. Ngồi ra, cịn có rất nhiều kênh tương
tác khác như feedback, vote, email, forum… giúp cho độc giả dễ dàng đóng
góp ý kiến của mình. Việc tích hợp các loại hình báo chí, báo mạng điện tử thể
hiện rõ tính đa phương tiện, tạo được sự hấp dẫn, sinh động. Mặt khác, cũng
nhờ có khả năng liên kết lớn vào các siêu liên kết, các từ khóa, web link,… độc
giả dễ dàng tìm kiếm những thơng tin liên quan thơng qua các liên kết. Đồng

thời, có khả năng lưu trữ và tìm kiếm thơng tin dễ dàng, nhờ các mục tìm kiếm
với các từ khóa được đính kèm trên trang báo. Báo mạng điện tử còn thể hiện
tính xã hội hóa cao nhờ vào sự phủ sóng của mạng tồn cầu internet.

24


25

Chính những đặc tính đó mà việc thơng tin và tiếp nhận thông tin về các
vấn đề, các lĩnh vực nói chung và thơng tin về cơng tác PCTN nói riêng của báo
mạng điện tử trở nên nhanh chóng, dễ dàng hơn so với loại hình báo chí truyền
thống.
1.2. Vai trị và nội dung thơng tin về cơng tác
phịng, chống tham nhũng của báo mạng điện tử
1.2.1. Tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về cơng tác phịng, chống tham nhũng
Tun truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước là nhiệm vụ của báo chí. Báo mạng điện tử là một loại hình báo chí
nên cũng khơng nằm ngồi vai trị, nhiệm vụ này. Thực tiễn cuộc sống rất nhiều
lĩnh vực, công việc phải làm, vậy nên về phía Đảng, Nhà nước cũng có nhiều
những định hướng, chủ trương để các cấp, các ngành, nhân dân cùng thực hiện.
Về lĩnh vực PCTN, Đảng, Nhà nước cũng có nhiều chủ trương, chính sách liên
quan. Chính vì vậy, báo mạng điện tử cũng phải tham gia vào công tác này,
nghĩa là phải tham gia tuyên truyền các chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về PCTN; qua đó, giúp cơng chúng hiểu rõ quyết
tâm chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước; trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền
hạn của cả hệ thống chính trị và mỗi công dân trong công tác PCTN; tạo sức
mạnh tổng hợp của toàn xã hội kịp thời ngăn chặn, phòng ngừa và diệt trừ tận
gốc tệ tham nhũng.

Bên cạnh đó, báo mạng điện tử cịn bám sát tình hình thực tế, phản ánh kịp
thời việc công dân thực hiện những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước, tham gia hướng dẫn việc thực hiện và có những phản hồi, tham mưu kịp
thời cho Đảng, Nhà nước để có những sửa đổi, bổ sung phù hợp thực tiễn.
Hiện tại, hầu hết các báo mạng điện tử ở Việt Nam đã xây dựng các
chuyên trang như: Pháp luật, Chính sách và Pháp luật, Tư vấn kiến thức pháp
luật,... nhằm giới thiệu những nội dung cơ bản, những quy định mới của Đảng,
Nhà nước về PCTN... đây là công việc mà báo mạng điện tử cần phải thể hiện
25


×