Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Ths CTH năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện hồng ngự, tỉnh đồng tháp hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.64 KB, 91 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CỦA ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ.......................................................8
1.1. Khái niệm về năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở...........................................................................................................8
1.2. Ý nghĩa năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
..................................................................................................................23
1.3. Nội dung năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ
sở..............................................................................................................25
1.4. Tiêu chí đánh giá năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở……………………………………………………………….. 27
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở …………………………………………………….. 33
Chương 2: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CỦA ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở HUYỆN HỒNG NGỰ, TỈNH ĐỒNG
THÁP HIỆN NAY.......................................................................................38

2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hoá, xã hội huyện Hồng
Ngự, tỉnh Ðồng Tháp...............................................................................38
2.2. Vai trò, đặc điểm của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện Hồng Ngự, tỉnh
Ðồng Tháp................................................................................................48
2.3. Những kết quả đạt được về năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở ở huyện Hồng Ngự, tỉnh Ðồng Tháp.........................53
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO NĂNG
LỰC LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP
CƠ SỞ Ở HUYỆN HỒNG NGỰ, TỈNH ĐỒNG THÁP HIỆN NAY..............72

3.1. Phương hướng nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở ở huyện Hồng Ngự, tỉnh Ðồng Tháp.........................72
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ


cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện Hồng Ngự, tỉnh Ðồng Tháp hiện nay. . .74
KẾT LUẬN.......................................................................................................86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................88


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
VIII (1997) về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước đã khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của
cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và của chế độ, là
khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng” [17, tr.1]. Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Công việc thành công
hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [26, tr.269, 273].
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta ln ln coi trọng, chăm
lo xây dựng đội ngũ cán bộ đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng để đảm đương
nhiệm vụ của đất nước. Qua mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn cách mạng, do yêu cầu
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà những yêu cầu, điều kiện và
tiêu chuẩn cán bộ có khác nhau để phù hợp với nhiệm vụ cách mạng đặt ra.
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước,
đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng,
có phẩm chất đạo đức cách mạng, có trình độ, năng lực, trí tuệ và hoạt động
thực tiễn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.
Để nâng cao sự lãnh đạo của Đảng ngang tầm với nhiệm vụ chính trị,
chủ động nắm thời cơ, vượt qua thách thức và nguy cơ, thực hiện thắng lợi
mục tiêu chiến lược và đường lối của Đảng đề ra trong giai đoạn hiện nay,
công tác xây dựng Đảng được xác định là nhiệm vụ then chốt, công tác cán bộ
của Đảng trở thành “khâu then chốt của vấn đề then chốt”.
Công tác cán bộ trong những năm qua có nhiều chuyển biến tích cực,

song chưa đồng bộ, có khi cịn mang tính ứng phó chấp vá, đội ngũ cán bộ
hiện nay đơng đảo về số lượng nhưng chất lượng chưa cao, vẫn còn tình trạng
vừa thừa, vừa thiếu cán bộ, trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo, quản lý
chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, nhất là năng lực quản lý kinh tế, quản lý xã
hội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.


2
Huyện Hồng Ngự là Huyện biên giới của tỉnh Đồng Tháp giáp với
Vương quốc Campuchia, là Huyện giàu truyền thống cách mạng và có vị trí
quan trọng về quốc phịng, an ninh. Chính vì vậy, những năm qua, Đảng bộ,
chính quyền và nhân dân huyện Hồng Ngự không ngừng nỗ lực xây dựng
phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững quốc phịng, an ninh trên địa bàn, nhờ đó,
đời sống nhân dân trong Huyện dần được cải thiện. Song song với chăm lo
phát triển kinh tế, xã hội, công tác cán bộ nói chung, đặc biệt là ở cấp cơ sở
luôn được Đảng bộ Huyện quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời.
Tuy nhiên, là Huyện biên giới, xuất phát điểm về kinh tế của Huyện
còn thấp, phần lớn đời sống của người dân cịn khó khăn, trình độ dân trí
thấp; mặt khác, sau khi thực hiện Nghị định 08 của Chính phủ về điều chỉnh
địa giới hành chính của huyện Hồng Ngự để thành lập thị xã Hồng Ngự (năm
2009), đội ngũ cán bộ của Huyện nói chung vừa thiếu lại vừa yếu, nhiều cán bộ
chưa đạt chuẩn về trình độ chun mơn kể cả lý luận chính trị, trong đó có cán
bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở; bên cạnh đó, cơ sở vật chất của Huyện
chưa được xây dựng hoàn chỉnh, đời sống của nhiều cán bộ từ Huyện đến cơ sở
cịn nhiều khó khăn, từ đó ảnh hưởng khơng nhỏ đến hiệu quả của công tác
lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Trước tình hình trên, những năm qua, công tác cán bộ ở cấp cơ sở
luôn nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy Đồng Tháp nói
chung và Huyện ủy Hồng Ngự nói riêng. Đối với huyện Hồng Ngự, Ban
Thường vụ Huyện ủy, các cấp ủy cơ sở đã triển khai thực hiện nhiều chủ

trương, giải pháp để nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở trong Huyện, song đến nay, kết quả mang lại cịn ở mức
khiêm tốn. Vì vậy, vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt
cấp cơ sở vững mạnh toàn diện là một nhiệm vụ quan trọng của Đảng bộ
huyện Hồng Ngự, phải tiến hành thường xuyên, liên tục. Từ những yêu cầu
của thực tiễn đặt ra, tác giả chọn đề tài “Năng lực lãnh đạo, quản lý của đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp hiện
nay” làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Chính trị học.


3
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Cơng tác cán bộ nói chung và năng lực lãnh đạo, quản lý của cán bộ
nói riêng đã được nhiều nghị quyết của Đảng đề cập, và đây cũng là nội dung
thu hút sự quan tâm nghiên cứu, trăn trở của nhiều nhà lãnh đạo, nhà khoa
học. Qua tìm hiểu của tác giả, đã có nhiều cơng trình cơng bố với những mức
độ thể hiện khác nhau, trong đó có những văn kiện của Đảng và cơng trình
nghiên cứu khoa học liên quan đến đề tài như:
Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [17].
Nghị quyết đã xác định cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của
cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu
then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
các cấp từ Trung ương đến cơ sở, đặc biệt là cán bộ đứng đầu, có phẩm chất và
năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công
nhân, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đảm bảo sự chuyển tiếp liên tục và
vững vàng giữa các thế hệ cán bộ nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, giữ vững độc lập tự chủ, đi lên chủ nghĩa xã hội.
Ban Chấp hành Trung ương (2013), “Một số vấn đề về tiếp tục đổi
mới, hồn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở” [2].

Trên cơ sở đánh giá những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân,
Trung ương xác định một trong những nhiệm vụ giải pháp liên quan đến nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức là đẩy mạnh cải cách chế độ công
vụ, công chức để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, xây dựng
đội ngũ cán bộ, cơng chức có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ, năng
lực, kỹ năng cơng tác; kết hợp việc đào tạo, bồi dưỡng với thực hiện luân
chuyển để rèn luyện trong thực tiễn.


4
Nguyễn Phú Trọng (2001), “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố
đất nước” [35].
Tác giả đề cập đến cơ sở lý luận của việc sử dụng tiêu chuẩn cán bộ
trong công tác cán bộ; những kinh nghiệm xây dựng tiêu chuẩn cán bộ của
Đảng phù hợp với từng giai đoạn cách mạng; những quan điểm, phương
hướng chung trong việc nâng cao chất lượng công tác cán bộ...
Nguyễn Duy Hùng (2007), “Luận cứ khoa học và một số giải pháp
xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường hiện nay” [25].
Tác giả đã luận giải bước đi, lộ trình xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý chủ chốt ở phường từ khâu tuyển chọn, đánh giá, quy hoạch, đào
tạo, bố trí sử dụng cán bộ ở phường.
Cao Khoa Bảng (2008), “Xây dựng cán bộ lãnh đạo chủ chốt của hệ
thống chính trị cấp tỉnh, thành phố” [12].
Tác giả phân tích làm rõ những yêu cầu, tiêu chuẩn và cơ cấu cán bộ
lãnh đạo của hệ thống chính trị cấp tỉnh, thành phố. Đối với từng loại cán bộ
cần những phẩm chất, trình độ, năng lực phù hợp với chức năng, nhiệm vụ
trong hệ thống chính trị.
Một số luận văn:
Luận văn thạc sỹ “Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ

cán bộ chủ chốt cấp cơ sở" của Phan Văn Hai, 1997.
Luận văn thạc sỹ "Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ với việc
nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Thanh
Hoá hiện nay" của Bùi Khắc Hằng, 2004...
Hầu hết các tác giả trên đều đề cập đến các khía cạnh khác nhau, các
góc độ khác nhau về cán bộ, công tác cán bộ và năng lực lãnh đạo, quản lý
của cán bộ. Đặc biệt là khẳng định vai trị, vị trí của cán bộ, cơng tác cán bộ
và năng lực lãnh đạo, quản lý của cán bộ trong việc hoạch định chiến lược,


5
mục tiêu và hiện thực hóa mục tiêu, chiến lược của Đảng và Nhà nước trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; gợi mở những bài
học cho việc xác định phương hướng, mục tiêu và giải pháp về xây dựng đội
ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và lâu dài.
Qua phân tích kết quả nghiên cứu của các cơng trình trên cho thấy, các
tác giả đã có những luận giải có giá trị về xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung
và cán bộ chủ chốt ở cơ sở, ở tỉnh nói riêng theo các góc độ khác nhau.
Nhưng chỉ có số ít cơng trình đề cập đến năng lực lãnh đạo, quản lý của đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có tính đặc thù như huyện Hồng Ngự, tỉnh
Đồng Tháp một cách toàn diện, sâu sắc, hệ thống dưới góc độ Chính trị học.
Vì vậy, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu đã được cơng bố,
cùng với những tìm tịi, nghiên cứu, luận văn sẽ sử dụng phương pháp luận và
cơ sở lý luận của chuyên ngành Chính trị học để luận giải những vấn đề
nghiên cứu về năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ
sở ở huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp hiện nay nhằm đạt được mục đích và
nhiệm vụ đề ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở lý luận về năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ

chủ chốt cấp cơ sở và phân tích đánh giá thực trạng năng lực lãnh đạo, quản
lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp,
qua đó đề xuất giải pháp nhằm từng bước nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý
của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn tới.
3.2. Nhiệm vụ
+ Khái quát một số vấn đề lý luận về năng lực lãnh đạo, quản lý của
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở.


6
+ Phân tích thực trạng năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở ở huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, đánh giá những mặt
làm được và hạn chế, nguyên nhân, rút ra kinh nghiệm.
+ Đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng
lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện Hồng
Ngự, tỉnh Đồng Tháp hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là bí thư, phó bí thư, chủ tịch, phó
chủ tịch Hội đồng nhân dân, chủ tịch, phó chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ở
huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở ở huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp từ năm 2009 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn nghiên cứu về năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương,

chính sách của Đảng và Nhà nước. Luận văn sử dụng, kế thừa kết quả những
tổng kết của Đảng bộ huyện Hồng Ngự liên quan đến năng lực lãnh đạo, quản
lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở và các công trình nghiên cứu khoa
học có liên quan đã cơng bố.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác - Lênin và sử dụng tổng hợp các phương pháp khác để nghiên cứu như:
phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, hệ thống, đặc biệt là sử dụng phương
pháp khảo sát, tổng kết thực tiễn.


7
Nguồn tư liệu luận văn chủ yếu dựa vào các văn kiện, nghị quyết của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp,
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hồng Ngự và các báo cáo tổng kết nhiệm kỳ,
báo cáo năm của Ban Chấp hành Đảng bộ Huyện, Ban Tổ chức Huyện ủy.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
- Góp phần làm rõ cơ sở khoa học, quan điểm về năng lực lãnh đạo,
quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng
Tháp hiện nay.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu, thiết thực, khả
thi góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở ở huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
bài nghiên cứu gồm 3 chương, 10 tiết.


8
Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ
1.1. KHÁI NIỆM VỀ NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CỦA ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ

1.1.1. Năng lực lãnh đạo, quản lý
- Năng lực
Nói đến “năng lực” và “năng lực lãnh đạo, quản lý” của cán bộ nói
chung và cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng là vấn đề thu hút sự quan tâm
của nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu hoạt động thực tiễn. Trước khi tìm
hiểu vấn đề năng lực lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, trước
hết cần phải hiểu được những vấn đề lý luận cơ bản về năng lực làm cơ sở
cho việc nghiên cứu năng lực lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở.
Mặc dù thuật ngữ “năng lực” được dùng phổ biến trong đời sống xã hội,
nhưng cho đến nay chưa có một định nghĩa nào bao hàm được hết mọi dấu
hiệu nội hàm của khái niệm này. Những yếu tố nào tạo nên năng lực, yếu tố
chi phối sự hình thành năng lực, có bao nhiêu loại năng lực,… vẫn là những
câu hỏi không dễ trả lời. Mỗi nhà nghiên cứu, nhà khoa học đều cố gắng đưa
ra câu trả lời dưới góc độ tiếp cận riêng. Việc tìm hiểu các quan điểm lý luận
về năng lực sẽ giúp cho chúng ta có cái nhìn tồn diện, khách quan về thuật
ngữ đa dạng, phức tạp này. Dưới đây là một số quan điểm lý luận về năng lực.
Theo A.G Kôvaliốp nhà Tâm lý học người Nga: “Năng lực là một tập
hợp hoặc tổng hợp những thuộc tính của cá nhân con người, đáp ứng những
yêu cầu của hoạt động và đảm bảo cho hoạt động đạt được những kết quả
cao” [1, tr.32].
Theo Thái Duy Tuyên:
Năng lực là những đặc điểm tâm lý của nhân cách, là điều kiện chủ


9

quan để thực hiện có kết quả một dạng hoạt động nhất định. Năng
lực có liên quan với kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo. Năng lực thể hiện ở
tốc độ, chiều sâu, tính bền vững và phạm vi ảnh hưởng của kết quả
hoạt động, ở tính sáng tạo, tính độc đáo của phương pháp hoạt động
[31, tr.29].
Theo giáo trình tâm lí học đại cương: “Năng lực là tổ hợp những thuộc
tính độc đáo của cá nhân phù hợp với những yêu cầu đặc trưng của một hoạt
động nhất định, nhằm bảo đảm việc hồn thành có kết quả tốt trong lĩnh vực
hoạt động ấy” [21, tr.152].
Tùy theo hoạt động của con người mà người ta chia ra các loại năng
lực khác nhau: năng lực tiềm tàng, năng lực hiện thực, năng lực tự nhiên,
năng lực xã hội. Cũng có thể chia năng lực thành hai loại:
- Năng lực chung: là năng lực cần thiết cho nhiều loại hoạt động khác nhau.
- Năng lực riêng: là sự thể hiện các phẩm chất riêng biệt, có tính chất
chun mơn, nhằm đáp ứng yêu cầu của một lĩnh vực hoạt động chuyên biệt.
Hai loại năng lực chung và riêng luôn bổ sung hỗ trợ cho nhau.
Năng lực phát triển trong quá trình sống và hoạt động trong một lĩnh
vực nào đó. Muốn có năng lực trong một lĩnh vực hoạt động nhất định, nhất
thiết phải có tri thức, kĩ năng, kĩ xảo trong lĩnh vực ấy. Những người lười
biếng, khơng thích làm việc, lẩn tránh những lao động trí óc cũng như chân
tay, thì năng lực khơng thể phát triển được.
Theo giáo trình đào tạo trình độ thạc sĩ chun ngành chính trị học:
“Năng lực là sự kết hợp giữa yếu tố tư chất (bẩm sinh, di truyền) và yếu tố
giáo dục, đào tạo và rèn luyện. Yếu tố giáo dục, đào tạo, rèn luyện là rất quan
trọng” [24, tr.339].
Theo Đại từ điển Tiếng Việt: “Năng lực” là những điều kiện vốn có
của một chủ thể nào đó, đủ để làm một việc gì có kết quả (năng lực tư duy của
con người); khả năng đủ để thực hiện tốt một công việc: có năng lực chun
mơn, năng lực tổ chức [38, tr.1172, 1151, 1152].



10
Theo Từ điển Tổ chức và công tác tổ chức:
Năng lực: những tố chất về trí tuệ, sức mạnh về vật chất và tinh
thần, khả năng lao động, khả năng tổ chức quản lý... đã được tích
lũy trong mỗi con người, nhờ quá trình học tập, rèn luyện từ lúc
nhỏ tuổi đến khi trưởng thành. Năng lực của mỗi người được thể
hiện trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, với mức độ
cao, thấp khác nhau, do các yếu tố chủ quan và điều kiện khách
quan chi phối, theo yêu cầu của đời sống, theo nhiệm vụ được phân
công, hay theo lý tưởng mà họ đã chọn [34, tr.1055].
Như vậy, nói đến năng lực là nói đến khả năng đạt được kết quả hoạt
động nào đó. Năng lực khơng phải là những thuộc tính cá nhân riêng lẻ mà là
một tổ hợp các thuộc tính cá nhân đáp ứng yêu cầu cao của hoạt động. Các
thuộc tính ấy có quan hệ tác động lẫn nhau, thống nhất với nhau trong một
chỉnh thể.
Mỗi con người có thể tích hợp nhiều năng lực tiềm ẩn, những năng lực
đó được bộc lộ ra hay không tùy thuộc vào những điều kiện chủ quan hay
khách quan và môi trường làm việc. Đối với những người có tài năng đặc biệt
và thiên tài, năng lực của họ được phát triển và bộc lộ mạnh mẽ khiến họ đạt
đến đỉnh cao ở nhiều lĩnh vực khác nhau.
Các năng lực hình thành trên cơ sở của các tư chất tự nhiên của cá
nhân mới đóng vai trị quan trọng, năng lực của con người khơng phải hồn
tồn do tự nhiên mà có, phần lớn do cơng tác, do tập luyện mà có. Năng lực
vừa mang tính bẩm sinh có sẵn, vừa là kết quả của quá trình học tập, rèn
luyện, hoạt động thực tiễn của con người.
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng:
“Năng lực của người khơng phải hồn tồn do tự nhiên mà có mà một phần
lớn do cơng tác, do luyện tập mà có” [26, tr.278].
Vì thế, năng lực khơng chỉ là tư chất bẩm sinh thuần tuý vốn có của

con người, mà là kết quả của sự phối hợp những tư chất bẩm sinh vốn có với
sự rèn luyện, tu dưỡng, học tập thông qua hoạt động thực tiễn của con người.


11
Năng lực là yếu tố chi phối hoạt động có mục đích của con người và của cán
bộ lãnh đạo, quản lý, đặc biệt là cán bộ hoạt động ở cấp cơ sở.
- Lãnh đạo
Lãnh đạo là một phạm trù khoa học xuất hiện từ lâu và luôn gắn với đời
sống chính trị của lồi người. Trong các nghiên cứu chính trị học kinh điển từ
thời cổ Hy-La, quan điểm khởi đầu chính là về người lãnh đạo. Plato quan
niệm nền chính trị tốt phải do những nhà thơng thái điều hành một cách nghiêm
khắc. Trong ba trụ cột của nền chính trị (Luật pháp, quyền lực nhà nước, và
người lãnh đạo), Ơng nhấn mạnh vai trị và phẩm chất của người lãnh đạo.
Lãnh đạo có thể được tiếp cận ở nhiều phương diện, người lãnh đạo,
chủ thể lãnh đạo, nội dung lãnh đạo, phương thức lãnh đạo. Khái niệm lãnh
đạo có thể tiếp cận dưới giác độ tố chất, có thể được tiếp cận dưới giác độ
hành vi, có thể được tiếp cận dưới giác độ gây ảnh hưởng... Xuất phát từ cách
tiếp cận khác nhau, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đưa ra định nghĩa
khác nhau về lãnh đạo. Song, vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về lãnh
đạo, cụ thể:
Cách tiếp cận trong nghiên cứu lãnh đạo của một số nhà nghiên cứu
trên thế giới:
- Lãnh đạo với tư cách là tiêu điểm của các hoạt động nhóm. Chapin
(1924) cho đó là “điểm hội tụ sự hợp tác của nhóm”.
- Lãnh đạo với tư cách là nhân cách và các hiệu quả của nó. Bernard
(1926): “Bất kỳ người nào có khả năng hơn người trong việc tạo ra những
kích thích tâm lý đối với người khác và do vậy, có ảnh hưởng quan trọng tới
các phản ứng tập thể đều có thể được gọi là một người lãnh đạo”.
- Lãnh đạo với tư cách là một hành động hay một hành vi. Shartle

(1956) cho rằng, hành động lãnh đạo là “cái làm cho người khác hành động
hoặc phản ứng theo một hướng đã thống nhất”.
- Lãnh đạo với tư cách là một công cụ để đạt mục đích. Crowley


12
(1928): người lãnh đạo là một người có một chương trình và đang hướng tới
một mục tiêu cùng với nhóm của anh ta với một thái độ rõ ràng”, trong khi
David (1942) lại xem sự lãnh đạo như là “động lực chính thúc đẩy và phối
hợp sự tổ chức trong q trình thực hiện các mục tiêu của nó”.
- Lãnh đạo với tư cách là một kết quả của sự tương tác. Bogardus
(1929) cho rằng, đó là một q trình xã hội làm cho rất nhiều người phấn đấu
cho mục tiêu cũ với quyết tâm mới hoặc cho một mục tiêu mới với dũng khí
đầy lạc quan...”.
- Lãnh đạo với tư cách là sự khởi đầu của cấu trúc. Stogdill (1959)
đưa ra cách tiếp cận này khi ông định nghĩa sự lãnh đạo là “sự khởi đầu và
duy trì cấu trúc trong sự mong đợi và tương tác”.
- Lãnh đạo với tư cách là một nghệ thuật tạo nên sự phục tùng.
Allport (1924) - sự lãnh đạo là “sự kiểm soát xã hội của cá nhân” và Bundel
(1930) định nghĩa sự lãnh đạo “là nghệ thuật khiến người khác làm cái mà
mình muốn” là những minh họa về cách tiếp cận về sự phục tùng trong định
nghĩa về sự lãnh đạo.
- Lãnh đạo với tư cách là thực hiện sự ảnh hưởng. Tannenbaum
(1961) cho rằng lãnh đạo đơn giản là “sự ảnh hưởng giữa các cá nhân”, còn
sự quan sát của Tead (1935) lại cho thấy đó là “hoạt động ảnh hưởng đến con
người khiến họ hợp tác hướng tới một mục tiêu nào đó mà họ mong muốn”.
- Lãnh đạo là một dạng thuyết phục. Theo Eisenhower, “lãnh đạo là
khả năng quyết định cái gì sẽ được thực hiện và khiến cho người khác cũng
muốn thực hiện nó”. Lippmann (1922): “Sự thử thách cuối cùng của một nhà
lãnh đạo là để lại phía sau anh ta và trong lịng những người khác sự thuyết

phục và mong muốn tiếp tục thực hiện công việc”.
- Lãnh đạo với tư cách là một quan hệ quyền lực. French và Raven
(1959) đã định nghĩa lãnh đạo từ khía cạnh những khác biệt trong quan hệ
quyền lực giữa các thành viên của một nhóm. Tương tự như vậy, Janda


13
(1960) đã xem lãnh đạo với nghĩa là “nhận thức của nhóm rằng, một thành
viên có quyền quy định cách ứng xử trong các hoạt động của nhóm đó” [24,
tr.257-259].
Cần thấy rằng sự tuyệt đối hóa bất cứ một cách tiếp cận nào đều đưa
đến sự nhìn nhận lệch lạc vì bản thân lãnh đạo là hành động thực tiễn và ln
địi hỏi sự nhìn nhận từ nhiều góc độ.
Cách tiếp cận về lãnh đạo của một số nhà nghiên cứu trong nước:
- “Lãnh đạo là hoạt động dẫn dắt một tập thể đạt mục tiêu chung thông
qua chủ yếu bằng sức thuyết phục và xây dựng sự tự nguyện của các thành
viên”. Khái niện lãnh đạo như vậy nhấn mạnh ba điểm chính yếu nhất: i) tính
đạo lý trong mục tiêu chung, ii) tính thuyết phục trong cách thức lãnh đạo, và
iii) tính tự nguyện trong q trình lãnh đạo [24, tr.248].
Lãnh đạo là hoạt động đặc biệt của con người trong xã hội, là một
hoạt động đa dạng và phức tạp. Lãnh đạo là gây ảnh hưởng, là q
trình khích lệ và chia sẽ nhằm phát huy năng lực và hiện thực hóa
tiềm năng của mỗi cá nhân hướng tới lợi ích chung [24, tr.308].
Theo Từ điển tổ chức và cơng tác tổ chức thì:
Lãnh đạo: theo nghĩa rộng, lãnh đạo cùng với quản lý là công việc
mà tất cả các chủ thể là tổ chức và cá nhân có thẩm quyền tác động
đến các tổ chức và cá nhân dưới quyền và các thành viên khác trong
xã hội khi thi hành nhiệm vụ do các chủ thể đó vạch ra; hoặc bằng
biện pháp hành chính, mệnh lệnh, hoặc kết hợp biện pháp hành
chính với biện pháp thuyết phục, hoặc chỉ dùng biện pháp vận

động, thuyết phục, không dùng biện pháp hành chính đối với các
thành viên trong tổ chức hoặc trong xã hội. Chủ thể lãnh đạo là tổ
chức hoặc cá nhân có thẩm quyền lãnh đạo các tổ chức và cá nhân
dưới quyền, đồng thời lại là đối tượng bị lãnh đạo của tổ chức mà
mình là thành viên và của tổ chức hoặc cá nhân là cấp trên của


14
mình. Theo quy ước và kinh nghiệm thực tiễn, người ta có thể hiểu
và dùng hai khái niệm lãnh đạo và quản lý với ý nghĩa riêng biệt:
khái niệm lãnh đạo chủ yếu để nói về chức năng lãnh đạo chính trị;
khái niệm quản lý chủ yếu để nói về cơng việc quản lý hành chính,
điều hành các hoạt động của Nhà nước [34, tr.860].
Theo Từ điển Tiếng Việt: “lãnh đạo” là đề ra chủ trương, đường lối và
tổ chức thực hiện [33, tr.544].
Trong Đại từ Tiếng Việt: “lãnh đạo” là dẫn dắt, tổ chức phong trào
theo đường lối cụ thể.
Tuy có nhiều quan niệm và cách tiếp cận, diễn đạt khác nhau nhưng
tựu chung lại đều có những điểm chung sau:
Một là, lãnh đạo là một hoạt động của chủ thể nào đó trong việc hoạch
định đường lối, chủ trương, chính sách; trong việc xác định nội dung, nhiệm
vụ cần phải làm; xác định mục đích, yêu cầu cần phải đạt trong một giai đoạn
nào đó; là nêu quan điểm, nguyên tắc và các giải pháp tiến hành để đạt mục
tiêu. Tất cả những việc làm đó đều nhằm dẫn dắt, điều khiển, định hướng
hành động cho các đối tượng lãnh đạo hướng tới mục tiêu đã định.
Hai là, lãnh đạo là quá trình tổ chức thực hiện các chủ trương, đường
lối, chính sách đã xác định; là quá trình tổ chức, dẫn dắt động viên, hướng
mọi nỗ lực của đối tượng lãnh đạo vào việc thực hiện các mục tiêu đã định.
Chủ thể lãnh đạo ở đây có thể là một người hay một tổ chức xã hội,
còn khách thể cũng có thể là một người, một tổ chức. Tổ chức và con người,

có thể là chủ thể trong mối quan hệ này, nhưng lại là khách thể trong mối
quan hệ khác. Vì vậy, bản chất của lãnh đạo, hiểu theo nghĩa chung nhất là
quá trình tác động có định hướng, có mục đích giữa con người với con người,
giữa tổ chức với cá thể và giữa tổ chức với tổ chức, nhằm huy động tiềm năng
sáng tạo, sự nỗ lực của khách thể vào việc giải quyết mâu thuẩn, tháo gỡ khó
khăn, thúc đẩy phong trào tiến lên vì lợi ích chung đã xác định.


15
Nói đến lãnh đạo, trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ
Chí Minh cho rằng: Lãnh đạo đúng nghĩa là:
“1- Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng.....”
“2- Phải tổ chức sự thi hành cho đúng.......”
“3- Phải tổ chức sự kiểm soát.......” [28, tr.235]
Như vậy, lãnh đạo là đề ra chủ trương, đường lối để phát triển một đơn
vị, một ngành, một địa phương hoặc có thể là một quốc gia, dân tộc và dẫn
dắt, cổ vũ đơn vị, ngành, địa phương thực hiện theo đúng chủ trương, đường
lối đã vạch ra, đồng thời phải kiểm tra đánh giá việc thực hiện chủ trương,
đường lối đã vạch ra.
- Quản lý
“Quản lý” tự thân nó là một khái niệm đa nghĩa, bao gồm các nghĩa
rộng và nghĩa hẹp. Sự khác biệt về thời đại, xã hội, chế độ, nghề nghiệp v.v…
cũng có thể dẫn tới những cách lý giải và hiểu khác nhau. Cùng với sự phát
triển của phương thức xã hội hóa sản xuất và sự mở rộng trong nhận thức của
con người thì sự khác biệt về nhận thức và lý giải khái niệm quản lý càng trở
nên rõ rệt.
Xuất phát từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, các nhà nghiên cứu
trong và ngoài nước đưa ra định nghĩa khác nhau về quản lý. Và, cho đến nay,
vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về quản lý.
Xét trên phương diện nghĩa từ vựng, quản lý thường được hiểu là chủ

trì hay phụ trách một cơng việc nào đó.
Các trường phái quản lý học trên thế giới đã đưa ra những định nghĩa
về quản lý như sau:
- Tailor: “Làm quản lý là bạn phải biết rõ: muốn người khác làm việc
gì và hãy chú ý đến cách tốt nhất, kinh tế nhất mà họ làm”.
- Henry Fayel: Quản lý trong kinh doanh hay quản lý trong các tổ
chức nhân sự nói chung là hành động đưa các cá nhân trong tổ chức làm việc


16
cùng nhau để thực hiện, hoàn thành mục tiêu chung. Công việc quản lý bao
gồm 5 nhiệm vụ: xây dựng kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm sốt.
Trong đó, các nguồn lực có thể được sử dụng và để quản lý là nhân lực, tài
chính, cơng nghệ và thiên nhiên.
- Hard Koont: “Quản lý là xây dựng và duy trì một mơi trường tốt
giúp con người hồn thành một cách hiệu quả mục tiêu đã định”.
- Peter F Druker: “Suy cho cùng, quản lý là thực tiễn. Bản chất của nó
khơng nằm ở nhận thức mà là ở hành động; kiểm chứng nó khơng nằm ở sự
logic mà ở thành quả; quyền uy duy nhất của nó là thành tích”.
- Peter. F. Dalark: “Định nghĩa quản lý phải được giới hạn bởi mơi
trường bên ngồi nó. Theo đó, quản lý bao gồm 3 chức năng chính là: Quản lý
doanh nghiệp, quản lý giám đốc, quản lý công việc và nhân công”.
- Mary Parker Follett: “Quản lý là nghệ thuật khiến công việc được
làm bởi người khác” [22, tr.407-408].
Theo cách tiếp cận trên thì quản lý có thể được coi là quan niệm chứ
không phải kỹ thuật, là tự do chứ không phải bị khống chế, là nhiệm vụ thực
tế chứ khơng phải lý luận; là thành tích chứ không phải tiềm năng, là trách
nhiệm chứ không phải quyền lực; là cống hiến chứ không phải thăng tiến; là
cơ hội chứ không phải chướng ngại; là đơn giản chứ không phải phức tạp.
Theo quan niệm của một số nhà nghiên cứu trong nước cho rằng:

“Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý
tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đã đề ra” [23, tr.95].
“Quản lý là việc sử dụng quyền lực (do tổ chức, cơ quan, nhà nước,
nhân dân,... ủy quyền) để cai quản, điều phối, điều hành hoạt động của một tổ
chức, một cơ quan, một nhà nước, nhằm đạt tới mục tiêu mà tổ chức, cơ quan,
nhà nước đề ra” [23, tr.95].
Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí - Nguyễn Thị Mỹ Lộc thì: “Quản lý là
tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến


17
khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức
vận hành đạt được mục đích của tổ chức”.
Tác giả Nguyễn Minh Đạo định nghĩa:
Quản lý là tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể
quản lý (người quản lý hay tổ chức quản lý) lên khách thể (đối tượng
quản lý) về mặt chính trị, văn hố, xã hội, kinh tế… bằng một hệ
thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp
và biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát
triển của đối tượng [20, tr.13].
Và... “Quản lý là thiết kế và duy trì một mơi trường mà trong đó các
cá nhân làm việc với nhau trong các nhóm, có thể hoàn thành các nhiệm vụ và
các mục tiêu đã định” [29, tr.29].
Quản lý thực chất là một hành vi, do đó thì phải có người tiến hành và
người chịu tác động. Hành vi đó được thực hiện mục đích gì? Như vậy, để
hình thành nên hoạt động quản lý trước tiên cần có chủ thể quản lý: nói rõ ai
là người quản lý? Sau đó cần xác định đối tượng quản lý: quản lý cái gì? Cuối
cùng cần xác định mục đích quản lý: quản lý vì cái gì? Nói cách khác, “quản
lý là sự tác động của một hoặc một nhóm cá nhân (các nhà quản lý) đối với
những cá nhân khác nhằm thúc đẩy thực hiện những hành động đạt tới các

mục tiêu đã định với sự chịu trách nhiệm của nhà quản lý về hiệu quả đạt
được” [22, tr.408]. Tức là quản lý bao gồm ba phương diện:
- Thể chế: “Ai” quản lý “ai”? (Các chủ thể quản lý) Quản lý “cái gì”?
(Khách thể quản lý).
- Chức năng: quản lý “thế nào” và nó tác động tới các đối tượng bị
quản lý “như thế nào”? Quản lý vì cái gì? (Mục đích quản lý).
- Cơng cụ: quản lý được thực hiện bằng “phương diện” nào? Trong
hoàn cảnh nào? (Môi trường và điều kiện tổ chức).


18
Từ cách tiếp cận trên, có thể quan niệm quản lý là sự tác động hướng
đích, có mục tiêu cụ thể; thể hiện mối quan hệ giữa chủ thể quản lý (các tổ
chức hoặc cá nhân làm nhiệm vụ quản lý) và đối tượng quản lý nhằm đạt mục
tiêu đã đề ra.
Cũng cần phân biệt giữa lãnh đạo và quản lý. Đó là những khái niệm
khơng thuộc cùng một phạm trù.
Lãnh đạo là một chức năng của quản lý, thường được gọi là chức năng
lãnh đạo, còn chức năng khác của quản lý lại khơng phải là lãnh đạo. Ví dụ:
công việc mà những người tham mưu trong tổ chức làm là công tác quản lý,
nhưng không phải là công tác lãnh đạo. Quản lý ở đây chỉ hành vi quản lý,
công tác lãnh đạo vừa bao gồm hành vi quản lý, vừa bao gồm hoạt động
nghiệp vụ khác. Ví dụ: một người lãnh đạo tổ chức cần gặp và tiếp nhân vật
quan trọng, tham gia đàm phán, tham dự những hoạt động chung.
Thông thường, lãnh đạo chủ yếu là lãnh đạo con người, xử lý quan hệ
giữa người với người, đặc biệt là quan hệ cấp trên và cấp dưới. Đây là vấn đề
cốt lõi trong hoạt động quản lý. Cịn về quản lý, ngồi quản lý con người, đối
tượng của quản lý cịn bao gồm tài chính, vật chất. Quản lý không chỉ xử lý
quan hệ giữa người với người mà còn phải xử lý mối quan hệ tài chính và vật
chất, giữa vật chất và con người, giữa con người và tài chính. Phạm vi mà

quản lý đề cập đến rộng hơn nhiều so với lãnh đạo.
Quản lý là hoạt động được thực hiện dưới danh nghĩa và bởi một chức
vụ được cấp trên chính thức bổ nhiệm cùng với những quyền hạn tương ứng
nhất định được trao và được thừa nhận ở cấp dưới. Theo J. French và B.
Raven, một nhà quản lý là người có quyền sai khiến người dưới và hành xử
công việc theo hoạch định của tổ chức. Quản lý nhằm tới công “việc” hơn là
con “người”. Nhà quản lý bố trí và giao công việc cho người thừa hành, đồng
thời theo dõi diễn biến công việc và đánh giá chất lượng công việc để thưởng
phạt theo quy định của cơ quan, tổ chức. Nếu lãnh đạo gắn liền với quyền lực,


19
thì quản lý lại gắn liền với quyền hạn.
Tóm lại, về bản chất, “lãnh đạo” là một khái niệm rộng hơn “quản lý”.
Lãnh đạo là việc đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức, động viên thực hiện
nhằm tác động hoặc chi phối hành vi của một cá nhân, một nhóm người hay cơ
quan, tổ chức, bất kể trong điều kiện, hoàn cảnh nào nhằm đạt được mục tiêu
đặt ra, là tầm nhìn, những cân nhắc về đạo đức, lập kế hoạch chiến lược và các
quá trình ra quyết định mà tổ chức cần thực hiện để đạt được thành cơng. Trong
khi đó, quản lý là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất
định, là việc vận hành các công việc hàng ngày, tuân thủ chặt chẽ theo các
chính sách, thủ tục, quy trình, nguyên tắc của tổ chức, một quá trình làm việc
cùng với và thơng qua các cá nhân, các nhóm xã hội và những nguồn lực khác
(như thiết bị, vốn, công nghệ...) để đạt được những mục tiêu của tổ chức, tức là
các mục tiêu lãnh đạo của tổ chức được thể hiện và đạt tới thông qua sự quản
lý. Xét theo mục đích hoạt động, quản lý là một loại hình lãnh đạo chuyên biệt,
mà việc đạt được những mục tiêu của tổ chức có ý nghĩa quan trọng nhất.
Như vậy, nhà quản lý là người đảm nhận trách nhiệm dẫn dắt, lãnh
đạo, hướng dẫn hoạt động quản lý cho một tổ chức hay một nhóm đối tượng
quản lý nhất định thông qua việc sử dụng các nguồn tài nguyên khác nhau về

nhân lực, tài chính, vật tư, tri thức và giá trị vơ hình làm cho tổ chức ấy hoàn
thành được những mục tiêu nhất định. Năng lực lãnh đạo, quản lý của cán bộ
chính là năng lực đưa tổ chức đạt đến mục tiêu.
1.1.2. Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
- Cán bộ
Thuật ngữ “cán bộ” được sử dụng khá lâu tại các nước xã hội chủ nghĩa
và bao hàm trong phạm vi rộng những người làm việc thuộc khu vực nhà nước,
tổ chức chính trị và các tổ chức chính trị - xã hội. Do đó, nhiều khi thuật ngữ
“cán bộ” được sử dụng tương đối thoải mái và gắn liền trong một cụm từ “cán
bộ, công chức, viên chức”.


20
Ở Việt Nam, trải qua một thời gian dài cho đến trước khi Luật cán bộ,
công chức được ban hành năm 2008, trong nhận thức cũng như trong các hoạt
động quản lý, chúng ta chưa xác định được rõ ràng cán bộ; công chức; viên
chức. Trong hệ thống pháp luật của nước ta, kể từ Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ
sung năm 2001) cho đến các luật khác (Ví dụ: Luật Tổ chức Chính phủ; Luật
Tổ chức Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân; Luật Bình đẳng giới; Luật Luật
sư; Luật Cơng an nhân dân; Luật Phịng, chống tham nhũng; Luật Giáo dục;...)
đều có những điều, khoản quy định sử dụng nhiều lần các thuật ngữ “cán bộ”,
“công chức”, “viên chức” nhưng chưa có một văn bản luật nào giải thích các
thuật ngữ này. Trong điều kiện thể chế chính trị của Việt Nam, có một điểm đặc
biệt là đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức ln có sự liên thông với nhau.
Theo yêu cầu nhiệm vụ, cơ quan có thẩm quyền có thể điều động, luân chuyển
họ giữa các cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội.
Với điểm đặc thù này, việc nghiên cứu để xác định rõ cán bộ, cơng chức, viên
chức một cách triệt để rất khó và phức tạp. Trong đời sống xã hội, từ lâu thuật
ngữ “cán bộ” được sử dụng trong phạm vi rất rộng rãi, không hạn chế và không
theo một quy tắc, quy định nào. “Cán bộ” không chỉ để gọi những người làm

việc trong các cơ quan của Đảng, của Nhà nước, của tổ chức chính trị - xã hội
mà cịn được sử dụng cả trong các hoạt động sự nghiệp như “cán bộ y tế”; “cán
bộ lớp học”; “cán bộ coi thi”; “cán bộ dân phố”... Khi việc sử dụng cụm từ nào
mang lại hiệu quả hoặc lợi ích thì cụm từ đó đương nhiên được sử dụng ngay;
hoặc có khi người ta sử dụng luôn cả cụm từ dài “cán bộ, công chức, viên
chức” để chỉ chung những người làm việc trong các cơ quan của Đảng, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội.
Vấn đề làm rõ thuật ngữ “cán bộ”; “công chức”; “viên chức” được coi
là vấn đề cơ bản, quan trọng, là một nhu cầu cần thiết xuất phát từ thực tiễn
đổi mới cơ chế quản lý đặt ra hiện nay. Điều này đã được Luật cán bộ, công
chức năm 2008 giải quyết tương đối triệt để và khoa học, phù hợp với lịch sử


21
hình thành đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức; phù hợp với thể chế chính
trị và thực tiễn quản lý của Việt Nam. Đây được coi là một trong các thành
công của Luật cán bộ, công chức năm 2008.
Khoản 1 Điều 4 của Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định: “Cán
bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ,
chức danh theo nhiệm kỳ trong các cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện) trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước”.
Khoản 3 Điều 4 của Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định: “Cán
bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam,
được bầu giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân,
Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính
trị - xã hội trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước [30, tr.5].
Theo quy định này thì tiêu chí xác định cán bộ cấp xã gắn với cơ chế bầu cử

giữ chức vụ theo nhiệm kỳ.
Để làm rõ những ai là cán bộ cấp xã, tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định số
92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ quy định cán bộ
cấp xã có các chức vụ sau đây:
- Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy;
- Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
- Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân;
- Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
- Bí thư Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
- Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;


22
- Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị
trấn có hoạt động nơng, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nơng dân
Việt Nam);
- Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
Thực tế cho thấy, cán bộ luôn gắn liền với chức vụ theo nhiệm kỳ; hoạt
động của họ gắn với quyền lực chính trị được nhân dân hoặc các thành viên
trao cho và chịu trách nhiệm chính trị trước Đảng, Nhà nước và nhân dân.
- Chủ chốt
Theo Từ điển tiếng Việt, từ "chủ chốt" là "quan trọng nhất, có tác
dụng làm nịng cốt. Cán bộ chủ chốt của phong trào" [32, tr.174].
- Cán bộ chủ chốt
Đó là những người đứng đầu quan trọng nhất, có chức vụ cao nhất
trong một tập thể, có quyền ra những quyết định và chủ trương, có
trách nhiệm và quyền điều hành một tập thể, một đơn vị, một tổ
chức, để thực hiện những nhiệm vụ của tập thể hoặc tổ chức ấy,
thậm chí có thể chi phối, dẫn dắt toàn bộ hoạt động của một tổ chức
nhất định [35, tr.33].

Theo Công văn số 4741-CV/BTCTW ngày 20 tháng 5 năm 2013 của
Ban Tổ chức Trung ương về một số vấn đề đào tạo cao cấp lý luận chính trị hành chính, trong đó xác định “Cán bộ chủ chốt cấp huyện gồm: bí thư, phó
bí thư, chủ tịch hội đồng nhân dân, chủ tịch ủy ban nhân dân huyện” [9, tr.1].
- Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở: Từ cách tiếp cận cán bộ chủ chốt như
trên, có thể hiểu cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là những người đứng đầu cấp ủy,
chính quyền ở cơ sở, tổ chức lãnh đạo, điều hành nhiệm vụ chính trị ở cơ sở
về phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh,… và các hoạt động khác do
pháp luật quy định. Là những người đứng đầu, giữ vị trí quyết định trong cấp
ủy, chính quyền cơ sở.


23
Theo đó, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở được đề tài tiến hành khảo
sát bao gồm: bí thư, phó bí thư đảng ủy, chủ tịch, phó chủ tịch Hội đồng nhân
dân, chủ tịch, phó chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã.
1.1.3. Năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
Từ tiếp cận các quan niệm về năng lực, lãnh đạo, quản lý, cán bộ, chủ
chốt cấp cơ sở nêu trên, có thể quan niệm về năng lực lãnh đạo, quản lý của
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở đó là: khả năng của người đứng đầu cấp ủy,
chính quyền cơ sở trong việc quán triệt và vận dụng một cách sáng tạo, linh
hoạt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào
hồn cảnh, điều kiện cụ thể ở cơ sở, đồng thời đề ra chủ trương, kế hoạch,
phương hướng đúng, có biện pháp tổ chức lãnh đạo, điều hành phù hợp nhằm
thực hiện tốt các nhiệm vụ ở cơ sở đạt mục tiêu đề ra.
1.2. Ý NGHĨA NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN
BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ

Năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có ý
nghĩa quan trọng đối với tổ chức, xã hội, địa phương nói chung và với chính
bản thân của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng. Điều này xuất phát

từ lý do vì sao đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải khơng ngừng hồn
thiện năng lực lãnh đạo, quản lý của mình.
Trước hết, do sự vận động của thực tiễn khách quan luôn biến đổi
không ngừng, nếu nhận thức của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở không
theo kịp sẽ trở nên lạc hậu và tất yếu dẫn đến khuyết điểm, sai lầm. Chủ tịch
Hồ Chí Minh dạy rằng:
Phải biết rằng tình hình khách quan thay đổi hàng giờ hàng phút,
một chủ trương của ta hôm nay đúng, hôm sau đã không hợp thời,
nếu ta không tỉnh táo kiểm điểm những tư tưởng hành vi của ta để
bỏ đi những cái quá thời, sai hỏng, nhất định ta sẽ khơng theo kịp
tình thế, ta sẽ bị bỏ rơi, bị các bạn tỉnh táo nhanh nhẹn hơn vượt đi
trước [27, tr.26].


24
Trong giai đoạn đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong
xu thế tồn cầu hóa gắn với sự phát triển nhanh chóng của cuộc cách mạng
cơng nghiệp lần thứ tư, những biến động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội diễn
ra liên tục và bất ngờ. Do vậy, sự bất cập trước những vấn đề kinh tế, xã hội
của đất nước, các địa phương, đơn vị là điều không thể tránh khỏi đối với đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
và tất yếu dẫn đến những khuyết điểm, sai lầm về nhận thức và hành động. Cho
nên, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng
nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý, đây là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng và được coi là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục.
Song hành với vấn đề thực tiễn trên là tính chủ quan và sức ỳ của con
người trong lãnh đạo, quản lý cũng thường diễn ra. Tính chủ quan thể hiện ở
việc tự cho mình đã nhận thức đúng đắn và đầy đủ thực tiễn khách quan hoặc
rơi vào kinh nghiệm chủ nghĩa khi giải quyết các vấn đề mới của đời sống xã
hội. Sức ỳ của năng lực lãnh đạo, quản lý ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở

biểu hiện ở sự tự bằng lịng với những gì đã có hay khơng chịu học tập,
nghiên cứu để nâng cao trình độ nhận thức, phương pháp, kỹ năng, nắm bắt
giải quyết thực tiễn, đáp ứng nhiệm vụ mới, yêu cầu mới đặt ra trong lãnh
đạo, quản lý. Tính chủ quan và sức ỳ của năng lực lãnh đạo, quản lý ở đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là nguyên nhân cơ bản của những khuyết điểm, sai
lầm khi giải quyết vấn đề thực tiễn đời sống xã hội đặt ra tại cơ sở, do đó vấn
đề năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có ý
nghĩa quyết định đến sự phát triển của địa phương cơ sở.
Năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có ý
nghĩa quan trọng, quyết định đến chất lượng, hiệu quả hoạt động của toàn bộ
hệ thống chính trị và sự phát triển của địa phương ở cơ sở. Điều này được lý
giải bởi một tổ chức, xã hội, địa phương muốn hoàn thành nhiệm vụ, muốn
đạt được mục tiêu phấn đấu của mình, cần có đội ngũ cán bộ chủ chốt là
những người lãnh đạo, quản lý tiên tiến dẫn dắt. Đội ngũ cán bộ này phải biết


×