Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Hiến pháp đạo luật bảo vệ các quyền con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.72 KB, 16 trang )

BỘ MƠN LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HIẾN PHÁP – ĐẠO LUẬT BẢO VỆ CÁC QUYỀN CƠ BẢN CỦA
CON NGƯỜI
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN HIẾN PHÁP

Nam Định, ngày 26, tháng 2, năm 2021

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

3

NỘI DUNG

3

1.
2.
3.
4.
5.

Khái niệm quyền con người.
3
Quan hệ giữa Hiến pháp và quyền con người.
4
Vai trò của Hiến pháp đối với việc bảo vệ quyền cơ bản con người.
6
Quyền con người được quy định trong Hiến pháp.
7


Bảo đảm các quyền cơ bản của con người qua Hiến pháp Việt Nam.
8
5.1. Các quyền cơ bản của con người qua các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980,
1992.
8
5.2. Quyền con người được bảo đảm trong Hiến pháp 2013.
11
6. Nghĩa vụ của Nhà nước trong việc bảo đảm các quyền cơ bản của con người. 13
7. Giải pháp để bảo đảm quyền con người.
14
KẾT LUẬN

14
1


Tài liệu tham khảo

15

MỞ ĐẦU
Sâu thẳm trong tư duy và tâm hồn của nhân loại là niềm tin chắc chắn rằng mỗi
người và tất cả mọi người đều có các quyền, trong đó có quyền tự do khơng bị áp bức,
quyền tự do lựa chọn và không phải chịu những hành vi tàn bạo. Tất cả các quốc gia văn
minh đều nỗ lực xác định và ủng hộ nhân quyền. Tư tưởng về quyền con người có mối liên
hệ chặt chẽ đến quá trình hình thành và phát triển của Hiến pháp của mọi quốc gia trên thế
giới. Việc đảm bảo quyền con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu trong Hiến pháp của
các quốc gia, bất kể theo thể chế chính trị nào. Có thể nhận thấy rằng, Hiến pháp ghi nhận
và đảm bảo các quyền cơ bản của con người ngày càng rộng rãi, cụ thể hơn. Ngay từ bản
Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam năm 1946, các quyền con người đã được ghi nhận trong

Chương 2 về “ Nghĩa vụ và quyền lợi của cơng dân”. Vì vậy, vấn đề về quyền con người
được bảo đảm trong Hiến pháp đang trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều cơng trình.
Tuy vấn đề này khơng phải là mới nhưng đến nay pháp luật và thực tiễn về bảo đảm quyền
con người trong Hiến pháp đã có nhiều thay đổi. Chính điều đó đã thơi thúc người viết chọn
2


đề tài “ Hiến pháp – đạo luật bảo vệ các quyền cơ bản của con người” làm đối tượng nghiên
cứu.
Mục tiêu của tiểu luận này là phân tích, làm rõ những cơ sở lý luận, thực tiễn và nội
dung về quyền cơ bản của con người được thể hiện trong Hiến pháp kể cả Hiến pháp Việt
Nam, chỉ ra mối quan hệ giữa quyền con người và Hiến pháp, trên cơ sở đó đưa ra những
khuyến nghị và tiếp tục hoàn thiện vấn đề này trong tương lai.
Phương pháp nghiên cứu trong tiểu luận này trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phương pháp phân tích, tổng
hợp, nêu ví dụ, so sánh.

NỘI DUNG
1.Khái niệm quyền con người
Tư tưởng về quyền con người (human rights, droits de l'homme), cũng có thể gọi là
“quyền của con người” – “rights of human person” hình thành cùng với sự xuất hiện của
những nền văn minh cổ đại, quyền con người xuất phát từ các quyền thiêng liêng, tự nhiên,
vốn có của con người, không do chủ thể nào ban phát. Có nhiều cách tiếp cận và định nghĩa
về “quyền con người” hay “nhân quyền” (từ Hán Việt). Tuy nhiên, theo Văn phịng Cao ủy
nhân quyền Liên hợp quốc (OHCHR) thì: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý phổ
quát có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ
mặc làm tổn hại đến nhân phẩm và tự do cơ bản của con người”[1].
Các đặc tính của quyền con người là: tính phổ qt ( universal), tính khơng thể
chuyển nhượng (inalienable), tính khơng thể phân chia (indivisible) và tính liên hệ, phụ
thuộc lẫn nhau (interrelated, interdependent). Tính phổ quát thể hiện ở chỗ quyền con người

bao hàm những nguyên tắc, những quyền được thừa nhận và áp dụng ở mọi nơi. Tính đặc
thù thể hiện ở chỗ, tùy theo điều kiện kinh tế - chính trị, xã hội mà sẽ có những mức độ
riêng để quy định đảm bảo thực hiện phù hợp với những đặc điểm riêng của mỗi quốc gia.
TS. Trần Quang Tiệp đưa ra định nghĩa về quyền con người như sau: “Quyền con người là
những đặc lợi vốn có tự nhiên mà chỉ có con người mới được hưởng trong những điều kiện
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định”[2].
Quyền con người là khái niệm rộng hơn quyền công dân nhưng về bản chất quyền
công dân cũng là quyền con người. Theo từ điển tiếng Việt thì “quyền cơng dân” được hiểu
là “quyền của người công dân được thừa nhận, bao gồm quyền tự do dân chủ và các quyền
kinh tế văn hóa – xã hội”[3]. Khái niệm cơng dân trước hết biểu hiện tính chất đặc biệt của
mối quan hệ pháp luật giữa nhà nước với một số cá nhân con người nhất định. Như vậy,
công dân xét về mặt pháp luật thuộc về một nhà nước nhất định, nhờ đó mà con người được
hưởng những quyền của nhà nước đó quy định và đồng thời phải hiện một số nghĩa vụ nhất
định đối với nhà nước đó. Ví dụ trong Hiến pháp 2013, tại Điều 17 của nước Cộng hòa xã
3


hội Chủ nghĩa Việt Nam cũng ghi nhận: “Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là người có quốc tịch Việt Nam”.
Quyền con người khơng bị bó hẹp trong mối quan hệ giữa cá nhân với nhà nước như
quyền công dân, mà thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với toàn thể cộng đồng nhân loại, về
phạm vi áp dụng, do không bị giới hạn bởi chế định quốc tịch, nên chủ thể quyền con người
là tất cả các thành viên của “gia đình nhân loại”. Nói cách khác, quyền con người được áp
dụng một cách bình đẳng với tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc đang sinh sống trên phạm
vi tồn cầu, khơng phụ thuộc vào biên giới quốc gia, tư cách cá nhân hay mơi trường sống
của chủ thể quyền.
Cùng với việc có các quyền, cá nhân cịn có các nghĩa vụ đối với cộng đồng. Các
quyền con người trong Hiến pháp của các quốc gia trên thế giới cũng thường quy định một
số nghĩa vụ của cơng dân cụ thể (ví dụ như nghĩa vụ đóng thuế, nghĩa vụ tham gia quân
đội,...) nhưng nhìn chung số quy định về nghĩa vụ ít hơn nhiều so với quy định về quyền. Vì

vậy, Hiến pháp ra đời cũng nhằm bảo vệ các quyền cơ bản của con người.
2. Quan hệ giữa Hiến pháp và quyền con người
Quyền con người và Hiến pháp có mối quan hệ gắn kết chặt chẽ. Trước hết, lịch sử
cho thấy mục tiêu bảo vệ con người và quyền con người chính là động lực cho sự phát triển
của Hiến pháp. Theo quan điểm của các nhà triết học, chính trị học thời kỳ Khai sáng (thế kỉ
XVII) thì quyền con người là các quyền không thể tước bỏ được; đây là các quyền tự nhiên
(natural right) do tạo hóa ban cho học. Tiêu biểu cho quan điểm này là Thomas Hobbes
(1588-1679), John Locke (1632-1704)....Đây là những quyền mang tính bẩm sinh, vốn có
của con người, khi sinh ra đã được thừa hưởng. Các quyền này không một xã hội hay một
chính phủ nào có thể ban phát, xóa bỏ hoặc “chuyển nhượng”. Các quyền cơ bản của con
người bao gồm: quyền tự do ngơn luận, quyền tự do tín ngưỡng, quyền tự do lập hội, quyền
sở hữu tài sản...
Hiện nay trụ Cyrus (hay Cyrus Cylinder) được cho là Hiến chương đầu tiên của nhân
quyền thế giới, “ra đời trước Hiến chương Magna Carta hơn một ngàn năm”, đã có bản mẫu
của trụ được Iran tặng cho Liên hợp Quốc vào năm 1971. Hiến chương Magna Carta của
người Anh lần đầu tiên được công bố năm 1215, Hiến chương này có ảnh hưởng đến sự
phát triển của thơng luật (common law) và nhiều văn kiện liên quan đến quyền con người
như Hiến pháp Hoa Kỳ... Sự ra đời các bản Hiến pháp đầu tiên trên thế giới chính là nhằm
mục tiêu bảo vệ các quyền tự nhiên của cá nhân và chống lại sự tùy tiện của nhà cầm quyền.
Chẳng hạn như, bản Đại Hiến chương Magna Carta đã quy định việc kết tội một cá nhân
phải được thực hiện bởi những người dân thường “cùng đẳng cấp” căn cứ vào pháp luật
nhằm bảo vệ các quyền tự nhiên, bất khả xâm phạm về sinh mệnh, tự do và tài sản. Còn
Hiến pháp Hoa Kỳ (1789), với 10 điều sửa đổi đầu tiên (được gọi là Bộ luật về các quyền,
1791) đã quy định cụ thể những quyền tự nhiên cơ bản nhất của con người về dân sự, chính
4


trị như quyền về an ninh cá nhân; quyền được xét xử cơng bằng, quyền tự do tín ngưỡng,
tơn giáo, tự do ngôn luận....
Về mối quan hệ giữa quyền con người và Hiến pháp, chúng ta có thể nhận định:

Chính vai trị giá trị của quyền con người, quyền cơng dân mà trong tư duy chính trị của
nhân loại, vấn đề quyền con người, quyền công dân trở thành một nội dung chính của lịch
sử lập hiến. Hiến pháp của tất cả các nước, dù ở chế độ xã hội nào (tư bản, xã hội chủ nghĩa,
các nước đang phát triển) đều có chế định quyền con người, quyền cơng dân. Đó là nội
dung cơ bản nhất của mỗi hiến pháp, nội dung quan trọng đến mức nếu khơng có chế định
quyền con người, quyền cơng dân, thì cũng khơng thể có bản thân Hiến pháp, nội dung đó
chi phối kết cấu của bản Hiến pháp, chế định quyền công dân thường được đặt lên hàng đầu
trong hiến pháp nhiều nước [4]. Vị trí quyền con người trong Hiến pháp ngày càng được
củng cố, thể hiện ở chỗ các bản hiến pháp được xây dựng hoặc sửa đổi càng về sau, càng có
xu hướng quan tâm hơn đến việc ghi nhận và bảo vệ các quyền con người. Một nghiên cứu
phân tích 420 bản hiến pháp đã được các quốc gia trên thế giới thông qua từ đầu thế kỷ XIX
đến nay cho thấy, các quyền con người, quyền công dân được hiến định ngày càng nhiều
hơn, tăng liên tục trong giai đoạn 1800 đến năm 2000 [14].
Hiến pháp tiến bộ của một số quốc gia là chất xúc tác, góp phần thúc đẩy sự phát
triển của Luật Nhân quyền quốc tế. Đến gần đây, có sự tác động ngược trở lại của Luật
Nhân quyền quốc tế với Hiến pháp và pháp luật quốc gia, thể hiện ở việc khi các quốc gia
soạn thảo hay sửa đổi Hiến pháp, pháp luật đều tham khảo, so sánh với các quy định có liên
quan của Luật Nhân quyền quốc tế.
Với tính chất là đạo luật cơ bản, văn bản pháp lý có hiệu lực tối cao, Hiến pháp là
bức tường chắn quan trọng nhất để ngăn ngừa những hành vi lạm dụng, xâm phạm quyền
con người, cũng là nguồn tham chiếu đầu tiên mà người dân thường nghĩ đến khi các quyền
của mình bị vi phạm. Hiệu lực bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân của Hiến pháp cịn
được phát huy qua việc hiến định các cơ chế, thiết chế bảo vệ quyền, cụ thể như thơng qua
hệ thống tịa án tư pháp, các cơ quan nhân quyền quốc gia, cơ quan thanh tra Quốc hội
(Ombudsman) hay tòa án hiến pháp...
3. Vai trò của Hiến pháp đối với việc bảo vệ quyền cơ bản của con người
Thứ nhất, Hiến pháp quy định về tổ chức, giới hạn và kiểm soát quyền lực nhà nước, hạn
chế sự tùy tiện của công quyền. Điều này phần nào phản ánh triết lý “cá nhân sẽ có tự do
khi Nhà nước khơng được tự do”.
Thứ hai, Hiến pháp ghi nhận các quyền và tự do của các cá nhân, làm cơ sở buộc Nhà nước

phải tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm. Hiến pháp trên thế giới có một số cách khác nhau hiến định
các quyền con người, quyền công dân. Cách phổ biến nhất là quyền con người được đề cập
trực tiếp trong một chương hoặc phần riêng của Hiến pháp (ví dụ như Chương 2 về quyền
con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp 2013 của Việt Nam).
5


Cách thứ hai là nó được quy định như là những điều bổ sung của Hiến pháp (như trường
hợp 10 điều tu chỉnh đầu tiên của Hiến pháp Mỹ được gọi là Bộ luật về các quyền). Cách
thứ ba là quyền con người, quyền công dân được quy định trong một văn bản riêng và được
thừa nhận như là một cấu phần của Hiến pháp (ví dụ như Tun ngơn Nhân quyền năm
1689 và Bộ luật về quyền năm 1998 được coi là nguồn của Hiến pháp Anh). Việc hiến định
quyền con người, quyền cơng dân có ý nghĩa quan trọng đến mức, theo một nhà nghiên cứu,
nếu khơng có chế định quyền con người, quyền cơng dân, thì cũng khơng thể có Hiến pháp
[5].
Thứ ba, Hiến pháp thiết lập cơ chế bảo hiến nhằm chống lại các hành vi vi hiến, bao gồm
các vi phạm đối với những quyền mà hiến pháp ghi nhận. Thực tiễn cho thấy có hai loại
hành vi vi phạm Hiến pháp: Hành vi hành động vi hiến và hành vi không hành động vi hiến.
Hành vi hành động vi hiến là hành vi của chủ thể thực hiện hành động trái với các quy định
Hiến pháp. Hành vi không hành động vi hiến là hành vi không thực hiện thẩm quyền và
nghĩa vụ đã được Hiến pháp quy định. Cơ quan, tổ chức, cá nhân được Hiến pháp giao thẩm
quyền, nếu không thực hiện hoặc thực hiện không kịp thời những thẩm quyền và nghĩa vụ
đó sẽ bị coi là vi phạm Hiến pháp không hành động. Trong các trường hợp mà cơ quan, cá
nhân có thẩm quyền chậm trễ hoặc khơng thực hiện thẩm quyền ban hành văn bản quy định
cụ thể về các quyền và tự do hiến định của người dân thì một số nước khơng bị coi là vi
phạm Hiến pháp [6]. Cơ chế bảo hiến bảo đảm cho tính tối cao của Hiến pháp, cũng như
tính tối cao của các quyền mà Hiến pháp ghi nhận, thông qua việc xem xét, hủy bỏ các hành
vi, văn bản của các cơ quan công quyền (cơ quan lập pháp và hành pháp), công chức nhà
nước ở trung ương và địa phương vi phạm đến các quyền đó. Dù theo mơ hình nào, cơ chế
bảo hiến là thiết yếu để bảo vệ các quyền hiến định. Nếu khơng có cơ chế này, khả năng các

quyền cơ bản của con người bị chính các cơ quan công quyền lạm dụng, xâm phạm.
Thứ tư, Hiến pháp lập ra các cơ chế, thiết chế chuyên trách bảo vệ quyền, cơ quan nhân
quyền quốc gia. Bên cạnh việc thiết lập hệ thống tòa án tư pháp, nhiều hiến pháp lập ra các
cơ quan nhân quyền quốc gia, cơ quan thanh tra Quốc hội (Ombudsman).. có vai trò bảo vệ
quyền. Việc hiến định sẽ làm gia tăng tính ổn định và vị thế của cơ quan nhân quyền quốc
gia.
Tóm lại: Quyền con người ln gắn liền với Hiến pháp. Hiến pháp không chỉ là văn bản
quy định việc tổ chức nhà nước, mà còn đảm bảo việc thực hiện quyền con người, quyền
cơng dân. Vì lẽ đó, việc thực thi Hiến pháp cũng chính là bảo đảm thực thi quyền con
người.
4. Quyền con người được quy định trong Hiến pháp
Sự đấu tranh bảo vệ, giải phóng lồi người thốt khỏi ách áp bức, bóc lột, đi đến xây
dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh là mục tiêu hàng đầu hầu hết các dân tộc. Chính
vì điều đó, quyền con người, quyền cơng dân là yếu tố quan trọng trong mục tiêu và động
6


lực của sự phát triển kinh tế - xã hội và quyền con người là một trong những nội dung cơ
bản nhất trong mọi Hiến pháp.
Các quốc gia trên thế giới hiện nay đang theo đuổi con đường xây dựng nhà nước
dân chủ, lấy nhân dân làm gốc, coi con người là động lực phát triển của nhà nước nên hầu
hết các quốc gia đều thừa nhận bảo vệ quyền con người trong Hiến pháp – đạo luật cơ bản
của nhà nước. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, các văn bản luật và văn bản dưới luật
trong hệ thống pháp luật của nhà nước sẽ quy định chi tiết, cụ thể về vấn đề quyền con
người trong phạm vi quốc gia thừa nhận. Theo đó quyền con người thường được ghi nhận
trong Hiến pháp của các quốc gia chia thành các nhóm quyền sau:
Các quyền dân sự, chính trị
- Quyền sống, tự do và an toàn cá nhân (Điều 3 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền –
UDHR); Điều 6 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) đã cụ thể hóa
quyền này trong Tuyên ngôn thế giới về Nhân quyền: Mọi người có quyền sống. Quyền này

phải được pháp luật bảo vệ. Khơng ai có thể bị tước mạng sống một cách tùy tiện,....
- Quyền tự do đi lại, tự do cư trú trong phạm vi lãnh thổ quốc gia; mọi người có
quyền rời khỏi bất kì nước nào, kể cả đất nước mình, cũng như có quyền trở về nước mình
(Điều 13 UDHR; Điều 12 ICCPR).
- Quyền kết hôn, lập gia đình và bình đẳng trong hơn nhân ( Điều 16 UDHR; Điều
23 ICCPR).
- Quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng, tơn giáo (Điều 18 UDHR; Điều 18 ICCPR).
- Quyền bình đẳng trước pháp luật (Điều 7 UDHR; Điều 26 ICCPR).
- Quyền không bị bắt và bị giam giữ hay bị lưu đày một cách tùy tiện (Điều 9
UDHR; Điều 9 ICCPR).
- Quyền tự do ngôn luận (Điều 19 UDHR; Điều 19 ICCPR).
- Quyền tự do hội họp và lập hội một cách hịa bình (Điều 20 UDHR; Điều 21, Điều
22 ICCPR).
- Quyền tham gia quản lý đất nước mình một cách trực tiếp hoặc thông qua các đại
diện mà họ được tự do lựa chọn (Khoản 1 Điều 21 UDHR, Điều 25 ICCPR)....
Các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội
- Quyền làm việc và quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, được hưởng những điều kiện
làm việc công bằng, thuận lợi và được bảo vệ chống lại nạn thất nghiệp. Mọi người đều có
quyền được trả cơng ngang nhau cho những cơng việc như nhau mà khơng có sự phân biệt
đối xử nào. Mọi người lao động đều có quyền được hưởng chế độ thù lao công bằng, hợp lý
7


nhằm bảo đảm sự tồn tại của bản thân và gia đình xứng đáng với nhân phẩm và được trợ
cấp khi cần thiết bằng các biện pháp bảo trợ xã hội. Mọi người đều có quyền thành lập hoặc
gia nhập cơng đồn để bảo vệ quyền lợi của mình (Điều 23 UDHR; Điều 6, Điều 7 ICESCR
– Công ước QuốC tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa) [7]
- Quyền được hưởng một mức sống thích đáng để đảm bảo sức khỏe và phúc lợi của
bản thân và gia đình. Các bà mẹ, trẻ em có quyền được hưởng sự chăm sóc và giúp đỡ đặc
biệt. (Điều 25 UDHR).

- Mọi người có quyền được học tập. Giáo dục phải miễn phí, ít nhất ở các bậc tiểu
học và trung học cơ sở.... Cha mẹ có quyền ưu tiên lựa chọn các hình thức giáo dục cho con
cái họ ( Điều 26 UDHR).
- Mọi người có quyền tự do tham gia vào đời sống văn hóa của cộng đồng, được
thưởng thức nghệ thuật và chia sẻ những tiến bộ khoa học. Mọi người có quyền được bảo vệ
quyền lợi vật chất và tinh thần phát sinh từ bất kì sáng tạo khoa học, văn học hay nghệ thuật
nào mà người đó là tác giả (Điều 27 UDHR, Điều 15 ICESCR).
5. Bảo đảm các quyền cơ bản của con người qua Hiến pháp Việt Nam
5.1. Các quyền cơ bản của con người qua các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992.
* Hiến pháp 1946
Mặc dù có nội dung ngắn gọn với 70 điều, Hiến pháp 1946 thể hiện rất rõ tinh thần
tôn trọng, bảo vệ các quyền tự do cá nhân thông qua việc xác định các nguyên tắc và nhiều
quy định cụ thể. Ngay trong Lời nói đầu, Hiến pháp 1946 đã xác định một trong ba nguyên
tắc xây dựng Hiến pháp là “đảm bảo các quyền tự do dân chủ”.
Quy định về quyền và nghĩa vụ của con người trong Hiến pháp 1946 thể hiện tập
trung ở Chương II (Điều 4 đến Điều 21). Một số nội dung và đặc điểm cơ bản của các quy
định về quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp 1946:
Thứ nhất, có nhiều quy định mang tính ngun tắc: bình đẳng về vị thế và quyền
(Điều 6, Điều 7), bình đẳng về quyền giữa nam và nữ (Điều 8)...
Thứ hai, ghi nhận tồn diện các quyền dân sự, chính trị : quyền bầu cử, ứng cử (Điều
18), quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia (Điều
21); quyền tự do ngôn luận, hội họp, lập hội, tín ngưỡng, đi lại, cư trú (Điều 10); quyền bất
khả xâm phạm về thân thể, nhà ở, thư tín (Điều 11).... Các quyền về kinh tế, xã hội, văn hóa
bao gồm quyền tư hữu tài sản (Điều 12); quyền học tập (Điều 15).
Thứ ba, Hiến pháp 1946 đã đề cập đến việc bảo vệ quyền của trí thức, quyền của
người lao động chân tay ( Điều 13); quyền của người già, trẻ em, dân tộc thiểu số (Điều
14)...
8



Thứ tư, Hiến pháp cũng quy định các nghĩa vụ công dân: bảo vệ Tổ quốc (Điều 4),
tôn trọng Hiến pháp và tuân theo pháp luật (Điều 4), nghĩa vụ quân sự (Điều 5).
* Hiến pháp 1959
Hiến pháp 1959 dành chương III ( Điều 22 – 42) và một số điều ở một số chương
khác quy định về các quyền và nghĩa vụ của công dân. Đặc điểm cơ bản của Hiến pháp
1959 được quy định như sau:
Thứ nhất, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định ở nhiều
chương, chế định về quyền và nghĩa vụ được chuyển xuống ở vị trí thứ ba, sau các chương
về chính thể và về chế độ kinh tế.
Thứ hai, Hiến pháp tiếp tục quy định một số nguyên tắc bao trùm: bình đẳng về
quyền và nghĩa vụ giữa các dân tộc (Điều 3); bình đẳng trước pháp luật (Điều 22); cấm lợi
dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước và của Nhân dân
(Điều 38) – Nguyên tắc này là mới so với Hiến pháp 1946.
Thứ ba, số lượng các quyền và nghĩa vụ trong Hiến pháp 1959 tăng mạnh so với
1946. Nhiều quyền mới được quy định như: quyền khiếu nại, tố cáo, được bồi thường thiệt
hại do hành vi phạm pháp của nhân viên nhà nước (Điều 29); quyền làm việc (Điều 30);
quyền nghỉ ngơi (Điều 31); quyền nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học, nghệ thuật và
tham gia các hoạt động văn hóa khác (Điều 34).....
Thứ tư, Hiến pháp 1959 quy định thêm nhiều nghĩa vụ: lao động (Điều 21); tuân theo
trật tự công cộng (Điều 39); tôn trọng và bảo vệ tài sản công cộng (Điều 40); đóng thuế
(Điều 41)....
Thứ năm, xét về phương diện lập hiến, Hiến pháp 1959 bắt đầu theo mơ típ của hiến
pháp các nước xã hội chủ nghĩa, đó là ghi nhận các quyền và nghĩa vụ có nội hàm trừu
tượng, mang tính cương lĩnh: quyền của thanh niên được Nhà nước chăm sóc, giáo dục
(Điều 35); quyền của Việt kiều được Nhà nước bảo hộ các quyền lợi chính đáng (Điều 39),
nghĩa vụ của nhân viên nhà nước trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, hết lòng hết sức
phục vụ (Điều 6)....
* Hiến pháp 1980
Hiến pháp 1980 được xây dựng trong bối cảnh đất nước đã thống nhất, Đảng Cộng
sản xác định mục tiêu “Đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội”.

Hiến pháp 1980 dành chương V và một số điều ở những chương khác quy định về
quyền và nghĩa vụ của công dân. Các quyền và nghĩa vụ của công dân được thể hiện trong
Hiến pháp có các đặc điểm như sau:

9


Thứ nhất, giống như Hiến pháp 1959, trong Hiến pháp 1980 các quyền và nghĩa vụ
của công dân được quy định ở nhiều chương. Các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội,
văn hóa được nhìn nhận khá tồn diện. Tuy nhiên chế định về quyền trong Hiến pháp 1980
được đặt ở vị trí thứ năm. Điều này cho thấy trong Hiến pháp 1980, vị trí, vai trị của quyền
con người tiếp tục bị coi nhẹ hơn so với các vấn đề khác.
Thứ hai, Hiến pháp 1980 bổ sung nhiều quy định mới: bình đẳng về quyền và nghĩa
vụ giữa các dân tộc (Điều 5); quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ công dân với
Nhà nước và xã hội (Điều 54); bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa nam và nữ (Điều 63);
Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp
(Điều 6)....
Thứ ba, Hiến pháp 1980 tiếp tục quy định thêm các quyền và nghĩa vụ, đặc biệt là
các quyền về văn hóa, xã hội, song vẫn theo xu hướng đưa ra các quyền có nội hàm trừu
tượng, thiếu cụ thể, khó thực thi và khó đánh giá mức độ bảo đảm trên thực tế, ví dụ như:
nguyên tắc làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội (Điều
3,11,17,23); quyền của thanh niên được Nhà nước và xã hội quan tâm giúp đỡ, giáo dục
(Điều 66)....
Thứ tư, Hiến pháp 1980 tiếp tục mở rộng các quyền và nghĩa vụ cả về số lượng và
phạm vi.
Thứ năm, Hiến pháp 1980 không ghi nhận chế độ sở hữu cá nhân, cũng như sở hữu
tập thể đối với đất đai, Điều 19 khẳng định đất đai thuộc “sở hữu toàn dân”.
Thứ sáu, Hiến pháp tiếp tục quy định các chính sách bảo vệ nhiều nhóm yếu thế,
nhóm đặc thù: trẻ em (Điều 65); thanh niên (Điều 66); thương binh, người có công với cách
mạng, người già, người tàn tật, trẻ mồ cơi, gia đình liệt sĩ (Điều 74); Việt kiều (Điều 75).

Thứ bảy, bên cạnh các quyền, Hiến pháp 1980 quy định nhiều nghĩa vụ công dân:
nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp, pháp luật, đấu tranh phòng, chống tội phạm và các vi phạm
pháp luật khác (Điều 12); bảo vệ, cải tạo và tái sinh các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo
vệ và cải thiện môi trường sống (Điều 36); thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và an ninh (Điều
52).....
* Hiến pháp 1992
Quy định về quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp 1992 thể hiện tập
trung ở chương V và một số điều trong một vài chương khác. Các chế định đó có một số đặc
điểm sau:
Thứ nhất, lần đầu tiên Hiến pháp 1992 ghi nhận khái niệm “quyền con người” (Điều
50). Điều này quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền
10


công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật”. Với điều này, Hiến pháp đã chứng tỏ
rằng nó là công cụ để ghi nhận và bảo vệ cả các quyền tự nhiên lẫn quyền pháp lý, không
chỉ của cơng dân và của cả những người nước ngồi đang sinh sống trên lãnh thổ của một
quốc gia.
Thứ hai, Hiến pháp 1992 tiếp tục có nhiều quy định mang tính nguyên tắc như: Nhà
nước tôn trọng các quyền con người, quyền cơng dân về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội,
văn hóa (Điều 50) – nguyên tắc này lần đầu tiên được ghi nhận một cách cụ thể; quyền và
nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định (Điều 51).
Thứ ba, Hiến pháp 1992 đã thể hiện một bước tiến mới trong việc phát triển và hoàn
thiện chế định quyền con người theo hướng khả thi, phù hợp với hồn cảnh thực tế của Việt
Nam, ví dụ như: quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn, tài sản và các quyền lợi khác của các
tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam (Điều 25); quyền được bồi thường thiệt
hại về vật chất và phục hồi danh dự khi bị bắt, bị giam giữ và xét xử trái pháp luật (Điều
72); quyền được thông tin (Điều 73); quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất (Điều 58)...
Thứ tư, quyền của nhiều nhóm yếu thế, nhóm đặc thù được Hiến pháp 1992 quan

tâm bảo vệ: lao động nữ (Điều 63); thương binh (Điều 67); người tàn tật, trẻ mồ côi không
nơi nương tựa (Điều 67); người Việt Nam định cư ở nước ngoài (Điều 75)....
Thứ năm, bên cạnh các quyền, Hiến pháp 1992 quy định thêm nhiều nghĩa vụ như:
bảo vệ của công, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, giữ gìn an ninh quốc gia
và trật tự, an toàn xã hội, tổ chức đời sống cộng đồng (Điều 11); giữ bí mật quốc gia, bảo vệ
an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội (Điều 79); học tập (Điều 59); đóng thuế (Điều 80);
lao động cơng ích (Điều 80)...
5.2. Quyền con người được bảo đảm trong Hiến pháp 2013
So với các Hiến pháp trước đây, nhất là với Hiến pháp 1992, bản Hiến pháp 2013 cô
đọng hơn, chỉ gồm 120 điều, 11 chương. Mặc dù ngắn gọn như vậy, nhưng Hiến pháp 2013
có nhiều điểm mới căn bản, nhất là những quy định về quyền con người và quyền cơng dân.
Vị trí chương “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” từ chương V trong Hiến
pháp 1992 được chuyển lên Chương II trong Hiến pháp 2013, thể hiện sự quan tâm vượt
bậc, cũng như nhận thức của các nhà lập hiến Việt Nam về quyền con người.
Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, quá trình soạn thảo Chương về Quyền
con người đã được tham khảo, đối chiếu một cách tương đối toàn diện với tiêu chuẩn của
quy định nhân quyền của các Công ước quốc tế, mà Việt Nam đã tham gia kí kết.
Có thể thấy Hiến pháp 2013 có một số thay đổi cụ thể sau:
- Khơng cịn đồng nhất “quyền con người” với “quyền công dân” như ở Điều 50
Hiến pháp 1992, mà sử dụng khá hợp lý hai thuật ngữ này cho từng lĩnh vực cụ thể. Hiến
11


pháp 2013 đã phân biệt hai quyền này bằng cách sử dụng từ “mọi người” khi thể hiện
“quyền con người” và dùng từ “công dân” khi quy định về quyền công dân.
- Đã thay đổi, tuy chưa triệt để về cách thức hiến định về các quyền con người, từ
công thức Nhà nước “quyết định”, “trao” quyền cho người dân sang công thức các quyền
con người là tự nhiên, vốn có, Nhà nước phải ghi nhận, phải có nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ
và bảo đảm thực hiện cho tất cả mọi người, mọi công dân, không phân biệt màu da, giới
tính..

- Hiến pháp 2013 đã ghi nhận cả ba nghĩa vụ của Nhà nước: tôn trọng, bảo vệ và bảo
đảm quyền con người.
- Hiến pháp 2013 bổ sung một số quyền mới như: quyền sống (Điều 19); quyền hiến
mô, bộ phận cơ thể người, hiến xác (Điều 20), quyền được bảo đảm an sinh xã hội (Điều
34); quyền xác định dân tộc (Điều 42)....
- Đã củng cố hầu hết các quyền hiện có (quy định rõ hơn hoặc tách thành điều riêng),
bao gồm: Bình đẳng trước pháp luật; cấm tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo và hạ nhục;
bảo vệ đời tư; bỏ phiếu trong trưng cầu ý dân; an sinh xã hội....
- Nhằm ngăn ngừa sự tùy tiện hạn chế quyền con người, quyền công dân, Khoản 2,
Điều 14 Hiến pháp 2013 quy định nguyên tắc: “Quyền con người, quyền cơng dân chỉ có
thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lí do quốc phịng, an ninh
quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Nguyên tắc này
nêu rõ những lí do có thể được sử dụng để hạn chế quyền, cùng với việc giới hạn chủ thể
duy nhất là Quốc hội mới có thể quyết định việc này bằng luật, chứ không phải bất cứ cơ
quan nhà nước nào.
Với những thay đổi trên, các quy định về quyền con người và quyền công dân ở
Chương II Hiến pháp 2013 hứa hẹn các quyền hiến định sẽ được tôn trọng, bảo vệ và bảo
đảm đúng đắn, hiệu quả hơn trong thực tế. Quyền lực nhà nước có cơ sở hiến định cho việc
hạn chế, để bảo vệ quyền con người.
Mặc dù có nhiều điểm tích cực nhưng so với tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế, Hiến
pháp năm 2013 vẫn có một số nội dung mà trong quá trình triển khai thực hiện cần phải có
những biện pháp để đảm bảo tính hiệu quả. Cụ thể như sau:
Quy định quyền con người, quyền cơng dân có thể bị hạn chế theo quy định của luật
trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phịng, an ninh quốc gia, trật tự, an tồn xã hội, đạo
đức, sức khỏe cộng đồng. Hiến định nguyên tắc này đã thể hiện một bước tiến gần đến
chuẩn mực của các bộ luật quốc tế về quyền con người và các hiến pháp tiến bộ trên thế
giới. Tuyên ngôn Phổ quát về Quyền con người 1948 (Universal Declaration of Human
Rights), văn bản được coi là kết tinh của tinh hoa và chuẩn mực toàn cầu [15] , đã quy định
nguyên tắc này tại Điều 29: “Trong việc thực thi các quyền và tự do, mọi người chỉ phải
12



chịu những hạn chế do luật định, nhằm mục tiêu bảo đảm sự thừa nhận và tôn trọng quyền
và quyền tự do của những người khác, cũng như nhằm thỏa mãn những địi hỏi chính đáng
về đạo đức, trật tự công cộng, và nền an sinh chung trong một xã hội dân chủ”. Nhưng trong
khi đề cập đến vấn đề hạn chế thực hiện quyền, quy định của Hiến pháp năm 2013 nêu trên
đã không kèm theo những ngoại trừ với các quyền tuyệt đối mà theo luật nhân quyền quốc
tế, các quốc gia không được phép giới hạn hay đình chỉ thực hiện trong bất kì bối cảnh nào.
Đó là các quyền không bị tra tấn, đối xử tàn bạo, vơ nhân đạo hay nhục hình; quyền khơng
bị bắt làm nơ lệ, nơ dịch; quyền được suy đốn vơ tội; quyền được thừa nhận tư cách thế
nhân trước pháp luật và quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng, tơn giáo [8].Thiếu sót này vơ
hình trung có thể sẽ tạo cơ sở cho việc lợi dụng quy định về tình trạng khẩn cấp để vi phạm
các quyền tuyệt đối.
Một trong những tiến bộ của Hiến pháp 2013 là chuyển đổi đại từ nhân xưng chỉ chủ
thể quyền từ “công dân” sang “mọi người” trong nhiều điều khoản của Chương II. Điều này
phù hợp với bản chất của các quyền liên quan và tạo điều kiện để thực thi các quyền đó trên
thực tế. Mặc dù vậy, vẫn cịn một số quyền cần được áp dụng với tất cả mọi người nhưng
hiện vẫn chỉ được quy định dành cho công dân, bao gồm: Tự do đi lại, cư trú (Điều 23); Tự
do biểu đạt, lập hội, hội họp, biểu tình (Điều 25).... Việc giới hạn chủ thể quyền chỉ là công
dân với những quyền và tự do này là chưa phù hợp với luật nhân quyền quốc tế và có thể bị
coi là sự phân biệt đối xử với người nước ngồi sinh sống hợp pháp ở Việt Nam. Ví dụ, khi
quy định về các quyền tự do biểu đạt, lập hội, hội họp, biểu tình, quyền của các nhóm thiểu
số được giữ gìn bản sắc của mình (các Điều 19, 21, 22, 27 ICCPR); quyền được giáo dục
(Các Điều 11, 13 ICESCR) [7] , các Công ước này đều sử dụng đại từ nhân xưng “mọi
người” để chỉ chủ thể quyền, hoặc sử dụng cách diễn đạt để hàm ý rằng những quyền này
không chỉ áp dụng với công dân ở một quốc gia.
6. Nghĩa vụ của Nhà nước trong việc bảo đảm các quyền cơ bản của con người
Để bảo đảm quyền con người, quyền công dân, các nhà nước có ba nghĩa vụ cụ thể
như sau:
Nghĩa vụ tơn trọng (obligation to respect): Nhà nước phải thừa nhận quyền con

người là những giá trị tự nhiên, vốn có, gắn với bản chất của con người, không phải do Nhà
nước hay bất kì chủ thể nào khác ban phát; vì thế không được can thiệp tùy tiện, kể cả trực
tiếp hoặc gián tiếp, vào việc hưởng thụ các quyền con người, quyền công dân của người
dân.
Nghĩa vụ bảo vệ (obligation to protect): nghĩa vụ này đòi hỏi các nhà nước phải ngăn
chặn sự vi phạm nhân quyền của các bên thứ ba. Đây được coi là một nghĩa vụ chủ động
bởi để ngăn chặn sự vi phạm nhân quyền của các bên thứ ba, các nhà nước phải chủ động
đưa ra những biện pháp và xây dựng các cơ chế phịng ngừa, xử lí những hành vi vi phạm.

13


Nghĩa vụ thực hiện (obligation to fulfil ): Nhà nước phải thực hiện những biện pháp
nhằm hỗ trợ người dân, đặc biệt là những nhóm và cá nhân yếu thế trong xã hội, để bảo đảm
tất cả mọi người đều được hưởng thụ các quyền con người ở mức độ thích đáng tối thiểu.
Nhà nước thực hiện tốt sự phân cơng, kiểm sốt sự lạm dụng quyền lực nhà nước
cũng là một trong những nhiệm vụ cần làm để bảo vệ các quyền cơ bản của con người.
Nhưng cũng cần phải chú ý ở đây là: khi chúng ta dựa vào những cơ quan của nhà nước
chuyên trách để bảo vệ quyền của chúng ta, chúng ta có thể trở thành nạn nhân của những
người được chính chúng ta ủy quyền [10]. Trước hết, Quốc hội có chức năng làm luật.
Nhưng làm luật khơng ngồi mục đích để bảo vệ nhân quyền, hay nói cách khác, Quốc hội
lập pháp dưới góc độ nhân quyền. Bắt đầu bằng việc soạn thảo, việc thẩm định, thẩm tra,
tranh luận và biểu quyết thông qua đều phải dưới góc độ nhân quyền. Vì vậy, khi lập pháp,
Quốc hội phải hết sức tránh việc làm luật dành riêng cho một tầng lớp, một hạng người, một
cá nhân nào đó mà khơng nhằm vào mục đích phục vụ mọi người dân. Luật phải quy định
cho tất cả mọi người, không phân biệt đẳng cấp, tôn giáo, màu da, dân tộc, tài sản..
7. Giải pháp để bảo đảm các quyền cơ bản của con người.
- Không ngừng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo các quyền con người,
quyền công dân một cách hiệu quả nhất.
- Sửa đổi, hoàn thiện Hiến pháp phù hợp hơn với tình hình thực tế.

- Tăng cường cơ chế bảo hiến.
- Thực hiện các chương trình xóa đói, giảm nghèo, tạo cho người dân có một cuộc sống tốt
đẹp.

KẾT LUẬN
Quyền con người là những quyền cơ bản nhất của con người, được có một cách tự
nhiên gắn bó mật thiết với con người, mà nhà nước thành lập với một trong những nhiệm vụ
quan trọng bậc nhất của mình là phải bảo vệ những quyền đó. Cũng vì lẽ tự nhiên đó, quyền
con người ln là mục tiêu của Hiến pháp mỗi quốc gia. Quyền con người luôn gắn liền với
Hiến pháp, Hiến pháp là đạo luật cơ bản bảo vệ quyền con người. Ở các quốc gia, Hiến
pháp đóng vai trị cốt yếu, khơng thể thay thế để bảo vệ và hiện thực hóa các quyền con
người. Luật Nhân quyền chỉ có vai trị là cơng cụ bổ sung, hỗ trợ cho Hiến pháp và pháp
luật quốc gia.
Hiến pháp 2013 đã dự liệu việc xây dựng cơ chế bảo vệ Hiến pháp ở Việt Nam
(Khoản 2 Điều 119). Cơ chế bảo vệ Hiến pháp cũng chính là cơ chế bảo vệ quyền con người
vì Hiến pháp là văn bản tôn vinh con người, công nhận, bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy quyền
con người ở nước ta. Một cơ chế bảo hiến hiện đại, phù hợp với nguyện vọng nhân dân phải
là cơ chế bảo vệ quyền con người đã được long trọng công nhận trong Hiến pháp.
14


Tiểu luận đã phân tích mối quan hệ giữa quyền con người và Hiến pháp, trên cơ sở
đó người viết hiểu rõ tại sao Hiến pháp là đạo luật bảo vệ các quyền cơ bản của con người,
giúp người viết nhìn nhận việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật là một điều vơ cùng quan
trọng, việc tn theo đó cũng chính là bảo vệ các quyền, tự do của bản thân mình và tất cả
mọi người.

Tài liệu tham khảo
* Tiếng Việt
1. Xem: Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, Khoa Luật Đại học Quốc

gia Hà Nội, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2016.
2. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh – Trung tâm nghiên cứu quyền con người
(2002), Những nội dung cơ bản về quyền con người, Nxb thành phố Hồ Chí Minh,
Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Đại từ điển Tiếng Việt (1999). Viện ngơn ngữ. NXB Văn hóa Thơng tin. Hà Nội.
Trang 1384.
4. Nguyễn Văn Động (2005), Quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
5. Hoàng Văn Hảo, Hiến pháp Việt Nam và vấn đề quyền con người, quyền công dân,
in trong Hiến pháp, pháp luật và quyền con người – Kinh nghiệm Việt Nam và Thụy
Điển, Trung tâm nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh và Viện Raoul Wallenberg về quyền con người, Đại học Lund, Thụy Điển,
2001, tr.148.
6. Tường Duy Kiên (2003), “Nhà nước – Cơ chế bảo đảm quyền con người”, Tạp chí
nghiên cứu lập pháp, (2), tr.28-32.
7. Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa (International Covenant
on Economic, Social and Cultural Rights – ICESCR).
8. Xem: Điều 4(2) Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (International
Covenant on Civil and Political Rights – ICCPR).
9. Xem: Tuyên ngôn thế giới về Nhân quyền – UDHR.
10. Xem: Nguyên lý nền tảng cho một thế giới thịnh vượng và hịa bình, cuộc sống, lựa
chọn và tương lai của bạn, Tom G. Palmer Chủ biên, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2014, tr.
76.
11. Xem: Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam (GS.TS. Nguyễn Đăng Dung, PGS.TS.
Đặng Minh Tuấn – PGS.TS. Vũ Công Giao đồng chủ biên), Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội ).
15


12. Hiến pháp Việt Nam 1946, 1959, 1980, 1992, 2013.

13. Bài tiểu luận sử dụng các nguồn internet khác.
* Tiếng Anh:
14. Zachary Elkins, Tom Ginsburg and Beth Simmons, Constitutional Convergence in

Human Rights? The Reciprocal Relationship between Human Rights Treaties and
National
Constitutions,
December
10-12,
2008,
tr.23,
tại:
/>15. Xem: Jack Donnelly, Universal Human Rights in Theory and Practice (2nd edn,
Manas Publications 2005) 22.

16



×