Bài ca ngắn đi trên bãi cát
(Sa hành đoản ca)
Cao Bá Quát
Tổ 4
Sự bế tắc của người đi đường
Phiên âm
Dịch thơ
Thính ngã nhất xướng cùng đồ ca,
Hãy nghe ta hát khúc ‘đường cùng’
Bắc sơn chi bắc sơn vạn điệp,
Phía bắc núi Bắc, núi mn trùng,
Nam sơn chi nam ba vạn cấp.
Phía nam núi Nam, sông dào dạt
Quân hồ vi hồ sa thượng lập?
Anh đứng đây làm chi trên bãi cát?
Những câu thơ trên bộc lộ tâm trạng gì?
Sự bế tắc của người đi đường
• Nhìn về phía bắc núi non trùng điệp. Quay về
phía Nam, núi ở sau lưng, sông chắn trước
⇨ Người đi đường không chỉ nhận ra mình
mặt. Đường cùng mất rồi. Tiếp tục đi hay
cô độc trên đường đời mà là đi trên con
dừng lại đều khó khăn. Người đi đưịng đành
đường cùng -> Sự bế tắc khơng tìm thấy
đứng chơn chân trên bãi cát.
lối thoát trên đường đời của kẻ sĩ
Sự bế tắc của người đi đường
• Tâm trạng: chán nản trước sự suy sụp của học thuật, khoa cử thời
Nguyễn.
• Thái độ :
- Chán ghét đối với con đường mưu cầu danh lợi tầm thường.
- Phê phán học thuật khoa cử và chính sự nhà Nguyễn.
Sự bế tắc của người đi đường
‘‘Anh đứng làm chi trên bãi cát?’’
- Câu nghi vấn khép lại bài thơ
→ Nhận thấy rõ bản chất vô nghĩa của lối học
khoa cử, con đường công danh theo lối cũ, sự bảo thủ, trì trệ của xã hội đương
thời.
⇨ Khát khao một sự đổi mới tích cực hơn.
III- Tổng kết
•
Nội dung:
- Biểu lộ sự chán ghét của người tri thức đối với con đường mưu cầu danh lợi tầm
thường.
- Phê phán chế độ khoa cử và chế độ phong kiến triều Nguyễn.
- Niềm khát khao đổi mới cuộc sống của tác giả trong xã hội ngột ngạt, bế tắc.
III- Tổng kết
•
Nghệ thuật:
- Thay đổi cách xưng hơ.(Khi thì ‘‘khách’’, khi thì ‘‘ta’’, khi thì ‘‘anh’’)
→ nhiều trạng thái tâm trạng, giúp tác giả nói một cách thuyết phục hơn về vấn đề danh
lợi trong đời.
- Bài thơ sáng tác theo phong cách cổ, câu dài, ngắn đan xen nhau, vần thơ bằng trắc
phối nhịp nhàng, tiết tấu phong phú, giọng điệu khi thì bi tráng, khi thì u buồn.
- Nhiều câu hỏi câu cảm thán → thể hiện nhiều trạng thái tâm trạng.
Cảm ơn cô và các bạn đã lắm nghe!