Tải bản đầy đủ (.doc) (128 trang)

Ths CTH công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện an biên, tỉnh kiên giang hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 128 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết đề tài
Ngay từ khi mới thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã coi công tác tư
tưởng nói chung và cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng (GDCT-TT) cho cán bộ
nói riêng là yếu tố không thể tách rời trong hoạt động cách mạng của Đảng ta; là
nhân tố và là động lực thúc đẩy sự nghiệp cách mạng nước ta đi đến thắng lợi. Bởi:
Giáo dục tư tưởng và lãnh đạo tư tưởng là việc quan trọng nhất của Đảng. Phải kiên
quyết chống cái thói xem nhẹ tư tưởng; Tư tưởng khơng đúng đắn thì cơng tác ắt sai
lầm; Trong Đảng và ngồi Đảng có nhận rõ tình hình mới, hiểu rõ nhiệm vụ mới thì
tư tưởng mới thống nhất, tư tưởng thống nhất thì hành động mới thống nhất.
Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam rất quan tâm đến công tác GDCT-TT cho
cán bộ, khẳng định Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ Nam cho mọi hành động của mình; thường xuyên tuyên truyền các
chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đến cán bộ, đảng viên, nhân
dân. Niềm tin của quần chúng vào Đảng được nâng lên, qua đó làm thất bại âm mưu
“diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch đang ráo riết chống phá cách mạng
nước ta. Đó là kết quả cơng tác GDCT-TT của Đảng, mà đội ngũ cán bộ chủ chốt
(ĐNCBCC) cấp xã đóng vai trị vơ cùng quan trọng. Cùng với sự trưởng thành về
nhận thức của quần chúng nhân dân, vấn đề thơng tin, đặc biệt là thơng tin có tính
định hướng trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng trở thành yếu tố cực kỳ quan trọng trong
đời sống xã hội. Muốn vậy, ĐNCBCC cấp xã cần phải được trang bị những tri thức
trên nhiều lĩnh vực, phải có trình độ lý luận chính trị nhất định và năng lực hoạt động
thực tiễn sâu sát.
Xác định cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền
với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ. V.I.Lênin cho rằng:
Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị,
nếu nó khơng đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh
tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh
đạo phong trào [16, tr.473].
Theo V.I.Lênin, khi Đảng đã trở thành đảng cầm quyền, thì đội ngũ cán bộ




2
phải được kiện toàn về mọi mặt để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình
mới. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà
nước và xã hội, vấn đề cán bộ phải ln được quan tâm hàng đầu.
Trong hệ thống hành chính bốn cấp của Nhà nước ta, xã, phường, thị trấn
(gọi chung là cấp xã) là đơn vị hành chính ở cơ sở, có vai trị nền tảng trong hệ
thống đó. Đây là cấp giữ một vị trí hết sức quan trọng, là nơi tuyệt đại bộ phận nhân
dân sinh sống, nơi trực tiếp diễn ra mọi hoạt động của đời sống xã hội. Đặc biệt, xã,
phường, thị trấn là nơi trực tiếp vận động quần chúng nhân dân thực hiện đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ cấp trên giao;
phát huy sức mạnh đại đoàn kết và quyền làm chủ của nhân dân; cầu nối liền giữa
Đảng với nhân dân dân, tạo sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát
triển KT-XH ở địa phương. Đồng thời, nơi cung cấp những kinh nghiệm thực tiễn,
phát hiện, kiến nghị góp phần tích cực vào việc điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Trong thời gian vừa qua, ở nước ta đội ngũ cán bộ, cơng chức cấp xã nói
chung và ĐNCBCC cấp xã nói riêng đã được Đảng, Nhà nước và các cấp uỷ đảng,
chính quyền quan tâm xây dựng và củng cố, từ đó chất lượng đội ngũ cán bộ từng
bước được nâng lên. Tuy nhiên, đội ngũ ĐNCBCC cấp xã cịn bộc lộ những mặt
yếu kém, bất cập; trình độ, năng lực chưa đáp ứng trước yêu cầu, nhiệm vụ; cơ
cấu, chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ này có mặt chưa hợp lý. Bên cạnh
đó cịn có một bộ phận cán bộ bị tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường nên
đã có biểu hiện suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống, quan liêu, hách dịch,
mất dân chủ, tham nhũng, lãng phí đã làm giảm uy tín của Đảng, làm giảm sút
lịng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Tình hình đó đặt ra một địi hỏi
cấp bách là phải:
Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối
về tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự

chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội
ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm
nhiệm vụ. [25, tr.51]


3
Huyện An Biên là huyện thuộc vùng U Minh Thượng của tỉnh Kiên Giang,
có vị trí chiến lược về KT-XH, quốc phịng - an ninh của vùng đồng bằng sơng Cửu
Long và cả nước. Thời gian qua, thực hiện các chủ trương, nghị quyết, chính sách
của Đảng và Nhà nước, các quy định, hướng dẫn của Trung ương, Ban Thường vụ
Tỉnh ủy, Đảng bộ huyện, các cấp ủy đã ban hành nhiều văn bản về công tác tuyên
truyền GDCT-TT cho cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ cho cấp xã trong huyện đã
có nhiều cố gắng và đạt được những thành tích nhất định, góp phần ổn định KT-XH,
tình hình chính trị, tư tưởng ở địa phương. Tuy nhiên, ĐNCBCC cấp xã của huyện
còn bất cập về cơ cấu, đơi lúc cịn lúng túng, (thừa mà thiếu) bị động trong hoạt
động thực tiễn, năng lực hoạt động chưa cao, phương thức hoạt động còn đơn điệu,
lạc hậu, còn mang tính hình thức và thiếu thơng tin cần thiết; vẫn cịn tình trạng cán
bộ suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hoá”... chưa đáp ứng tốt yêu cầu thực thi quyền lực chính trị của
nhân dân ở địa phương trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ thực tế đó, tác giả chọn vấn đề: “Cơng tác giáo dục chính trị - tư
tưởng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang hiện
nay” làm đề tài luận văn thạc sỹ chuyên ngành Chính trị học.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
2.1. Các cơng trình khoa học nghiên cứu về cơng tác tư tưởng, cơng tác
giáo dục chính trị - tư tưởng
Xuất phát từ vị trí, vai trị, tầm quan trọng của cơng tác tư tưởng, Trung ương
Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương đã ban
hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn... về công tác tư tưởng nói chung, cơng
tác GDCT-TT cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng.

Các nhà nghiên cứu lý luận, nhà hoạt động tư tưởng cũng đã có khá nhiều
cơng trình nghiên cứu về CTGDCT-TT, trong đó có thể nêu một số cơng trình
nghiên cứu tiêu biểu như:
Tác giả Ngọc Vũ Am, “Đổi mới cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng cho
cán bộ, đảng viên cơ sở” [1]; Đào Duy Tùng, Một số vấn đề công tác tư tưởng [59];
Nguyễn Trọng Phúc, Khắc phục tình trang suy thối về tư tưởng chính trị và đạo


4
đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay [46]; Vũ Văn Phúc, Ngô
Văn Thạo, Những giải pháp và điều kiện thực hiện phòng, chống suy thoái tư
tưởng, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên [45].
2.2. Các cơng trình nghiên cứu về đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
* Một số cơng trình đã xuất bản thành sách:
- Thang Văn Phúc và Nguyễn Minh Phương, Xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức đáp ứng đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân [47].
- Nguyễn Phú Trọng và Trần Xuân Sầm, Luận cứ khoa học cho việc nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá
- hiện đại hoá đất nước" [58]. Trong cuốn sách này, các tác giả đã chỉ ra được một
số tiêu chuẩn và giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt
trong HTCT ở nước ta.
- Bùi Đình Phong, Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và cơng tác cán bộ [43].
Đây là cơng trình khảo cứu công phu về những quan điểm, tư tưởng cơ bản của Hồ
Chí Minh về cán bộ và cơng tác cán bộ và sự vận dụng trong thực tiễn cách mạng
Việt Nam nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng
qua các thời kỳ.
- Trần Thành, Bản lĩnh chính trị với năng lực của cán bộ lãnh đạo,
quản lý trong HTCT ở nước ta hiện nay [50]. Nội dung cuốn sách đề cập mối quan
hệ giữa bản lĩnh chính trị với năng lực lãnh đạo của người cán bộ lãnh đạo, quản lý

ở nước ta, trong đó có đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.
- Nguyễn Duy Hùng, “Luận cứ khoa học và một số giải pháp xây dựng
đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường hiện nay” [29]. Trên cơ sở luận giải sâu sắc cơ sở
lý luận - thực tiễn của vấn đề nghiên cứu, tác giả đã đưa ra những giải pháp có tính
khả thi nhằm nâng cao chất lượng toàn diện đội ngũ cán bộ cấp phường ở nước ta
hiện nay.
- Mai Đức Ngọc, “Vai trò cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã trong việc giữ
vững ổn định chính trị - xã hội ở nơng thơn nước ta hiện nay” [41]. Nội dung cuốn
sách ở mức độ nhất định đi vào đề cập tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ lãnh đạo


5
chủ chốt cấp xã trong tiến trình đổi mới, CNH, HĐH nông nghiệp - nông thôn, nhất
là trong đảm bảo giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn nước ta hiện nay.
* Một số bài đăng trên tạp chí khoa học:
- Mai Đức Ngọc, “Nâng cao năng lực của người lãnh đạo chủ chốt cấp xã,
phường” [39];
- Lê Minh Thông, “Quan điểm, giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của
chính quyền xã ở nước ta hiện nay” [53];
- Thái Vĩnh Thắng, “Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã,
phường” [51]
- Trần Văn Phòng, "Tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị
hiện nay" [44] .
- Nguyễn Minh Phương, “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở đáp
ứng yêu cầu của thời kỳ mới” [48].
- Nguyễn Hữu Đức, “Từ đặc điểm, tính chất đội ngũ cán bộ, cơng chức cơ sở
để xây dựng chế độ, chính sách phù hợp” [26].
- Nguyễn Hữu Lộc, “Tăng cường cán bộ cơ sở [38].
- Hữu Phan, “Xây dựng tiêu chuẩn cụ thể đối với các chức danh cán bộ, công
chức cấp xã” [42].

- Mai Đức Ngọc, “Vai trò của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã trong thời kỳ
mới”, [40].
- Nguyễn Ngọc Khanh, Nguyễn Văn Thắng (2006), “Công tác lãnh đạo,
quản lý ở cơ sở xã, phường, thị trấn hiện nay” [36].
- Hồ Đức Việt, “Đổi mới công tác tổ chức, cán bộ đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước” [63].
- Nguyễn Bá Thắng, “Đào tạo, bồi dưỡng ĐNCBCC cấp xã, thị trấn ở Lương
Tài”, [52].
- Đặng Thanh Hải, “Nâng cao năng lực CBCC cấp xã ở Sóc Trăng” [27].
* Luận án tiến sĩ có liên quan đến đề tài:
“Xây dựng ĐNCBCC cấp xã vùng nông thôn Đồng bằng sông Cửu Long
hiện nay” của Phạm Công Khâm [37].


6
* Luận văn thạc sĩ liên quan đến vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp xã:
“Công tác giáo dục chính trị- tư tưởng cho lực lượng bảo vệ chính trị nội bộ
cơng an tỉnh Sóc Trăng” của Trần Tấn Bền [6].
Các cơng trình khoa học nêu trên có những đóng góp về mặt lý luận và thực
tiễn rất sâu sắc trong nghiên cứu về công tác GDCT-TT và ĐNCBCC cấp xã. Tuy
nhiên, qua phân tích kết quả nghiên cứu của các cơng trình trên cho thấy, chưa có
cơng trình nào nghiên cứu về “Cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang hiện nay” một cách toàn
diện, sâu sắc, hệ thống dưới góc độ Chính trị học. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa có chọn
lọc kết quả nghiên cứu đã được cơng bố, cùng với những tìm tịi, điều tra, nghiên
cứu, luận văn là sự bổ sung, phát triển hơn nữa những vấn đề liên quan tới tư tưởng,
nhận thức và năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ đã được đề cập ở các cơng trình
đã có, góp phần đưa nhận thức vấn đề này tới độ sâu sắc cần thiết theo yêu cầu thực
tiễn của quá trình đổi mới và phát triển ở huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang hiện nay,

trong bối cảnh chung của đất nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng công tác GDCT-TT cho
ĐNCBCC cấp xã ở huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang; luận văn đề xuất phương
hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác GDCT-TT cho ĐNCBCC
cấp xã, đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH và thực thi quyền lực chính trị của nhân
dân ở huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận của công tác GDCT-TT cho ĐNCBCC cấp xã;
- Khảo sát, đánh giá thực trạng công tác GDCT-TT cho ĐNCBCC cấp xã ở
huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang thời gian qua; từ đó nêu rõ ưu, khuyết điểm,
nguyên nhân, kinh nghiệm và một số vấn đề bức xúc đang đặt ra;
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng công tác GDCTTT cho ĐNCBCC cấp xã ở huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang trong thời gian tới.


7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác GDCT-TT là một tổ hợp từ mang giá trị như một tính từ dùng để
chỉ một nội dung giáo dục cơ bản nhất của công tác tư tưởng là chính trị. Cơng tác
GDCT-TT tuy lấy nhiệm vụ giáo dục tư tưởng là chính nhưng khơng chỉ dừng lại ở
việc nhằm hình thành tư tưởng chính trị mà còn đạt tới sự thống nhất trong hành
động của đối tượng. Do vậy, giới hạn của luận văn tập trung nghiên cứu về cơng tác
giáo dục nội dung chính trị trong tư tưởng (chính trị - tư tưởng) cho ĐNCBCC cấp
xã ở huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Công tác GDCT-TT cho CBCC cấp xã.
- Về địa bàn khảo sát: ĐNCBCC cấp xã và đội ngũ BCV của huyện An Biên,

tỉnh Kiên Giang.
- Về thời gian: Khảo sát thực trạng từ năm 2010 đến năm 2016; giải pháp
đến năm 2020 và những năm tiếp theo.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước về xây dựng Đảng, về cơng tác GDCT-TT cho cán bộ nói chung, cơng tác
GDCT-TT cho CBCC cấp xã nói riêng. Kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên
cứu, những đánh giá khách quan, trung thực của các cơng trình nghiên cứu khoa
học đã được công bố.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận của đề tài là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử; đồng thời, luận văn sử dụng những phương pháp chuyên ngành Chính trị
học và liên ngành như: lơgíc, lịch sử, hệ thống, phân tích, tổng hợp, thống kê, so
sánh, nghiên cứu tài liệu, tổng kết thực tiễn, điều tra xã hội học...
Nguồn tư liệu, luận văn chủ yếu dựa vào các văn kiện, nghị quyết của Ban
Chấp hành (BCH) Trung ương Đảng, Ban Tuyên giáo Trung ương, BCH Đảng bộ


8
tỉnh Kiên Giang, BCH Đảng bộ huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang và các báo cáo
tổng kết nhiệm kỳ, Báo cáo chuyên đề, báo cáo hàng quý, hàng năm của BCH Đảng
bộ huyện An Biên, UBND huyện An Biên, Ban Tuyên giáo huyện An Biên, Ban tổ
chức huyện An Biên, Văn phòng huyện ủy Huyện An Biên, Phòng Nội vụ huyện An
Biên, Phịng Nơng nghiệp và phát triển nơng thơn huyện An Biên.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa khoa học
Luận văn góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận
về công tác GDCT-TT cho ĐNCBCC cấp xã, đặc biệt dưới góc độ của Chính trị

học. Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá khách quan thực trạng công tác GDCT-TT cho
ĐNCBCC cấp xã ở huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang, luận văn đưa ra các dự báo
tình hình, các yếu tố tác động đến công tác GDCT-TT cho ĐNCBCC cấp xã của
huyện; đồng thời đề ra phương hướng và các giải pháp đồng bộ, phù hợp để đổi mới,
nâng cao chất lượng hoạt động, tạo ra khâu đột phá trong công tác GDCT-TT cho
ĐNCBCC cấp xã ở huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang những năm sắp tới.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho
việc đổi mới, nâng cao chất lượng công tác GDCT-TT cho ĐNCBCC cấp xã ở
huyện An Biên nói riêng và những huyện vùng U Minh Thương của tỉnh Kiên
Giang nói chung. Qua đó, góp phần cùng toàn Đảng thực hiện thắng lợi Nghị quyết
hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tăng cường xây
dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn có thể được sử dụng làm tư liệu tham khảo trong nghiên cứu và
giảng dạy những vấn đề liên quan đến công tác tư tưởng, CTGDCT-TT, dân vận, về
ĐNCBCC cấp xã và tổ chức thực thi chính sách cơng. Đồng thời, kết quả nghiên
cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho Ban Tuyên giáo các cấp
trên địa bàn tỉnh Kiên Giang về xây dựng và hồn thiện các đề án chiến lược về
cơng tác tư tưởng của ngành; giúp cho các cấp ủy Đảng những tài liệu tham khảo
trong tổ chức tổng kết thực tiễn, đúc kết kinh nghiệm, nâng lên thành lý luận gắn


9
với đặc điểm của địa phương, đơn vị.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm 3 chương, 8 tiết.



10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ - TƯ
TƯỞNG CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ
1.1. CƠNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ - TƯ TƯỞNG VÀ VAI TRỊ CƠNG
TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ - TƯ TƯỞNG CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT
CẤP XÃ

1.1.1. Khái niệm cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng và vai trị cơng
tác giáo dục chính trị - tư tưởng
1.1.1.1. Khái niệm cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng
* Khái niệm giáo dục
Theo tiếng Anh từ “Giáo dục” được viết là: “Education” - vốn có gốc từ
tiếng La tinh “Educare” có nghĩa là “làm bộc lộ ra”. Vì vậy, có thể hiểu “giáo dục là
q trình, cách thức làm bộc lộ ra những khả năng tiềm ẩn của người được giáo
dục” [6, tr.12]
Cũng có thể hiểu “Giáo dục là một hoạt động tác động một cách có hệ
thống đến sự phát triển tinh thần và thể chất của sự phát triển làm cho những đối
tượng ấy hình thành phẩm chất và năng lực như yêu cầu đã đề ra”. [6, tr.11]
Từ khi mới xuất hiện, trong q trình lao động sản xuất con người có nhu
cầu truyền bá cho nhau kinh nghiệm sống, sản xuất và chinh phục tự nhiên. Từ đó
giáo dục bắt đã ra đời. Đầu tiên giáo dục xuất hiện như một hiện tượng tự phát, diễn
ra theo lối đơn giản, lối bắt chước càng về sau nó trở thành hành động có ý thức của
con người. Ngày nay, giáo dục đã trở thành một hoạt động đặc biệt được tổ chức
khoa học và đạt tới đỉnh cao. Trong Từ điển Giáo Dục học, "giáo dục" được hiểu là:
Hoạt động hướng tới con người thông qua một hệ thống các biện pháp tác
động nhằm truyền thụ những tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng
và lối sống, bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức cần thiết cho đối tượng, giúp
hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất, nhân cách phù họp với mục
đích, mục tiêu chuẩn bị cho đối tương tham gia lao động sản xuất và đời

sống xã hội. [6, tr.14]


11
Thuật ngữ “giáo dục” được sử dụng rất nhiều trong ngôn ngữ hàng ngày để
biểu đạt khái niệm thông thường lẫn khái niệm khoa học. Nhìn chung, thuật ngữ
này thường được hiểu với hai nghĩa:
Một là, giáo dục là hiện tượng khách quan diễn ra trong đời sống xã hội mà
mỗi con người, mỗi thế hệ ít nhiều đều chịu sự tác động mang tính tự phát của nó.
Trong q trình tồn tại và phát triển, con người khơng thể tách rời khỏi môi
trường xã hội - nơi con người sinh ra và lớn lên. Đó là sự tác động của vô số các
quan hệ xã hội như: kinh tế, chính trị, tư tưởng - văn hóa... Những tác động đó độc
lập với ý muốn của con người. Tuy nhiên, trong thực tế người ta ít sử dụng thuật
ngữ giáo dục với nghĩa này .
Hai là, hoạt động giáo dục được tổ chức theo cách riêng của các chủ thể giáo
dục với định hướng, mục tiêu rõ ràng. Chủ thể giáo dục đề cập ở đây bao gồm các
cá nhân và những thiết chế, mà tổ chức của nó có chức năng giáo dục như: cha mẹ,
gia đình, nhà trường, các tổ chức chính trị - xã hội...
Đối với bất kỳ xã hội nào, việc chăm lo phát triển nguồn lực con người đồng
nghĩa với việc chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục. Ngày nay, không chỉ ở những
nước giàu mà cả những nước nghèo đều xem chiến lược giáo dục - đào tạo con
người là quốc sách hàng đầu. Với ý nghĩa như vậy nên khi đánh giá chất lượng, hiệu
quả giáo dục người ta thường căn cứ vào công việc tổ chức và phối họp hoạt động
của các chủ thể giáo dục: gia đình, nhà trường, các tổ chức trong cộng đồng xã hội...
Giáo dục có nội hàm rất rộng, nên được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.
Theo nghĩa rộng, giáo dục được hiểu là quá trình trao đổi và chuyển giao tri thức
của con người theo một quy củ đã được định sẵn. Hiểu theo nghĩa hẹp, giáo dục là
một quá trình hình thành nên nhân cách của con người dưới ảnh hưởng của hoạt
động có mục đích của nhà giáo dục. Về bản chất: "Giáo dục là quá trình tổ chức
cuộc sống hoạt động và giao lưu cho đối tượng giáo dục, nhằm giúp họ nhận thức

đúng tạo lập tình cảm và thái độ đúng, hình thành những thói quen hành vi văn
minh trong cuộc sống, phù hợp với chuẩn mực xã hội". [6, tr.15].
Từ nội hàm và bản chất của giáo dục, ta thấy được, để hình thành nên nhân
cách của một con người theo đúng như chuẩn mực xã hội, nhà giáo dục phải có cả


12
một hệ thống các phương diện để giáo dục, chính vì vậy, giáo dục có rất nhiều
phương diện hợp thành: Giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục đạo đức, giáo dục
pháp luật, giáo dục kinh tế, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thường thức, giáo dục sinh
thái, giáo dục về giới… Như vậy, có thể thấy, GDCT-TT là một phương diện hợp
thành không thể thiếu của hoạt động giáo dục.
* Khái niệm chính trị - tư tưởng
Cho tới nay cịn nhiều quan niệm khác nhau về chính trị. Theo ngun nghĩa
tiếng Hy Lạp, Chính trị (politica) là cơng việc của nhà nước, công việc của xã hội
liên quan tới vấn đề nhà nước.
Chính trị là tồn bộ những hoạt động có liên quan đến các mối quan hệ
giữa các giai cấp, giữa các dân tộc, các tầng lớp xã hội, mà cốt lõi của nó
là vấn đề giành chính quyền, duy trì và sử dụng quyền lực nhà nước, sự
tham gia vào công việc của nhà nước, sự xác định hình thức tổ chức,
nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước. Bất kì vấn đề chính trị nào
cũng đều có liên quan đến quyền lợi của các giai cấp và nhà nước. Chính
trị thuộc kiến trúc thượng tầng, bao gồm hệ tư tưởng chính trị, nhà nước,
các đảng phái xuất hiện khi xã hội phân chia thành các giai cấp dựa trên
cơ sở hạ tầng kinh tế. Chính trị là sự biểu hiện tập trung nhất của kinh tế.
[6, tr.13]
Đồng thời chính trị có vị trí độc lập và có tác dụng to lớn đối với kinh tế.
Việc hình thành một quan điểm chính trị đúng về lĩnh vực kinh tế là điều kiện để
giải quyết có hiệu quả những nhiệm vụ kinh tế. Chính trị cịn là sự biểu hiện tập
trung của nền văn minh, của hoạt động sáng tạo, của sự giải phóng. Trong điều kiện

xây dựng chủ nghĩa xã hội, nói tới chính trị thì trước hết là bảo đảm vai trò lãnh đạo
của đảng cộng sản, hiệu lực quản lí của nhà nước, quyền làm chủ của nhân dân lao
động trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Chính trị được biểu hiện dưới nhiều hình thức: Những tư tưởng, quan điểm,
đường lối chính sách của đảng chính trị, của nhà nước - chính trị biểu hiện dưới dạng
tư tưởng lý luận; chủ thể chính trị, tập trung ở các thủ lĩnh chính trị, các nhà hoạt
động chính trị chuyên nghiệp và cơng dân - chính trị biểu hiện dưới dạng con người


13
chính trị; những thể chế chính trị, tập trung ở các thể chế đảng, thể chế nhà nước và
các thể chế chính trị - xã hội khác; các dạng hoạt động chính trị, tập trung ở hoạt động
bầu cử, hoạt động hoạch định đường lối chính sách, hoạt động thực thi đường lối
chính sách; các quan hệ chính trị - chính trị biểu hiện dưới dạng thiết chế, hoạt động
và quan hệ vật chất; các giá trị chính trị mà biểu hiện tập trung ở văn hố chính trị.
Theo Từ điển Triết học (1987) viết:
Tư tưởng là hình thức phản ánh thế giới bên ngồi, trong đó bao hàm
sự ý thức về mục đích và triển vọng của việc tiếp tục nhận thức và cải
tạo thế giới bên ngoài. Tư tưởng khái quát hoá kinh nghiệm của sự
phát triển tri thức trước đó và được dùng làm nguyên tắc để giải thích
các hiện tượng [60, tr.17].
V.I.Lênin cho rằng: “tư tưởng là hình thức cao của nhận thức” [65, tr.176]
Tư tưởng là một hình thái ý thức xã hội thuộc thượng tầng kiến trúc, tư tưởng
là sự phản ánh của hiện thực trong ý thức, là biểu hiện của quan hệ của con người với
thế giới xung quanh. Tư tưởng bị quy định bởi tính chất của chế độ xã hội, do điều
kiện sinh hoạt vật chất của con người quyết định. Trong xã hội có giai cấp, tư tưởng
ln mang bản chất giai cấp; tư tưởng là biểu hiện lợi ích vật chất của các giai cấp;
cuộc đấu tranh về tư tưởng thực chất là một dạng thức của cuộc đấu tranh giai cấp.
Đi liền với khái niệm tư tưởng, là khái niệm hệ tư tưởng. Hệ tư tưởng được
nhận thức là hệ thống quan điểm, tư tưởng và khái niệm do một giai cấp hoặc một

chính đảng xây dựng, truyền bá. Hệ tư tưởng bao gồm những quan điểm chính trị,
triết học, nghệ thuật, tơn giáo...Bất kỳ một hệ tư tưởng nào cũng chỉ là sự phản ánh
chế độ kinh tế và cơ cấu xã hội do chế độ kinh tế đó sinh ra trong một thời kỳ nhất
định. Hệ tư tưởng luôn mang bản chất giai cấp, phản ánh và bảo vệ lợi ích của giai
cấp đã sinh ra nó. Trong xã hội có hệ tư tưởng tiến bộ, cách mạng và hệ tư tưởng
thoái bộ, phản cách mạng.
Hệ tư tưởng chính trị của một giai cấp phản ánh trực tiếp tập trung lợi ích
của giai cấp ấy. Hệ tư tưởng chính trị được thể hiện trong đường lối, cương lĩnh
chính trị của các chính đảng, của giai cấp khác nhau cũng như trong luật pháp,
chính sách Nhà nước, công cụ của giai cấp thống trị. Hệ tư tưởng chính trị được


14
hình thành một cách tự giác, nó được các nhà tư tưởng của giai cấp xây dựng và
truyền bá. Hệ tư tưởng chính trị thường gắn với các tổ chức chính trị thơng qua các
tổ chức chính trị mà một giai cấp tiến hành cuộc đấu tranh về ý thức hệ vì lợi ích
của giai cấp mình. Với đặc trưng như vậy, tác động của ý thức chính trị phụ thuộc
vào tính chất tiến bộ của giai cấp mang hệ tư tưởng đó.
Chủ nghĩa Mác - Lênin, vũ khí tư tưởng của đảng cộng sản và của giai cấp
công nhân, là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân. Sức mạnh vô địch của hệ tư
tưởng của giai cấp công nhân bắt nguồn từ bản chất khoa học và cách mạng của nó.
Hệ tư tưởng đó phản ánh một cách trung thực các qui luật khách quan của sự phát
triển xã hội và biểu hiện những nhu cầu tất yếu của sự phát triển lịch sử của thời đại
ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) trên
phạm vi toàn thế giới
* Khái niệm giáo dục chính trị - tư tưởng
Hai khái niệm “chính trị” và “tư tưởng” có một phần nội hàm trùm lên nhau
là tư tưởng chính trị. Nếu ngăn cách chúng bằng dấu phẩy sẽ không biểu thị được
mối quan hệ chặt chẽ giữa chính trị và tư tưởng. Nếu chỉ dùng cơng tác giáo dục
chính trị sẽ được hiểu trong đó bao hàm cả hoạt động đào tạo kỹ năng, kỹ xảo về

chính trị. Do đó, chính trị - tư tưởng trở thành một tổ hợp từ mang nghĩa mới, có giá
trị như một tính từ dùng để chỉ một nội dung giáo dục cơ bản nhất của cơng lác tư
tưởng là chính trị. Tuy nhiên, khơng thể thay thế công tác GDCT-TT bằng công tác
giáo dục tư tưởng chính trị bởi nội dung của cơng tác GDCT-TT khơng chỉ có tư
tưởng chính trị vốn mang tính giai cấp sâu sắc mà còn những tri thức, giá trị chính
trị chung của nhân loại, những vấn đề chính trị thực tiễn, kinh nghiệm chính
trị...Mặt khác, tuy mục đích của công tác GDCT-TT trước hết là hướng vào cải tạo ý
thức lý luận, nhưng nó khơng chỉ tác động vào hệ tư tưởng mà còn tác động đến cả
đời sống tâm lý, tình cảm chính trị của đối tượng. Cơng tác GDCT-TT tuy lấy
nhiệm vụ giáo dục tư tưởng là chính nhưng khơng chỉ nhằm hình thành tư tưởng
chính trị mà còn đạt tới hành động của đối tượng.


15
Với nghĩa chung nhất, công tác GDCT-TT là sự tác động có mục đích, có hệ
thống với các hình thức, biện pháp khác nhau của một chủ thể đến khách thể nhằm
nâng cao tri thức (kiến thức, kỹ năng, tình cảm) của khách thể về hệ tư tưởng, đường
lối chính trị, thực hiện tập hợp, tổ chức, định hướng và giác ngộ họ tự giác trong
hoạt động thực tiễn theo mục tiêu đã đề ra.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, giai cấp nào cũng tiến hành công tác
GDCT-TT. Xét về bản chất, công tác GDCT-TT của giai cấp công nhân khác hẳn
với công tác GDCT-TT của giai cấp tư sản. Đó là sự tự giáo dục là chính. Nhân dân
vừa là khách thể vừa là chủ thể của công tác GDCT-TT. Hơn nữa, công tác GDCTTT của giai cấp cơng nhân là để hình thành thế giới quan khoa học và nhân sinh
quan Mác - xít, nhằm tập hợp, cổ vũ động viên mọi người tự giác phấn đấu cho mục
tiêu chung, vì lợi ích chung, trong đó có lợi ích của chính mình.
Nhiệm vụ của cơng tác GDCT-TT ở nước ta: là giáo dục lý luận chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước; giáo dục, tuyên truyền các nghị quyết, chương trình, kế
hoạch phát triển KT-XH của địa phương, cơ sở. Mục tiêu của cơng tác GDCT-TT là
nhằm nâng cao trình độ lý luận chính trị, bản lĩnh và sự giác ngộ lý tưởng cách

mạng; nâng cao và tăng cường năng lực trong đấu tranh chống các trào lưu lý luận,
tư tưởng phản động, chống chiến lược “Diễn biến hồ bình” trên lĩnh vực tư tưởng;
góp phần xây dựng đạo đức, lối sống có văn hố, văn hố học đường, văn hố cơng
dân... Chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng với mục
tiêu khơng gì khác là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là lợi ích của
nhân dân lao động. Do đó, vấn đề cốt lõi trong GDCT-TT cho đội ngũ cán bộ trước
hết phải là ý thức về mục tiêu của dân tộc, của Đảng, mục tiêu của nhân dân.
Một trong những nhiệm vụ cơ bản và xuyên suốt trong quá trình xây dựng,
chỉnh đốn Đảng là phải tiến hành tốt công tác GDCT-TT cho đội ngũ cán bộ, đảng
viên nhằm nâng cao nhận thức về quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách,
nghị quyết của Đảng; tạo sự thống nhất cao về chính trị - tư tưởng, trên cơ sở đó
quán triệt các tiêu chuẩn về xây dựng đội ngũ cán bộ nhằm nâng cao năng lực, sức
chiến đấu, tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng.


16
1.1.1.2. Vai trị của cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng
Cơng tác GDCT-TT có vị trí quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Là
một trong những phương thức lãnh đạo, nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của tồn
Đảng, của cả HTCT. Làm tốt cơng tác GDCT-TT là tiền đề thực hiện thắng lợi các
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Công tác GDCT-TT tạo nên sự thống nhất từ
nhận thức đến hành động của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong việc thực thi có
hiệu quả các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật, chỉ thị, nghị quyết của
Đảng, Nhà nước. Đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH, là thời kỳ
đan xen giữa cái cũ và cái mới, tạo ra nhiều tầng nấc nhận thức, đa dạng, phức tạp,
đang xem. Bên cạnh đó kẻ thù đang ráo riết thực hiện âm mưu “Diễn biến hịa bình”
tấn cơng ta trên tất cả mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng mà đối
tượng trước tiên là những cán bộ, đảng viên xa rời quần chúng nhân dân, tư tưởng
chính trị khơng vững vàng. Để khẳng định vai trị của mình trong đời sống xã hội
cán bộ, đảng viên phải là người có trình độ nhận thức cao khơng chỉ về chun

mơn, nghiệp vụ mà cịn phải nhận thức sâu sắc về tình hình chính trị của Đảng, tin
tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và biến niềm tin đó thành hành động. Cơng tác
GDCT-TT góp phần rất quan trọng trong việc nâng cao nhận thức và hình thành
niềm tin cho đảng viên của Đảng ta. Sự phong phú về nội dung, đa dạng về hình
thức cơng tác GDCT-TT đã góp phần nâng cao trình độ nhận thức về lý luận chính
trị, khai thơng tư tưởng cách mạng, ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực trong Đảng và
trong quần chúng nhân dân.
Đất nước đang trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, một nền văn
minh mới của nhân loại, đạt đến đỉnh cao của nền chính trị văn minh. Vì vậy, cơng
tác GDCT-TT cũng nhằm mục đích hình thành văn hóa chính trị cho nhân dân nói
chung và cán bộ, đảng viên nói riêng.
Nội dung chủ yếu của CTGDCT-TT gồm:
- Một là, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước
Cơng tác GDCT-TT là hình thành tri thức chính trị cơ bản, có hệ thống mà
cốt lõi của nó là những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về chính trị và


17
những di sản văn hóa của tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị. Những quan điểm của
Đảng về xây dựng và bảo vệ tổ quốc, những định hướng phát triển đất nước theo
con đường xã hội chủ nghĩa, làm cho thế giới quan khoa học Mác - Lênin và tư
tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vai trị chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã
hội, cần làm cho những tư tưởng, quan điểm đó thâm nhập sâu vào đời sống của
mỗi cán bộ, đảng viên để họ có một tiềm lực chính trị vững vàng, hình thành bản
lĩnh chính trị có hệ thống chuẩn mực, định hướng và điều chỉnh mọi quan hệ chính
trị, thái độ và hành vi chính trị. Trên cơ sở đó làm thất bại mọi thủ đoạn hoạt động,
phá hoại của kẻ thù trên lĩnh vực chính trị - tư tưởng.
- Hai là, giáo dục truyền thống chính trị và những giá trị được đúc kết từ
những truyền thống tốt đẹp của dân tộc

Truyền thống yêu nước nồng nàn, cần cù trong lao động sản xuất, tương than,
tương ái, u chuộng hịa bình của ơng cha ta. Lịng tự hào dân tộc, truyền thống cách
mạng hào hùng của Đảng, của dân tộc trong mọi thời đại; Văn hóa chính trị xã hội
chủ nghĩa là kết quả của sự kế thừa các tinh hoa văn hóa của nhân loại và dân tộc Việt
Nam, chính vì vậy mà cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng, giáo dục chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cần chú trọng giáo dục những giá trị truyền thống
tốt đẹp được hình thành trong quá trình đấu tranh giành độc lập và xây dựng đất nước
của dân tộc.
Một trong những đăc điểm tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam trong
lịch sử là cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước. Hơn nửa chiều dài lịch sử dân tộc
ta luôn phải đương đầu với giặc ngoại xâm, kẻ thù lớn mạnh hơn ta rất nhiều chính
vì hồn cảnh lịch sử đó đã hun đúc cho dân tộc Việt Nam truyền thống bất khuất
kiên cường, không chịu khuất phục trước sự lớn mạnh của kẻ thù, con người Việt
Nam với ý chí cao đẹp tư tưởng vững vàng quyết tâm thực hiện lý tưởng cao đẹp
mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đề ra là …
Kết hợp giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với giáo dục
truyền thống quý báu của dân tộc sẽ góp phần hình thành một nền văn hóa chính trị
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng.
- Ba là, giáo dục lý tưởng chính trị của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động
và của cả dân tộc, đặt niềm tin tuyệt đối vào sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo.


18
Lý tưởng cao đẹp, vững vàng và nền chính trị hiện đại là mục đích cần đạt
tới trong hoạt động chinh trị, làm cơ sở cho việc hình thành niềm tin chính trị và là
động lực thúc đẩy mọi cán bộ, đảng viên tích cực tham gia vào các hoạt động
chính trị. Lý tưởng chính trị cịn là căn cứ để xác định phương tiện, lựa chọn
phương thức hoạt động chính trị thực tiễn. Vì vậy cần phải thường xun giáo dục
nhằm hình thành lý tưởng, tư duy chính trị cho cán bộ, đảng viên.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã khẳng định tổ

chức cơ sở Đảng là hạt nhân chính trị ở cơ sở, vai trò của tổ chức cơ sở Đảng rất
quan trọng, phải dồn sức xây dựng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở Đảng, làm cho tổ chức này thực sự trong sạch vững mạnh. Làm
tốt công tác GDCT-TT, quản lý, giám sát đảng viên về mặt hoàn thành nhiệm vụ và
phẩm chất đạo đức, lối sống, đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực trong Đảng,
phải đổi mới mạnh mẽ công tác xây dựng cơ sở, lấy chuyển biến từ cơ sở làm mục
tiêu và thước đo kết quả tổng hợp của công tác xây dựng Đảng.
Đảng phải làm tốt công tác tư tưởng. Thực hiện tốt nguyên tắc dựa vào nhân
dân để xây dựng Đảng. Thực hiện đồng bộ các biện pháp củng cố tổ chức cơ sở
Đảng, nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, đề cao tự phê bình và phê bình trong
sinh hoạt Đảng, đào tạo, bồi dưỡng, thực hiện việc tiêu chuẩn hóa cán bộ, đảng viên.
1.1.2. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã và vai trò ảnh hưởng của đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã trong thực thi quyền lực chính trị
1.1.2.1. Quan niệm đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
* Cán bộ: Từ “cán bộ” khi mới xuất hiện thường được dùng để chỉ một lớp
người giữ vai trò trọng yếu, là những chiến sĩ cách mạng, sẵn sàng chịu đựng gian
khổ, hy sinh, gắn bó với nhân dân, phục vụ cho sự nghiệp cao cả giành độc lập, tự
do cho dân tộc. Cho đến nay, từ cán bộ đã được dùng với rất nhiều nghĩa khác nhau:
- Trong tổ chức đảng và đoàn thể, từ cán bộ được dùng với hai nghĩa:
Một là, để chỉ những người được bầu vào các cấp lãnh đạo, chỉ huy từ cơ sở
đến Trung ương (cán bộ lãnh đạo) để phân biệt với đảng viên thường, đồn viên, hội
viên.
Hai là, những người làm cơng tác chuyên trách có hưởng lương trong các tổ
chức đảng và đoàn thể.


19
- Trong hệ thống nhà nước, từ cán bộ được hiểu cơ bản là trùng với từ công
chức, chỉ những người làm việc trong cơ quan nhà nước thuộc ngành hành chính, tư
pháp, kinh tế, văn hố và xã hội. Đồng thời, cán bộ cũng được hiểu là những người

có chức vụ chỉ huy, phụ trách, lãnh đạo (trưởng, phó phòng, vụ, cục,...).
Ngày 13 tháng 11 năm 2008, tại kỳ hợp thứ tư Quốc hội khố XII đã thơng
qua Luật Cán bộ, cơng chức, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2010. Tại khoản
1 Điều 4 đã quy định: Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ
nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố
trực thuộc tỉnh (sau đây gọi là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân
sách nhà nước.
Như vậy, Luật Cán bộ, công chức là căn cứ pháp lý quan trọng để hiểu đúng
bản chất, ý nghĩa của từ “cán bộ”.
* Cán bộ cấp xã: được quy định tại Khoản 3 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức: "Cán
bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, được
bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội."
* Đội ngũ cán bộ chủ chốt: là những người đứng đầu quan trọng nhất, có
chức vụ cao nhất trong một tập thể, có quyền ra những quyết định, có trách nhiệm
và quyền điều hành một tập thể, một đơn vị, một tổ chức để thực hiện những nhiệm
vụ của tập thể hoặc tổ chức ấy, thậm chí có thể chi phối, dẫn dắt tồn bộ hoạt động
của một tổ chức nhất định. Đây là lực lượng nòng cốt trong đội ngũ cán bộ, là nhân
tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của cả hệ thống chính trị.
Khi xác định cán bộ, cơng chức (CBCC) cần đặt cán bộ trong một tổ chức
nhất định, dựa vào các chức trách cụ thể của mỗi cán bộ và đặt trong mối quan hệ với
toàn bộ hệ thống tổ chức. Nhiều cán bộ ở cương vị này, trong tổ chức này là CBCC
nhưng trong mối quan hệ khác, vị trí khác lại khơng phải là cán bộ chủ chốt. Chẳng
hạn, Bí thư Đảng uỷ xã là CBCC của xã nhưng không là CBCC của huyện, mặc dù
cán bộ đó có thể là Huyện uỷ viên...


20

* Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã:
Là những người đứng đầu quan trọng nhất trong hệ thống bộ máy đảng,
chính quyền, lực lượng vũ trang, mặt trận và các đồn thể chính trị - xã
hội ở xã, có tác dụng chính, chi phối việc chấp hành chủ trương, nghị
quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thông qua việc lãnh
đạo và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ KT-XH trên địa bàn nông thôn mà
họ phụ trách [26, tr.34].
Theo quan niệm trên, ĐNCBCC cấp xã hiện nay bao gồm: Bí thư Đảng uỷ xã;
Chủ tịch, Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân xã; Chủ tịch, Phó chủ tịch Uỷ ban nhân
dân xã; Trưởng công an xã; Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự xã; Chủ tịch Mặt
trận Tổ quốc xã; Bí thư Đồn Thanh niên xã; Chủ tịch Hội nông dân xã; Chủ tịch Hội
liên hiệp phụ nữ xã; Chủ tịch Hội cựu chiến binh xã.
Như vậy, ĐNCBCC cấp xã là những người giữ những trọng trách quan trọng
ở cơ sở, trực tiếp lãnh đạo, quản lý các hoạt động ở cơ sở. Mọi đường lối, chủ
trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều phải thông
qua hoạt động tổ chức thực hiện của đội ngũ này mới đi vào cuộc sống. Từ Đại hội
Đảng lần thứ VI (1986) đến Đại hội XII của Đảng (2016), về công tác cán bộ, Đảng
ta luôn khẳng định và coi trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, trong đó
có ĐNCBCC các cấp xứng tầm địi hỏi của tình hình và nhiệm vụ.
1.1.2.2. Vai trò, ảnh hưởng của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã trong thực
thi quyền lực chính trị
Đội ngũ CBCC cấp xã có vai trị hết sức quan trọng trong xây dựng và hồn
thiện bộ máy chính quyền cơ sở, trong hoạt động thi hành công vụ. Hiệu lực, hiệu
quả của bộ máy chính quyền cấp xã nói riêng và hệ thống chính trị (HTCT) cấp xã
nói chung, xét đến cùng được quyết định bởi phẩm chất, năng lực và hiệu quả cơng
tác của ĐNCBCC cấp xã. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng GDCT-TT cho
ĐNCBCC cấp xã vững vàng về chính trị, văn hóa, có đạo đức lối sống trong sạch,
có trí tuệ, kiến thức và trình độ năng lực để thực thi chức năng, nhiệm vụ theo đúng
pháp luật, bảo vệ lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và phục vụ nhân dân... là
một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng, Nhà nước và cả HTCT.



21
Đảng và Nhà nước ta đã xác định công tác cán bộ là khâu quan trọng nhất, có
ý nghĩa quyết định tới chất lượng và hiệu quả công việc, là khâu then chốt trong sự
nghiệp cách mạng, là một trong những yếu tố quan trọng góp phần vào những thành
cơng trong sự nghiệp đổi mới đất nước, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Lúc sinh
thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định “Cán bộ là những người đem chính
sách của Đảng, của Chính phủ, giải thích cho dân chúng hiểu và thi hành. Đồng
thời, đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt
chính sách cho đúng”.[30, tr.178]
Đội ngũ cán bộ, cơng chức cấp xã có vai trị quyết định trong việc cụ thể hóa
đường lối lãnh đạo của Đảng, thực thi sự quản lý của Nhà nước; do đó sự vững mạnh
của ĐNCBCC cấp xã nói riêng và HTCT cấp xã nói chung phụ thuộc vào nhiều yếu
tố, một trong những yếu tố mang tính chất quyết định là chất lượng của đội ngũ cán
bộ. Bất cứ lúc nào và ở đâu, vai trò của ĐNCBCC cũng rất quan trọng đối với sự
nghiệp cách mạng. Đối với cấp xã, vai trị đó được thể hiện trên các phương diện sau:
- Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã giữ vai trị quyết định trong việc hiện
thực hóa sự lãnh đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước về mọi mặt của đời sống KTXH ở địa phương. Xã, phường, thị trấn là cấp cuối cùng trong hệ thống bốn cấp ở
nước ta, là cấp quan trọng nhất. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước về các vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế… đều
được thực hiện ở cơ sở xã, phường, thị trấn. Cấp cơ sở xã, phường, thị trấn có vững
mạnh mới tạo ra sự vững mạnh cho cấp trên và cả nước. Để thực hiện tốt nhiệm vụ
này, cán bộ cấp xã, phường, thị trấn cần phải có sự cố gắng, nỗ lực lớn, phải khơng
ngừng rèn luyện phẩm chất đạo đức, nâng cao trình độ, năng lực mới có khả năng đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
được thực hiện từ cấp xã, phường, thị trấn, là người trực tiếp lãnh đạo và tổ chức
quần chúng thực hiện sáng tạo các nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước
thông qua các phong trào cách mạng của quần chúng ở địa phương, đội ngũ cán bộ

cấp xã tạo nên những thành tựu phát triển KT-XH ở địa phương, cung cấp những kinh
nghiệm từ thực tiễn, góp phần rất quan trọng cho sự phát triển của đất nước.


22
Là cấp gần dân, ĐNCBCC cấp xã là chỗ dựa của Đảng và Nhà nước để lãnh
đạo nhân dân phát triển KT-XH, triển khai đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước đến mọi người dân và phản ánh tình hình, nguyện vọng của nhân
dân cho Đảng. Thơng qua CBCC cấp xã mà ý Đảng - lòng dân được thống nhất, làm
cho Đảng và Nhà nước có cơ sở bám rễ, ăn sâu trong quần chúng, tạo nên mối quan
hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân, trực tiếp xây dựng và củng cố niềm tin của
nhân dân đối với Đảng và chế độ.
- Đội ngũ cán bộ, cơng chức cấp xã giữ vai trị quyết định trong việc xây
dựng hệ thống tổ chức bộ máy vững mạnh và phong trào cách mạng của quần chúng
sâu rộng ở cơ sở. Họ là những trụ cột, là trung tâm đoàn kết, tổ chức, sắp xếp, tập
hợp lực lượng, là linh hồn của các tổ chức trong hệ thống đó; tác động quyết định đến
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, đến năng lực và hiệu quả
quản lý của chính quyền, hoạt động của các đoàn thể quần chúng ở cơ sở. HTCT ở cơ
sở có hồn thành được nhiệm vụ của mình hay không, trước hết tùy thuộc vào đội
ngũ cán bộ, cơng chức cấp xã. Vì vậy, củng cố, kiện tồn ĐNCBCC cấp xã mới là
điều kiện cần để tăng cường khả năng lãnh đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước,
góp phần thúc đẩy KT-XH ở địa phương phát triển.
Đội ngũ cán bộ, cơng chức cấp xã có điều kiện đi sâu, đi sát và nắm vững tình
hình, kịp thời hướng dẫn, hỗ trợ và nhân lên thành các phong trào cách mạng sâu
rộng. Từ thực tiễn phong phú, tổng kết những kinh nghiệm, đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã sẽ góp phần khơng nhỏ vào việc xây dựng và hồn thiện chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Trong thực tế, ĐNCBCC cấp xã đều ở tuyến đầu của hoạt động sản xuất,
công tác, chiến đấu… nên họ rất thực tế, có tri thức và khả năng sáng tạo trong thực
tiễn. Thực tiễn ở cơ sở là môi trường rất quan trọng tạo điều kiện cho cán bộ trưởng

thành. Song, do chưa thấy hết vị trí chiến lược của cơ sở, nên vẫn còn một số người
coi cơ sở là thấp kém, khơng có tiền đồ, họ không phấn khởi khi công tác ở cơ sở,
chưa thấy cơ sở là trường học thiết thực và là cơ hội rèn luyện và trưởng thành của
mình. ĐNCBCC cấp xã có ý nghĩa quyết định trong việc thực hiện các nhiệm vụ
chính trị của địa phương. Vì vậy, cơng tác đào tạo, bồi dưỡng cho ĐNCBCC cấp xã
có vị trí, vai trị rất quan trọng.


23
Bước sang đầu thế kỷ XXI, tồn cầu hố đang tác động mạnh mẽ đến mọi
quốc gia, mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội, đòi hỏi các quốc gia nhất là các nước
nghèo và chậm phát triển phải lựa chọn chính sách phát triển cho phù hợp, vừa tận
dụng được cơ hội của q trình tồn cầu hố, biết vận dụng để biến thành lợi thế cho
mình, vừa phải bảo tồn được những giá trị, bản sắc văn hoá dân tộc, giữ vững độc
lập, tự chủ của quốc gia. Trong xu thế chung đó, Việt Nam phải chủ động hội nhập
kinh tế thế giới, đồng thời phải bảo vệ độc lập, chủ quyền và lợi ích quốc gia… Các
thế lực thù địch chưa từ bỏ âm mưu xoá bỏ chủ nghĩa xã hội, tiến hành chiến lược
diễn biến hoà bình, tập trung chống phá các nước có chế độ xã hội chủ nghĩa bằng
nhiều thủ đoạn tinh vi. Mặt trái của cơ chế thị trường tạo ra hàng loạt vấn đề phức tạp
mới, làm phai nhạt lý tưởng cách mạng của một bộ phận cán bộ đảng viên, làm giảm
ý chí phấn đấu cho một xã hội cơng bằng, văn minh. Nạn tham nhũng, lãng phí trong
bộ máy Đảng và Nhà nước, làm thoái hoá biến chất một bộ phận khơng nhỏ đến cán
bộ đảng viên trong đó có ĐNCBCC cấp xã.
Trước bối cảnh đầy biến động, phức tạp đó, vấn đề nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của các tổ chức Đảng, khả năng lãnh đạo của các cấp chính
quyền để từng bước đưa đất nước phát triển bền vững là một yêu cầu bức thiết. Để
thực hiện điều đó, địi hỏi phải chú trọng việc GDCT-TT cho ĐNCBCC cấp xã vững
mạnh, đây là nhân tố có vị trí quyết định. Điều đó địi hỏi các cấp ủy phải tăng cường
hơn nữa trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đặc biệt là ĐNCBCC các cấp, mà
ĐNCBCC cấp xã là rất cấp thiết hiện nay.

1.1.3. Vai trị của cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp xã
Cơng tác GDCT-TT đóng vai trị quan trọng trong tiến trình cách mạng, là bộ
phận quan trọng trong cơng tác tư tưởng của Đảng ta. Nó khơng chỉ trang bị cho cán
bộ, đảng viên và nhân dân ta những kiến thức, nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; góp phần hình thành thế giới quan, nhân sinh quan
khoa học và lý tưởng cách mạng; mà thông qua hoạt động này giúp cán bộ, đảng
viên nâng cao hơn trình độ lý luận chính trị, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, nâng cao
nhận thức, bản lĩnh chính trị, nhằm thống nhất ý chí và hành động của cán bộ, đảng


24
viên và nhân dân trong việc thực hiện thắng lợi đường lối, nhiệm vụ của cách mạng
do Đảng đề ra.
Công tác GDCT-TT cho ĐNCBCC cấp xã là một nhiệm vụ trọng yếu trong
thực hiện chiến lược của công tác cán bộ thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế,
theo đó tiến tới việc cơng chức hóa, chuẩn hóa đội ngũ, trẻ hóa cơ cấu CBCC cấp xã.
Luật cán bộ, công chức năm 2008 đã khẳng định CBCC cấp xã là những “cán bộ,
cơng chức cấp xã”, do đó, họ phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, công vụ được giao,
phải có trình độ học vấn, lý luận chính trị, hành chính, chun mơn nghiệp vụ để
được xếp lương theo chức vụ, ngạch bậc nhất định. Trên thực tế, không ít CBCC cấp
xã hiện nay chưa được đào tạo bài bản để có đủ các điều kiện chuẩn hố về trình độ
để đáp ứng tiêu chuẩn của cán bộ, cơng chức cấp xã nhưng họ lại là những người có
nhiều kinh nghiệm thực tiễn, gần gũi với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm và giữ
vai trị quan trọng ở cơ sở khơng thể dễ dàng thay thế. Do đó, cần đào tạo, bồi dưỡng
toàn diện cho đội ngũ này để thực hiện chuẩn hóa.
Với vị trí, vai trị của ĐNCBCC cấp xã bên cạnh việc đào tạo, bồi dưỡng lý
luận chính trị, hành chính, chun mơn, nghiệp vụ, thì việc GDCT-TT là một kênh
hết sức quan trọng trong việc nâng cao nhận thức chính trị, sự giác ngộ và vững vàng
về bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng, năng lực xử lý các vấn đề thuộc về chuyên

môn cho ĐNCBCC cấp xã. Qua đó, góp phần xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong
sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, của HTCT
cơ sở đem lại niềm tin và sự gắn bó giữa Đảng với nhân dân, quyết tâm xây dựng
cuộc sống mới dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Công tác GDCT-TT cho ĐNCBCC cấp xã là cơ sở, nền tảng để nâng cao năng
lực, hiệu quả thực thi công vụ của CBCC cấp xã. GDCT-TT sẽ giúp cho CBCC cấp
xã có khả năng xem xét và giải quyết các tình huống lãnh đạo, quản lý ở địa phương
một cách khoa học, phù hợp với quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước, làm
cho người cán bộ lãnh đạo phát huy tốt hơn năng lực công tác và hoạt động có hiệu
quả cao hơn; khắc phục được lối làm việc theo kinh nghiệm, quản lý thủ công, sự vụ,
sự việc, luộm thuộm.


25
Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XII) đã chỉ rõ: Tình trạng suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn…. Một trong
những ngun nhân của tình trạng trên là do cơng tác GDCT-TT cho cán bộ, đảng
viên về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giảng dạy và học tập nghị
quyết của Đảng chưa được coi trọng đúng mức, kém hiệu quả, nội dung và phương
pháp giáo dục, truyền đạt chậm đổi mới…Do đó, việc nâng cao chất lượng cơng tác
GDCT-TT sẽ góp phần đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng chính
trị cho ĐNCBCC cấp xã hiện nay.
Tình hình chính trị, KT-XH của các địa phương, cơ sở hiện nay đang có
những biến chuyển mới tích cực xu thế thời đại và sự hội nhập ngày càng sâu rộng
đã và đang tạo ra nhiều thời cơ, thuận lợi. Bên cạnh đó, cũng đặt ra nhiều khó khăn,
thách thức, sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, cùng với sự chống phá,
gây khó khăn của các thế lực thù địch bằng các thủ đoạn tinh vi và quyết liệt hơn,
đang đặt ra cho các địa phương, cơ sở những yêu cầu, nhiệm vụ và thách thức mới,
đòi hỏi ĐNCBCC cấp xã cũng phải có những nhận thức mới cho phù hợp với yêu

cầu của thực tiễn, phải nêu cao ý thức tự học tập, tu dưỡng, rèn luyện trong thực
tiễn, để nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, tri thức khoa học cần thiết và
phẩm chất đạo đức, lối sống, phương pháp và tác phong làm việc, công tác đáp ứng
địi hỏi ngày một cao hơn của tình hình, nhiệm vụ mới. Vì vậy, cơng tác GDCT-TT
cho ĐNCBCC cấp xã lại càng trở nên quan trọng và cấp bách.
1.2. CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH CƠNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ - TƯ
TƯỞNG CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ

1.2.1. Chủ thể và đối tượng của công tác giáo dục
chính trị - tư tưởng
- Chủ thể cơng tác GDCT-TT cho ĐNCBCC cấp xã là cấp ủy huyện mà trực
tiếp người đứng đầu là bí thư cấp ủy, người chịu trách nhiệm cao nhất, trực tiếp phụ
trách và chỉ đạo cơng tác GDCT-TT của chi, đảng bộ. Trong đó, chủ thể trực tiếp
làm công tác này là đội ngũ các BCV, tuyên truyền viên của huyện, là người trực
tiếp làm công tác giảng dạy, bồi dưỡng, GDCT-TT cho ĐNCBCC cấp xã.


×