Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Tiểu luận bạo lực học đường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.17 KB, 23 trang )

Tên đề tài: Vai trị của nhân viên cơng tác xã hội trong hỗ trợ học sinh bị bạo lực
học đườngtại trường PTDT Nội trú tỉnh Hà Giang
Lý do chọn đề tài
Bạo lực học đường là vấn nạn của giáo dục Việt Nam trong những năm qua
và cả hiện tại. Trên các phương tiện thông tin đại chúng thường xuyên xuất hiện tin
bài về nạn bạo lực học đường. Điều đó đã phản ánh thực trạng xuống cấp trầm
trọng về đạo đức của một bộ phận không nhỏ học sinh và một số giáo viên. Có
những vụ vi phạm nghiêm trọng đạo đức của học sinh và phẩm chất của giáo viên
đã diễn ra mà chúng ta không ngờ tới. Giáo dục để giảm thiểu, tiến tới ngăn chặn
hoàn toàn nạn bạo lực học đường đang là mối quan tâm hàng đầu của các ngành
chức năng, trong đó, có ngành giáo dục, gia đình và tồn xã hội.
Theo báo cáo sơ bộ khoảng tháng 5/2018 của các cơ quan công an tại 63 tỉnh
thành trên cả nước thì từ năm 2010 đến nay đã có hơn 7.000 học sinh tham gia vào
các sự việc đánh nhau, lôi kéo dọa đánh bạn và bị kỷ luật.
Số liệu được Bộ Giáo dục và đào tạo (GD- ĐT) đưa ra năm 2016, trong một
năm học, toàn quốc xảy ra gần 1.600 vụ việc học sinh đánh nhau ở trong và ngoài
trường học (khoảng 5 vụ/ngày). Cũng theo thống kê của Bộ GD-ĐT, cứ khoảng
trên 5.200 học sinh (HS) thì có một vụ đánh nhau; cứ hơn 11.000 HS thì có một em
bị buộc thơi học vì đánh nhau; cứ 9 trường thì có một trường có học sinh đánh
nhau. Đáng nói, những sự vụ bạo lực học đường xảy ra không chỉ ở các học sinh
nam mà thực tế lại có nhiều vụ học sinh nữ đánh nhau hội đồng hậu quả rất nghiêm
trọng. Lý do rất vu vơ như “nhìn đểu”, xinh hơn bạn, người mới đến, học giỏi,
không giúp đỡ bạn làm bài. Cách xử lý thì bằng đủ vật dụng từ giày dép, guốc, cặp
sách, ghế ngồi, dây lưng,…Điều lo ngại hơn cả là sự thờ ơ của các em, khi chỉ xúm
xùm vào quay phim và chụp ảnh bạn tung lên mạng. Ngồi ra những hành vi bạo
lực cịn có nguyên nhân gián tiếp từ giáo viên đơn cử như trường hợp ngày 19.11,
học sinh Hoàng Long N, học sinh lớp 6.2 Trường THCS xã Duy Ninh (huyện
Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình) nói tục ngồi sân trường, bị đội cờ đỏ ghi sổ. Cô
giáo chủ nhiệm là Nguyễn Thị Phương Thủy đã bắt các bạn cùng lớp tát liên tiếp
vào mặt N. Tổng số N bị phạt 231 cái tát, khiến 2 má thâm đen, sưng tấy, khó nhai
nuốt, đây là hành vi bạo lực có tính chất phản giáo dục, gieo rắc lòng thù hận, dễ


nảy sinh bạo lực trong mỗi học sinh.
Bạo lực học đường là những biểu hiện dẫn đến hành vi cụ thể như đụng
chạm, ra tay, chân đánh người khác. Bạo lực học đường diễn ra ở nhiều cấp độ và
hành vi khác nhau như lời nói đe dọa, vu khống, đánh đập. Hành vi bạo lực ảnh
1


hưởng nghiêm trọng tới cả một thế hệ trẻ, ảnh hưởng đến tương lai của đất nước,
dân tộc. Hành vi bạo lực mang lại nhiều hậu quả cho chính bản thân người gây ra
hành vi bạo lực, người bị bạo lực, gia đình, nhà trường và tồn xã hội. Từ đó địi
hỏi cần phải có những hoạt động trợ giúp cũng như ngăn chặn các hành vi bạo lực
trong trường học.
Công việc của nhân viên xã hội là giúp thân chủ đối phó với những tình
huống khó khăn trong cuộc sống và gắn kết họ với những nguồn lực trong cộng
đồng có thể giúp họ vượt qua được khó khăn. Ở trường học, cần có NVXH để xây
dựng một mơi trường thân thiện giúp học sinh thành công trong học tập và hồn
thiện nhân cách. Vì vậy, NVXH học đường sẽ đóng vai trị như cầu nối giữa phụ
huynh, nhà trường và cộng đồng; cũng như xây dựng cùng lúc nhiều hoạt động như
tổ chức (và thực hiện) những buổi tập huấn kỹ năng hoặc tham vấn cho những
người có nhu cầu, phát triển những chương trình ngăn ngừa những hành vi xấu có
khuynh hướng phát triển trong trường học, thực hiện những hoạt động can thiệp
nhằm giảm thiểu những vấn đề gây cản trở việc học tập của học sinh,trường PTDT
Nội trú tỉnh Hà Giang là một trường nằm ở trung tâm thành phố Hà Giang với 22
dân tộc đến từ tất cả các huyện của Hà Giang, cùng sinh sống và học tập tại trường,
do các em đến từ các huyện, xã khác nhau và khác dân tộc nên cách sinh hoạt, thái
độ của các em đôi khi không giống nhau nên dễ nảy sinh ra những mâu thuẫn xích
mích đã có các cơng trình nghiên cứu về bạo lực học đường tại trường nhưng hiện
nay, chưa có các nghiên cứu đề cập đến vai trò của các nhân viên CTXH trong hỗ
trợ học sinh bị bạo lực học đường, tại trường PTDT Nội trú tỉnh Hà Giang. Từ
những vấn đề trên đã gợi mở trong tôi hướng nghiên cứu đề tài“ Vai trị của nhân

viên cơng tác xã hội trong hỗ trợ học sinh bị bạo lực học đườngtại trường PTDT
Nội trú tỉnh Hà Giang”

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN
CỨU
2


1.1.

KHÁI NIỆM VÀ THUẬT NGỮ CÓ LIÊN QUAN VỀ BẠO LỰC HỌC
ĐƯỜNG
1.1.1. Khái niệm vai trò
Thuật ngữ vai trò được dùng để xác định thành phần các mơ hình văn hóa
gắn liền với một địa vị cụ thể. Nó gồm tâm thế, giá trị hành vi do xã hội gắn cho
bất cứ ai hoặc tất cả những người chiếm địa vị cụ thể. Nó bao gồm những kỳ vọng
được hợp pháp hóa của những người giữ chức vụ đối với hành vi người khác
hướng đến họ.
Theo nhà xã hội học Robertsons “ Vai trò là một tập hợp các chuẩn mực,
hành vi, quyền lợi và nghĩa vụ được gắn liền với một vị thế xã hội nhất định”.
1.1.2. Khái niệm bạo lực
Có khá nhiều khái niệm khác nhau về bạo lực như:
“Bạo lực là sức mạnh dùng để trấn áp, chống lại lực lượng đối lập hay lật đổ chính
quyền”.
Theo WHO “ Bạo lực là việc đe dọa hay dùng sức mạnh thể chất hay quyền
lực đối với bản thân, người khác hoặc đối với một nhóm người hay một cộng đồng
người mà gây ra hay làm gia tăng khả năng gây ra tổn thương, tử vong, tổn hại về
tâm lý, ảnh hưởng đến sự phát triển hay gây ra sự mất mát.”
Bạo lực xảy ra có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, chẳng hạn như: do
mâu thuẫn giữa hai bên về các lĩnh vực trong cuộc sống không thể hòa giải; do sự

cạnh tranh, ghen ghét, đố kỵ lẫn nhau; do sự tham vọng hay cố chấp của một người
hay một bè phái nào đó; do sự nóng giận bột phát thiếu suy nghĩ,… Tuy nhiên, cho
dù do nguyên nhân nào đi nữa thì bạo lực cũng là một hành động tiêu cực, mang lại
nhiều hậu quả khôn lường, khơng như mong muốn. Bạo lực có thể làm cho con
người bị thương tật về mặt thể xác, tổn thương về tinh thần thậm chí có thể nguy
hiểm đến tính mạng của những người tham gia; gây ảnh hưởng xấu tới xã hội như
an ninh xã hội không được an toàn, người dân lo lắng, hoang mang, sợ hãi, tiêu phí
tiền bạc để chữa trị thương tật,… Bạo lực trở thành vấn nạn chung của toàn xã hội
cần phải được ngăn chặn kịp thời.
1.1.3. Khái niệm bạo lực học đường

3


Trong quá trình nghiên cứu về những vấn đề liên quan đến bạo lực học
đường, nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra những quan điểm khác nhau về khái niệm
bạo lực học đường.
Ở nước ngoài, bên cạnh thuật ngữ bạo lực học đường, người ta thường nói
tới thuật ngữ bắt nạt học đường. Bắt nạt học đường cũng là một phần của bạo lực
học đường và thậm chí nhiều lúc người ta còn đồng nhất giữa bắt nạt và bạo lực
học đường.
Dan Olweus, trong cuốn sách “Bắt nạt trong trường học, chúng ta biết gì và
chúng ta có thể làm gì” đã đưa ra định nghĩa theo một cách chung nhất, bắt nạt
trong trường học như một “hành vi tiêu cực được lặp đi lặp lại, có ý định xấu của
một hoặc nhiều học sinh nhằm trực tiếp chống lại một học sinh, người có khó khăn
trong việc tự bảo vệ bản thân”.
Milton Keynes (1989) định nghĩa: “Bắt nạt là một hành động lặp đi lặp lại
một cách hiếu chiến để cố ý làm tổn thương về tinh thần hoặc thể xác cho người
khác. Bắt nạt là đặc trưng của một cá nhân hành xử theo một cách nào đó để đạt
được quyền lực trên người khác”.

Một khái niệm khác cho rằng: bạo lực học đường là bất kỳ hình thức hoạt
động bạo lực hoặc các hoạt động bên trong các cơ sở trường học. Nó bao gồm các
hành vi bắt nạt, lạm dụng thân thể, lạm dụng bằng lời nói, ẩu đả, bắn,… Bắt nạt và
lạm dụng vật chất là những hình thức phổ biến nhất của bạo lực có liên quan đến
bạo lực học đường. Tuy nhiên, trường hợp cực đoan như bắn và giết người cũng đã
được liệt kê như là bạo lực học đường.
Mặc dù, cho đến nay vẫn chưa có định nghĩa thống nhất trong giới nghiên
cứu, tuy nhiên, với những định nghĩa như vậy chúng ta có thể hiểu: bạo lực học
đường là những hành vi cố ý, sử dụng vũ lực hoặc quyền lực của học sinh hoặc
giáo viên đối với những học sinh, giáo viên hoặc những người khác và ngược lại.
Đó có thể là những hành vi bạo lực về thể xác, bạo lực về tinh thần, bạo lực về tình
dục, bạo lực ngơn ngữ, những bắt ép về tài chính hoặc những hành vi khác có thể
gây ra nhưng tổn thương về mặt tinh thần hoặc thể xác cho người bị hại.
Trong đề tài này, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu về bạo lực học đường
xảy ra giữa các học sinh với nhau. Theo đó, bạo lực giữa các học sinh với nhau là

4


cách ứng xử, giải quyết các mâu thuẫn, bất đồng nảy sinh trong học tập, sinh hoạt
trong nhà trường giữa các học sinh bằng bạo lực.
Bạo lực học đường thể hiện ở các loại hành vi sau:
- Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc có hành vi xâm hại đến sức khoẻ tính mạng,
thể xác người khác.
- Hành vi, lời nói lăng mạ, xỉ nhục, xúc phạm danh dự, nhân phẩm làm tổn thương
về mặt tinh thần của con người.
- Xâm hại, cưỡng bức tình dục nơi trường học
- Hành vi chiếm đoạt, huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác.
- Cưỡng ép người khác đóng góp tài chính q khả năng của họ, kiểm sốt nguồn
tài chính của họ

1.1.4. Khái niệm cơng tác xã hội
Theo Hiệp hội Quốc gia NVCTXH (NASW): Công tác xã hội là hoạt động
nghề nghiệp giúp đỡ các cá nhân, nhóm hay cộng đồng để nhằm nâng cao hay khơi
phục tiềm năng của họ để giúp họ thực hiện chức năng xã hội và tạo ra các điều
kiện xã hội phù hợp với các mục tiêu của họ (Zastrow, 1996: 5).
CTXH tồn tại để cung cấp các dịch vụ xã hội mang tính hiệu quả và nhân đạo cho
cá nhân, gia đình, nhóm, cộng đồng và xã hội giúp họ tăng năng lực và cải thiện
cuộc sống (Zastrow, 1999:..)
Theo Cố Thạc sĩ Nguyễn Thị Oanh (trích từ tài liệu hội thảo 2004): Định
nghĩa cổ điển: CTXH nhằm giúp cá nhân và cộng đồng TỰ GIÚP. Nó khơng phải
là một hành động ban bố của từ thiện mà nhằm phát huy sứ mệnh của hệ thống
thân chủ (cá nhân, nhóm và cộng đồng) để họ tự giải quyết vấn đề của mình.
Theo Liên đồn Chun nghiệp Xã hội Quốc tế (IFSW) tại Hội nghị Quốc tế
Montreal, Canada, vào tháng 7/2000: CTXH chuyên nghiệp thúc đẩy sự thay đổi
xã hội, tiến trình giải quyết vấn đề trong mối quan hệ con người, sự tăng quyền lực
và giải phóng cho con người, nhằm giúp cho cuộc sống của họ ngày càng thoải mái
và dễ chịu. Vận dụng các lý thuyết về hành vi con người và các hệ thống xã hội.
CTXH can thiệp ở những điểm tương tác giữa con người và môi trường của họ.

5


Theo đề án 32 của Thủ tướng Chính phủ: CTXH góp phần giải quyết hài hịa
mối quan hệ giữa con người và con người, hạn chế phát sinh các vấn đề xã hội,
nâng cao chất lượng cuộc sống của thân chủ xã hội, hướng tới một xã hội lành
mạnh, công bằng, hạnh phúc cho người dân và xây dựng hệ thống an sinh xã hội
tiên tiến.
Như vậy: công tác xã hội là một nghề, một hoạt động chuyên nghiệp, nhằm
trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nhằm nâng cao năng lực, đáp ứng nhu
cầu và tăng cường chức năng xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm

giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng giải quyết và phịng ngừa các vẫn đề xã hội
góp phần đảm bảo an sinh xã hội.
1.1.5. Nhân viên công tác xã hội trong trường học
Công tác xã hội được ra đời bắt nguồn từ các hoạt động chăm sóc nhân đạo,
hoạt động từ thiện, sự trợ giúp xã hội, dần dần chuyển từ các hoạt động nghiệp dư
thành các hoạt động chuyên nghiệp trên cơ sở được đào tạo một cách khoa
học.Hiện nay, công tác xã hội là một nghề, một hoạt động chuyên nghiệp nhằm trợ
giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao năng lực đáp ứng nhu cầu và
tăng cường chức năng xã hội, đồng thời thúc đẩy mơi trường xã hội về chính sách,
nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng giải quyết và
phịng ngừa các vấn đề xã hội đảm bảo an sinh xã hội.
Công tác xã hội hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau như y tế, trẻ em,
người cao tuổi, người tàn tật, người nghèo, gia đình và trường học… Trong mỗi
một lĩnh vực khác nhau, cơng tác xã hội đều có cách thức tiếp cận, kĩ năng làm
việc khác nhau cho từng đối tượng cần được giúp đỡ.
Công tác xã hội trong trường học hay cịn gọi là cơng tác xã hội học đường
là một lĩnh vực trong công tác xã hội được thực hành trong trường học để giúp đỡ
học sinh, giáo viên hay cán bộ quản lý nhà trường tăng cường hoặc phục hồi năng
lực thực hiện chức năng xã hội của họ và tạo ra những điều kiện thích hợp nhằm
đạt được những mục tiêu trong dạy và học. Công tác xã hội trong trường học là
một lĩnh vực được thực hành thông qua việc Nhân viên công tác xã hội vận dụng
kiến thức, kĩ năng, nguyên tắc, phương pháp của chuyên biệt của ngành làm việc
cụ thể với các đối tượng trong trường học.

6


Đối tượng được xác định cụ thể trong trường học là học sinh, giáo viên, cán
bộ quản lý trong nhà trường và phụ huynh học sinh. Có thể thấy rằng các đối tượng
trong trường học là khác nhau, mỗi thân chủ là một cá thể riêng biệt với những vấn

đề khác nhau. Chính vì vậy địi hỏi Nhân viên cơng tác xã hội cần mềm dẻo, linh
hoạt trong việc áp dụng các kiến thức, kĩ năng khi thực hiện hoạt động can thiệp và
trợ giúp.
Như vậy, nhân viên CTXH học đường phải là người được đào tạo cơ bản về
CTXH, có đầy đủ phẩm chất, năng lực, đảm bảo và đáp ứng các yêu cầu đặt ra về
kiến thức, kỹ năng tác nghiệp trong môi trường học đường, trợ giúp cho các đối
tượng (thân chủ là cá nhân hoặc nhóm) trong học đường và liên quan đến học
đường (học sinh, sinh viên, giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục, đào tạo, phụ huynh,
gia đình học sinh, các tổ chức chính trị - xã hội, đồn thể, hiệp hội trong cộng
đồng, xã hội).
1.2. VAI TRÒ CỦA CTXH TRONG TRƯỜNG HỌC
Trong quá trình phát triển của CTXHTH trên thế giới và đặc biệt là trong các
đại hội quốc tế lần thứ nhất vào năm 1999 và lần thứ hai vào năm 2003, vai trị của
cơng tác xã hội học đường đã dần được củng cố và khẳng định, cụ thể là sự tác
động vào 4 đối tượng ở học đường là học sinh, phụ huynh, thầy cô giáo và các cán
bộ quản lý giáo dục
1.2.1. Với học sinh
Giúp giải quyết những căng thẳng và khủng hoảng thần kinh
- Tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ tâm trí
- Giúp học sinh khai thác và phát huy những điểm mạnh và thành cơng trong
học tập
- Có được năng lực cá nhân và xã hội, cụ thể là giúp các em giảm những
hành vi như: khơng hồn thành việc học tập; hung hăng, gây gổ với bạn, khơng
kiểm sốt được mình; khơng có quan hệ với bạn đồng lứa và người lớn; bị lạm
dụng thể chất; chán học; bị trầm cảm; có những dấu hiệu, hành vi tự tử. Với các
bậc phụ huynh

7



- Hỗ trợ tham gia một cách có hiệu quả vào giáo dục con cái - Hiểu được
những nhu cầu phát triển và giáo dục của trẻ - Tiếp cận các nguồn lực của trường
học và cộng đồng
- Hiểu các dịch vụ giáo dục đặc biệt
- Tăng cường kỹ năng làm cha mẹ.
1.2.2. Với các thầy cô giáo
Giúp cho quá trình làm việc với phụ huynh của học sinh tiến hành hiệu quả Tìm hiểu những nguồn lực mới
- Tham gia vào tiến trình giáo dục, nhất là với các em cần sự giáo dục đặc
biệt
- Hiểu hơn về gia đình, những yếu tố văn hố và cộng đồng ảnh hưởng đến
trẻ Với các nhà quản lý giáo dục
- Hỗ trợ và tham gia vào việc xây dựng các chính sách và chương trình
phịng ngừa
- Đảm bảo thực hiện đúng một số luật Trên đây là các vai trò chung của
CTXHTH, nhấn mạnh đến đối tượng làm việc của nhân viên CTXHTH, dưới đây
là một số vai trò cụ thể hay nói cách khác là nhiệm vụ mà người nhân viên CTXH
hoạt động trong trường học thực
1.3. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM TÂM SINH LÝ CỦA HỌC SINH THPT
1.3.1. Đặc điểm sinh lý
Lứa tuổi học sinh THPT ( từ lớp 10 đến lớp 12) tương đương với giai đoạn
cuối vị thành niên được giới hạn trong độ tuổi 16 đến 18. Độ tuổi này là các em có
nhiều biến động về tâm lý và sự phát triển cơ thể với hiện tượng dậy thì.
Trong giai đoạn này, phát triển cơ thể chưa hài hịa, diễn ra một q trình
mất cân đối tạm thời, với sự phát triển cơ thể rất nhanh, hệ xương kéo dài nhanh
hơn hệ cơ làm cho trẻ thường ở trạng thái căng nhức, mỏi mệt; cơ tim phát triển
nhanh, lượng máu bơm nhanh làm cho mạch máu căng, trẻ có thể cao huyết áp tạm
thời. Tuyến nội tiết hoạt động mạnh, gây sự mất cân bằng của hệ thần kinh trung
ương dễ gây nên những cơn xúc động mạnh, gây những phản ứng nóng nảy vơ cớ,
8



những hành vi bất thường, hoặc những hành vi xấu khơng đúng với bản chất của
các em. Các q trình thần kinh của vỏ não mạnh và chiếm ưu thế, nên nhiều khi
các em không làm chủ được bản thân, khơng kiềm chế được xúc động mạnh, dễ bị
kích thích, dễ nổi nóng, gây gổ, tính uể oải và thờ ơ có chu kỳ ở tuổi các em,…
Những thay đổi này có thể trẻ sẽ khơng biết, chúng lo sợ về sức khỏe khơng ổn
định của mình làm ảnh hưởng lên tâm lý. Đặc biệt là sự xuất hiện các dấu hiệu phát
triển giới tính, trẻ hay quan tâm cơ thể của mình hơn, nhất là các bộ phận giới tính
gây ra nhiều thắc mắc lo âu.
1.3.2. Đặc điểm tâm lý
Học sinh THPT có nhu cầu mở rộng quan hệ với người lớn và mong muốn
được đối xử như người lớn, được tôn trọng nhân cách, phẩm giá, được tin tưởng và
được mở rộng tính độc lập của mình.
Để duy trì sự thay đổi mối quan hệ giữa các em và người lớn, các em có
những hình thức chống cự, không phục tùng xem như là phương tiện để thay đổi
kiểu quan hệ cũ bằng kiểu quan hệ mới. Sự nảy sinh ở lứa tuổi này cảm giác về sự
trưởng thành và nhu cầu được người lớn thừa nhận nó là người lớn đã đưa đến vấn
đề quyền hạn của người lớn và các em trong quan hệ với nhau cần phải thay đổi.
Những quan hệ xung đột giữa các em và người lớn làm nảy sinh những hành
vi tương ứng ở các em: xa lánh người lớn, không tin tưởng vào người lớn, cho rằng
người lớn khơng hiểu mình, khó chịu một cách có ý thức đối với những yêu cầu,
đánh giá hay nhận xét của người lớn. Tác động giáo dục của người lớn đối với các
em bị giảm sút.
Mối quan hệ của học sinh THPT với bạn bè cùng lứa tuổi phức tạp, đa dạng
hơn nhiều so với học sinh tiểu học và có ảnh hưởng mạnh mẽ tới các em. Sự giao
tiếp bạn bè ở lứa tuổi này đã vượt ra ngoài phạm vi học tập, phạm vi nhà trường,
mà còn mở rộng trong những hứng thú mới, những việc làm mới,… Ở tuổi này,
quan hệ bạn bè chiếm vị trí lớn hơn hẳn so với quan hệ với người lớn tuổi hoặc ít
tuổi hơn. Đó là vì các em rất khao khát được giao tiếp và cùng hoạt động chung với
nhau, các em có nguyện vọng được sống tập thể, có những đồng đội, bạn bè thân

thiết, tin cậy; mặt khác cũng biểu hiện nguyện vọng là được bạn bè công nhận,
thừa nhận, tôn trọng mình.

9


Trong giao tiếp các em chịu ảnh hưởng của nhau. Nhiều em lúc đầu khơng
ưa thích hoạt động nào đó, nhưng vì chơi với bạn, bạn hứng thú về hoạt động đó
mà làm lây sang em. Vì vậy, giao tiếp với bạn là nguồn nảy sinh hứng thú mới.
Tình bạn thân thiết giữa các em địi hỏi đơi bên phải cởi mở và hiểu nhau, tế
nhị và vị tha, đồng cảm và biết giữ bí mật cho nhau. Bằng những nỗ lực chung, bạn
bè bắt đầu giúp nhau trong việc nắm tri thức, kỹ năng và cùng phát triển những
phẩm chất tốt đẹp khác. Đó là những tình bạn chân chính, rất có giá trị trong việc
triển nhân cách của thiếu niên.
Kiểu tình bạn ngược lại thường dựa trên những nguyện vọng đối với sự
trưởng thành mang tính bề ngồi, hình thức, nhằm bắt chước người lớn trong việc
tiêu khiển thời gian, chơi bời, giải trí… Chẳng hạn như: hút thuốc, uống rượu bia,
cờ bạc, dùng các chất ma tuý,… Các em có thể kết bạn với những bạn bè xấu, bị
lơi kéo, rủ rê bởi những “nhóm”, “ băng đảng” tự phát dưới nhiều hình thức, thực
hiện những hành vi phạm pháp, khơng lành mạnh.
1.3.3. Đặc điểm về tình cảm
Một đặc điểm nổi bật của lứa tuổi này là dễ xúc động, dễ bị kích động, vui
nhanh buồn nhanh, tình cảm cịn mang tính bồng bột. Đặc điểm này là do ảnh
hưởng của sự phát dục và sự thay đổi một số cơ quan nội tạng gây nên. Nhiều khi
cịn do hoạt động thần kinh khơng cân bằng, thường quá trình hưng phấn mạnh hơn
quá trình ức chế khiến các em không tự kiềm chế nổi. Khi tham gia vào các hoạt
động vui chơi, học tập, lao động, các em đều thể hiện tình cảm rất rõ rệt và mạnh
mẽ.
Tính dễ kích động của các em đơi khi dẫn đến những xúc động rất mạnh mẽ
như vui quá trớn, buồn ủ rũ, lúc thì quá hăng say, lúc thì quá chán nản. Do sự thay

đổi tình cảm dễ dàng như thế nên trong tình cảm của các em đơi lúc mâu thuẫn.
Chẳng hạn: đối với em nhỏ này rất yêu thương quý mến, nhưng ngay lúc đó đối
với em nhỏ khác lại có thể doạ nạt, trêu chọc,…
Cảm xúc giới tính với người khác phái trong độ tuổi này rất phổ biến hiện
nay nhưng cũng thay đổi theo độ tuổi. Ở cấp 3 các em khẳng định yêu đương, có
định hướng đơi lúc khá chín chắn. Cha mẹ đơi lúc cần biết tâm lý để định hướng
cho đúng. Tỷ lệ yêu ở cấp 3: Lớp 10: 30%, lớp 11: 50%, lớp 12: 70-80%.
1.4.

CÁC DẠNG BẠO LỰC HỌC ĐƯỜNG
10


1.4.1. Bạo lực giữa học sinh với học sinh:
Bao gồm các hành vi gây tổn thương về thể chất, tinh thần giữa các đối
tượng học sinh với nhau. Đây là hình thức rất phổ biến trong mơi trường học
đường. Bạo lực giữa học sinh bao gồm các học sinh trong trường bạo lực với nhau
hoặc với các học sinh ngoài trường, giữa học sinh cùng khối lớp hoặc khác khối
lớp. Khi xảy ra mâu thuẫn, các cá nhân dùng các hình thức bạo lực để “xử” nhau
và đơi khi sử dụng hình thức “đánh tập thể” hay cịn gọi “ đánh cộng đồng”. Bạo
lực giữa đối tượng học sinh với nhau là hình thức phổ biến nhất, và xuất hiện tại tất
cả các trường THPT.
1.4.2. Bạo lực giữa thầy cô, cán bộ quản lý với học sinh:
Đây không phải là hiện tượng hiếm từ xưa tới nay. Thông thường các thầy
cô vẫn thường mắng học sinh trước tập thể lớp khi các em có lỗi. Và cứ thế lặp lại
sẽ vơ tình làm tổn thương học sinh, khiến trẻ sợ học, ghét thầy cô, học kém…
Đánh học sinh cũng là biện pháp thói quen của một số thầy cơ làm ảnh hưởng trực
tiếp tới trò và là hành vi BLHĐ đáng lên án. Tuy nhiên, có nhiều giáo viên và phụ
huynh cho rằng, bạo lực giữa thầy cô với học sinh phần lớn biểu hiện dưới hình
thức bạo lực tinh thần, khó nhận biết nên mọi người lầm tưởng khơng thường

xuyên diễn ra, nhưng thực tế lại khá phổ biến. Để khẳng định cho kết luận này cần
có những chỉ số cụ thể về BLHĐ, bạo lực tinh thần … và cần có sự theo dõi, giám
sát, quản lý học sinh, cán bộ từ phía nhà trường, từ phía ngành giáo dục một cách
toàn diện.
1.4.3. Bạo lực giữa học sinh với thầy cô, cán bộ quản lý
Bao gồm những hành vi dùng bạo lực trả thù thầy cô như ném đá, gạch,
mắm tơm vào thầy cơ, th người đánh, nói xấu, bài trừ thầy cơ … Hiện tượng này
thường ít xảy hơn. Trong thời đại mới, mối quan hệ thầy trị đã có nhiều thay đổi
đơi khi kèm theo cả những tiêu cực, mâu thuẫn khó giải quyết. Nếu như trước đây,
người thầy ln giữ một ví trí tơn nghiêm nhất trong lịng mỗi người trị thì giờ đây
mối quan hệ ấy có phần lỏng lẻo hơn. Phần lớn trong các vụ việc này lỗi ở cả hai
bên thầy – trị, do mâu thuẫn khơng tìm ra cách giải quyết tế nhị. Bạo lực giữa
giáo viên, cán bộ với nhau: Thường là các mâu thuẫn, cách ứng xử trong cuộc sống
tạo cho nhau những áp lực, chi phối hành động, áp đặt, khống chế… khiến người
kia ngột ngạt và bế tắc trong môi trường làm việc.
11


1.4.4. Bạo lực giữa phụ huynh, người nhà học sinh với thầy cô, cán bộ:
Như đánh, thuê đánh, dùng sức mạnh quyền lực ép buộc, khống chế, xúc
phạm… Hiện nay có rất nhiều phụ huynh có quyền lực sẵn sàng ép buộc người
giáo viên, cán bộ giáo dục phải thôi việc, bị kỷ luật,.. khi giáo viên xử phạt con họ
vi phạm các nội quy trường học. Tuy nhiên điều này làm ảnh hưởng tới giá trị
truyền thống “ tôn sư trọng đạo” của người phương Đông “nhất tự vi sư, bán tự vi
sư”.

CHƯƠNG II: VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG
VIỆC HỖ TRỢ HỌC SINH BỊ BẠO LỰC HỌC ĐƯỜNG
2.1. MỘT VÀI NÉT VỀ TRƯỜNG PTDT NỘI TRÚ TỈNH HÀ GIANG


2.2. THỰC TRẠNG BẠO LỰC HỌC ĐƯỜNG TẠI TRƯỜNG PTDT NỘI TRÚ
TỈNH HÀ GIANG
2.2.1. Nhận thức của học sinh về khái niệm bạo lực học đường
Theo từ điển triết học: Nhận thức là quá trình tái tạo lại hiện thực ở trong tư
duy của con người, được quyết định bởi quy luật phát triển xã hội và gắn liền cũng
như không thể tách rời khỏi thực tiễn, nó phải là mục đích của thực tiễn, phải
hướng tới chân lý khách quan.
Nhận thức là một trong ba mặt cơ bản của đời sống tâm lý con người ( nhận
thức, tình cảm, hành động). Đây cũng là tiền đề của tình cảm và hành động, có
quan hệ chặt chẽ với chúng và các hiện tượng tâm lý khác. Nhận thức đóng vai trị
quan trọng trong việc hình thành thái độ, hành vi khi đứng trước một đối tượng hay
sự việc nào đó và là thành phần khơng thể thiếu trong sự phát triển của con người.
Nếu nhận thức đúng đắn, chúng ta sẽ có được hành động tốt, có thể cải tạo được
thế giới xung quanh và cao hơn nữa là con người có thể cải tại được chính bản thân
mình.
Đối với các em học sinh, việc nhận thức đúng đắn về hành vi bạo lực học
đường đóng vai trò rất quan trọng. Nếu nhận thức tốt các em sẽ biết phân biệt đâu
là hành vi bạo lực, đâu không phải là hành vi bạo lực, ý thức được hậu quả, sự
12


nguy hại của nó và có thái độ khơng đồng tình, can thiệp, ngăn ngừa với hành vi
bạo lực.
Qua nhiều nghiên cứu trước đây đã chứng minh được rằng: hiện tượng bạo
lực trong học đường đang là vấn đề phổ biến ở nhiều trường phổ thông trong cả
nước. Nhà trường, các thầy cô giáo, các em học sinh cùng phụ huynh ln tỏ thái
độ khơng đồng tình và mong mỏi có những biện pháp hữu hiệu để hạn chế và ngăn
chặn bạo lực học đường. Tuy nhiên, không phải học sinh nào cũng quan tâm hay
có nhận thức đúng đắn về hành vi bạo lực, đặc biệt là hành vi bạo lực giữa chính
các em học sinh với nhau.

Các em học sinh còn nhận thức chưa đầy đủ về bạo lực học đường giữa các
học sinh. Các em cho rằng đó chỉ là các hành vi như đánh đập, chửi bới hoặc cướp
giật đồ đạc của nhau… Nếu chỉ dừng lại ở những hành vi đánh nhau có sử dụng
hoặc khơng sử hung khí mà gây tổn hại đến nạn nhân về mặt thể chất, mới là hành
vi bạo lực học đường thì chưa đủ. Do những hành vi bạo lực này thường được bộc
lộ ra bên ngoài nên dễ nhận thấy hơn so với các dạng bạo lực khác. Cịn hành vi
bạo lực tinh thần thì các em chia sẻ rằng: các hành vi này là phổ biến trong học
sinh và khơng gây hậu quả gì nghiêm trọng cho đối phương hoặc hành vi bạo lực
về tình dục thì hậu quả không thấy rõ bằng mắt thường. Việc nhận thức chưa đầy
đủ về bạo lực học đường giữa các học sinh với nhau có rất nhiều nguy hại đến
chính bản thân các em và người khác. Các em không phân biệt được đâu là hành vi
bạo lực học đường và do đó cũng sẽ khơng có hành vi ngăn chặn kịp thời. Chẳng
hạn như, nhiều em có hành vi: chửi bới, nói xấu, tung tin đồn, quấy rối tình dục…
với học sinh nhưng lại khơng biết đó là hành vi bạo lực nên các em thực hiện nhiều
lần, với nhiều học sinh khác mà không ý thức được hậu quả có thể xảy ra. Đồng
thời cũng có một số em sẽ có tâm lý cam chịu khi bị bạo lực, không dám tố cáo với
thầy cô, phụ huynh, đặc biệt là với các hành vi bạo lực về tinh thần, tình dục. Do
đó, đây chính là vấn đề cần lưu ý trong quá trình giáo dục của nhà trường về bạo
lực học đường cho học sinh. Cần phải cung cấp cho các em kiến thức một cách đầy
đủ và toàn diện nhất.
2.2.2. Thực trạng bạo lực học đường tại trường ptdt nội trú tỉnh Hà Giang
Lứa tuổi học sinh THCS có những biến đổi cơ bản về mặt sinh vật học dẫn
đến sự thay đổi về mặt tâm lý. Q trình hình thành nhân cách của học sinh THCS
khơng phải bao giờ cũng diễn ra một cách phẳng lặng mà có nhiều phức tạp, đầy
13


mâu thuẫn và đây được xem là lứa tuổi có những “khủng hoảng trầm trọng”. Cùng
với sự trưởng thành chung, các em ngày càng muốn được khẳng định mình trong
tập thể và trong xã hội. Nhưng do còn “non nớt” và thiếu kinh nghiệm trong giao

tiếp, ứng xử, quan hệ nên các em sẽ dễ có những thái độ, cách ửng xử không đúng
chuẩn mực xã hội, và tất nhiên khó tránh khỏi những hành vi bạo lực bất kể là học
sinh ở khối lớp nào.
Cùng là hành vi bạo lực, nhưng có thể nói mức độ bạo lực của học sinh lớp
6, 7 khác với học sinh lớp 8, 9. Các em học sinh lớp 6, 7 trong quan hệ giao tiếp,
ứng xử với bạn, có thể tạo nhóm lớn, không chơi và “cô lập” một bạn học sinh nào
đó trong lớp vì một lý do “trẻ con” nào đó; các em có thể đánh nhau ngay mà
khơng có sự tính tốn, sắp đặt, khơng cần biết mình mạnh hay yếu hơn bạn khi có
những va chạm, gây hấn với nhau. Còn đối với học sinh lớp 8, 9, các em đã bắt đầu
dùng “sức mạnh” của mình, có thể ức hiếp, bắt nạt học sinh lớp dưới; với nhiều lý
do, các em có thể gây hấn, đánh nhau không chỉ là giữa một học sinh với một học
sinh mà cịn đánh nhau giữa nhóm học sinh này với nhóm học sinh khác hoặc
nhiều em đánh một em và thường khi đánh nhau, các em đều có sự tính tốn, sắp
đặt; nếu nhà trường khơng phát hiện và can thiệp kịp thời, học sinh yếu hơn sẽ tiếp
tục nhờ bạn bè trong trường trong lớp thậm chí nhờ sự hỗ trợ của người thân trong
gia đình để đánh “trả thù”.

2.2.3. Nguyên nhân của bạo lực học đường
Cá nhân học sinh
Những học sinh có biến chứng tâm lý khác thường như bị tăng động, tâm thần nhẹ,
có nhịp tim chậm, tỉ lệ lưu thơng máu khơng đều, dễ bị kích động và thích các yếu
tố kích động. Những học sinh có IQ thấp, khuyết tật khả năng xử lý thơng tin trí
lực giảm sút, học lực kém, thất bại trong chuyện học hành, kiềm chế kém, dễ căng
thẳng về xúc cảm có thái độ bất cẩn và hiếu thắng, thái độ chống đối mọi người
xung quanh, thích hành vi bạo lực. Học sinh có tiền sử sử dụng ma túy đá, rượu,
thuốc lá hay các chất kích thích…

14



Bạo lực học đường sẽ dễ xảy ra ở học sinh lứa tuổi dậy thì khiến các em phát triển
mạnh về thể chất, hưng phấn cao, khả năng kiềm chế kém, cái tôi cá nhân cao nên
sẽ không chịu khuất phục ai, dễ dàng ra tay xử lý bạn khi khơng vừa ý.
Ngun nhân thì có nhiều nhưng cơ bản nhất là bản thân mỗi người chưa kìm nén
được cảm xúc nhất thời của mình kéo theo dây chuyền làm ảnh hưởng chung đến
ngành giáo dục. Từ học sinh đánh hội đồng nhau, học sinh bóp cổ cơ giáo, thầy
giáo bị đánh gãy xương mũi cho đến các sự vụ nghiêm trọng khác.
Nguyên nhân gia đình
Do sự giáo dục chưa sâu sát của cha mẹ, xã hội xô bồ phụ huynh lại ít quan tâm tới
con cái, cha mẹ thường nặng lời quát tháo con, xả stress bằng bạo hành gia đình.
Trẻ em dễ học theo tính xấu của người lớn, khi đang trong giai đoạn hình thành
nhân cách thì chỉ cần một tác động xấu từ gia đình và xã hội cũng có thể gây ra các
tổn thương khó chữa lành, từ đó hình thành nhân cách méo mó về giá trị sống.
nguyên nhân bạo lưc học đường
Sự ảnh hưởng của mơi trường gia đình đối với mỗi cá nhân là vơ cùng lớn
Gia đình bất hịa, ly dị, anh em đâm chém nhau là tấm gương không tốt cho con
cái, từ đó khiến các em lớn lên trong sợ hãi và dẫn tới trầm cảm, có hành động
ngơng cuồng, quậy phá, hư hỏng,…
Nguyên nhân nhà trường
Nhà trường hiện nay coi trọng thành tích hơn là giáo dục nhân cách, nhà trường
quá chú trọng việc nhồi nhét kiến thức mà quên đi việc “Tôn sư trọng đạo”, “Tiên
học lễ hậu học văn” . Không những thế, kỷ cương nề nếp cũng lỏng lẻo, nhiều thầy
cơ khơng cịn là tấm gương cho học sinh noi theo dẫn tới tình trạng học sinh mất
phương hướng, hành động sai trái. Nhà trường ít quan tâm đến học sinh, giáo viên
chủ nhiệm cũng khơng có nhiều thời gian để quan tâm đến mỗi cá nhân nên bạo
lực học đường ngày càng diễn ra một nhiều.
Những em học sinh cá biệt cũng bị giáo viên và bạn bè xung quanh kì thị nên các
em càng trở nên bất mãn và buông xuôi chuyện học hành lao theo các trị chơi vơ
bổ.


15


Nguyên nhân xã hội
Nguyên nhân xã hội chính là do ảnh hưởng từ những môi trường xung quanh như
bạo lực phim ảnh, sách báo, game, đồ chơi có tính bạo lực trên mạng xã hội. Mạng
Internet có tới 77% là trị chơi là đánh nhau, giết người, mang tính bạo lực cao các
em không tránh được những ảnh hưởng xấu của các hình ảnh bạo lực. Tuổi trẻ
thường có tính bắt chước và thử nghiệm việc các em làm theo những hình ảnh,
hình tượng đó là hồn tồn dể hiểu.
Các ấn phẩm báo chí, sách, truyện tranh, video clip, hình ảnh mang tính bạo lực
cũng góp phần hình thành nhu cầu bạo lực của trẻ em Việt Nam.

2.2.4. Các giải pháp hạn chế hạn chế bạo lực học đường đã được thực hiện
NHÂN VIÊN CTXH TRONG HOẠT ĐỘNG HỖ TRỢ HỌC SINH BỊ BẠO LỰC
HỌC ĐƯỜNG TẠI TRƯỜNG PTDT NỘI TRÚ TỈNH HÀ GIANG
2.3.1. Nhận thức của nhân viên CTXH học đường về vai trò trong hỗ trợ học
sinh bị bạo lực học đường
Cũng như mọi ngành nghề tồn tại trong xã hội, đặc biệt là những nghề có
mối liên hệ xã hội sâu rộng, người làm công tác xã hội cần thiết phải có những hiểu
biết sâu sắc về nghề nghiệp của mình. Đây cũng được coi là kim chỉ nam cho các
hoạt động của người nhân viên CTXH, đặc biệt là trong trường học. Cùng với đặc
thù là nghề trợ giúp xã hội, công tác xã hội hướng trọng tâm nghề nghiệp đến việc
giúp đỡ các cá nhân, nhóm, cộng đồng phục hồi, phát triển các chức năng và đạt
được những giá trị phù hợp trong xã hội. Các chức năng của công tác xã hội được
thực hiện thơng qua việc thực hiện các vai trị của nhân viên cơng tác xã hội trong
tiến trình làm việc với các thân chủ.
Theo quan điểm của Feyerico nhân viên CTXH có những vai trị sau đây:
- Vai trị là người vận động nguồn lực
- Vai trò là người kết nối – trung gian

- Vai trò là người biện hộ
- Vai trò là người vận động/ hoạt động xã hội
- Vai trò là người giáo dục
- Vai trò người tạo sự thay đổi
16


- Vai trò là người tư vấn
- Vai trò là người tham vấn
- Vai trò là người trợ giúp xây dựng và thực hiện kế hoạch cộng đồng
- Vai trò là người chăm sóc, người trợ giúp
- Vai trị là người xử lý dữ liệu
- Vai trò là người quản lý hành chính
- Vai trị người tìm hiểu, khám phá cộng đồng. [2]
Như vậy, nhân viên công tác xã hội có rất nhiều vai trị khi thực hiện vị trí,
chức năng của mình trong nghề cơng tác xã hội. Tuy nhiên với mỗi đối tượng khác
nhau lại có những vấn đề cụ thể khác nhau. Vì thế vai trị của nhân viên cơng tác
xã hội cũng có sự khác nhau. Trong lĩnh vực hỗ trợ học sinh bị bạo lực học đường,
vai trò của nhân viên CTXH được thể hiện như sau: người tạo khả năng, người hòa
giải, người điều phối – kết nối dịch vụ, người giáo dục - nâng cao nhận thức. Và
các vai trò này của nhân viên CTXH đều được thể hiện thông qua các hoạt động hỗ
trợ cụ thể đối với học sinh.
Song hiện nay, nghề CTXH ở Việt Nam còn mới mẻ, đặc biệt là nhân viên
CTXH còn thiếu về số lương và chưa được đào tạo bài bản; nhận thức về nghề
CTXH trong các cấp, các ngành và người dân chưa cao. Điều này gây ảnh hưởng
lớn đến hoạt động thực hành nghề nghiệp của người nhân viên CTXH. Vậy trên
thực tế, các nhân viên CTXH trường học trên địa bàn nghiên cứu đã nhận thức như
thế nào về vai trò nghề nghiêp của mình?. Qua nghiên cứu vào tháng 11/2013 của
chúng tơi cho thấy: có 4 luồng quan điểm nhìn nhận về vai trò của người nhân viên
CTXH trong lĩnh vực học đường:

Quan điểm thứ nhất: nhân viên CTXH là người can ngăn khi xảy ra bạo lực.
Đây là một trong nhiều hoạt động can thiệp của nhân viên CTXH khi bạo lực xảy
ra. Khi chứng kiến bạo lực, họ sẽ can ngăn, hịa giải để các em khơng tiếp tục hành
vi đó. Trên thực tế thì hành vi can ngăn khơng chỉ dừng lại ở các nhân viên CTXH
học đường mà cả những thầy cô giáo, nhân viên trường học hay phụ huynh học
sinh, những người dân chứng kiến hành vi bạo lực cũng sẽ có hành vi này. Chia sẻ
về vấn đề này, một nhân viên CTXH học đường trường THPT Bến Tre cho biết: “
theo tôi làm công tác xã hội là phải có trách nhiệm căn ngăn các em, khơng để
chúng hành xử như thế, mà phải có mặt ngay, kịp thời thì mới có hiệu quả…”. Tuy
nhiên, việc căn ngăn học sinh có hành vi bạo lực cũng cần phải có phương pháp,
cách thức tác động phù hợp dựa trên các lý thuyết về xung đột và xử lý xung đột,
17


mâu thuẫn. Việc này đòi hỏi người nhân viên CTXH cũng phải hết sức khéo léo khi
ứng xử với các tình huống bạo lực.
Quan điểm thứ hai: nhân viên CTXH là người động viên tinh thần cho học
sinh bị bạo lực. Động viên, chia sẻ với các em học sinh bị bạo là việc làm rất quan
trọng để các em có thể lấy lại được tinh thần, sự bình tĩnh. Các hành vi bạo lực dù
là loại hình nào thì cũng gây ra những tổn thương cho người bị bạo lực. Do đó, khi
được động viên, chia sẻ về mặt tinh thần sẽ khiến cho các em đỡ sợ hãi, bình tĩnh
để đối diện với vấn đề. Ví như chia sẻ sau đây: “ làm công tác xã hội là phải có vai
trị làm người chia sẻ, động viên cho học sinh, nhất là những em không may bị bạo
lực, chúng nó sợ, rồi lại khóc mãi nếu khơng có chúng tơi. Có lúc tơi thấy, nếu
khơng có sự giúp đõ này, chắc mọi chuyện với mấy học sinh này cũng tệ hại
lắm…”. ( PVS- Nam nhân viên CTXH trường THPT Bến Tre).
Tuy nhiên, vai trò của người nhân viên CTXH trong trường học không chỉ là
sự động viên đơn thuần, mà còn là việc xác định, đánh giá nhu cầu để có thể đưa ra
kế hoạch và thực hiện kế hoạc hỗ trợ tâm lý phù hợp... Tất cả đều dựa trên nền tảng
kiến thức chuyên môn chứ không phải kinh nghiệm.

Quan điểm thứ ba: nhân viên CTXH là người tham gia xét và đưa ra các
hình thức kỷ luật đối với học sinh gây bạo lực. Việc đưa ra các hình thức kỷ luật
đối với học sinh gây bạo lực là việc làm rất cần thiết, có tác dụng làm gương cho
các học sinh và nhằm mục đích duy trì an ninh học đường. Sau khi có đầy đủ thông
tin liên quan đến vụ việc bạo lực, hội đồng nhà trường sẽ họp và đưa ra các hình
thức kỷ luật đối với các học sinh vi phạm. Trên thực tế thì thành phần trong các
cuộc họp này thường bao gồm: Ban Giám hiệu nhà trường, nhân viên CTXH, thầy
cô giáo chủ nhiệm và các thầy cô giáo khác có liện quan. Như vậy, với vai trị này,
người nhân viên CTXH không khác biệt nhiều so với một giáo viên trong học
đường, nó khơng thể hiện nét đặc trưng, riêng biệt của một người nhân viên CTXH
học đường.
Quan điểm thứ tư: nhân viên CTXH là người cần làm tốt các yêu cầu được
nhà trường giao phó. Chẳng hạn như: “ Trách nhiệm, vai trị của chúng tơi là thực
hiện các công việc mà Ban Giám hiệu nhà trường đưa ra trong các cuộc họp. Mà
phải thực hiện tốt, đúng tiến độ, yêu cầu, đạt hiệu quả. Có như vậy, chúng tơi mới
được đánh giá tốt, được coi là hồn thành nhiệm vụ chứ…” ( PVS- Nữ nhân viên
CTXH trường THCS Lê Hồng Phong).
18


Về quan điểm này, theo chúng tôi đây là nhận thức khá máy móc bởi bản
thân mỗi nhân viên CTXH khi được đào tạo về nghề CTXH thì đều có những kiến
thức và kỹ năng chuyên môn nhất định, điều này giúp họ thì có được sự tự chủ, độc
lập trong công việc. Đặc biệt khi đã là một nhân viên CTXH cần có những kế
hoạch hoạt động của riêng mình chứ khơng phải thực hiện theo u cầu từ người
khác. Bởi khơng ai khác ngồi bản thân nhân viên CTXH mới hiểu rõ mình cần
phải làm những gì là tốt nhất và phù hợp nhất.
Như vậy, phần lớn các quan điểm đều tập trung vào vai trò của nhân viên
CTXH sau khi hành vi bạo lực đã xảy ra. Trong khi đó, triểu theo các vai trị của
nhân viên CTXH nói chung và nhân viên CTXH học đường nói chung ( như đã nêu

ở phần trên) thì nhận thức về vai trò của họ là chưa được đầy đủ. Họ chưa đề cập
đến các hoạt động mang tính phịng ngừa - một hoạt động quan trọng trong phòng
chống bạo lực học đường. Đồng thời các vai trò khác như: hòa giải, giáo dục- nâng
cao nhận thức, kết nối dịch vụ... chưa được đề cập cụ thể. Điều này cho thấy: nhận
thức của nhân viên CTXH học đường về vai trị nghề nghiệp của mình cịn có hạn
chế, chưa đầy đủ, điều này có thể gây ảnh hưởng đến việc thực hiện vai trị của họ
trong thực tế. Vì vậy, các nghiên cứu sau đây sẽ tập trung tìm hiểu về vấn đề này.

2.3.2. Các hoạt động hỗ trợ của nhân viên công tác xã hội học đường tại
trường ptdt nội trú tỉnh Hà Giang
2.3.2.1. Các hoạt động phòng ngừa
Trường PTDT nội trú tỉnh Hà Giang rất quan tâm đến hoạt động truyền
thông, giáo dục nâng cao nhận thức về bạo lực người nhân viên CTXH học đường
thông qua hoạt động này sẽ đóng vai trị như là một nhà truyền thơng - giáo dục.
Tuy nhiên, vai trị này có thể hoặc không nhất thiết phải thực hiện dưới danh nghĩa
một nhà sư phạm hay một tình huống/bối cảnh sư phạm chính thức. Song mục đích
chính là thực hiện truyền đạt và phổ biến thơng tin theo tính chất truyền thơng đa
chiều, tích cực nhằm mục đích cung cấp, tiếp cận kiến thức và phát triển kỹ năng
cho đối tượng truyền thông…

19


Các nhân viên CTXH trong nhà trường đã tổ chức những buổi tập huấn về
kiến thức liên quan đến hành vi bạo lực như: thực trạng, nguyên nhân, hậu quả, các
biện pháp ứng phó và phịng tránh. Đặc biệt, qua tìm hiểu cho thấy: các nhân viên
CTXH học đường cũng đã chú trọng đến việc cung cấp kỹ năng giải quyết mâu
thuẫn, giải quyết khó khăn và khả năng tự kiềm chế cho học sinh. Với phương trâm
này, trường THCS Lê Hồng Phong và THPT Bến Tre đã lập kế hoạch ngay từ khi
nhận lớp học, các nhân viên CTXH học đường có nhiệm vụ tìm hiểu học bạ, sơ yếu

lý lịch học sinh, hồn cảnh gia đình và có kế hoạch tìm hiểu địa bàn sinh sống để
tiện cho việc liên lạc và phối hợp với gia đình. Cơng tác tuyên truyền cũng được
đặc biệt chú ý, được xây dựng kế hoạch cụ thể với các nội dung như: Tuyên truyền,
giáo dục nâng cao nhận thức cho học sinh về hậu quả của bạo lực học đường, trang
bị các kỹ năng phòng chống bạo lực học đường… Đồng thời các hình thức cũng đa
dạng: tuyên truyền trực tiếp đến học sinh, trao đổi qua diễn đàn, tọa đàm, tổ chức
hội thi… Những hoạt động này cũng đã mang lại nhiều tín hiệu tích cực.
Xóa bỏ những yếu tố, nguy cơ có khả năng nảy sinh hành vi bạo lực học
đường
Phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh
Trang bị kiến thức về bạo lực học đường cho phụ huynh học sinh.

2.3.2.2. Hoạt động hỗ trợ học sinh bị bạo lực học đường của nhân viên CTXH học
đường
2.3.2.3. Các nhân tố tác động đến hoạt động hỗ trợ của nhân viên CTXH học
đường
2.3.3. Nâng cao vai trò của nhân viên công tác xã hội trong hoạt động hỗ trợ
học sinh bị bạo lực học đường
CHƯƠNG III: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
3.1. khuyến nghị
20


Việc dẫn dắt, định hướng cho học sinh lứa tuổi THCS là rất quan trọng. Sự
hỗ trợ từ ba môi trường giáo dục sẽ giúp các em nâng cao tầm hiểu biết và có khả
năng tự giải quyết vấn đề của bản thân.
1. Đối với xã hội:
Các ngành, các cấp cần có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ trong vấn đề quản
lý, ngăn chặn có hiệu quả những hoạt động gây “ô nhiễm” môi trường xã hội.
2. Đối với gia đình:

- Lựa chọn cho con mơi trường giáo dục lành mạnh và đó là mơi trường tạo sự
thuận lợi cho sự phát triển của con.
- Quan tâm tới các mối quan hệ bạn bè của con, nhưng cha mẹ khơng nên quản lí
con q khắt khe làm con có cảm giác bị chói buộc và khơng được thể chia sẻ cùng
cha mẹ. Cha mẹ hãy là những người bạn lớn đối với con hoặc tìm cho con những
người bạn đáng tin tưởng mà con có thể chia sẻ.
- Ngồi ra hành vi bạo lực của trẻ cũng có thể do ảnh hưởng từ mơi trường gia
đình nên cha mẹ cần là tấm gương cho con, tạo cho con môi trường lành mạnh cho
sự phát triển của con.
- Kết hợp với nhà trường để có được những thơng tin thường xuyên của con và
tránh được những điều đáng tiếc xảy ra.
Mỗi học sinh bước vào môi trường giáo dục ở nhà trường với một tâm thế
khác nhau tùy theo ảnh hưởng của giáo dục gia đình đến các em.Vì vậy, nhà trường
phải liên kết, phối hợp với gia đình làm sao cho có thể đảm bảo được tính thống
nhất tồn vẹn của quá trình giáo dục, tạo được sự tác động đồng bộ đến việc hình
thành và phát triển nhân của học sinh.
Ngoài ra, nhà trường cần quan tâm đầu tư cho công tác giáo dục đạo đức, lối
sống, rèn luyện nhân cách cho học sinh. Mọi tổ chức, bộ phận, cá nhân trong nhà
trường phải có sự phối hợp đồng bộ, cùng tham gia và phát huy vai trò, trách
nhiệm của mình trong cơng tác giáo dục đạo đức cho học sinh.
Vai trò của tổ chức đòan thể:
- Đòan, Đội cần quan tâm đầu tư, tổ chức nhiều họat động tập thể, tạo điều kiện
cho học sinh phát huy khả năng của mình.
- Quan tâm xây dựng, bồi dưỡng lực lượng nòng cốt trong Đội viên.
21


Vai trò của người thầy nói chung:
- Bên cạnh nhiệm vụ truyền thụ tri thức, mỗi người thầy còn cần phải quan tâm,
hiểu được các mong muốn của học sinh, cần thường xuyên dẫn dắt, định hướng

cho các em trong các kỹ năng giao tiếp, ứng xử.
- Khi tiếp xúc với học sinh, người thầy cần gương mẫu, khéo léo, tế nhị .
- Cần chia sẻ, thông cảm và giúp đỡ kịp thời khi học sinh có những khủng hoảng
về tinh thần cũng như vật chất .
- Hãy là bạn với học sinh nếu thấy cần thiết.
- Phải làm sao cho các em có lịng tin với người lớn, nhất là đối với cha mẹ, thầy
cơ.
Vai trị của giáo viên chủ nhiệm:
Những rắc rối hay gặp ở tuổi học sinh THCS thường có liên quan tới vấn đề
giao tiếp, ứng xử của các em hoặc liên quan tới khả năng làm chủ cảm xúc, làm
chủ hành vi của bản thân mỗi học sinh. Do đó, hơn ai hết, giáo viên chủ nhiệm
chính là người đóng vai trị quan trọng trong việc giáo dục, hỗ trợ, định hướng cho
học sinh đi đúng đường. Giáo viên chủ nhiệm có thể giáo dục, hỗ trợ học sinh qua
các cách như sau :
- Cần tạo cơ hội cho học sinh thi thố tài năng, gây cảm giác tự tin ở các em. Tuyệt
đối nên tránh gây cho các em cảm giác là người vô dụng, thừa thãi mà hãy giao
cho các em những nhiệm vụ cụ thể và yêu cầu vừa sức để các em có thể hồn thành
cơng việc.
- Cần có thái độ nhẹ nhàng, phân tích cụ thể đúng sai, phải trái trước những sai lầm
của học sinh và phải để cho các em tận mắt thấy, tai nghe.
- Thể hiện tình yêu thương và sự quan tâm chân thành tới các em.
- Trị chuyện thân tình cùng các em, khơng nên nói chuyện theo kiểu bề trên với
các em. Tránh ra những chỉ thị hay mệnh lệnh, chỉ nên đưa ra cho các em những
gợi ý và lời khuyên.
- Luôn giữ mối liên hệ thông tin cởi mở thường xuyên trên tinh thần luôn biết lắng
nghe và cho các em lời khuyên.

22



- Thông cảm, chia sẻ khi các em tỏ ra bất an và khơng hài lịng về một vấn đề nào
đó, hướng dẫn các em tự ra quyết định.
- Sẵn sàng bỏ qua lỗi lầm của các em, hỗ trợ bằng cách đặt niềm tin vào các em và
cho các em thấy rằng GVCN luôn tin tưởng vào sự thay đổi tốt của các em.
- Tránh sửa sai các em một cách thường xuyên hay “lên lớp” các em. Tránh trách
mắng hay vạch ra sai lầm của các em trước mặt bạn bè khi các em mắc phải sai
lầm; nên đưa ra những lời nhận xét tích cực và khen ngợi khi các em làm được việc
tốt dù là việc nhỏ.
Ngồi ra, GVCN cịn cần hỗ trợ cho học sinh một số kỹ năng cần thiết :
- Kỹ năng giao tiếp có hiệu quả.
- Kỹ năng đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
- Kỹ năng ra quyết định.
- Kỹ năng chống lại những áp lực tiêu cực từ bạn bè.
Tóm lại, trong cơng tác giáo dục, rèn luyện nhân cách, kỹ năng sống cho học
sinh, mỗi môi trường giáo dục: gia đình - nhà trường - xã hội cần phải có sự phối
hợp đồng bộ. Đồng thời, mỗi mơi trường giáo dục vừa nêu phải làm tốt vai trò giáo
dục của mình. Xã hội cần phải được xây dựng với mơi trường lành mạnh, an tồn
cho học sinh. Gia đình phải xây dựng mơi trường giáo dục lành mạnh, làm nền
tảng cho học sinh bước tiếp vào môi trường giáo dục ở nhà trường. Nhà trường
phải xây dựng, phát huy vai trị, vị trí của người thầy, vừa dạy chữ song song với
việc dạy người cho học sinh. Có như thế mới đẩy lùi, ngăn chặn được vấn nạn bạo
lực học đường.

3.2. Kết luận

23




×