Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Vận dụng nguyên tắc toàn diện của phép biện chứng duy vật trong hoạt động kinh tế đối ngoại ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.71 KB, 15 trang )

lOMoARcPSD|10804335

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG CƠ SỞ QUẢNG NINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN

Đề tài:
Vận dụng nguyên tắc toàn diện của phép biện
chứng duy vật trong hoạt động Kinh tế Đối
ngoại ở Việt Nam
Giảng viên hướng dẫn: ThS Nguyễn Tùng Lâm
Sinh viên thực hiện: Hà Ngọc Minh Đức
Ngành: Kinh Doanh Quốc Tế
Mã sinh viên: 2014515018

Quảng Ninh, tháng 6 năm 2021

Downloaded by Con Ca ()


lOMoARcPSD|10804335

MỤC LỤC
I.

Lời mở đầu

II.


Chương I: Cơ sở lý luận
- Quan điểm toàn diện của phép biện chứng duy vật
- Khái niệm kinh tế đối ngoại và tính tất yếu của việc mở rộng KTĐN

III. Chương II: Cơ sở thực tiễn
- Hiện trạng hoạt động KTĐN của nước ta hiện nay
- Một số giải pháp

III. Chương III: Một số giải pháp

IV. Kết luận

V. Tài liệu tham khảo

Downloaded by Con Ca ()


lOMoARcPSD|10804335

Lời mở đầu
15 năm gia nhập WTO là một chặng đường đủ dài để chúng ta nhận ra những
điểm mạnh, điểm yếu trong quá trình hội nhập kinh tế.
Sự phát triển kinh tế đối ngoại (KTĐN) trong thời gian vừa qua đã có ý nghĩa
hết sức quan trọng, thậm chí là quyết định đối với sự tăng trưởng kinh tế của
nước ta. Lợi ích kinh tế xã hội mà KTĐN mang lại cho nền kinh tế quốc dân và
đời sống xã hội được thể hiện ở mức độ đóng góp vào việc thực hiện các mục
tiêu kinh tế xã hội như phát triển sản xuất, đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng năng suất
lao động, tích lũy ngoại tệ, tăng nguồn thu Ngân sách Nhà nước, giải quyết việc
làm cải thiện đời sống nhân dân,... Tuy nhiên, hoạt động KTĐN vẫn cịn tồn tại
những mặt hạn chế. Vì vậy việc mở rộng và nâng cao hiệu quả KTĐN là vấn đề

cấp bách và cần thiết đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ sung
và phát triển năm 2011) của Đảng đã ghi: Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng là kim chỉ
nam cho hành động của mình. Xuất phát từ nhận thức, những kiến thức được học
nên em lựa chọn đề tài “Vận dụng nguyên tắc toàn diện của phép biện chứng duy
vật trong hoạt động kinh tế đối ngoại”.
Bằng phương pháp nghiên cứu kết hợp giữa lí luận và thực tiễn, phân tích
tổng hợp, hy vọng bài luận này sẽ giúp bạn đọc hiểu thêm về thành tựu cũng như
hạn chế, nguyên nhân cũng như giải pháp cho hoạt động kinh tế đối ngoại nước
ta hiện nay.

Downloaded by Con Ca ()


lOMoARcPSD|10804335

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
I.

Quan điểm toàn diện của phép biện chứng duy vật:

Trong nhận thức và thực tiễn cần quán triệt quan điểm toàn diện.
Với tư cách là một nguyên tắc phương pháp luận trong nhận thức các sự vật,
hiện tượng, quan điểm tồn diện địi hỏi phải xem xét sự vật như một chính thể
của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, cùng các mối liên hệ
của chúng trong bản thân sự vật; mối liên hệ giữa sự vật với các sự vật khác và
với môi trường xung quanh, kể cả các mặt các mối liên hệ trung gian, gián tiếp.
Trong nhận thức, tính tồn diện là u cầu tất yếu của cách tiếp cận khoa học,
cho phép tính đến mọi khả năng của vận động có thể có của đối tượng nghiên

cứu trong tính tồn vẹn của nó. V.I.Lenin viết: “Muốn thực sự hiểu được sự vật
cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và
“quan hệ gián tiếp” của sự vật đó”; phải tính đến “tổng hịa những quan hệ muôn
vẻ của sự vật ấy với những sự vật khác”. Nghĩa là phải xem xét khách thể trong
tất cả những mối liên hệ và quan hệ của nó với khách thể khác.
Tuy nhiên, theo V.I.Lenin: “Chúng ta không thể làm được điều đó một cách
hồn tồn đầy đủ, nhưng sự cần thiết phải xem xét tất cả mọi vật sẽ đề phịng cho
chúng ta khơng phạm sai lầm và sự cứng nhắc.” Sở dĩ chúng ta khơng làm được
điều đó một cách đầy đủ là với hai lý do:
Một là, sự vật trong quá trình tồn tại phải trải qua rất nhiều giai đoạn khác
nhau, trong mỗi giai đoạn tồn tại và phát triển không phải bao giờ sự vật cũng
bộc lộ tất cả các mối quan hệ và liên hệ của nó cũng như các quan hệ của sự vật
với các sự vật khác, hơn nữa tất cả những mối quan hệ và liên hệ ấy chỉ được
biểu hiện ra trong những điều kiện nhất định.
Hai là, bản thân chúng ta - những chủ thể nhận thức - những phẩm chất và
năng lực của chúng ta luôn bị chế ước bởi những điều kiện xã hội lịch sử, do đó
khơng bao giờ có thể bao qt được hết những mối liên hệ và quan hệ của sự vật
với các sự vật khác.
Ví dụ, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang
thực hiện còn sơ khai, các yếu tố của thị trường mới được tạo lập chưa đồng bộ,
các quan hệ thị trường đang trong giai đoạn hình thành và phát triển, cịn đang

Downloaded by Con Ca ()


lOMoARcPSD|10804335

biến động, do đó, nhận thức về kinh tế thị trường của chúng ta cịn chưa đầy đủ.
Do đó quan điểm toàn diện gắn chặt với quan điểm lịch sử cụ thể.
Tuy nhiên về mặt nguyên tắc, trong những điều kiện cho phép, cần phải nắm

được thông tin đầy đủ nhất về sự vật để có nhận thức tồn diện nhất và đúng đắn
nhất về sự vật.
Quan điểm toàn diện còn đòi hỏi để nhận thức được sự vật chúng ta cần xem
xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. Cùng một sự vật,
xuất phát từ nhu cầu khác nhau chủ thể sẽ phản ánh những mặt khác nhau của sự
vật và do vậy, nó biểu hiện ra là những cái khác nhau.
Mối liên hệ giữa sự vật với nhu cầu của chủ thể rất đa dạng, trong một hoàn
cảnh nhất định, con người chỉ phản ánh một số mối liên hệ xác định của sự vật
với nhu cầu nhất định của mình, nên nhận thức về sự vật cũng mang tính tương
đối, khơng đầy đủ, khơng trọn vẹn. Nắm được điều đó chúng ta sẽ tránh được
việc tuyệt đối hoá những tri thức đã có về sự vật và tránh xem đó là những chân
lý bất biến, tuyệt đối cuối cùng về sự vật, khơng thể bổ sung, khơng thể phát
triển.
Xem xét tồn diện tất cả các mặt của những mối quan hệ của sự vật đòi hỏi
phải chú ý đến sự phát triển cụ thể của các quan hệ đó. Chỉ có như vậy chúng ta
mới thấy được vai trò của các mặt trong từng giai đoạn cũng như của toàn bộ quá
trình vận động, phát triển của từng mối quan hệ cụ thể của sự vật.
V.I.Lênin viết: “Phép biện chứng đòi hỏi người ta phải chú ý đến tất cả các
mặt của những mối quan hệ trong sự phát triển cụ thể của những mối quan hệ đó,
chứ khơng phải lấy một mẩu ở chỗ này, một mẩu ở chỗ kia”.
Như vậy xem xét tồn diện nhưng khơng bình qn dàn đều mà có trọng tâm,
trọng điểm; phải tìm ra vị trí từng mặt, từng yếu tố, từng mối liên hệ ấy trong
tổng thể của chúng; phải từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật
đến chỗ khái quát để rút ra cái chủ yếu nhất, bản chất nhất, quan trọng nhất chi
phối sự tồn tại và phát triển của sự vật.
Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện. Quan điểm phiến diện
chỉ thấy một mặt mà không thấy mặt khác, hoặc giả chú ý đến nhiều mặt nhưng
lại xem xét tràn lan, dàn đều, không thấy được bản chất của sự vật. Quan điểm
này cuối cùng rơi vào thuật nguỵ biện và chủ nghĩa chiết trung. Chủ nghĩa chiết
trung cũng tỏ ra chú đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật nhưng lại không

biết cách rút ra mặt bản chất, mối liên hệ căn bản của sự vật, xem xét mộtcách
bình quân, kết hợp một cách vô nguyên tắc các mối liên hệ khác nhau, tạo thành

Downloaded by Con Ca ()


lOMoARcPSD|10804335

một mớ hỗn tạp các sự kiện, cuối cùng sẽ lúng túng, mất phương hướng và bất
lực trước chúng.
Trong tác phẩm “Lại bàn về cơng đồn...”, V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Sai lầm của
Bukharin về mặt lý luận- trong trường hợp này về mặt nhận thức luận- là đã thay
thế phép biện chứng bằng chủ nghĩa chiết trung”. Điều đó làm cho Bukharin
lung túng mất phương hướng và rơi vào chủ nghĩa cơng đồn. Cịn “Sai lầm của
Trốtxki là tính phiến diện, sự thiên lệch, thổi phồng, ngoan cố”. V.I.Lênin cho
rằng: “Nếu cứ giữ mãi sai lầm đó, thì kết quả khơng phải là cái gì khác hơn là
một thiên hướng cơng đồn chủ nghĩa chống lại chủ nghĩa cộng sản”.
Thuật nguỵ biện cũng để ý đến nhiều mặt nhiều mối liên hệ khác nhau củasự
vật nhưng lại đưa cái không cơ bản thành cái cơ bản, cái không bản chất thành
cái bản chất.
Cả chủ nghĩa chiết trung lẫn thuật nguỵ biện đều là những biểu hiện của
phương pháp luận sai lầm trong xem xét các sự vật, hiện tượng.
Vạch rõ đặc điểm của chủ nghĩa chiết trung và phép nguỵ biện khác với phép
biện chứng, V.I.Lênin viết: “Tính linh hoạt toàn diện, phổ biến của các khái
niệm, áp dụng một cách chủ quan bằng chủ nghĩa chiết trung và nguỵ biện. Tính
linh hoạt áp dụng một cách khách quan nghĩa là phản ánh tính tồn diện của q
trình vật chất và sự thống nhất của q trình đó, thì đó là phép biện chứng, là sự
phản ánh chính xác sự phát triển vĩnh viễn của thế giới ”.
Trong bối cảnh quốc tế cuối những năm 1980 đầu những năm 1990 của thế kỉ
XX, khi chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ và tan vỡ, chủ

nghĩa xã hội thế giới lâm vào khủng hoảng và thối trào, một số nước tư bản lại
có bước phát triển mới về lực lượng sản xuất. Trong bối cảnh đó, lối xemxét
phiến diện, một chiều sẽ làm người ta dễ hoang mang dao động, phủ nhận tính
tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản, phủ nhận nội dung và tính chất của thời
đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi tồn thế giới.
Rõ ràng ngun tắc tồn diện khơng đồng nhất với cách xem xét dàn đều, liệt
kê những tính quy định khác nhau của sự vật hay hiện tượng đó; nó địi hỏi phải
làm nổi bật cái cơ bản, cái quan trọng nhất của sự vật hay hiện tượng đó.
Từ những phân tích trên cho thấy, lơgíc của q trình hình thành quan điểm
tồn diện trong nhận thức, xem xét sự vật sẽ phải trải qua nhiều giai đoạn cơ bản
là đi từ ý niệm ban đầu về cái toàn thể đến nhận thức một mặt, một mối liên hệ
cụ thể của sự vật rồi đến nhận thức nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đó,

Downloaded by Con Ca ()


lOMoARcPSD|10804335

và cuối cùng đi tới khái quát những tri thức phong phú đó để rút ra tri thức về
bản chất của sự vật.
Từ nguyên tắc toàn diện trong nhận thức, chúng ta đi đến nguyên tắc đồng
bộ trong hoạt động thực tiễn. Nguyên tắc này đòi hỏi muốn cải tạo sự vật, hiện
tượng phải áp dụng đồng bộ một hệ thống các biện pháp, các phương tiện khác
nhau để tác động làm thay đổi các mặt, các mối liên hệ tương ứng của sự vật.
Song trong từng bước, từng giai đoạn phải nắm đúng khâu trọng tâm, then chốt.
Nghĩa là phải kết hợp chặt chẽ giữa “chính sách dàn đều” và “chính sách có
trọng điểm” trong cải tạo sự vật.

II.


Khái niệm kinh tế đối ngoại và tính tất yếu khách quan
của việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại:

1. Khái niệm
Kinh tế đối ngoại của một quốc gia là một bộ phận của kinh tế quốc tế, là
tổng thể các quan hệ kinh tế, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của một quốc gia
nhất định với quốc gia khác còn lại hoặc với tổ chức kinh tế quốc tế khác, được
thực hiện dưới nhiều hình thức, hình thành và cơ sở phát triển của lực lượng sản
xuất và phân cơng lao động quốc tế.
2. Tính tất yếu của việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại
Mở rộng mối quan hệ kinh tế đối ngoại đã và đang là xu hướng tất yếu đối
với hầu hết các nước. Tính khách quan và phổ biến của nó bắt đầu từ yêu cầu của
quy luật về sự phân công và hợp tác quốc tế giữa các nước, từ sự phân bố
tàinguyên thiên nhiên và sự phát triển không đồng đều về trình độ phát triển kinh
tế - kỹ thuật giữa nước này với nước khác, dẫn đến nhu cầu sử dụng sao cho có
hiệu quả nguồn lực mỗi quốc gia. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, dưới sự tác
động của cuộc cách mạng khoa học hiện đại, xu hướng mở rộng quan hệ kinh tế
đối ngoại ngày càng trở nên sôi động.

CHƯƠNG II: CƠ SỞ THỰC TIỄN
I.

Hiện trạng hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta hiện
nay:

Downloaded by Con Ca ()


lOMoARcPSD|10804335


1. Những thành tựu đã đạt được
Sau chặng đường 15 năm gia nhập WTO, kết quả đáng ghi nhận là kinh
tếnước ta đã phát triển mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực, đặc biệt trong thương mại,
dịch vụ, thu hút đầu tư nước ngoài (FDI).
Trong 5 năm 2006-2010, tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thực
hiện 45 tỉ USD, vượt 77,8% so với kế hoạch. Tổng số vốn FDI đăng ký mới và
bổ sung đạt 146 tỉ USD, gấp 7 lần so với giai đoạn 2001-2005.
Hội nhập, đã phá được thế bao vây cấm vận, tạo được sự bình đẳng trong
thương mại quốc tế. Hoạt động kinh tế đối ngoại trong đó nịng cốt là ngoại
thương tiến bộ rõ rệt.
Thị trường được rộng mở tới 149 nền kinh tế thành viên. Kim ngạch xuất
khẩu liên tục tăng trưởng. Kim ngạch xuất khẩu bình quân theo đầu người năm
2010 đạt 914,4 USD/người trong khi năm 2006 là 559,2 USD/người. Theo đà
diễn biến các tháng gần đây, đến thời điểm này đã khẳng định năm 2011 xuất
khẩu sẽ vượt năm 2010 rất ngoạn mục. Đến năm 2010 đã có 19 thị trường Việt
Nam xuất khẩu đạt từ 1 tỉ USD trở lên, trong đó đầu bảng là Hoa Kỳ, đạt 14,2 tỉ
USD, tiếp đến là Nhật Bản và Trung Quốc.... Cũng trong số 19 thị trường nói
trên có 6 tên tuổi thuộc khu vực ASEAN, lần lượt theo trị số kim ngạch từ lớn
đến nhỏ là Singapore, Malaysia, Philippines, Campuchia, Indonesia, Thái Lan.
Trên tổng thể cán cân thương mại của Việt Nam là nhập siêu, nhưng hiện có 6 thị
trường ta xuất siêu là Hoa Kỳ, Thuỵ Sỹ, Campuchia, Anh, Hà Lan, Philippines,
như một tin báo tiệp rằng sẽ cân bằng xuất - nhập.
Ngành du lịch Việt Nam đã có bước phát triển đáng kể. Số khách du lịch quốc
tế vào Việt Nam năm 2011 đã đạt mốc 6 triệu vào ngày 26/12 và hiện có hàng
trăm ngàn lao động Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài, đem lại nguồn thu
nhập hàng tỷ USD hàng nam cho đất nước.
Các doanh nghiệp trong nước đã được quyền bình đẳng với doanh nghiệp
nước ngoài trong xuất khẩu, giảm thiểu sự phân biệt hoặc rào cản thương mại bất
hợp lý. Điều đó thể hiện rõ đối với doanh nghiệp dệt may khi đón nhận cơ hội
chuyển dịch sản xuất từ các nước phát triển sang những nước đang phát

triểnthông qua làn song chuyển giao công nghệ, mẫu mã. Đặc biệt, vấn đề hạn
ngạch – vốn là rào cản, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong nhiều năm, được
dỡ bỏ bên cạnh việc doanh nghiệp được bình đẳng về thuế quan với doanh
nghiệp các nước. Một sân chơi mới, rộng lớn và song phẳng đã mở ra, tạo điều

Downloaded by Con Ca ()


lOMoARcPSD|10804335

kiện cho cộng đồng doanh nghiệp huy động, sử dụng các nguồn lực một cách
chủ động để phục vụ mục tiêu phát triển bền vững. Q trình hiện đại hóa trang
bị, dây chuyền sản xuất đã diễn ra với tốc độ cao ở hầu hết doanh nghiệp. Doanh
nghiệp đang kết hợp cả hoạt động gia công với việc tự sáng tạo mẫu mà, tự tìm
thị trường xuất khẩu và cạnh tranh có hiệu quả. Tác dụng to lớn về mặt xã hội từ
xuất khẩu hàng dệt may được xác nhận vì cứ một tỷ USD xuất khẩu bảo đảm cho
150 ngàn người có việc làm ổn định. Việt Nam đang đứng trong số 10 nước dẫn
đầu về xuất khẩu dệt may, với tốc độ tăng trưởng bình quân 25%/ năm.
2. Những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân
Thứ nhất, năng lực cạnh tranh của hàng hóa nước ta ở cả 3 cấp quốc gia,
ngành hàng, doanh nghiệp còn kém, thể hiện là giá thành còn cao, phẩm cấpthấp
so với chuẩn quốc tế, chất lượng phục vụ thiếu chuyên nghiệp. Nguyên nhân của
vấn đề này do chi phí sản xuất của ta nói chung cịn cao so với các quốc gia
trong khu vực: tuy chí phí lao động thấp nhưng giá các dịch vụ như liên lạc, viễn
thông, hàng không, điện nước… đều cao, công nghệ được sử dụng trong các
doanh nghiệp Việt Nam thì chưa được gọi là tiên tiến
Thứ hai, đồng tiền Việt Nam cho đến nay, chưa có thể chuyển đổi tự do. Bn
bán quốc tế lớn đến thế, mà đồng tiền không chuyển đổi tự do được, có nghĩa là
các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu của ta phải chịu các chi phí chuyển đổi tiền
với thủ tục phiền hà và tốn kém thời gian. Đã thế họ còn phải chịu thiệt do quy

định về kết hối ngoại tệ, tiền của họ thu được do xuất khẩu, khi nhập khẩu cần
ngoại tệ lại phải xin phép ngân hàng cấp. Cung cấp tín dụng cho xuất khẩu là
một trong các yếu tố quyết định sự thành công của xuất khẩu, thế nhưng ở nước
ta việc cung cấp các tín dụng này, đặc biệt là cung cấp vốn lưu động cho các nhà
xuất khẩu gặp nhiều trở ngại. Những trở ngại này liên quan tới những thủ tục vay
vốn phiền hà, những quy chế phức tạp về thế chấp, nhất là trong điều kiện thị
trường bất động sản hoạt động rất kém, sự phân biệt đối xử đối với các loại hình
doanh nghiệp, và chưa có cơ chế tái chiết khấu các thương phiếu...Việc cung cấp
tín dụng yếu kém đã tác động xấu cả tới việc thu hút vốn FDI và du lịch, vì các
nhà đầu tư ít có cơ hội tiếp cận với các nguồn vốn trong nước để phát triển kinh
doanh
Thứ ba, đội ngũ các doanh nghiệp hoạt động kinh tế đối ngoại đã tăng cả về
số lượng và chất lượng nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay.
Thứ tư, chưa nhận thức thật đầy đủ và thống nhất về hội nhập, chưa coi đây là
yêu cầu tất yêu trong xu thế tồn cầu hóa, nước ta khơng thể đứng ngoài. Cũng

Downloaded by Con Ca ()


lOMoARcPSD|10804335

có biểu hiện nóng vội có ngay sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế về vốn và kĩ
thuật công nghệ, quản lí tiên tiến để phát triển. Nhưng cũng có thiên hướng chỉ
lo lắng về thách thức, hoang mang khi thị trường quốc tế rung động, lập tức Việt
Nam gặp khó khăn, khác xa với thời nằm im trong vỏ bọc bao cấp quốc tế.
Thứ năm, các doanh nghiệp thường ít khi phân tích, nghiên cứu dung lượng
của thị trường, các giới hạn của thị trường và khả năng thâm nhập tối đa của
hàng Việt Nam vào các thị trường đó. Điều này dẫn đến việc gia tăng quá mức
một mặt hàng nào đó, hay khơng ứng phó kịp với sự biến động của thế giới.

Thứ sáu, các vấn đề về tỷ giá, thuế quan, hải quan, những quy chế về đầu tư
nước ngồi, chính sách xuất nhập cảnh... còn nhiều phức tạp, nhiều thủ tục. Kinh
tế đối ngoại và đối nội thực chất chỉ là hai mặt của một nền kinh tế, vì vậy những
thay đổi về kinh tế đối ngoại đòi hỏi kinh tế đối nội phải thay đổi theo. Chính sự
tiến triển khơng kịp của kinh tế đối nội sẽ cản trở kinh tế đối ngoại phát triển và
ngược lại. Nước ta đang ở thời điểm kinh tế đối nội không phát triển kịp, cản trở
kinh tế đối ngoại - luật pháp thay đổi chậm, các công ty chậm đổi mới và yếu
kém, điều hành của bộ máy quản lý kém hiệu lực...
Nguyên nhân sâu xa của những vấn đề còn tồn tại nêu trên là do kinh tế nước
ta còn yếu kém, chưa thể hấp thụ, chưa thể chuyển hóa cơ hội thành hiện thực,
bộ máy quản lí cịn u kém, lao động Việt Nam tay nghề khơng cao, thể chế
hành chính luật pháp khơng minh bạch.

CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP
Thứ nhất, xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng là một tiền đề để mở rộng
kinh tế đối ngoại. Các cơ sở hạ tầng cần cho hoạt động kinh tế đối ngoại là các
cảng biển, đặc biệt là cảng trung chuyển quốc tế, sân bay quốc tế, các đường cao
tốc nối từ các trung tâm kinh tế đến sân bay và cảng biển, hệ thống liên lạc, viễn
thông, cung cấp điện,... Người ta đã tính rằng có đến trên 70% những khác biệt
về giá trị xuất khẩu trên đầu người là phụ thuộc vào trình độ phát triển của cơ sở
hạ tầng. Nếu khơng có đủ cảng, sân bay quốc tế, điện, đường... thì có nghĩa là
chỉ có một bộ phận dân cư tham gia kinh tế đối ngoại. Những yếu tố của cơ sở hạ
tầng không những phải được xây dựng hiện đại mà còn phải đồng bộ, và trong
một thời hạn càng ngắn càng tốt. Chỉ cần một trong các yếu tố trên khiếm khuyết
cũng đủ gây tổn hại cho các hoạt động kinh tế đối ngoại.

Downloaded by Con Ca ()


lOMoARcPSD|10804335


Cần phải có hàng chục tỷ USD để xây dựng những cơ sở hạ tầng trên đây.
Vốn ngân sách nhà nước, kể cả nguồn vốn ODA cũng không thể đủ đáp ứng các
nhu cầu to lớn này. Do vậy cần phải có quy hoạch tổng thể về cơ sở hạ tầng, nhà
nước có thể tạm thời chuyển vốn đầu tư xây dựng các nhà máy sản xuất công
nghiệp sang xây dựng cơ sở hạ tầng. Mở rộng các hình thức huy động vốn đa
dạng, cần có chính sách để mọi thành phần kinh tế có thể tham gia kinh doanh cơ
sở hạ tầng. Ngay những nước giàu như Mỹ, Nhật, nhà nước cũng không đủ tiền
xây dựng các cơ sở hạ tầng, mà phải huy động các thành phần kinh tế khác.
Nước ta nghèo hơn nên càng phải sử dụng các thành phần ngồi nhà nước.
Thứ hai, khai thơng các nguồn vốn cung ứng cho hoạt động kinh tế đối ngoại.
Các hoạt động kinh tế đối ngoại từ xuất nhập khẩu, du lịch đến đầu tư nước
ngoài đều cần đến những nguồn vốn to lớn. Khơng có đủ vốn, cũng có nghĩa là
kinh tế đối ngoại khơng hoạt động được. Những nguồn vốn này hiện đang dư
thừa cả trong và ngoài nước. Hàng năm, hàng tỷ USD tiền gửi tiết kiệm đã
không sử dụng được ở trong nước phải gửi ra các ngân hàng ở nước ngồi, nếu
tính cả số tiền gửi ra nước ngồi qua các kênh khơng chính thức thì số tiền đó
cịn lớn hơn. Nguồn vốn tích trữ trong dân dưới nhiều dạng của cải khác nhau
còn khá lớn. Nguồn vốn dư thừa trên thế giới phải tính đến hàng ngàn tỷ USD
vấn đề là chúng ta chưa có một cơ chế thích hợp để thu hút nguồn vốn này cho
hoạt động kinh tế đối ngoại.
Trước hết cần mạnh dạn cho phép một số ngân hàng thương mại của ta
liêndoanh với ngân hàng nước ngoài và cho phép các ngân hàng nước ngoài mở
dịch vụ kinh doanh nội và ngoại tệ, cung ứng tín dụng cho hoạt động kinh tế đối
ngoại cho các công ty Việt Nam và cơng ty nước ngồi. Tiếp theo, nên thúc đẩy
thị trường vốn hoạt động tốt hơn theo hướng - một mặt mở rộng diện cổ phần
hoá và cho phép các công ty cổ phần được bán cổ phiếu; đồng thời cho phép các
cơng ty chưa cổ phần hố nhưng kinh doanh tốt có thể bán trái phiếu; cho phép
các cơng ty hoạt động đối ngoại có thể huy động vốn theo các dự án trên thị
trường chứng khoán...

Thứ ba, các ngành dịch vụ phải được phát triển và hội nhập quốc tế. Ở các
nước phát triển, các ngành dịch vụ đã chiếm khoảng 60 - 70% GDP. Vai trị của
nó cực kỳ quan trọng đối với toàn bộ sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt là
trong thời đại chuyển sang nền kinh tế tri thức. Ở nước ta các ngành dịch vụ hiện
đại rất kém phát triển. Không những thế, quan niệm của xã hội ta vẫn xem trọng
sản xuất vật chất hơn dịch vụ, vẫn có xu hướng tập trung các nguồn lực cho sản
xuất vật chất, kể cả các nguồn lực bên ngoài. Sản xuất vật chất là quan trọng,
không ai phủ nhận, nhưng tầm quan trọng của nó khơng thể lấn át dịch vụ. Nếu
ta tập trung đầu tư vào sản xuất thép, xi măng... nhưng khơng đầu tưthích đáng

Downloaded by Con Ca ()


lOMoARcPSD|10804335

vào các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn... thì sản xuất thép, xi
măng... sẽ rơi vào tình trạng chi phí cao, chất lượng thấp, thiếu thị trường... Một
nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chỉ được khuyến khích đầu tư vào sản xuất
vật chất khi họ bí, cần tư vấn khơng có, cần vay vốn lại khó khăn, cần bảo hiểm
lại quá phức tạp, cần liên lạc viễn thông lại quá đắt... Do vậy đã có nhà đầu tư
nước ngồi nhận xét rằng phải có lịng dũng cảm mới dám đầu tư vào Việt Nam.
Mơi trường dịch vụ hoạt động kém là một cản trở lớn đối với các nhà đầu tư từ
các nước phát triển, vì họ đã quen với mơi trường đầu tư có hoạt động dịch vụ
rất tốt. Điều đó giải thích tại sao các nhà đầu tư Âu, Mỹ, Nhật lại do dự khi đầu
tư vào Việt Nam.
Thứ tư, cơ cấu nhập khẩu phải phù hợp với định hướng xuất khẩu và sự phát
triển có hiệu quả của nền kinh tế đất nước. Cơ cấu nhập khẩu của mỗi nước khác
nhau có thể khác nhau tùy theo trình độ phát triển và các điều kiện lịch sử kinh
tế, văn hóa, tự nhiên khác nhau. Trong điều kiện hiện nay, cơ cấu này phải phù
hợp với cơ cấu xuất khẩu, phù hợp với nhu cầu của thị trường thế giới và trong

nước. Nghĩa là nó phải nhập những thứ để có thể sản xuất, gia cơng và xuất khẩu
có hiệu quả và do vậy đương nhiên là có thể đáp ứng nhu cầu thay thế nhập
khẩu.
Thứ năm, tập trung đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho kinh tế đối ngoại.
Thứ sáu, sửa đổi và ban hành các luật pháp cần cho kinh tế đối ngoại và phù
hợp với các thông lệ quốc tế mà ta sẽ cam kết.
Đây là một số giải pháp mà qua quá trình tìm hiểu, em nghĩ sẽ phù hợp với
nền kinh tế Việt Nam ở thời điểm hiện tại.

Downloaded by Con Ca ()


lOMoARcPSD|10804335

LỜI KẾT
Kinh tế đối ngoại nước ta hiện đã bước sang một giai đoạn mới - chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế. Nước ta đã học hỏi và tích luỹ được nhiều kinh nghiệm
của các quốc gia đi trước, đã đạt được những thành tựu rất đáng kể trên lĩnh vực
kinh tế đối ngoại, đã có được những nền tảng bước đầu để có thể gia tăng hội
nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn mới.
Đồng thời, những điều kiện quốc tế đã thay đổi, các quốc gia trong khu vực
đã tiến xa so với chúng ta trên con đường hội nhập quốc tế và đang đặt ra những
thách thức lớn. Trong bối cảnh đó, việc vận dụng đúng nguyên tắc toàn diện của
phép biện chứng duy vật sẽ giúp cho hoạt động kinh tế đối ngoại sẽ ngày càng
được mở rộng và nâng cao, góp phần xây dựng và phát triển đất nước đi lên theo
con đường chủ nghĩa xã hội.

Downloaded by Con Ca ()



lOMoARcPSD|10804335

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Bộ Giáo dục và Đào tạo(2011), giáo trình “Những nguyên lý cơ bản của

chủ nghĩa Mác – Lê-nin”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. PGS-TSKH Võ Đại Lược, “Kinh tế đối ngoại nước ta hiện nay: tình hình
và giải pháp”,

3. />
4. />
5. />
6. />
Downloaded by Con Ca ()


lOMoARcPSD|10804335

Downloaded by Con Ca ()



×