Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh hà giang hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (689.92 KB, 94 trang )

LUẬN VĂN:

Nâng cao trình độ lý luận chính trị
cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
ở tỉnh hà giang hiện nay


Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn 20 năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân,
công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được những thành tựu to
lớn và có ý nghĩa lịch sử, đất nước ta đã có sự thay đổi đến cơ bản và toàn diện trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đại hội lần thứ X của Đảng đã đề ra mục tiêu và
phương hướng tổng quát giai đoạn 2006 - 2010 là:
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, phát huy sức mạnh đoàn
kết toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn dân công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng
tốt nguồn lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; phát triển văn hoá;
thực hiện tiến bộ công bằng xã hội; tăng cường quốc phòng và an ninh mở
rộng quan hệ đối ngoại; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định
chính trị - xã hội; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền
tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại [20, tr.76].
Để thực hiện mục tiêu tổng quát của giai đoạn 2006 - 2010 cũng như mục tiêu
tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nói chung (xây dựng xong về
cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị và
tư tưởng văn hoá phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn
vinh), một trong những giải pháp quan trọng là nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý, trình
độ lý luận cho đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt.
Thực tiễn cách mạng ở nước ta đã khẳng định, sau khi có đường lối đúng, nhân tố
quyết định sự thành công hay không thành công của sự nghiệp cách mạng phụ thuộc vào
vai trò, năng lực hoạt động lãnh đạo, quản lý và tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ, đặc


biệt là đội ngũ cán bộ cán bộ chủ chốt - những người có vai trò trọng yếu trong các tổ
chức Đảng, Chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã hội Vì vậy, đội ngũ cán bộ này
phải là những người thật sự tiêu biểu, có lập trường giai cấp và bản lĩnh chính trị kiên
định; có phẩm chất đạo đức tốt, trình độ học vấn, năng lực công tác đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ chính trị được giao. Thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước


đang đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ và phức tạp, trong đó công tác giáo dục, bồi dưỡng cán
bộ đang đứng trước những thách thức mới, đó là:
Trong điều kiện cơ chế thị trường, kinh tế nhiều thành phần, mở cửa với
bên ngoài, cán bộ, đảng viên hàng ngày hàng giờ chịu sự tác động của nhiều
nhân tố rất phức tạp, kể cả những hoạt động chống phá Đảng, vấn đề giữ vững
bản chất giai cấp công nhân của Đảng đứng trước những thử thách mới [13,
tr.137].
Trên thực tế chất lượng, hiệu quả:
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng,
đạo đức lối sống…chưa đúng mức, tính định hướng, tính chiến đấu, tính giáo
dục thuyết phục chưa cao… Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên nhạt
phai lý tưởng, giảm sút ý chí chiến đấu… Tình thương yêu đồng chí bị giảm
sút. Tình trạng suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống trong một bộ
phận cán bộ, đảng viên rất đáng lo ngại; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí,
tiêu cực còn xảy ra ở nhiều nơi, nhưng chậm được phát hiện, ngăn chặn, đẩy
lùi có hiệu quả… [19, tr 91- 92].
Vì vậy, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, và năng lực cho đội ngũ
cán bộ chủ chốt theo yêu cầu giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng là một việc
làm có ý nghĩa cấp thiết.
Trình độ lý luận chính trị của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở là một trong những
tiêu chuẩn cơ bản, có quan hệ mật thiết đến sự phát triển kinh tế, xã hội, an ninh chính trị
và trật tự an toàn xã hội ở địa phương, thúc đẩy sự phát triển chung cho cả tỉnh, vùng và
cả nước. Điều đó đòi hỏi ở người cán bộ chủ chốt cấp xã phải có một trình độ lý luận

chính trị nhất định. Cán bộ chủ chốt cấp xã có nắm vững, hiểu biết lý luận chính trị thì
mới nắm chắc các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước, từ đó mà vận dụng một cách sáng tạo vào tình cụ thể ở địa phương. Trình độ lý
luận chính trị còn giúp cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã có cơ sở tổng kết một cách
có hiệu quả tình hình thực tiễn ở địa phương, qua đó rút ra những bài học kinh
nghiệm, những kết luận , góp phần vào việc sửa đổi, bổ sung và phát triển lý luận,


đường lối, chính sách... của Đảng và Nhà nước. Do đó cán bộ chủ chốt nói chung và
cán bộ chủ chốt cấp xã nói riêng để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình thì cần phải có
trình độ, trong đó có trình độ lý luận chính trị.
Đứng trước yêu cầu và nhiệm vụ mới của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, đội ngũ lãnh đạo chủ chốt cấp xã, phường, thị trấn ở nước ta nói chung và ở tỉnh
Hà Giang nói riêng còn yếu và hạn chế nhiều mặt như: Bản lĩnh chính trị, trình độ nhận
thức chính trị, năng lực tổ chức quản lý, năng lực chỉ đạo hoạt động thực tiễn, phẩm chất
đạo đức cách mạng… Nhiều cán bộ được đề bạt, bổ sung vào những cương vị chủ chốt,
nhưng chưa qua đào tạo cơ bản về chuyên môn cũng như lý luận chính trị. Do đó, khi xử
lý công việc còn tuỳ tiện, kinh nghiệm, giáo điều, chưa vận dụng đúng với đường lối, chủ
trương, quan điểm của Đảng vào thực tiễn của địa phương, cơ sở. Để khắc phục tình
trạng trên cần phải giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, trong
đó vấn đề có ý nghĩ cấp bách là phải đổi mới, tăng cường hơn nữa công tác đào tạo nâng
cao trình độ lý luận chính trị nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách
mạng…cho họ trong quá trình chỉ đạo hoạt động thực tiễn ở địa phương. Chính vì vậy,
việc nghiên cứu, khảo sát, đánh giá thực trạng và đề ra các giải pháp cụ thể, thiết thực
nhằm nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã có ý nghĩa
hết sức quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn, nhằm góp phần đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Với những lý do trên, tác giả chọn vấn đề: “Nõng cao trỡnh độ lý luận chính trị
cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xó ở tỉnh Hà Giang hiện nay”, làm đề tài luận văn tốt
nghiệp


thạc

sỹ

khoa

học

chính

trị,

chuyên

ngành

Triết học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay, vấn đề nâng cao trình độ lý luận chính trị được xác định là trọng tâm
trong công tác tư tưởng của Đảng. Đây cũng là vấn đề thu hút được sự quan tâm của rất
nhiều nhà nghiên cứu.
Trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu của nhiều tác giả đề
cập ở nhiều góc độ khác nhau với những hình thức thể hiện khác nhau được đăng tải trên


sách, báo, tạp chí cả Trung ương và địa phương, có nội dung liên quan đến đề tài này. Đó
là nguồn tư liệu quý báu giúp tác giả tham khảo, kế thừa trong quá trình nghiên cứu hoàn
thiện


luận

văn

của

mình như:
"Quan hệ giữa lý luận và chính trị" của Nguyễn Thế Phấn, Tạp chí Cộng sản, số
8/1992; "Mấy vấn đề trong công tác lý luận" của Đỗ Nguyên Phương, Tạp chí Tư tưởng
văn hoá, số 7/1992; Hồ Bá Thâm “Phát triển năng lực tư duy của người lãnh đạo quản lý
hiện nay”, Tạp chí Cộng sản số 23/ 2002; Nguyễn Thái Sơn “Đổi mới công tác đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chủ chốt” Nhà xuất bản Lý luận chính trị, 2001; Trần Thành
“Tư duy lý luận đối với người cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn”, Nhà xuất bản Lý luận
chính trị, 2001; Ngô Ngọc Thắng “Đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán
bộ cấp cơ sở trong thời kỳ đổi mới”, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, 2004;Luận văn thạc
sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1995, "Nâng cao trình độ tư
duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã miền núi hiện nay" của Đỗ Cao Quang;
Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1998; "Nâng
cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện ở nước ta hiện
nay" của Vũ Đình Chuyên; Luận văn thạc sỹ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, năm 2001, “Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
cấp huyện ở tỉnh Cao Bằng trong giai đoạn hiện nay” của Nông Văn Tiềm; Luận văn thạc
sỹ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2006, “Nâng cao trình độ lý
luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp xã miền Tây Nam Bộ hiện
nay” của Tô Hoàng Hiệp.
Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu, đặt ra những vấn đề rất cơ bản cả về lý
luận lẫn thực tiễn, đề ra những phương hướng và giải pháp để nâng cao trình độ lý luận chính
trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cấp này, cấp khác. Tuy nhiên, do giới hạn về mục
tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, nên cho tới nay chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách chi tiết, đầy đủ, có hệ thống và chuyên sâu về thực trạng cũng như nêu

ra những giải pháp để nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh
Hà Giang. Vì vậy, nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng


đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh
Hà Giang, từng bước góp phần khắc phục tình trạng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở
vừa thiếu lại vừa yếu như hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Luận văn làm rõ vai trò của lý luận chính trị và thực trạng trình độ lý luận chính trị
đối với hoạt động lãnh đạo, quản lí của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Hà Giang;
trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao trình độ lý luận chính trị
cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Hà Giang hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ
chủ yếu sau đây:
- Phân tích làm rõ bản chất, vai trò của lý luận chính trị đối với việc nâng cao tư
duy lý luận, năng lực, trình độ lãnh đạo, quản lý, cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã.
- Phân tích, đánh giá thực trạng, yêu cầu và nguyên nhân về trình độ lý luận chính
trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Hà Giang hiện nay.
- Đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ
chủ chốt cấp xã ở tỉnh Hà Giang hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu việc nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh danh Giang hiện nay bao gồm các chức danh: Bí thư, Phó bí
thư Đảng uỷ; Chủ tịch, Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân; Chủ tịch, Phó chủ tịch Uỷ ban
nhân dân.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
- Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm, đường lối, chủ

trương, chính sách của Đảng và Nhà nước liên quan đến công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận
chính trị cho cán bộ.


- Các nghị quyết, chương trình hành động, quyết định, chỉ thị, báo cáo tổng kết của
tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang.
- Kế thừa, vận dụng, phát triển các công trình của các tác giả đi trước đã nghiên cứu
những nội dung liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, kết hợp sử dụng các phương pháp cụ thể như: Phân tích, tổng hợp, thống
kê, điều tra xã hội học...
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ vai trò, tầm quan trọng của lý luận chính trị đối với
cán bộ chủ chốt cấp xã và tính tất yếu phải nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã ở Hà Giang.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao trình độ lý luận chính trị cho
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Hà Giang qua nghiên cứu, đánh giá khái quát thực
trạng trình độ lý luận chính trị của cán bộ chủ chốt cấp xã ở Hà Giang.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Những giải pháp rút ra trong luận văn góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực
tiễn cho việc xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã của
tỉnh Hà Giang nói riêng, của các tỉnh miền núi phía Bắc nói chung.
- Là tài liệu tham khảo cho cán bộ quản lý, giáo viên của Trường Chính trị trong
công tác đào tạo, bồi dưỡng, lý luận cho cán bộ, đảng viên.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương, 4 tiết.




Chương 1
lý luận chính trị và vai trò của lý luận chính trị
đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã hiện nay

1.1. Lý luận chính trị và vai trò của lý luận chính trị
1.1.1. Bản chất của lý luận chính trị
Lịch sử xã hội loài người trước hết là lịch sử của thực tiễn cải tạo tự nhiên và xã
hội. Thực tiễn đã chứng minh rằng: khi xã hội phân chia thành giai cấp thì bất kỳ một giai
cấp, một chính đảng nào muốn giữ được địa vị thống trị xã hội thì trước hết phải nâng
cao trình độ trí tuệ, trình độ lý luận cho giai cấp mình.
V.I.Lênin đã chỉ rõ: không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách
mạng, chỉ có chính đảng nào có được lý luận tiên phong dẫn đường thì đảng đó mới hoàn
thành vai trò cách mạng tiền phong. Do đó, khi nói đến Đảng chính trị là đồng thời nói
đến hệ thống lý luận - nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ấy.
Theo Từ điển tiếng Việt: “Lý luận là hệ thống những tư tưởng được khái quát từ
những kinh nghiệm thực tiễn, có tác dụng chỉ đạo thực tiễn. Lý luận là những kiến thức
được khái quát và hệ thống hoá trong một lĩnh vực nào đó” [38, tr.544-545].
Từ điển Triết học đã định nghĩa: “Lý luận là hệ thống những tri thức đã được khái
quát, tạo ra một quan niệm hoàn chỉnh về các quy luật và mối liên hệ cơ bản của hiện
thực” [50,tr.341].
Đọc diễn văn khai mạc tại lớp học lý luận khoá I Trường Nguyễn ái Quốc, ngày
7/9/1957, khi nói về lý luận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Lý luận là sự tổng kết
những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại
trong quá trình lịch sử” [36, tr.497].
Mặc dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau về lý luận nhưng tất cả các định nghĩa
trên đều có điểm thống nhất ở chỗ: lý luận là sự khái quát những kinh nghiệm thực tiễn,
là sự tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội được tích luỹ trong quá trình hoạt
động lịch sử của con người; phản ánh mối liên hệ bản chất, mang tính quy luật của sự vật,
hiện tượng trong một lĩnh vực nào đó của hiện thực khách quan và có vai trò hướng dẫn



hoạt động thực tiễn. Trong mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn thì thực tiễn chính là
yếu tố cơ sở, nền tảng, quyết định sự hình thành lý luận. Mỗi bước phát triển của hoạt
động thực tiễn lại làm nảy sinh yêu cầu mới đòi hỏi phải được nghiên cứu, khái quát và
do đó được bổ sung vào lý luận những nhận thức mới. Nhờ đó mà lý luận hoàn thiện và
phát triển hơn. Ngược lại, trong mỗi hoạt động thực tiễn, lý luận hướng dẫn, mở đường
cho thực tiễn phát triển bằng những tổng thể tri thức nhất định. Không có hoạt động thực
tiễn nào đơn thuần là kinh nghiệm cụ thể, cũng như không có hệ thống tri thức lý luận
nào không xuất phát từ sự tổng kết thực tiễn.
Quá trình nhận thức của con người có thể khái quát lại dưới hai cấp độ: tri thức
kinh nghiệm và tri thức lý luận. Tri thức kinh nghiệm là những tri thức do con người tiếp
nhận trực tiếp từ việc quan sát sự vật, hiện tượng cụ thể, khách quan; những tri thức này
còn mang tính rời rạc, bề ngoài, riêng lẻ, ngẫu nhiên chưa mang tính chặt chẽ, sâu sắc,
chưa đi sâu vào bản chất của sự vật hiện tượng. Do đó, phạm vi áp dụng cũng như tính
hướng dẫn, chỉ đạo của tri thức kinh nghiệm thường bị hạn chế trong phạm vi hẹp. Khẳng
định điều đó, Ph.Ăng ghen viết “Sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự nó không bao giờ
có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu” [30, tr.718]; cho nên, biện chứng của quá
trình nhận thức tất yếu vươn tới một tri thức sâu sắc hơn, bản chất hơn, đó là tri thức lý
luận.
Tri thức lý luận ở trình độ cao hơn so với tri thức kinh nghiệm. Bởi vì, tri thức lý
luận có được là dựa trên cơ sở khái quát từ những tri thức kinh nghiệm và được nâng nên
ở trình độ cao hơn, sâu sắc hơn về bản chất và quy luật của sự vật. Chính vì vậy, phạm vi
áp dụng cũng như tính hướng dẫn, cải tạo của tri thức lý luận rộng hơn so với tri thức
kinh nghiệm. Tri thức lý luận làm cho hoạt động của con người trở lên chủ động, tự giác
hơn, tránh được tình trạng mò mẫm, tự phát trong quá trình nhận thức, cũng như cải tạo
tự nhiên, cải tạo xã hội.
Mặc dù tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận có khác nhau về trình độ nhưng
giữa chúng lại có điểm chung là đều phản ánh hiện thực khách quan và có quan hệ chặt
chẽ với nhau. Kinh nghiệm thực tiễn có vai trò quan trọng đối với lý luận, là cơ sở để

tổng kết khái quát thành lý luận. Kinh nghiệm còn là căn cứ để con người xem xét, bổ


sung, sửa đổi và không ngừng phát triển lý luận; lý luận càng chính xác, khoa học hơn
nếu được xây dựng trên nhiều kinh nghiệm thực tiễn.
Tri thức lý luận được hình thành từ sự tổng kết, khái quát kinh nghiệm nhưng lại
phải thông qua sự trừu tượng hoá, khái quát hoá của tư duy; cho nên bản thân nó chứa
đựng khả năng thiếu chính xác hoặc xa rời thực tế.
Để tri thức ấy trở thành khoa học thì nó luôn luôn phải được kiểm nghiệm qua
thực tiễn nhằm bổ sung và hoàn thiện phù hợp với thực tiễn. Mặc dù lý luận có nguồn
gốc từ thực tiễn, nhưng sau khi ra đời nó có tính độc lập tương đối và tác động tích cực
trở lại thực tiễn; chỉ đạo, dự báo tương lai phát triển của sự vật, định hướng hoạt động
thực tiễn của con người để đạt hiệu quả cao nhất.
Như vậy, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận là hai cấp độ khác nhau trong quá
trình nhận thức của con người, trong đó tri thức kinh nghiệm là căn cứ, là cơ sở để hình
thành và phát triển của tri thức lý luận. Do đó, nếu tri thức kinh nghiệm càng được tích
luỹ nhiều thì càng có cơ sở vững chắc, độ tin cậy càng cao cho sự khái quát về lý luận và
lý luận chỉ thực sự là lý luận khoa học khi nó được khái quát từ những kinh nghiệm của
thực tiễn.
Vì vậy, lý luận được hiểu theo nghĩa chung nhất là hệ thống những tri thức được khái
quát từ những kinh nghiệm thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, tính
quy luật của sự vật hiện tượng trong thế giới hiện thực.
Trên thực tế, mỗi ngành, mỗi lĩnh vực khoa học cụ thể, khác nhau đều có lý luận
riêng và mỗi ngành, mỗi lĩnh vực hoạt động cụ thể muốn phát triển được đều phải bắt đầu
bằng việc phát triển lý luận. Trong quá trình nghiên cứu của đề tài, tác giả luận văn tập
trung nghiên cứu vấn đề lý luận chính trị. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: chính
trị là một hiện tượng lịch sử xuất hiện và tồn tại khi xã hội phân chia giai cấp và hình thành nhà
nước.
Chính trị giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội. Chính trị là lĩnh
vực hoạt động phức tạp, luôn thu hút các nhà tư tưởng đi vào sâu nghiên cứu, khám phá,

cố gắng làm sáng tỏ bản chất đầy bí ẩn của chính trị.


Chính trị, theo tiếng Hylạp là “politics” có nghĩa là những công việc liên quan đến
thành bang, những công việc quốc gia. Trong đó việc cốt lõi nhất, quan trọng nhất, thực
chất nhất là tổ chức ra cơ quan cai trị (chính phủ) và sau này, từ thế kỷ XVI trở đi gọi là
nhà nước [4, tr.7].
Trong sự phát triển của lịch sử xã hội loài người từ thời kỳ cổ đại, trung đại và cận
đại các nhà tư tưởng phương Tây cũng như phương Đông đã cố gắng đi tìm một hình
thức nhà nước phù hợp để cai trị đất nước có hiệu quả nhất, hợp lý nhất. Do đó, “chính trị
theo nguyên nghĩa của nó là những công việc của nhà nước là phạm vi hoạt động gắn với
những quan hệ giai cấp, dân tộc và các nhóm xã hội khác nhau mà hạt nhân của nó là vấn
đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước” [1,tr.570]. Hơn nữa, chính trị là mối quan
hệ giữa các giai cấp là đấu tranh giai cấp trong giành, giữ, thực thi quyền lực nhà nước và
suy cho cùng là vấn đề lợi ích kinh tế. V.I.Lênin nêu ra một số nguyên tắc cơ bản trong
chính trị mà người cộng sản phải quán triệt, và đó cũng là bản chất của chính trị: “Chính
trị là biểu hiện tập trung của kinh tế” có nghĩa là: các tổ chức chính trị, các hình thức nhà
nước thay đổi và phát triển dựa trên cơ sở kinh tế của xã hội. Nhưng điều đó không có
nghĩa chính trị là biểu hiện thụ động của kinh tế. Những quan hệ chính trị, những vấn đề
chính trị có ảnh hưởng trở lại mạnh mẽ đối với kinh tế hoặc là thúc đẩy hoặc là cản trở sự
phát triển kinh tế. Chính trị biểu hiện bởi các tri thức được tích luỹ trong quá trình lịch sử
và những quan hệ kinh tế gắn với con người, với giai cấp, với dân tộc và với thời đại.
Theo V.I.Lênin, “chính trị có tính lôgíc khách quan của nó, không phụ thuộc vào
những dự tính cá nhân này hay cá nhân khác, của đảng này hay đảng khác” [24, tr.246].
Chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng, nó luôn tồn tại và gắn liền với điều kiện lịch sử cụ
thể, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của một cá nhân hay giai cấp, chính đảng nào.
Và với tư cách là một thiết chế xã hội, chính trị luôn luôn tìm cách dẫn dắt xã hội theo tư
tưởng của giai cấp nắm quyền thống trị xã hội.
Như vậy, tuỳ theo cách tiếp cận mà có những quan niệm khác nhau về chính trị,
song theo nghĩa chung nhất: Chính trị là những vấn đề về điều hành bộ máy nhà nước

hoặc những hoạt động của giai cấp, chính đảng nhằm duy trì quyền điều hành nhà nước.


Từ góc độ tiếp cận khái niệm lý luận, khái niệm chính trị như đã trình bày ở trên,
có thể đưa ra một quan niệm về lý luận chính trị như sau: Lý luận chính trị là hệ thống
các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của một chính đảng, một giai cấp nhằm
giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước. Như vậy lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là
lý luận chính trị của giai cấp vô sản, là hệ tư tưởng chân chính nhất chắc chắn nhất, khoa
học nhất của giai cấp vô sản và chính đảng của nó - Đảng cộng sản.
Đối với Đảng ta, lý luận chính trị đó là lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về sở hữu các thành phần
kinh tế, về đấu tranh giai cấp, về xây dựng Đảng và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân…
Đảng cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của mình. Điều đó đã được Đảng ta
khẳng định rõ trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội được thông qua tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, năm 1991: “Đảng lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động” [9,tr.21].
Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết về những quy luật chung nhất của sự phát
triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy con người, là lý luận cách mạng của quần chúng lao
động trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình ra khỏi ách áp bức bóc lột, là khoa học về xây
dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Đó là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của nhân loại, là tiêu biểu
của sự kết hợp giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng con người, là
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội…
Thực tiễn qua hơn 20 năm đổi mới, Đảng ta luôn luôn kiên trì lấy chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động

của mình đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây


dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đất nước ta ra khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội và đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; kinh tế
tăng trưởng khá nhanh, bước đầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể; khối đại đoàn kết toàn dân tộc do Đảng
lãnh đạo được củng cố và tăng cường; sức mạnh tổng hợp của đất nước được tăng lên
nhiều; vị thế của nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao… Những thành
tựu to lớn đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, là sáng tạo, con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Hiện nay, trong và
ngoài nước đã và đang xuất hiện tư tưởng phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, tư tưởng dao động, hoài nghi, đòi xem xét lại chủ nghĩa Mác - Lênin và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta gây ra sự lo lắng, xáo trộn về mặt tư tưởng trong
cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân; Thấm nhuần sâu sắc bản chất cách mạng và
khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong quá trình đổi mới, Đảng kiên trì lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, làm cơ sở lý luận và phương
pháp luận trong quá trình phân tích tình hình, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự
thật, lấy đó làm cơ sở xuất phát để hoạch định và hoàn thiện đường lối đổi mới. Đảng
luôn khẳng định vai trò to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong
toàn bộ sự nghiệp của cách mạng Việt Nam đó là:
ở những bước ngoặt của cách mạng, trước những diễn biến phức tạp của
tình hình, Đảng ta kịp thời có định hướng tư tưởng chính trị đúng đắn, uốn nắn
nhận thức lệch lạc, chống những luận điều thù địch, tạo cơ sở cho sự thống
nhất tư tưởng trong toàn Đảng và trong nhân dân [14, tr.136].
Đây cũng là những định hướng chính trị quan trọng đảm bảo cho sự ổn định và
phát triển đất nước, là điều kiện tiên quyết để chúng ta giành được những thắng lợi to lớn
trong những năm thực hiện công cuộc đổi mới và cũng là tiền đề quan trọng để đưa nước
ta đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Đảng và nhân dân ta

quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh [18, tr.83].


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X một lần nữa tiếp tục khẳng định:
Trước những khó khăn, thử thách lớn ở trong nước, những biến động bất
lợi trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, trước sự chống phá của
các thế lực thù địch. Đảng ta giữ vững bản chất cách mạng của giai cấp công
nhân, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng; kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới; tiếp tục nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng [20,tr.260].
Xuất phát từ những quan điểm đó, Đảng ta luôn nhấn mạnh việc học tập,
nghiên cứu, rèn luyện và vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa vô cùng quan trọng nhằm giải quyết những vấn đề
bức xúc do thực tiễn đất nước và thời đại đặt ra. Tại Đại hội IX, Đảng đã quy định:
“Toàn Đảng nghiêm túc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”
[18,tr.139]. Đến Đại hội X, Đảng ta tiếp tục khẳng định việc học tập, nắm vững, vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh : “Đảng phải nắm
vững, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin , tư tưởng Hồ Chí
Minh” [20,tr.282].
Như vậy, do việc nắm vững lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, cho nên từ tiến hành công cuộc đổi mới đất nước đến nay, Đảng ta nghiên cứu,
khảo nghiệm và xây dựng nên bước đầu đã hình thành được trên những nét cơ bản một hệ
thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam làm cơ sở khoa học cho đường lối của Đảng, góp phần bổ sung và phát triển quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Do vậy, Đảng ta luôn đưa ra
những quan điểm, chủ trương, đường lối phát triển đất nước một cách đúng đắn, những
chính sách hợp lòng dân, đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng khủng hoảng về kinh tế - xã
hội và đang từng bước đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Với quan niệm như trên, lý luận chính trị có những đặc trưng chủ yếu sau:
Một là, tính trừu tượng hoá và tính khái quát hoá cao


Đây là đặc trưng cơ bản của lý luận nói chung và lý luận chính trị nói riêng. Khi
đề cập đến lý luận là chúng ta liên tưởng ngay đến tính trừu tượng và tình khái quát của
nó. Tư duy là vấn đề cốt lõi của lý luận nhận thức, nếu như không có quá trình tư duy thì
nhận thức của con người sẽ mãi mãi chỉ dừng lại ở nhận thức cảm tính, mặt bề ngoài của
đối tượng, không thể hiểu được bản chất, tính quy luật của sự vận động và phát triển của
sự vật, hiện tượng nói chung. Trong quá trình nhận thức, tư duy của con người luôn diễn
ra quá trình trừu tượng hoá, khái quát hoá những tri thức thu được về thế giới, những quy
luật vận động và phát triển của các lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã hội.
Trừu tượng hoá, khái quát hoá là hai quá trình có mối liên hệ chặt chẽ với nhau
không thể tách rời, chúng xâm nhập lẫn nhau, bổ sung cho nhau. Nhờ đó mà con người
có được những tri thức về các mối liên hệ bản chất, tính quy luật trong sự vận động, phát
triển sự vật.
Các hình thức thể hiện lý luận nói chung, lý luận chính trị nói riêng như khái
niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật… đều là kết quả của quá trình trừu tượng hoá, khái
quát hoá cao của tư duy con người trong quá trình nhận thức thế giới và chúng được biểu
đạt bằng những khía cạnh, những yếu tố khác nhau nhưng chúng lại có quan hệ chặt chẽ
với nhau, bổ sung, hỗ trợ, thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Nhờ đặc trưng của trừu tượng hoá, khái quát hoá cho nên lý luận nói chung và lý
luận chính trị nói riêng đã đem lại cho con người sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, tính
quy luật, các mối liên hệ… trong sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng, nó giúp
con người không ngừng tìm tòi, khám phá, sáng tạo ra những cái mới đáp ứng nhu cầu
thực tiễn đặt ra.
Hai là, sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của lý luận khoa học nói chung và
của chủ nghĩa Mác - Lênin nói riêng. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, lý
luận thuộc về lĩnh vực hoạt động tinh thần, còn thực tiễn thuộc về hoạt động vật chất.

Trong quan hệ giữa vật chất và ý thức thì vật chất quyết định ý thức, hoạt động vật
chất quyết định đối với hoạt động tinh thần. V.I.Lênin khẳng định: “Thực tiễn cao hơn


nhận thức (lý luận) vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến mà cả của tính
hiện thực trực tiếp” [26,tr.230].
Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn. Thực tiễn luôn luôn vận động và phát triển buộc lý
luận phản ánh đời sống thực tiễn cũng phải không ngừng được bổ sung, phát triển, đồng
thời phải thường xuyên tổng kết thực tiễn nhằm làm cho tri thức lý luận ngày càng phản
ánh chính xác hơn, sâu sắc hơn, phong phú hơn đời sống thực tiễn. Tuy nhiên, lý luận cũng
đóng vai trò tác động trở lại tích cực đối với thực tiễn; đặc biệt là lý luận cách mạng trong
cách mạng chủ nghĩa xã hội: “Không có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách
mạng” [25,tr.30]. Lý luận chính là kết quả nhận thức của con người, nó có vai trò chỉ đạo,
hướng dẫn thực tiễn. Do đó nếu không có nhận thức đúng thì cũng không thể có hành động
đúng. Nhờ có lý luận, hoạt động của con người trở nên tự giác, tích cực, chủ động và tránh
được tình trạng mò mẫm, tự phát.
Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng, tác động, bổ sung cho nhau,
là điều kiện, tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của nhau; diễn văn khai mạc lớp học lý
luận khoá I Trường Nguyễn ái Quốc ngày 7/9/1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác
- Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng; lý luận mà
không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông” [35, tr.496]. Như vậy, lý luận cách mạng có
vai trò to lớn trong việc nâng cao trình độ tư tưởng, lý luận cho cán bộ, đảng viên và toàn
thể nhân dân, thúc đẩy cách mạng tiến lên. Người cũng thường xuyên nhắc nhở cán bộ,
đảng viên không ngừng học tập lý luận cách mạng và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn.
Thực tiễn cách mạng nước ta đã chứng minh, nhờ nắm vững những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam,
nên Đảng ta đã lãnh đạo cách mạng vượt qua mọi khó khăn thử thách, giành được nhiều
thắng lợi. Vì thế, Đảng và Bác Hồ luôn coi trọng việc bồi dưỡng, giáo dục lý luận chính
trị, coi đó là yêu cầu cơ bản, không thể thiếu trong công tác xây dựng Đảng. Trong giai

đoạn hiện nay, việc thường xuyên tổng kết thực tiễn luôn là một đòi hỏi tất yếu đồng thời
là yêu cầu quan trọng để tiếp tục nâng cao trình độ tư duy lý luận của của Đảng:


Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của Đảng, thường xuyên
tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận, giải quyết đúng đắn những vấn
đề do cuộc sống đặt ra [20,tr.131].
Tổng kết thực tiễn sau 20 năm đổi mới, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng
trong việc kiên định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và vận dụng một cách sáng tạo vào điều
kiện cụ thể của Việt Nam đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng về kinh tế xã hội, kinh tế
tăng trưởng nhanh, cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường, đời sống của các tầng lớp
nhân dân không ngừng được cải thiện.
Ba là, sự thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học.
Nói tới tính đảng là nói tới tính giai cấp, còn tính khoa học là sự phản ánh đúng
thực tế khách quan, tôn trọng hiện thực, khách quan. Lý luận nói chung và lý luận Mác Lênin nói riêng là nhằm bảo vệ lợi ích của một giai cấp trong một chế độ xã hội nhất
định. Do đó, lý luận chính trị của giai cấp cách mạng, giai cấp tiên tiến, giai cấp đại biểu
cho sự tiến bộ của lịch sử luôn có khả năng đảm bảo sự thống nhất giữa tính đảng và tính
khoa học.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống tư tưởng của giai cấp vô sản, giai cấp đại biểu
cho sự tiến bộ của thời đại, giai cấp mà lợi ích của nó phù hợp với lợi ích của quần chúng
nhân dân lao động, nó phản ánh khách quan nhu cầu và lợi ích của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, cho nên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin đảm bảo sự thống nhất giữa
tính đảng và tính khoa học.
Trong lý luận chính trị, tính đảng và tính khoa học có mối quan hệ biện chứng với
nhau, vì thế tính đảng càng cao thì tính khoa học càng thêm sâu sắc, tính đảng và tính
khoa học là điều kiện, tiền đề tồn tại, phụ thuộc lẫn nhau, không thể xem nhẹ, hoặc loại
bỏ cái nào được. Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Khoa học càng được tiến hành một cách

dũng cảm vô tư thì nó càng phù hợp với lợi ích và nguyện vọng của giai cấp công nhân”
[31,tr.451].


Lý luận chính trị không có mục đích nào khác ngoài mục đích thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ cách mạng của một đảng cách mạng, cho nên nhiệm vụ quan trọng của nó là
định hướng cho con người nhận thức và hành động để cải tạo thế giới. Khi đó tính khoa
học là tiền đề, là cơ sở và tính đảng giữ vai trò định hướng cách mạng để loại trừ cái cũ,
cái lỗi thời lạc hậu, xây dựng cái mới tiến bộ, hợp quy luật.
Lý luận chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam được xây dựng trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh gắn liền với tổng kết thực tiễn, có vai trò to
lớn trong việc cung cấp những luận cứ khoa học nhằm xây dựng, bổ sung và phát triển
đường lối đổi mới và thực hiện thắng lợi các mục tiêu đề ra.
Tính đảng đòi hỏi việc nghiên cứu lý luận chính trị phải xuất phát từ tình hình cụ
thể của đất nước, đưa ra những dự báo khoa học về sự phát triển trên cơ sở đó đề ra
được những giải pháp khoa học, đúng đắn để giải quyết kịp thời, bổ sung những vấn đề
mới làm cho chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước càng hoàn thiện hơn, sát
với thực tiễn cuộc sống. Muốn vậy thì Đảng phải luôn luôn tự đổi mới, tự chỉnh đốn
Đảng và đồng thời không ngừng nâng cao trình độ trí tuệ, chuyên môn, nghiệp vụ, trình
độ lý luận chính trị cho cán bộ đảng viên. V.I.Lênin đã khẳng định: “Chỉ Đảng nào có
một lý luận tiên hong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên
phong” [25,tr.32].
Như vậy, với ý nghĩa là lý luận tiên phong - lý luận chính trị giúp cho Đảng cộng
sản hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, nhất là trong giai đoạn hiện nay, giai cấp công
nhân cùng với đảng tiên phong của mình phải kiên định giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa. Để làm tròn vai trò lãnh đạo của mình, Đảng không ngừng bổ sung, phát triển lý
luận chính trị để không ngừng hoàn thiện và đóng vai trò to lớn trong sự phát triển của xã
hội.
1.1.2. Vai trò lý luận chính trị trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước

Đảng ta đã và đang lãnh đạo toàn dân thực hiện sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội với mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” từ một đất
nước có điểm xuất phát thấp, nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá


nặng nề. Do đó, ngay từ đầu, Đảng ta đã xác định rõ công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa
không thể tách rời việc thực hiện các cuộc cách mạng: cách mạng quan hệ sản xuất, cách
mạng tư tưởng-văn hoá, cách mạng khoa học kỹ thuật … Công nghiệp hoá xã hội chủ
nghĩa tạo tiền để giải quyết các nhiệm vụ của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì
vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngoài việc đòi hỏi một lượng vốn rất lớn, nó còn đòi
hỏi phải có một nguồn nhân lực tương ứng cả về số lượng, đặc biệt là về chất lượng.
Nước ta có tỷ trọng dân số và lao động trong công nghiệp, nông thôn khá lớn, trình độ
của lực lượng lao động ở nước ta phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước còn hạn chế, do vậy vai trò của lý luận chính trị là hệ thống các quan điểm, chủ
trương, đường lối, chính sách… không chỉ là động lực thúc đẩy trang bị về trình độ
chuyên môn mà còn nâng cao trình độ về lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên và nhân
dân để hình thành bản lĩnh chính trị vững vàng, đảm nhiệm được trọng trách của mình
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Như vậy, lý luận chính trị của nước ta là lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối,chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật
của nhà nước. Đảng ta đã khẳng định: sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp
của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Vì lẽ đó, để thực hiện mục tiêu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, Đảng ta đã xác định rõ:
Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành
một nước công nghiệp có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp
lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng và an ninh vững chắc,
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội. Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp [14,tr.18-19].

Do đó, đòi hỏi trước tiên ở người cán bộ phải có đủ trình độ, năng lực, phẩm chất,
đạo đức, có tri thức khoa học, nắm bắt được quy luật vận động và phát triển của xã hội,
qua đó vận dụng vào hoạt động thực tiễn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Xây dựng chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải có con người xã hội chủ


nghĩa mà con người đó phải có trí tuệ, phát triển toàn diện, có ý chí, nghị lực, vượt qua
những khó khăn thử thách.
Nhiệm vụ quan trọng của lý luận chính trị là phải chăm lo giáo dục, bồi dưỡng,
nâng cao hiểu biết và trình độ lý luận cho cán bộ, đảng viên. Mặt khác, trình độ lý luận
của Đảng ta còn nhiều bất cập thể hiện ở chỗ là nhiều vấn đề thực tiễn cuộc sống đặt ra
mà lý luận chưa kịp thời tổng quát và trả lời, chưa thực sự thể hiện rõ vai trò chỉ đạo hoạt
động thực tiễn. Sự bất cập về trình độ lý luận của Đảng ta còn biểu hiện nhiều vấn đề
thực tiễn chưa tổng kết kịp thời để rút ra những bài học kinh nghiệm nhằm chỉ đạo thực
tiễn tiếp theo.
Đại hội VIII của Đảng đặt ra yêu cầu:
Mọi cán bộ đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo chủ chốt phải có kế
hoạch thường xuyên học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị. Học tập là
nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi cán bộ, đảng viên và phải được quy định thành
chế độ. Lười học tập, lười suy nghĩ, không thường xuyên tiếp nhận những
thông tin mới, những hiểu biết mới cũng là biểu hiện của sự thoái hoá [14,
tr.140].
Thực tế hiện nay, trình độ lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ đảng viên của nước
ta vẫn còn nhiều hạn chế, biểu hiện rõ ở một số cán bộ còn mang nặng lối tư duy siêu
hình, còn có những biểu hiện của bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều… Một số cán bộ,
đảng viên hiện nay còn hạn chế về trình độ lý luận chính trị nên chưa vận dụng lý luận
vào giải quyết vấn đề thực tiến một cách có hiệu quả. Do vậy, trong hoạt động thực tiễn
họ vẫn còn mò mẫm. Vậy sự bất cập về trình độ lý luận chính trị hiện nay của cán bộ
đảng viên ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Mặc dù trong thời gian qua, Đảng ta tích cực nghiên cứu, tìm tòi, bổ sung, phát

triển hệ thống lý luận của Đảng, từng bước làm sáng tỏ hơn con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta. Tuy nhiên, lý luận vẫn chưa đi sâu, đi sát thực tiễn cuộc sống. Do đó,
nhiệm vụ hàng đầu và trọng tâm của công tác lý luận là nghiên cứu và tổng kết thực tiễn
nhận thức rõ hơn, đúng hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Điều này đã được Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định:


Công tác lý luận chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn và yêu cầu của
cách mạng, chưa làm sáng tỏ nhiều vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới
để phục vụ việc hoạch định chiến lược, chủ trương, chính sách của Đảng, tăng
cường sự nhất trí về chính trị, tư tưởng trong xã hội [18,tr.78].
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Công tác lý
luận chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới” [20,
tr.65].
Lý luận với vai trò tiên phong, hướng dẫn, cho nên lý luận không thể chậm trễ, lạc
hậu mà phải đi trước. Lý luận càng sáng tỏ, càng nhận rõ quy luật vận động khách quan
của lịch sử , nhất là trong sự nghiệp xây dựng sáng tạo xã hội mới - xã hội chủ nghĩa thì
hoạt động thực tiễn mới thực sự trở thành tự giác. Công tác lý luận càng phải khẳng định
và làm rõ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, làm rõ những vấn đề cần
nhận thức cho đúng, những kinh nghiệm thực tiễn mới và những thành tựu khoa học hiện
đại. Nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời chú
trọng nghiên cứu những tinh hoa trí tuệ của dân tộc.
Thực tiễn ở nước ta trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, bên cạnh mặt tích cực, mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường đã làm nảy
sinh những vấn đề chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, cơ hội chủ nghĩa, suy thoái
về chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống … ở một bộ phận cán bộ đảng viên, đó là những
biểu hiện non kém về bản lĩnh chính trị. Cho nên để khắc phục những tiêu cực đó thì rèn
luyện bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị của nước
ta hiện nay là một vấn đề vừa cấp bách vừa lâu dài. Nhưng bản lĩnh chính trị không phải
là cái “tiên thiên” có sẵn trong từng cán bộ, đảng viên mà phải thông qua việc giáo dục,

rèn luyện của một giai cấp, một chính đảng và hoạt động của bản thân cán bộ. Vì thế, để
nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên thì phải giáo dục, bồi dưỡng,
nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị.
Tóm lại, trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì yêu
cầu Đảng phải vững vàng về tư tưởng chính trị, thống nhất về nhận thức ý chí và hành
động mới có thể đưa đất nước nhanh chóng đi lên chủ nghĩa xã hội, vai trò của lý luận


chính trị sẽ giúp cho cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân đoàn kết nhất trí cao với
những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tạo cho lý
luận có điều kiện thuận lợi để đi vào cuộc sống.
1.2. Lý luận chính trị với hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã
1.2.1. Hoạt động lãnh đạo, quản lí của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
Hoạt động lãnh đạo, quản lý là một khái niệm chung. Thực tiễn hoạt động lãnh
đạo, quản lý đã xuất hiện từ thời cộng sản nguyên thuỷ. Thời kỳ này, hoạt động lãnh đạo,
quản lý tồn tại dưới nhiều hình thức như tộc trưởng - người đứng đầu thị tộc, quản lý điều
hành mọi thành viên trong thị tộc. Tiếp đến là bộ tộc, tộc trưởng là người trực tiếp quản
lý, điều hành mọi hoạt động của bộ tộc mình.
Tuy nhiên, khái niệm lãnh đạo, quản lý mang đầy đủ ý nghĩa của nó là khi xã hội
có giai cấp và nhà nước. Đây là khái niệm gồm hai từ ghép: lãnh đạo và quản lý, giữa
chúng có một đặc trưng chung, đó là chủ thể lãnh đạo, chủ thể quản lý tác động đến
khách thể, đối tượng bị lãnh đạo, bị quản lý.
Hoạt động lãnh đạo, quản lý là nhu cầu khách quan, hình thành trong xã hội loài
người. Mỗi chế độ xã hội sẽ sản sinh ra một đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và có
những đòi hỏi về trình độ, năng lực và phẩm chất nhất định. Do đó, hoạt động lãnh đạo,
quản lý là sự tác động có định hướng, sự điều hành, điều chỉnh hoạt động của con người
nhằm vươn tới mục tiêu nhất định, trong đó:
Hoạt động lãnh đạo là hoạt động tác động điều khiển mang tính chất định hướng
của chủ thể lãnh đạo đến đối tượng bằng các phương pháp: động viên, giáo dục, chỉ đạo,

thuyết phục… nhằm đạt được mục đích đề ra. Theo từ điển tiếng Việt thì lãnh đạo là: “Đề
ra chủ trương, đường lối và tổ chức, động viên thực hiện” [38,tr.524].
Hoạt động quản lý là quá trình điều khiển trực tiếp thông qua sự xắp sếp, tổ chức,
chỉ huy của chủ thể quản lý đối với hoạt động của từng đối tượng theo những yêu cầu
nhất định. Theo từ điển tiếng Việt thì quản lý là: “Tổ chức và điều khiển hoạt động theo
những yêu cầu nhất định” [38, tr.772].


Hoạt động lãnh đạo và hoạt động quản lý có đặc điểm chung giống nhau, đều là sự
tác động của chủ thể, những người có quyền uy đối với đối tượng là những người dưới
quyền để thực hiện một nhiệm vụ nào đó theo những yêu cầu, mục tiêu đã định.
Tuy nhiên, giữa hoạt động lãnh đạo và hoạt động quản lý cũng có sự khác nhau
nhất định như:
+ Về mục tiêu: hoạt động lãnh đạo là định hướng chung, còn hoạt động quản lý là
tổ chức xắp sếp các vấn đề theo một trật tự nhất định để thực hiện có hiệu quả cao nhất
các quyết định của lãnh đạo.
+ Về nội dung: hoạt động lãnh đạo đề ra chủ trương, đường lối chung, phương
pháp triển khai, biện pháp thực hiện. Còn hoạt động quản lý là xây dựng các phương án,
chỉ tiêu, kế hoạch cụ thể, tổ chức lực lượng để thực thi nhiệm vụ.
+ Về phương pháp: hoạt động lãnh đạo thường dùng phương pháp động viên, giáo
dục, thuyết phục nhằm phát huy tính tự giác của đối tượng. Còn hoạt động quản lý
phương pháp chung là dùng mệnh lệnh có tính bắt buộc với những chế tài, biện pháp
hành chính nhất định.
Vì vậy, hoạt động lãnh đạo và hoạt động quản lý có những nội dung và tính chất
gần giống nhau nên ta thường dùng cụm từ chung là lãnh đạo, quản lý, hoạt động lãnh
đạo đồng thời cũng thực hiện chức năng quản lý và ngược lại hoạt động quản lý cũng
thực hiện luôn chức năng lãnh đạo.
Hiến pháp năm 1992 quy định cơ cấu tổ chức của hệ thống chính trị ở nước ta
được phân chia làm bốn cấp: Trung ương; tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; quận,
huyện; xã phường thị trấn còn gọi chung là cấp cơ sở. ở mỗi cấp, Đảng và Nhà nước ta có

những quy định cụ thể, rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tính chất hoạt động
nhất định. Nếu cương vị phụ trách của cán bộ lớn, có quy mô rộng thì chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn càng lớn, tính chất hoạt động, vị trí quan trọng và ảnh hưởng, tác động lớn.
Ngược lại, phạm vi, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn nhỏ thì tính chất hoạt động và ảnh
hưởng, tác động cũng nhỏ hơn. Dựa trên những căn cứ này mà phân cấp cán bộ thành ba
cấp là: Cán bộ cao cấp, cán bộ trung cấp và cán bộ cấp cơ sở.


Cán bộ cao cấp là cán bộ ở tầm chiến lược có chức năng, nhiệm vụ đề ra chủ
trương, đường lối, chính sách lãnh đạo và quản lý ở tầm vĩ mô.
Cán bộ trung cấp là cán bộ ở tầm chiến thuật có chức năng nhiệm vụ vận dụng
đường lối, chính sách của Trung ương và của ngành, đề ra phương hướng, kế hoạch cho
phù hợp với đặc điểm của địa phương, cơ quan mình và chỉ đạo, kiểm tra việc tổ chức
thực hiện phương hướng kế hoạch đó.
Cán bộ cấp cơ sở là cán bộ có chức năng nhiệm vụ tổ chức thực hiện đường lối,
chính sách, phương hướng, kế hoạch của Trung ương, ngành, địa phương… phù hợp với
điều kiện, đặc điểm của cơ sở xã, phường, thị trấn, xí nghiệp, trường học, bệnh viện.
Như vậy, tuy khác nhau về tầm lãnh đạo, quản lý cũng như chức năng, nhiệm vụ
và tính chất của các cấp, nhưng họ đều là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt và tạo thành
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt trong hệ thống chính trị của nước ta.
Với việc xác định vị trí, vai trò của cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp như trên thì
đối với cán bộ cấp cơ sở trong luận văn đề cập bao gồm: Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ cấp
xã; Chủ tịch, phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp xã; Chủ tịch, phó Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân cấp xã.
Cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) gọi chung là cấp xã, là cấp cuối cùng trong sự
phân cấp hành chính. Cấp cơ sở là nơi nhân dân cư trú, sinh sống, gắn bó chặt chẽ trong
các quan hệ kinh tế và văn hoá. Cấp cơ sở có một vị trí rất quan trọng, là nơi trực tiếp giải
quyết mối quan hệ giữa nhà nước với nhân dân, là địa bàn tổ chức thực hiện các chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, là nơi trực tiếp sản xuất, là nền
tảng vật chất cao độ của xã hội. Do vậy đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã là những

người trực tiếp, chủ yếu góp phần thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối, chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước ở cơ sở. Họ là những người giữ chức vụ quan trọng nhất
ở xã, là lực lượng nòng cốt trong tổ chức thuộc hệ thống chính trị cơ sở, là những người
giữ cương vị chính phụ trách trong tổ chức một tập thể, có ảnh hưởng chính, quyết định
và chi phối việc điều hành, tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
ở địa phương đã đề ra, là nhưng người chịu trách nhiệm trước nhân dân. Do đó, để thực


×