Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

chủ nghĩa Mác Lênin về Vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.08 KB, 17 trang )

Mục Lục
LỜI MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 2
NỘI DUNG........................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LENIN VỀ DÂN
TỘC ................................................................................................................... 3
I. CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN VỀ DÂN TỘC .................................... 3
II. HAI XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA DÂN TỘC VÀ VÀ BIỂU
HIỆN CÙA HAI XU HƯỚNG KHÁCH QUAN ĐÓ TRONG THỜI ĐẠI
NGÀY NAY ................................................................................................... 5
III. NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC –
LÊNIN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC .................... 7
CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC
TẠI VIỆT NAM ............................................................................................... 9
I. QUAN ĐIỂM, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA VỀ
VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ CÔNG TÁC DÂN TỘC TRONG THỜI KỲ
MỚI ................................................................................................................ 9
II. THÀNH TỰU QUAN TRỌNG TRONG THỰC THI CHÍNH
SÁCH DÂN TỘC ........................................................................................ 12
III. TRÁCH NHIỆM CỦA MỖI SINH VIÊN TRONG VIỆC GIẢI
QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA ......................................................................................................... 14
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 17

1


LỜI MỞ ĐẦU

2



NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LENIN
VỀ DÂN TỘC
I.

CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN VỀ DÂN TỘC

1. Khái niệm về dân tộc
Cho tới nay, vẫn chưa có định nghĩa nào về dân tộc được thừa nhận, bởi một phần
do dân tộc được xem xét từ những quan điểm, lập trường và các lý tưởng giác ngộ
của các nhà lãnh đạo là khác nhau; mặt khác đến từ sự phong phú, đa dạng và
phức tạp của các loại hình dân tộc khác nhau đang tồn tại ở các quốc gia, khu vực
trên thế giới.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, dân tộc là quá trình phát triển lâu dài
của xã hội loài người, trải qua các hình thức cộng đồng từ thấp đến cao, bao gồm:
thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc. Sự biến đổi của phương thức sản xuất chính là
nguyên nhân quyết định sự biến đổi của công đồng dân tộc.
Ở nước ta, dân tộc được hiểu là dân tộc đa số và dân tộc thiểu số. Tất cả các dân
tộc đều cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam, đều có quốc tịch Việt Nam, không
phân biệt nguồn gốc.
Dân tộc được hiểu theo 2 nghĩa cơ bản:
Thứ nhất: Dân tộc (Nation) hay quốc gia dân tộc là cộng đồng chính trị - xã hội,
tức là một cộng đồng người ổn định, bền vững hợp thành nhân dân của một quốc
gia, có lãnh thổ chung, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung, có truyền thống
văn hóa, truyền thống đấu tranh chung trong quá trình dựng nước và giữ nước.
VD: Dân tộc Việt Nam, dân tộc Trung Hoa, …
Thứ hai: Dân tộc – Tộc người (Ethnies), là cộng đồng người cụ thể nào đó sở hữu
những mối liên hệ chặt chẽ, bền vững, họ có sinh hoạt kinh tế chùn, có ngơn ngữ
chung của cộng đồng, có những nét văn hóa riêng biệt, đặc sắc; xuất hiện sau cộng

3


đồng bộ lạc; có sự kế thừa và phát triển hơn những nhân tố tộc người ở bộ lạc và
mỗi cá nhân trong cộng đồng đều có ý thức tự giác cao.
VD: dân tộc Kinh, dân tộc Thái, dân tộc Khơ- me…
Như vậy, khái niệm dân tộc cần phải được hiểu theo hai nghĩa khác nhau. khái
niệm dân tộc và khái niệm quốc gia có sự gắn bó chặt chẽ với nhau, dân tộc bao
giờ cũng ra đời trong một quốc gia nhất định và thực tiễn lịch sử chứng minh rằng
những nhân tố hình thành dân tộc chín muồi thường khơng tách rời với sự chín
muồi của những nhân tố hình thành quốc gia. Đây là những nhân tố bổ sung và
thúc đẩy lẫn nhau trong quá trình phát triển.
2. Đặc trưng cơ bản của dân tộc
• Có chung phương thức sinh hoạt kinh tế.
Đây là đặc trưng quan trọng nhất của dân tộc và là cơ sở liên kết các bộ phận,
các thành viên của dân tộc, tạo nên nền tảng vững chắc của dân tộc.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh rằng: động lực gắn kết các dân tộc thành
một nước, một quốc gia thống nhất chính là yếu tố kinh tế. Trong một quốc gia
dân tộc tồn tại nhiều giai cấp có những lợi ích khác nhau nhưng phải có sự
tương đồng về lợi ích. Tính thống nhất, tương đồng về kinh tế là cơ sở đảm
bảo cho sự thống nhất ấy..
• Có lãnh thổ chung ổn định không bị chia cắt
Lãnh thổ là biểu hiện chủ quyền dân tộc trong mối quan hệ với quốc gia dân
tộc khác. Lãnh thổ của một quốc gia dân tộc bao gồm trong nó: vùng lãnh thổ
cư trú của các dân tộc – tộc người hợp thành quốc gia dân tộc; vùng lãnh thổ
có chủ quyền và cả các vùng lãnh thổ có quyền chủ quyền. Lãnh thổ của mỗi
dân tộc nói chung, cũng như của từng bộ phận của lãnh thổ ấy được hình thành,
phát triển trải qua một quá trình lịch sử lâu dài, gắn với lịch sử tồn tại, phát
triển quốc gia dân tộc, cũng như của các dân tộc – tộc người hợp thành…
Do đó, lãnh thổ là một giá trị văn hóa chung, đặc thù của quốc gia dân tộc, là

sản phẩm của quá trình phát triển phương thức sản xuất, phương thức sinh hoạt
4


vật chất và tinh thần của cả cộng đồng quốc gia dân tộc. Vận mệnh dân tộc
một phần rât quan trọng gắn với việc xác lập và bảo vệ lãnh thổ quốc gia, dân
tộc.
• Có ngơn ngữ chung của quốc gia và văn hóa dân tộc
Ngơn ngữ là cơng cụ quan trọng nhất trong giao tiếp của mỗi dân tộc. gơn ngữ
là sản phẩm của q trình phát triển lâu dài về kinh tế - xã hội của dân tộc, là
cơng cụ bảo lưu, giữ gìn những giá trị văn hóa lâu đời của dân tộc và là một
biểu tượng cho thấy sự trường tồn của mỗi dân tộc. Trong quốc gia nhiều dân
tộc bao giờ cũng có một ngơn ngữ chung thống nhất làm cơng cụ giao tiếp.
Văn hóa là yếu tố đặc biệt gắn kết cộng đồng thành một khối thống nhất, được
chắt lọc trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Văn hóa là động lực của sự phát
triển, là công cụ để bảo vệ độc lập chủ quyền của quốc gia, văn hóa là đặc
trưng cơ bản nhất để phân biệt sự khác nhau giữa các dân tộc. Cùng với ngơn
ngữ, các giá trị văn hóa hợp thành đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng
dân tộc – tôc người trong quốc gia dân tộc cũng phải tồn tại, phát triển trong
quá trình lịch sử lâu dài.
Các đặc trưng của dân tộc là một chỉnh thể gắn bó chặt chẽ với nhau, và mỗi
đặc trưng đều có một vị trí xác định. Từ những đặc trưng này có thể phân biệt
rõ khái niệm dân tộc với khái niệm sắc tộc, cho thấy khái niệm dân tộc và quốc
gia gắn bó chặt chẽ với nhau.

II.

HAI XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA DÂN TỘC VÀ VÀ BIỂU
HIỆN CÙA HAI XU HƯỚNG KHÁCH QUAN ĐÓ TRONG
THỜI ĐẠI NGÀY NAY


Nghiên cứu vấn đề dân tộc, V.I.Lênin đã phát hiện ra hai xu hướng khách quan
trong sự phát triển của dân tộc.

5


- Xu hướng thứ nhất: do sự chín muồi của ý thức dân tộc , sự thức tỉnh về
quyền sống của mình, các cộng đồng dân cư muốn tách ra để thành lập các quốc
gia dân tộc độc lập.
+ Trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa, ở các quốc gia gồm nhiều cộng đồng dân
cư có nguồn gốc tộc người khác nhau. Khi mà các tộc người đó có sự trưởng thành
về ý thức dân tộc, ý thức về quyền sống của mình, các cộng đồng dân cư đó muốn
tách ra thành lập các dân tộc độc lập.
+ Chỉ trong cộng đồng dân tộc độc lập, các dân tộc đó mới có quyền quyết
định vận mệnh của mình mà quyền cao nhất là quyền tự do lựa chọn chế độ chính
trị và con đường phát triển.
+ Trong thực tế, xu hướng này biểu hiện thành phong trào đấu tranh chống
áp bức dân tộc, thành lập các quốc gia dân tộc độc lập. Xu hướng này nổi lên trong
giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản và vẫn còn tác động trong giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa
- Xu hướng thứ hai: Các dân tộc ở từng quốc gia, kể cả các dân tộc ở nhiều
quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau.
+ Xu hướng này nổi lên trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Chính sự phát
triển của lực lượng sản xuất, của khoa học và công nghệ, của giao lưu kinh tế và
văn hóa trong xã hội tư bản đã làm xuất hiện nhu cầu xóa bỏ hàng rào ngăn cách
giữa các dân tộc, tạo nên mối liên hệ quốc gia và quốc tế rộng lớn giữa các dân
tộc, thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau.
-


Hai xu hướng này vận động trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc gặp

nhiều trở ngại. Nguyện vọng của các dân tộc được sống độc lập tự do bị chính
sách xâm lược của chủ nghĩa đế quốc xóa bỏ. Chính sách xâm lược đó đã biến
hầu hết các dân tộc nhỏ bé hoặc cịn ở trình độ lạc hậu thành thuộc địa và phụ
thuộc vào nó, chịu áp bức, bóc lột.
- Chủ nghĩa Mác –Lênin cho rằng, chỉ trong điều kiện của chủ nghĩa xã
hội, khi tình trạng người bóc lột người bị thủ tiêu thì tình trạng dân tộc này áp bức,
nơ dịch các dân tộc khác mới bị xóa bỏ. Chỉ khi đó, hai xu hướng khách quan của
6


sự phát triển dân tộc mới có điều kiện để thực hiện đầy đủ, trong hịa bình và có
tính chất tự nguyên.
Về cơ bản, hai xu hướng này có sự thống nhất chặt chẽ với nhau và

-

phù hợp với sự phát triển của các dân tộc trên thế giới. Thời đại ngày nay các dân
tộc muốn xích lại gần nhau để trở lại hợp nhất thành một quốc gia thống nhất. Các
dân tộc liên minh trên cơ sở lợi ích chung nhất định. Các dân tộc có những lợi ích
mang tính khu vực, dựa trên yếu tố gần nhau về địa lý, giống nhau về môi trường
thiên nhiên, tương đồng về một số giá trị văn hóa, trùng hợp nhau về lịch sử và
hiện tại trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù bên ngoài.
Nhận rõ được điều này, mỗi dân tộc, quốc gia phải biết thực hiện chính
sách độc lập tự chủ để mở cửa hội nhập vào dòng vận động chung của nhân loại;
đồng thời phải tìm được giải pháp hữu hiệu để giữ gìn, phát huy bản sắc của dân
tộc mình.
Ở các quốc gia xã hội chủ nghĩa, hai xu hướng phát huy tác động


-

cùng chiều, bổ sung, hỗ trợ cho nhau và diễn ra trong từng dân tộc, trong cả cộng
đồng quốc gia và đến tất cả các quan hệ dân tộc.
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, cả hai xu hướng trên đều loại trừ các tư tưởng
và hành vi kỳ thị dân tộc, chia rẽ dân tộc, tự ti dân tộc, dân tộc hẹp hòi và xung
đột dân tộc.
Dựa trên sự phân tích hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc trong
thời đại hiện nay, Đảng ta đã khẳng định “Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở
rộng hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại”[4] là nguyên
tắc thống nhất của đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.

III.

NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC –
LÊNIN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC

Dựa trên cơ sở tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen về vấn đề dân tộc; dựa vào
sự tổng kết kinh nghiệm đấu tranh của phong trào cách mạng thế giới và cách
7


mạng Nga; phân tích sâu sắc hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc V.I.
Lênin đã khái quát lại thành "Cương lĩnh dân tộc" của Đảng cộng sản. Trong tác
phẩm Về quyền dân tộc tự quyết, Người nêu rõ: "Các dân tộc hồn tồn bình đẳng,
các dân tộc được quyền tự quyết, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại".
➢ Các dân tộc hồn tồn bình đẳng
Quyền bình đẳng dân tộc là quyền của tất cả các dân tộc được hưởng
những điều kiện và những khả năng như nhau đối với việc tự do phát
triển các năng lực và thỏa mãn các nhu cầu của mình, có địa bị như nhau

đối với tất cả các dân tộc
Quyền bình đẳng giữa các dân tộc bao gồm tất cả các lĩnh vực trong đời
sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đây là cơ sở pháp lý chung giải
quyết các quan hệ dân tộc trên thế giới, trong khu cực hay trong một quốc
gia.
Bình đẳng giữa các dân tộc cũng chính là kết quả đấu tranh của nhân dân
lao động các nước. Quyền bình đẳng dân tộc bao hàm cả quyền bình đẳng
của các dân tộc thiểu số… bất cứ một thứ đặc quyền nào dành riêng cho
một dân tộc và bất cứ một sự vi phạm nào đến quyền lợi của một dân tộc
thiểu số đều bị bác bỏ.
➢ Các dân tộc có quyền tự quyết
Quyền dân tộc tự quyết là quyền các dân tộc tự mình định đoạt cơng việc
và vận mệnh của mình, quyền độc lập chính trị và phân lập về mặt chính
trị khỏi dân tộc áp bức họ. Quyền dân tộc tự quyết có thể biểu hiện ở
những mức độ khác nhau, từ tự trị nội bộ đến tách ra thành quốc gia dân
tộc độc lập. Theo V.I.Lênin quyền tự quyết dân tộc khơng chỉ là quyền
phân lập mà cịn là quyền liên kết để trở thành quốc gia dân tộc độc lập
➢ Liên hiệp giai cấp công nhân các dân tộc

8


Là sự đồn kết thống nhất giai cấp cơng nhân tất cả các dân tộc trên cơ
sở có cùng địa vị kinh tế - xã hội, có sự thống nhất về lợi ích giai cấp, có
cùng sứ mệnh lịch sử. Liên hiệp giai cấp công nhân các dân tộc vừa là
kết quả vừa là điều kiện thực hiện quyền bình đẳng và quyền dân tộc tự
quyết.
Ba nội dung trên của cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở lý
luận và cơ sở thực tiễn để giải quyết quan hệ dân tộc. Trong ba nội dung ấy, nội
dung thứ ba vừa là có vai trị liên kết các nội dung khác trong cương lĩnh dân tộc

thành một chỉnh thể, vừa thể hiện tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế chân
chính, tạo ra sức mạnh và động lực to lớn có tác dụng thúc đẩy các dân tộc xích
lại gần nhau trong cuộc đấu tranh chung.

CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
DÂN TỘC TẠI VIỆT NAM
I.

QUAN ĐIỂM, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA
VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ CÔNG TÁC DÂN TỘC TRONG
THỜI KỲ MỚI

Chính sách dân tộc ở Việt Nam là toàn bộ đường lối, chủ trương, biện pháp của
Đảng và Nhà nước, tác động vào và nhằm giải quyết các vấn đề dân tộc trên tất
cả các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội liên quan đến quan hệ dân tộc, lợi ích
dân tộc thuộc cộng đồng các dân tộc Việt Nam thống nhất.
Chính sách dân tộc bao hàm trong nó các chính sách nhằm giải quyết các
vấn đề dân tộc, lợi ích dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, kiều bào
Việt Nam ở nước ngồi và các chính sách dân tộc nhằm giải quyết các vấn đề dân
tộc, lợi ích của quốc gia dân tộc Việt Nam trong mối quan hệ với các dân tộc trên
thế giới. Các nội dung cơ bản của chính sách dân tộc có quan hệ mật thiết với
9


nhau, trong đó, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện
thắng lợi sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam là mục đích cơ bản, bao trùm mà chính sách dân tộc cần hướng tới.
Những nội dung cơ bản của chính sách dân tộc ở nước ta



Nội dung đối nội của chính sách dân tộc

- Bình đẳng giữa các dân tộc
Đây là nội dung cơ bản, có ý nghĩa quan trọng hàng đầu của chính sách dân tộc
về quyền của các dân tộc thiểu số. Các dân tộc khơng phân biệt đa số hay thiểu
số, trình độ phát triển cao hay thấp, đều ngang nhau về quyền lợi và nghĩa vụ trong
mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội và được bảo đảm bằng Hiến pháp và
pháp luật. Đó là bình đẳng về chính trị, bình đẳng về kinh tế, bình đẳng về văn
hóa.
Chúng ta chống chia rẽ, kỳ thị dân tộc; chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, dân
tộc cực đoan; tự trị dân tộc. Đảm bảo bình đẳng trong quan hệ lợi ích giữa các dân
tộc. Nhà nước có trácg nhiệm giúp đỡ các dân tộc có kinh tế chậm phát triển để
đạt được trình độ phát triển chung với các dân tộc khác. Xã hội bảo đảm cho việc
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc, làm phong phú nền văn hóa
Việt Nam.
- Đồn kết các dân tộc
Các dân tộc Việt Nam cùng chung sống lâu đời bên nhau, gắn bó máu thịt với
nhau, sát cánh cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Truyền thống địa kết giúp
đỡ nhau đã được giữ gìn và phát triển trong suốt tiến trình hàng nghìn năm lịch
sử. Ngày nay cần được củng cố, phát triển hơn trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Đoàn kết dân tộc, đó là đồn kết các tầng lớp, các giai cấp; đoàn kết các dân tộc,
đoàn kết người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài; đoàn kết quốc tế.
- Tương trợ nhau cùng phát triển
Các dân tộc có trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao hơn phải có trách nhiệm
giúp đỡ các dân tộc có điều kiện phát triển kinh tế - xã hội khó khăn hơn. Tương
10


trợ giúp đỡ nhau không phải chỉ là giúp đỡ một chiều; mà ngược lại chính sự phát

triển của dân tộc này là điều kiện để cho các dân tộc khác ngày càng phát triển
hơn.
Tương trợ giúp đỡ nhau trên tất cả các lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
nhằm khơng ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho các dân tộc, thực
hiện đầy đủ quyền bình đẳng và củng cố khối đại đồn kết dân tộc.


Nội dung đối ngoại của chính sách dân tộc

Thực hiện quan hệ dân tộc trên tinh thần độc lập tự chủ, mở rộng, đa phương
hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu bì hịa bình, độc lập và phát triển. Quan hệ dân
tộc trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ, khơng can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực;
bình đẳng và cùng có lợi; giải quyết các bất đồng tranh chấp bằng thương lượng
hịa bình. Chủ trương sẵn sàng là đối tác tin cậy thể hiện mong muốn thật sự hội
nhập của Đảng ta, nhằm tạo thêm nguồn lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Chính sách dân tộc của Đảng ta
Trong mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn coi việc giải quyết
đúng đắn vấn đề dân tộc là nhiệm vụ có tính chiến lược nhằm phát huy sức mạnh
tổng hợp và tiềm năng riêng của từng dân tộc trong sự nghiệp phát triển đất nước
theo con đường xã hội chủ nghĩa,
Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ XIII khẳng định: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh
thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát
vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa,
sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt
Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế đột phá
để thu hút, trọng dụng nhân tài, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ
khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp

11


lần thứ tư, tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển nhanh và bền vững.”[1] “Kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động,
tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; phát huy tối đa nội lực,
tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là
quan trọng nhất.”[2]
Về định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, nghị quyết nêu rõ:
-

Tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển đô thị; phát triển kinh
tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; ưu tiên nguồn lực phát
triển hạ tầng nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số.

-

Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm
chủ và vai trò tự quản của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng
thuận xã hội

-

Có chính sách cụ thể phát triển văn hóa đồng bào dân tộc thiểu số; thực
hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người,
tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến
bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh
phúc của con người Việt Nam.


II.

THÀNH TỰU QUAN TRỌNG TRONG THỰC THI CHÍNH
SÁCH DÂN TỘC

"Nhiệm kỳ vừa qua, quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII của Đảng; các nghị quyết, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương,
Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
118 nghị quyết, nghị định, quyết định về chính sách phát triển kinh tế - xã hội
vùng đồng bào DTTS và miền núi; ưu tiên bố trí nguồn lực để thực hiện các chính
sách đã ban hành để đạt được những kết quả quan trọng, toàn diện trên các lĩnh
vực", Bộ trưởng, Chủ nhiệm Đỗ Văn Chiến cho biết.
12


Theo Bộ trưởng, Chủ nhiệm Đỗ Văn Chiến, thứ nhất là kết cấu hạ tầng kinh tế,
kỹ thuật địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được quan tâm đầu tư đồng bộ,
đạt được kết quả quan trọng. Trong 5 năm qua, từ nguồn vốn đầu tư của Nhà nước
đã xây dựng hàng vạn cơng trình đường điện, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa,...
phục vụ sản xuất và đời sống của đồng bào. Nhờ đó, đến nay 100% đường từ tỉnh
đến trung tâm huyện được rải nhựa hoặc bê tơng hóa; 98,4% xã có đường ô tô đến
trung tâm; tỷ lệ hộ DTTS được sử dụng điện lưới đạt 96,7%; 100% xã có trường
tiểu học, trung học cơ sở; 99,7% xã có trường mầm non, mẫu giáo; 99,5% xã có
trạm y tế; 76,7% thơn có nhà văn hóa, nhà sinh hoạt cộng đồng; tỷ lệ thơn có
đường giao thơng được kiên cố tăng 16,7% so với năm 2015.
Bên cạnh đó, cơng tác xóa đói giảm nghèo đạt kết quả ấn tượng, được bạn bè
quốc tế đánh giá cao; Chương trình xây dựng nơng thơn mới đạt kết quả bước đầu
đáng khích lệ. Theo đó, hằng năm tỷ lệ hộ nghèo vùng DTTS và miền núi giảm 2
- 3%; các xã, thơn đặc biệt khó khăn giảm 3 - 4%; các huyện nghèo giảm 4 - 5%;
đã có 22 huyện, 125 xã, 1.298 thơn ra khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn.

"Vùng DTTS và miền núi đã có 1.052 xã, chiếm tỷ lệ 22,3% đạt chuẩn nơng thơn
mới; trong đó 106 xã từ đặc biệt khó khăn phấn đấu trở thành xã nơng thơn mới;
có 27 huyện vùng DTTS và miền núi, chiếm 6% đạt chuẩn nông thôn mới", Bộ
trưởng, Chủ nhiệm Đỗ Văn Chiến cho biết.
Theo Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc, sự nghiệp giáo dục, đào tạo và dạy
nghề ở vùng đồng bào DTTS và miền núi ngày càng phát triển cả về quy mơ,
mạng lưới và chất lượng. Cơng tác xóa mù chữ, chống tái mù chữ đạt kết quả tốt,
tỷ lệ người đủ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết tiếng phổ thông tăng 1,7%; tỷ lệ
đi học đúng độ tuổi cấp tiểu học tăng 8%, trung học cơ sở tăng 9%, trung học phổ
thông tăng 145,7%. Đã xây dựng được 316 trường phổ thông dân tộc nội trú, 1.097
trường phổ thông dân tộc bán trú; 4 trường và 3 khoa dự bị đại học dân tộc, đáp
ứng tốt nhu cầu học tập của con em đồng bào DTTS...
13


"Kết quả phát triển giáo dục - đào tạo ở vùng DTTS và miền núi là một trong
những kết quả nổi bật trong công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc của
Đảng, Nhà nước", Bộ trưởng, Chủ nhiệm Đỗ Văn Chiến khẳng định.
Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe Nhân dân được chú trọng, phát triển cả về mạng
lưới, trang thiết bị và đội ngũ; chất lượng khám chữa bệnh có chuyển biến tích
cực. Đến nay, vùng DTTS và miền núi có 99,5% số xã có trạm y tế, 83,5% trạm
y tế đạt chuẩn quóc gia; 77,2% số trạm y tế có bác sỹ; 93% người DTTS được cấp
thẻ BHYT; tỷ lệ tảo hôn giảm 4,7%, hơn nhân cận huyết thống giảm 0,9%,...
Cùng với đó, cơng tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa tốt đẹp của các DTTS đạt
được kết quả rõ nét hơn; Cơng tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng
đội ngũ cán bộ công chức, viên chức người DTTS được quan tâm, có chuyển biến
rõ nét.

III.


TRÁCH NHIỆM CỦA MỖI SINH VIÊN TRONG VIỆC GIẢI
QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG CÁCH MẠNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA

Tinh thần đoàn kết dân tộc là truyền thống quý báu của người Việt Nam, trải
qua bao thế hệ, lịch sử. Tinh thần ấy cho đến nay vẫn luôn được kế thừa và phát
huy trong xã hội. Và, trong trận đại dịch COVID-19 vừa qua, tinh thần ấy lại được
thăp sáng, trở thành phong trào vô cùng rộng lớn, mạnh mẽ.
Dịch bệnh COVID-19 đã càn quét, gây ảnh hưởng về sức khỏe, kinh tế của nhiều
quốc gia trên thế giới. Là một nước nằm trong vùng ảnh hưởng của dịch bệnh,
Việt Nam đã có những cách xử lý tuyệt vời, làm thế giới thán phục. Có thể nói,
chính nhờ sức mạnh của tinh thần đồn kết đã giúp đát nước ta bước đầu chiến
thắng trên mặt trận chống virus SARS-CoV2.
Các hoạt động thiện nguyện, “lá lành đùm lá rách”, giúp đỡ người có hồn
cảnh khó khăn. Cây ATM phát gạo miễn phí. Các thành phố lớn, quy tụ đông đảo
14


những người lao động nhập cư tỏng đại dịch bị thất nghiệp đã được các bạn trẻ,
mạnh thường quân quan tâm, hỗ trợ. Trong thời gian cách lý, nhiều nhóm thiện
nguyện đã tổ chức địa điểm phát đồ ăn, nước uống. Hay ở Sài Gòn, những tiệm
kinh doanh ăn uống tự nguyện dống của, tập trung phục vụ nấu cơm chay ngày 2
bữa, phát cho dân nghèo… Không thể không kể đến công lao to lớn của ngành
chiến sĩ, bộ đội và ngành y tế luôn ở tuyến đầu sẵn sàng chống dịch. Dù là giặc
ngoại xâm hay dịch bệnh, từ người già đến trẻ nhỏ, mọi lứa tuổi đều chung tay
góp sức vì dân tộc. Học sinh, sinh viên các trường đại học phát khẩu trang, nước
rửa tay miễn phí cho người dân.
Là sinh viên đang học tập dưới mái trường Kinh tế quốc dân, là thế hệ thanh
niên gánh trên vai trọng trách với mọi vấn đề của quốc gia, dân tộc, nắm trong tay
sinh mệnh và tương lai của đất nước, bản thân em luôn nhận thức rõ trách nhiệm

của mình: khơng phân biệt thành phần xã hội, dân tộc, trình độ văn hóa hay nơi
cư trú, ln có trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ dân tộc; chấp hành nghiêm chỉnh
Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, làm trịn
nghĩa vụ qn sự; khơng ngừng học tập, nâng cao trình độ nhận thức về mọi mặt
đặc biệt là truyền thống của dân tộc, củng cố long yêu nước, tự hào tự tôn dân tộc.

15


KẾT LUẬN

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO

17



×