Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin về kinh tế thị trường và sự vận dụng nó ở nước ta để xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.23 KB, 32 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Lịch sử kinh tế thế giới đã từng biết và trải qua các mơ hình kinh tế: kinh tế tự
nhiên, kinh tế tập trung (kinh tế - kế hoạch hố) và kinh tế thị trường, trong số các
mơ hình kinh tế đó, kinh tế thị trường mặc dù có những hạn chế, khuyết tật nhưng
tỏ ra năng động và phù hợp với trình độ phát triển kinh tế hiện nay của các nước
trên thế giới. Kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại, nó là
sản phẩm của hoạt động kinh tế lâu dài và trải qua nhiều thời đại. Có thể nói, xu
thế chung của nền kinh tế thế giới ngày nay là ứng dụng mơ hình kinh tế thị trường
hiện đại với những đặc trưng, màu sắc riêng của mỗi nước và nước ta cũng khơng
nằm ngồi xu thế chung đó, hơn nữa chúng ta mới tiến hành công cuộc cải cách,
đổi mới theo đường lối của Đảng trong khoảng 10 năm một khoảng thời gian lịch
sử ngắn ngủi. Chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm về quản lý kinh tế thị trường
trong khi đó có nhiều khó khăn, phải đương đầu với nhiều vấn đề kinh tế xã hội
gay gắt. Do đó việc nghiên cứu, rút kinh nghiệm từ mơ hình kinh tế thị trường của
các nước nhằm khắc phục những hạn chế, khuyết tật vốn có của nó vận dụng
những mặt thành cơng trong mơ hình của các nước trên thế giới là một việc có ý
nghĩa cấp bách đối với việc giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội trong công cuộc
đổi mới của chúng ta hiện nay cũng như trong thời gian tới. Muốn thực hiện công
việc cấp bách đó địi hỏi chúng ta phải nắm được thế nào là kinh tế thị trường, quá
trình hình thành và phát triển của nó, nó có những ưu khuyết điểm gì,... Đó là nền
tảng, cơ sở lý luận về kinh tế thị trường mà chủ nghĩa Mác Lênin đã đưa ra. Mặc
khác từ những năm 20 của thế kỷ 20 chủ nghĩa Mác Lênin đã đi vào Việt Nam và
ngày càng được truyền bá rộng rãi. Có thể nói vai trò của học thuyết kinh tế của
chủ nghĩa Mác Lênin với nền kinh tế thế giới nói chung và với kinh tế nước ta nói
riêng là hết sức to lớn khơng ai có thể phủ nhận được.
Chủ nghĩa Mác Lênin đã trở thành nền tảng, là cơ sở lý luận cho quá trình
phát triển kinh tế của nước ta, từ một đất nước nghèo nàn, lạc hậu đi lên con đường
xã hội chủ nghĩa, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Do đó, việc nghiên cứu lý luận
của chủ nghĩa Mác Lênin là một vấn đề hết sức cần thiết. Báo cáo chính trị của
Ban chấp hành TW tại Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ
VII viết: “Trong những năm tới nhiệm vụ chủ yếu của các ngành khoa học xã hội


1


vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn nước ta và tiếp thu có chọn lọc những thành tựu khoa
học của thế giới, nghiên cứu vấn đề cơ sở lý luận để hoàn thiện và triển khai cương
lĩnh, chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội” (1)
Như vậy từ hai lý do trên ta có thể thấy được tầm quan trọng của việc nghiên
cứu lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin về kinh tế thị trường đối với sự nghiệp phát
triển nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng. Đặc biệt đối
với sinh viên Đại học Kinh tế Quốc dân - những chủ nhân tương lai của đất nước,
những nhà quản lý kinh tế, những cán bộ kinh tế tương lai của đất nước thì vấn đề
nghiên cứu lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin về kinh tế thị trường lại càng trở nên
quan trọng và cần thiết do đó em quyết định chọn đề tài: “Lý luận của chủ nghĩa
Mác Lênin về kinh tế thị trường và sự vận dụng nó ở nước ta để xây dựng kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo đã
truyền đạt cho em những kiến thức quan trọng, cần thiết để em hoàn thành đề tài
này và để hoàn thành một cách xuất sắc đề tài này em rất mong tiếp tục được sự
giúp đỡ, tạo điều kiện của thầy giáo.

Đảng cộng sản Việt Nam-Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII - NXB Sự thật - Hà Nội 1994 - Tr
80
(1)

2


NỘI DUNG
A - CƠ SỞ LÝ LUẬN
I.


QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.

Nền kinh tế thị trường đã xuất hiện từ xa xưa trong lịch sử kinh tế và đã trải
qua một quá trình phát triển lâu dài qua các thời đại và cho đến vài trăm năm gần
đây đã thực sự phát triển mạnh mẽ và phong phú ở hầu hết các nước trên thế giới.
1.

Quá trình chuyển từ sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá.

1.1. Kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hoá:
Kinh tế tự cung tự cấp là kiểu tổ chức kinh tế đầu tiên mà trong đó sản phẩm
được sản xuất chỉ dùng mục đích tiêu dùng ở ngay trong những đơn vị sản xuất ra
nó như: thị tộc, cơng xã, hộ gia đình, trang trại,...
Kinh tế tự nhiên là kinh tế hiện vật và khép kín, sản xuất thủ cơng, phân tán,
năng suất rất thấp, lệ thuộc nhiều vào tự nhiên. Kinh tế tự nhiên thống trị trong chế
độ cộng sản nguyên thuỷ và vẫn cịn tồn tại trong chế độ Chiếm hữu nơ lệ và
Phong kiến.
Khi lực lượng sản xuất phát triển cao, phân cơng lao động được mở rộng thì
dần dần xuất hiện trao đổi hàng hoá. Khi trao đổi hàng hoá trở thành mục đích
thường xun của sản xuất thì kinh tế hàng hố ra đời.
Kinh tế hàng hố là 1 hình thức tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm làm ra
nhằm mục đích trao đổi mua bán ở trên thị trường.
Kinh tế hàng hoá là một nền kinh tế mở, các quan hệ kinh tế hầu hết được thể
hiện dưới hình thái giá trị, kinh tế hàng hố xuất hiện từ cuối chế độ cộng sản
nguyên thuỷ tan giã và tồn tại trong xã hội Phong kiến, xã hội Tư bản chủ nghĩa và
xã hội XHCN.
1.2. Hai điều kiện để chuyển từ kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế hàng hoá:
Sản xuất hàng hoá chỉ ra đời và tồn tại khi có 2 điều kiện đó là: có sự phân
công lao động xã hội và chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.

1.2.1. Phân công lao động xã hội:
Phân công lao động xã hội là việc phân chia lực lượng sản xuất vào những
ngành nghề khác nhau của xã hội.
Phân cơng lao động được biểu hiện dưới hình thức chun mơn hố sản xuất,
lực lượng sản xuất trước kia sản xuất ra nhiều sản phẩm thì nay chỉ sản xuất ra 1 số
hoặc 1 loại sản phẩm.

3


Do có phân cơng lao động xã hội nên mỗi người sản xuất chỉ sản xuất ra 1
hay 1 số loại sản phẩm nhất định. Nhưng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của mỗi
người lại cần có nhiều loại sản phẩm chính vì vậy địi hỏi họ phải có mối liên hệ
trao đổi sản phẩm cho nhau, và họ phụ thuộc vào nhau; và trong điều kiện lịch sử
nhất định thì việc trao đổi đó được tiến hành dưới hình thức trao đổi hàng hố. Do
đó phân cơng lao động xã hội là cơ sở, là điều kiện cần để hình thành nền kinh tế
hàng hố.
1.2.2. Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và sản phẩm của lao động.
Do sự tách biệt về kinh tế giữa người sản xuất do các quan hệ sở hữu khác
nhau về tư liệu sản xuất qui định nên người chủ tư liệu sản xuất quyết định việc sử
dụng tư liệu sản xuất và làm chủ sản phẩm do họ sản xuất ra. Như vậy quan hệ sở
hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã chia rẽ người sản xuất, làm cho họ tách biệt
với nhau về mặt kinh tế, trong điều kiện đó, nhiều người chủ tư liệu sản xuất muốn
sử dụng sản phẩm của nhau thì phải trao đổi sản phẩm cho nhau. Khi đó sản phẩm
lao động trở thành hàng hoá và nền sản xuất tạo ra sản phẩm đó gọi là nền kinh tế
hàng hố. Đây là điều kiện đủ để kinh tế hàng hoá ra đời. Đó là 2 điều kiện cần và
đủ để cho sản xuất hàng hoá ra đời và tồn tại. Nếu thiếu 1 trong 2 điều kiện đó thì
khơng cịn tồn tại sản xuất hàng hoá nữa.
1.3. Ưu thế của nền kinh tế hàng hoá so với nền kinh tế tự nhiên.
So với nền kinh tế tự nhiên thì nền kinh tế hàng hố có nhiều ưu thế hơn cụ thể là:

Thứ nhất, sự phát triển kinh tế hàng hoá làm cho phân công lao động xã hội
ngày càng sâu sắc, chuyên mơn hố hiệp tác hố ngày càng tăng, mối liên hệ về
kinh tế - xã hội giữa các vùng các ngành càng chặt chẽ. Từ đó, nó xố bỏ tính tự
cấp, tự túc, bảo thủ, trì trệ của nền kinh tế, đẩy mạnh q trình xã hội hố sản xuất
và lao động.
Thứ hai, do tính tách biệt kinh tế và do sự cạnh tranh ngày càng gay gắt đòi
hỏi người sản xuất hàng hoá phải năng động trong sản xuất - kinh doanh phải
thường xuyên quan tâm đến năng suất lao động, chất lượng, giá cả mẫu mã của sản
phẩm để thu được nhiều lợi nhuận hơn. Từ đó làm tăng năng suất lao động xã hội
và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, mở rộng phạm vi sản xuất.
Thứ ba, sản xuất hàng hoá là một nền kinh tế mở, qui mơ được mở rộng rất
nhiều, trình độ kỹ thuật tiên tiến, khả năng thoả mãn nhu cầu tốt. Vì vậy sản xuất
hàng hố qui mơ lớn là cách thức tổ chức hiện đại để phát triển kinh tế xã hội trong
thời đại ngày nay.
Qua đó ta thấy rằng kinh tế hàng hố có rất nhiều ưu điểm tốt hơn rất nhiều so
với nền kinh tế tự nhiên hình thức tổ chức kinh tế đầu tiên của xã hội điều đó thể
hiện xu hướng phát triển của nền sản xuất xã hội cũng nằm trong xu hướng phát
triển đó thì nền sản xuất hàng hố tiếp tục phát triển từ hình thức sản xuất hàng hố
sơ khai là sản xuất hàng hoá giản đơn lên sản xuất hàng hố lớn TBCN và XHCN
hay cịn gọi là kinh tế thị trường.

4


2.

Bước phát triển từ nền kinh tế hàng hoá giản đơn lên nền kinh tế thị trường.

2.1. Thế nào là kinh tế thị trường?
Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hố phát triển ở trình độ xã hội hố cao.

Trong nền kinh tế thị trường thì các yếu tố đầu vào cũng như đầu ra của sản xuất
kể cả sản phẩm của chất xám đều là đối tượng mua bán ở trên thị trường, tức là
khái niệm kinh tế thị trường nói lên trạng thái tồn tại, vận động của nền kinh tế
theo cơ chế thị trường, trong đó các vấn đề sản xuất ra cái gì? sản xuất bao nhiêu
và sản xuất cho ai?,... đều do thị trường quyết định thông qua sự chỉ dẫn của quan
hệ cung - cầu và giá cả. Kinh tế thị trường là nền kinh tế tiền tệ hoá cao, hầu như
mọi quan hệ kinh tế trong xã hội đều được tiền tệ hố. Nền kinh tế thị trường
khơng chỉ là cơng nghệ, kỹ thuật mà cịn là quan hệ xã hội nó không chỉ bao hàm
yếu tố lực lượng sản xuất mà còn cả quan hệ sản xuất. Kinh tế thị trường đã phát
triển qua nhiều giai đoạn, nhiều hình thức. Hình thức đầu tiên là kinh tế thị trường
tự điều tiết. Hình thức này đã bộc lộ nhiều khuyết tật của kinh tế thị trường, để hạn
chế những khuyết tật, những mặt trái của nền kinh tế thị trường, phát huy mặt tích
cực của nền kinh tế thị trường thì buộc phải có sự can thiệp của Nhà nước ở một
mức độ nhất định chính vì thế mà mơ hình kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước ở một mức độ nhất định đã ra đời và nó đã bộc lộ những ưu điểm của nó kể
cả trong xã hội TBCN và cả trong xã hội XHCN.
2.2. Những tiền đề ra đời của kinh tế thị trường.
2.2.1. Sức lao động phải trở thành hàng hố tức là có sự xuất hiện của thị
trường sức lao động và hàng hoá sức lao động.
Trong bất cứ xã hội nào sức lao động cũng đều là điều kiện cần thiết để sản
xuất. Nhưng không phải bao giờ sức lao động cũng là hàng hoá. Chủ nghĩa Mác đã
chỉ ra rằng sức lao động chỉ có thể trở thành hàng hố khi có đủ hai điều kiện.
Thứ nhất, người lao động phải được tự do về thân thể. Sức lao động chỉ xuất
hiện với tư cách là hàng hoá ở trên thị trường nếu nó do bản thân con người có sức
lao động đưa ra bán. Muốn vậy thì con người có sức lao động phải là chủ sở hữu
sức lao động của mình có nghĩa là người lao động phải được tự do về thân thể, tự
do quyết định việc bán sức lao động của mình.
Thứ hai, người lao động phải bị tước hết tư liệu sản xuất, tức là người lao
động khơng cịn gì ngồi sức lao động của mình để tiến hành tự sản xuất. Trong
điều kiện đó, trong hồn cảnh đó thì người lao động muốn tồn tại thì buộc họ phải

bán sức lao động của mình.
Như vậy, sự tồn tại đồng thời hai điều kiện trên tất yếu dẫn đến sự ra đời của
hàng hoá sức lao động và tư liệu lao động. Đây là 1 trong những điều kiện quan
trọng đánh dấu một bước chuyển biến từ nền kinh tế hàng hoá giản đơn lên nền
kinh tế thị trường. Bởi vì chính sự xuất hiện loại hàng hoá đặc biệt này đã thúc đẩy
các mặt của nền kinh tế phát triển như: năng suất, chất lượng lao động được nâng
cao, thị trường ngày càng hoàn chỉnh, hiệu quả sản xuất, kinh doanh cao,... Tất cả
5


những yếu tố này phát triển đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển thúc đẩy sự
tăng trưởng và phát triển kinh tế.
2.2.2. Vai trò kinh tế của Nhà nước phải được tăng cường để nền kinh tế thị
trường ra đời thì phải có sự điều tiết ở tầm vĩ mơ của Nhà nước bởi vì đã góp phần
tạo ra môi trường và hành lang cho thị trường phát triển lành mạnh. Mặt khác,
thơng qua những chính sách kinh tế, những biện pháp tài chính cần thiết Nhà nước
đã phát huy cao độ những mặt tích cực, những ưu thế của nền kinh tế thị trường và
hạn chế đến mức tối đa mặt tiêu cực của nó, tạo điều kiện cho nó phát triển mạnh
mẽ hơn và lành mạnh hơn. Cũng từ những chính sách, những biện pháp tài chính
đó Nhà nước đã tiến hành điều tiết ở tầm vĩ mô nền kinh tế, rút ngắn khoảng cách
giàu nghèo thực hiện công bằng xã hội, nhằm phối hợp hài hồ giữa tăng trưởng
kinh tế và cơng bằng xã hội. Có thể nói đây cũng là 1 trong những điều kiện có
tính then chốt để hình thành nên nền kinh tế thị trường.
2.2.3. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế có qui mơ sản xuất lớn cho nên để
đảm bảo đáp ứng qui mơ đó thì cần phải tích luỹ được một lượng vốn lớn nhất định
để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh bởi vì khơng có vốn thì khơng thể tiến
hành sản xuất kinh doanh được.
2.2.4. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế tiền tệ, nó đề cao vai trị của tiền tệ
chính vì vậy để ra đời được nền kinh tế thị trường thì địi hỏi hệ thống tài chính, tín
dụng, ngân hàng phải tương đối mở rộng, phát triển để đáp ứng nhu cầu về vốn cho

hoạt động sản xuất kinh doanh.
2.2.5. Vì nền kinh tế thị trường hoạt động rất mạnh mẽ, hoạt động trao đổi và
lưu thơng hàng hố diễn ra rất sôi nổi cho nên để đáp ứng được sự mạnh mẽ đó và
tạo điều kiện thuận lợi cho trao đổi và lưu thơng hàng hố thì cần phải có một cơ
sở hạ tầng tương đối phát triển, trong đó mạng lưới giao thơng là rất quan trọng.
Như vậy, với tất cả những tiền đề trên thì đã tạo điều kiện cho nền kinh tế thị
trường ra đời và phát triển mạnh mẽ trên khắp thế giới với đúng nghĩa của nó.
2.3. Những đặc trưng vốn có của nền kinh tế thị trường.
2.3.1. Tính tự chủ, tự quyết của các chủ thể kinh tế là rất cao.
Trong nền kinh tế thị trường thì các chủ thể kinh tế ln phải đối phó với các
vấn đề kinh tế cơ bản là: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? và sản xuất cho ai?
Đó là bài tốn chung cho cả chủ thể kinh tế ở trong nền kinh tế thị trường. Để giải
quyết được bài toán chung này thì địi hỏi mỗi chủ thể kinh tế phải tự mình nghiên
cứu thị trường, nghiên cứu nhu cầu của người tiêu dùng để tự mình đưa ra quyết
định là sản xuất ra cái gì, tự mình định đoạt vấn đề sản xuất nó như thế nào, và bán
nó ở đâu, bán nó cho ai? để sao cho thu được lợi nhuận tối đa; chi phí sản xuất tối
thiểu. Khi các chủ thể kinh tế đã đưa ra những quyết định của mình thì họ phải tự
chịu trách nhiệm vật chất về quyết định đó tức là nếu lỗ thì họ phải tự chịu, lãi thì họ
được hưởng chứ khơng như trước đây (cơ chế kế hoạch hoá tập trung) lỗ thì Nhà
nước bù, lãi Nhà nước thu. Như vậy tính tự chịu trách nhiệm vật chất của các chủ
thể kinh tế đã phần nào nói nên được tính tự chủ cao độ của các chủ thể kinh tế trong
6


nền kinh tế thị trường. Trong sản xuất kinh doanh họ phải tự trang trải vốn, tự tính
tốn chi phí sản xuất, tự quyết định vấn đề tiêu thụ sản phẩm làm sao cho có lợi
nhuận. Mặt khác ở trong nền kinh tế thị trường thì các chủ thể kinh tế có thể tự do
liên doanh liên kết, tự do chọn bạn hàng của mình trong khn khổ của pháp luật.
2.3.2. Giá cả thị trường được xác định trên cơ sở sự thương lượng và thoả
thuận giữa người mua và người bán ở trên thị trường.

Giá cả thị trường là giá cả của hàng hoá ở trên thị trường mà người bán quyết
định bán cho người mua và người mua chấp nhận mua của người bán. Sau một quá
trình thương lượng và thoả thuận, có nghĩa là giá cả thị trường được hình thành
trên cơ sở “thuận mua vừa bán” mà sự “thuận mua” ở đây lại căn cứ vào ích lợi
giới hạn về hàng hố đó của người mua, người mua chỉ chấp nhận mua cái hàng
hố đó khi giá cả của nó phù hợp với lợi ích giới hạn của nó, cịn “vừa bán” ở đây
dựa trên cơ sở chi phí sản xuất và lợi nhuận, người bán chỉ bán hàng hố khi mà
giá cả của nó bù đắp được chi phí sản xuất và có doanh lợi. Xu hướng tâm lý của
người mua luôn luôn là muốn mua rẻ, cịn của người bán là ln ln muốn bán
đắt để thu được nhiều lợi nhuận, nên giá cả thị trường dung hịa được cả lợi ích của
người mua lẫn lợi ích của người bán. Mặt khác, giá cả thị trường còn chịu tác động
của các quy luật kinh tế căn bản như: qui luật cạnh tranh, đặc biệt là qui luật cung cầu ở trên thị trường, khi mà cầu nhiều cung ít thì sẽ đẩy giá cả thị trường tăng lên
và khi đó lợi thế sẽ nghiêng về người bán cịn khi mà cầu ít, cung nhiều thì sẽ kéo
giá cả thị trường giảm xuống khi đó lợi thế sẽ nghiêng về người mua. Đồng thời
giá cả thị trường là biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường.
2.3.3. Thị trường hàng hoá rất phong phú và đa dạng về số lượng và chất lượng.
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế phát triển cao, trình độ khoa học kỹ thuật
hiện đại cho nên dẫn đến là năng suất lao động cao, chất lượng sản phẩm tốt đáp
ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Mặt khác trong nền kinh tế thị trường thì
khối lượng đầu tư lớn, qui mô sản xuất được mở rộng rất nhiều cũng dẫn đến tính
đa dạng của hàng hố ở trên thị trường. Nó được biểu hiện rõ rệt ở trên thị trường,
ở đó người ta tự do mua, tự do bán hàng hố mà mình có nhu cầu và cũng ở đó
những hoạt dộng của người mua và người bán diễn ra rất sôi nổi, mạnh mẽ, giá cả
thị trường thường xuyên biến động để phù hợp với quan hệ cung - cầu. Như vậy sự
đa dạng và phong phú về chủng loại, sự tăng nhanh về chất lượng hàng hố một
mặt phản ánh được trình độ phát triển cao của năng suất lao động, mặt khác nó
cũng phản ánh được trình độ phát triển của phân cơng lao động xã hội, trình độ
khoa học kỹ thuật, mức độ của quan hệ trao đổi. Hay nói một cách bao quát hơn,
rộng hơn là sự đa dạng và phong phú của hàng hố ở trên thị trường đã nói lên sự
phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất.

2.3.4. Mục đích cuối cùng của sản xuất kinh doanh là lợi nhuận - cạnh tranh là
tất yếu:

7


Ở trong nền kinh tế thị trường tất cả các chủ thể kinh tế kể cả Nhà nước đều

thi đua nhau sản xuất - kinh doanh, tất cả các hoạt động sản xuất - kinh doanh hạch
toán kinh tế của các chủ thể kinh tế đều hướng tới mục tiêu chung là lợi nhuận các
chủ thể kinh tế luôn luôn tính tốn trong vấn đề sản xuất - kinh doanh để sao cho
thu được lợi nhuận cao nhất, lợi nhuận trở thành thước đo hiệu quả sản xuất kinh
doanh của các chủ thể kinh tế đồng thời nó cũng là động lực để thúc đẩy các chủ
thể kinh tế tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất để nâng
cao chất lượng, giảm giá thành sản phẩm. Chính vì mục đích của sản xuất kinh
doanh là lợi nhuận cho nên để thu được lợi nhuận cao thì buộc các chủ thể kinh tế
phải cạnh tranh với nhau để giành giật lấy vị trí ưu thế của mình trên thị trường.
Chính vì vậy cạnh tranh là một tất yếu của nền kinh tế thị trường, có nền kinh tế thị
trường thì phải có cạnh tranh. Cạnh tranh thường xuyên diễn ra và diễn ra cả trong
lĩnh vực sản xuất, cả trong lĩnh vực lưu thông. Cạnh tranh trong lĩnh vực sản xuất
bao gồm: cạnh tranh giữa các ngành với nhau và cạnh tranh trong nội bộ ngành.
Cạnh tranh trong lĩnh vực lưu thông gồm: cạnh tranh giữa người mua và người
mua và giữa người bán với người bán.
Cũng chính từ mục đích lợi nhuận này đã tạo ra khơng ít những mặt trái,
những hạn chế của kinh tế thị trường, chính vì chạy theo lợi nhuận nên một số các
chủ thể kinh tế đã bất chấp những qui luật vận động của cơ chế thị trường, tiến
hành cạnh tranh không lành mạnh làm cho cơ chế thị trường khơng cịn hoạt động
theo đúng nghĩa của nó nữa.
2.3.5. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế mở.
Sự ra đời và phát triển kinh tế hàng hoá đã phá vỡ mối quan hệ truyền thống

của nền kinh tế khép kín. Sản xuất và trao đổi hàng hố địi hỏi tất yếu phải mở
rộng quan hệ hợp tác kinh tế với nước ngồi, chính nhờ sự mở rộng liên kết, hợp
tác với nước ngoài đã làm cho thị trường dân tộc gắn bó với thị trường thế giới tạo
đà cho nền kinh tế thị trường có những bước phát triển nhanh chóng. Mở rộng
quan hệ kinh tế với nước ngồi dưới nhiều hình thức, nhiều dạng khác nhau là một
tất yếu của sự phát triển. Đặc biệt là trong tình hình hiện nay trình độ khoa học kỹ
thuật của thế giới ngày càng hiện đại cho phép đáp ứng cả nhu cầu về sản xuất lẫn
tiêu dùng, nên thông qua việc mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài để biến
nguồn lực bên ngoài thành nguồn lực bên trong thúc đẩy nền kinh tế thị trường
thêm đa dạng và phát triển lên 1 tầm cao mới.
II.

NHỮNG NHÂN TỐ CƠ BẢN CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.

Nói đến nền kinh tế thị trường chúng ta khơng thể khơng nói đến những nhân
tố cơ bản hình thành và tồn tại trong nó như: hàng hố, tiền tệ,... và đặc biệt là thị
trường, cạnh tranh và cơ chế thị trường. Những nhân tố này kết hợp với nhau để
cấu thành một nền kinh tế thị trường hoàn hảo.

8


1.

Hàng hoá và tiền tệ.

1.1. Hàng hoá.
“Hàng hoá là sản phẩm của lao động mà, một là, nó có thể thoả mãn được nhu
cầu nào đó của con người; hai là, nó được sản xuất ra khơng phải để người sản xuất
ra nó tiêu dùng mà là để bán” (1)

Hàng hố có hai thuộc tính căn bản là giá trị và giá trị sử dụng.
Thứ nhất, về giá trị sử dụng: giá trị sử dụng của hàng hố là ích lợi mà hàng
hố đó đem lại cho người tiêu dùng nó, nó do bản tính tự nhiên, bản thân của hàng
hố đó quyết định và nó chỉ bộc lộ khi hàng hố đó được tiêu dùng.
Thứ hai, về giá trị (giá trị trao đổi): nó là lao động xã hội của người sản xuất
hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. Chính nhờ giá trị trao đổi này mà người ta xác
định được cơng dụng của hàng hố này nhiều hay ít, cơng dụng của hàng hố kia
nhiều hay ít trên cơ sở đó hình thành nên giá cả thị trường của hàng hố đó, từ đó
cũng xác định được tỷ lệ trao đổi giữa hàng hoá này với hàng hoá kia. Giá trị của
hàng hoá phụ thuộc vào số lượng lao động hao phí để sản xuất ra chúng. Nếu số
lượng lao động hao phí để sản xuất ra chúng mà càng lớn thì giá trị của hàng hố
được tạo ra càng lớn, làm cho giá cả của hàng hoá đó càng cao và ngược lại do
khoa học kỹ thuật ngày càng tiên tiến nên hao phí lao động để sản xuất 1 đơn vị
hàng hoá ngày càng giảm làm cho giá trị của hàng hoá ngày càng giảm, dẫn đến
giá cả của nó ngày càng giảm.
Mặt khác giá trị còn biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất
hàng hố, quan hệ đó khơng cịn là quan hệ “thuần tuý” mà nó đã thay thế bằng
quan hệ giữa vật với vật. Đây là một khái niệm trừu tượng, khơng nhìn thấy được.
Nó chỉ bộc lộ trong q trình trao đổi hàng hố.
Giữa giá giá trị trao đổi và giá trị sử dụng có một mối quan hệ mật thiết với
nhau nó vừa mâu thuẫn với nhau lại vừa thống nhất với nhau. Giá trị và giá trị sử
dụng thống nhất với nhau để tạo ra hình thái của hàng hố, chính mâu thuẫn với
nhau ở chỗ một vật có giá trị sử dụng nhưng chưa chắc đã có giá trị, ví dụ như
khơng khí có giá trị sử dụng rất lớn đối với con người, đối với sinh vật nhưng nó
khơng có giá trị và do đó nó khơng thể trở thành hàng hố được.
1.2. Tiền tệ.
C. Mác là người đầu tiên đã trình bày nguồn gốc phát sinh của tiền tệ và bản
chất của tiền tệ. C.Mác viết: “Bây giờ cần phải làm một việc mà khoa học kinh tế tư
bản chưa hề làm thử bao giờ, tức là phải trình bày nguồn gốc phát sinh của hình
thái tiền tệ, nghĩa là phải khai triển biểu hiện của giá trị, biểu hiện bao hàm trong

quan hệ giá trị của hàng hố, từ hình thái ban đầu giản đơn và ít thấy rõ nhất đến
hình thái tiền tệ là hình thái mà ai lấy đều thấy” (1)

(1)
(1)

Đại học KTQD-Bộ mơn Kinh tế Chính trị-Kinh tế Chính trị Mác-Lênin Tập 1 - NXB Giáo dục 1998 - trang 38
C.Mác - Tư bản - Quyển I, Tập II - NXB Sự thật - Hà Nội 1963 - Trang 75
9


C.Mác đã mơ tả nguồn gốc phát sinh của hình thái tiền tệ bắt đầu từ hình thái
giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên, rồi phát sinh lên hình thái giá trị tồn bộ hay mở
rộng, tiếp đến là hình thái giá trị chung và cuối cùng là hình thái tiền tệ. Ở hình thái
tiến bộ nhất này C.Mác đã nêu ra rằng đã có nhiều hàng hố đóng vai trò vật ngang
giá chung thống nhất giữa các vùng nhưng cuối cùng nó được cố định ở vàng. Khi
đó hình thái giá trị chung chuyển thành hình thái tiền tệ. C.Mác viết: “Dần dần
vàng là vật ngang giá chung trong những phạm vi tương đối rộng hơn. Khi đó đã
độc chiếm vị trí ấy trong cách biểu hiện giá trị của thế giới hàng hố thì nó trở
thành hàng hố - tiền tệ, và chỉ từ khi vàng đã trở thành hàng hố - tiền tệ rồi, thì
hình thái giá trị chung mới biến thành hình thái tiền tệ” (2)
Như vậy, tiền tệ là một thứ hàng hoá đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá
chung cho các hàng hố khác nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ
giữa những người sản xuất hàng hoá.
Tiền tệ có vai trị rất quan trọng trong q trình sản xuất trao đổi hàng hố, nó
làm chức năng thước đo giá trị của hàng hoá, là phương tiện lưu thơng, là phương
tiện cất trữ, là phương tiện thanh tốn và có chức năng tiền tệ thế giới cũng từ
những chức năng này mà bản chất tiền tệ được thể hiện rõ nét hơn.
2.


Thị trường và cạnh tranh.

2.1. Thị trường:
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó q trình
sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng đều gắn liền với thị trường, được thực hiện
thơng qua thị trường. Vì vậy thị trường là hợp phần tất yếu và hữu cơ của toàn bộ
q trình sản xuất và lưu thơng hàng hố, nó ra đời cùng với sự ra đời và phát triển
của sản xuất và lưu thơng hàng hố. Từ đó đã có những định nghĩa khác nhau về
thị trường, xét trên những bình diện, những góc độ khác nhau về thị trường.
2.1.1. Các khái niệm:
Theo nghĩa ban đầu thì: thị trường gắn liền với địa điểm nhất định, trên đó
diễn ra những q trình trao đổi, mua bán hàng hố.
Theo định nghĩa này thì thị trường vừa có tính khơng gian lại vừa có tính thời
gian, nó là các địa dư, các chợ, các khu vực tiêu thụ hàng hoá.
Nhưng quan điểm về thị trường khơng dừng lại ở đó. Do sản xuất hàng hoá
ngày càng phát triển, số lượng và chất lượng sản phẩm hàng hoá ngày càng phong
phú và đa dạng, thị trường cũng càng mở rộng, khái niệm thị trường được hiểu đầy
đủ hơn: thị trường là lĩnh vực trao đổi hàng hố thơng qua tiền tệ làm môi giới ở
đây người mua và người bán thoả thuận với nhau để xác định giá cả và số lượng
hàng hố lưu thơng trên thị trường.

(2)

SĐD - Trang 51
10


Còn ngày nay các nhà kinh tế học thống nhất với nhau đưa ra khái niệm về thị
trường như sau: thị trường là một q trình mà trong đó người bán và người mua
tác động qua lại với nhau để xác định giá cả và sản lượng.

2.1.2. Phân loại thị trường.
a. Nếu phân loại theo đối tượng trao đổi mua bán ở trên thị trường thì có 2 loại:
Thứ nhất, thị trường các yếu tố sản xuất hay thị trường “đầu vào”: là nơi mua
bán các yếu tố sản xuất như: sức lao động, tư liệu sản xuất, vốn và các điều kiện
vật chất khác để thực hiện hoạt động sản xuất và kinh doanh.
Thứ hai, thị trường hàng tiêu dùng, dịch vụ hay thị trường “đầu ra”: là nơi
mua bán các hàng hoá tiêu dùng cuối cùng và dịch vụ.
b. Nếu phân loại theo chủ thể mua bán trao đổi ở trên thị trường thì cũng được
chia ra làm 2 loại:
Thứ nhất, thị trường trong nước: là thị trường mà ở đó diễn ra việc mua bán
trao đổi hàng hoá giữa các chủ thể kinh tế và người tiêu dùng trong nước.
Thứ hai, thị trường nước ngoài: là thị trường mà ở đó diễn ra các hoạt động
mua bán trao đổi hàng hoá giữa nước này và nước khác.
2.1.3. Vai trò của thị trường trong việc phát triển nền kinh tế hàng hố.
Thị trường đóng một vai trị hết sức quan trọng trong tiến trình phát triển nền
kinh tế hàng hố, nó được thể hiện như sau:
Thứ nhất, thị trường là điều kiện và môi trường của sản xuất hàng hố, thơng
qua thị trường các chủ thể kinh tế mua bán các yếu tố, điều kiện của sản xuất, tiêu
thụ sản phẩm, mua được hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ. Điều đó đảm bảo cho q
trình tái sản xuất được tiến hành bình thường thơng suốt. Vì vậy, khơng có thị
trường thì sản xuất và trao đổi hàng hố khơng thể tiến hành được.
Thứ hai, thị trường là trung tâm của mọi quá trình tái sản xuất hàng hoá. Bài
toán chung, cơ bản của sản xuất xã hội là sản xuất cái gì, số lượng bao nhiêu, sản
xuất bằng phương pháp nào và bán cho ai đều phải thông qua thị trường. Thị
trường cũng là nơi kiểm tra chủng loại, số lượng và giám định chất lượng của hàng
hố. Thị trường là nơi kiểm nghiệm tính phù hợp của sản xuất với tiêu dùng xã hội.
Đó là nơi cuối cùng để chuyển giao lao động cá biệt thành lao động xã hội, chi phí
cá biệt có được xã hội thừa nhận hay không sẽ quyết định sự thành hay bại của các
doanh nghiệp. Như vậy thị trường có vai trò điều tiết sản xuất và kinh doanh. Căn
cứ vào thị trường mà các doanh nghiệp có thể lựa chọn cho mình một phương án

sản xuất kinh doanh cho nó phù hợp, thúc đẩy các hoạt động này ngày càng năng
động, sáng tạo, đạt hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn.
Thứ ba, thị trường đồng nghĩa với việc tự do kinh tế, tự do xác định giá cả, tự
do trao đổi. Có nghĩa là ở trên thị trường các chủ thể kinh tế cũng như người tiêu
dùng được tự do lựa chọn, tự do thoả thuận giá cả, tự do trao đổi mua bán mặt
hàng mà mình có nhu cầu phục vụ cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Do vậy

11


quan hệ giữa các chủ thể kinh tế là quan hệ bình đẳng, thuận mua vừa bán, cho nên
địi hỏi ở các doanh nghiệp tính năng động sáng tạo trong sản xuất kinh doanh,
thúc đẩy cải tiến, phát huy sáng kiến. Điều đó góp phần thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển nhanh chóng.
Thứ tư, thị trường thực hiện chức năng phân phối của quá trình tái sản xuất.
Bởi lẽ thơng qua việc mua bán hàng hố ở trên các thị trường hàng hoá yếu tố sản
xuất và hàng hoá tiêu dùng, dịch vụ, lấy tiền tệ làm môi giới làm cho các chủ thể
kinh tế có được thu nhập. Lượng thu nhập của các chủ thể nhiều hay ít thể hiện sự
phân phối có lợi cho ai.
Thứ năm, trước xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế diễn ra mạnh mẽ, thị
trường trong nước có mối liên hệ chặt chẽ với thị trường ngồi nước thơng qua
hoạt động ngoại thương. Sự phát triển mạnh mẽ của ngoại thương sẽ đảm bảo mở
rộng thị trường các yếu tố đầu vào, đầu ra của thị trường trong nước đảm bảo sự
cân bằng giữa hai thị trường đó, góp phần tạo điều kiện cho sản xuất hàng hoá phát
triển.
2.2. Cạnh tranh.
Ở trên thị trường các hoạt động trao đổi mua bán hàng hố diễn ra hết sức sơi
động và nhộn nhịp, thoạt nhìn chúng ta cứ nhầm tưởng rằng hoạt động đó diễn ra
một cách lộn xộn, khơng theo một qui luật nào, nhưng khi chúng ta đi vào tìm hiểu
nó, tham gia vào nó thì chúng ta mới biết được rằng tuy hoạt động đó diễn ra hết

sức sơi động, nhưng khơng phải nó diễn ra một cách lộn xộn, khơng theo 1 qui luật
nào mà nó được điều tiết bởi các qui luật của kinh tế nhất định hay cịn gọi là “bàn
tay vơ hình”. Mặt khác trong lĩnh vực sản xuất khi những chủ thể sản xuất ra cái
gì, sản xuất như thế nào cũng đều tuân theo những qui luật kinh tế vốn có của nó
khơng thể diễn ra một cách bừa bãi được. Chính vì vậy các qui luật kinh tế đóng
vai trị hết sức quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế.
Cạnh tranh là tất yếu của kinh tế thị trường, khơng có cạnh tranh thì sẽ khơng
thể có kinh tế thị trường. Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của nền kinh
tế thị trường. Ngày nay hầu như tất cả các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận
cạnh tranh và coi cạnh tranh không những là động lực của sự phát triển mà còn là
yếu tố quan trọng trong việc làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội. Trong nền
kinh tế thị trường nếu lợi nhuận thúc đẩy các cá nhân hoạt động sản xuất kinh
doanh thì cạnh tranh lại buộc họ, thúc đẩy họ phải điều hành các hoạt động sản
xuất kinh doanh một cách có hiệu quả nhất. Như vậy cạnh tranh là gì? Cạnh tranh
là sự ganh đua, là sự kình địch giữa các chủ thể kinh doanh trên thị trường nhằm
tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về
mình. Xét trên nhiều góc độ chúng ta sẽ có những mức độ cạnh tranh khác nhau.
Nhưng đứng trên góc độ thực chứng chúng ta có ba mức độ cạnh tranh đó là: cạnh
tranh hồn hảo, cạnh tranh khơng hồn hảo và độc quyền.
Cạnh tranh hoàn hảo hay là cạnh tranh thuần tuý nó có lợi cho nền kinh tế nó
thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh.

12


Cạnh tranh khơng hồn hảo và độc quyền khơng có lợi cho nền kinh tế, nó
kìm hãm sự phát triển nền kinh tế.
3.

Cơ chế thị trường - Qui luật cung cầu - Giá cả thị trường - Qui luật giá trị.


3.1. Khái niệm cơ chế thị trường.
“Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế hàng hoá do sự tác
động của các qui luật kinh tế vốn có của nó, cơ chế đó giải quyết ba vấn đề cơ bản
của tổ chức kinh tế là cái gì, như thế nào và cho ai. Cơ chế thị trường bao gồm các
nhân tố cơ bản là cung, cầu và giá cả thị trường” (1)
3.2. Thực chất của cơ chế thị trường - vai trị của nó đối với nền kinh tế
hàng hố.
Cơ chế thị trường khơng phải là một sự hỗn độn mà là một trật tự kinh tế, là bộ
máy tinh vi phối hợp một cách khơng có ý thức hoạt động của người tiêu dùng với
các nhà sản xuất thông qua hệ thống giá cả thị trường. Khơng ai tạo ra nó, nó tự phát
sinh và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất hàng hoá. Lợi nhuận
là động lực cơ bản của sự vận động của nền kinh tế hàng hoá, là động lực thúc đẩy
sự điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Hoạt động của cơ chế
thị trường rất phức tạp, quan sát thị trường chúng ta thấy có 2 nhóm người, người
mua hàng hoá và dịch vụ, và người bán hàng hoá và dịch vụ. Sự tác động qua lại
giữa người mua và người bán tạo thành một hệ thống gọi là hệ thống thị trường. Giá
cả thị trường phản ánh tương quan cung và cầu. Sự tăng hoặc giảm giá cả thị trường
sẽ có ảnh hưởng tới hành vi thái độ mua bán của người mua và người bán. Nếu cầu
của hàng hố nào đó lớn hơn cung, thì giá cả hàng hố đó sẽ tăng lên để điều chỉnh
cung và cầu đồng thời kích thích những người sản xuất loại hàng hố đó mở rộng
sản xuất, do đó tăng cung. Ngược lại, nếu cung về 1 loại hàng hoá nào đó mà lớn
hơn cầu thì giá cả của hàng hố đó sẽ giảm, do đó giảm bớt lượng cung. Cân bằng
cung cầu sẽ được thiết lập. Mặt khác, do giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị
hàng hố cho nên giá cả thị trường được hình thành và vận động theo qui luật giá trị:
giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá trị thị trường của hàng hố, nghĩa là sự
hình thành giá cả thị trường phải dựa trên cơ sở giá trị thị trường.
Như vậy, có thể nói giá cả thị trường là “Bàn tay vơ hình” điều tiết q trình
tái sản xuất xã hội. Qua thực tiễn cho thấy giá cả là một phạm trù kinh tế tổng hợp,
nó biểu hiện mối quan hệ kinh tế như cung - cầu hàng hố, tích luỹ, tiêu dùng,

quan hệ lợi ích kinh tế giữa các ngành, tầng lớp trong xã hội. Giá cả thị trường còn
là tiền đề quan trọng để các doanh nghiệp lựa chọn phương hướng kinh doanh.
Việc nhận biết đầy đủ các qui luật hay cơ chế vận động của giá cả thị trường là một
điều rất khó song hết sức cần thiết cho sự điều hành, quản lý kinh tế của Nhà nước
cũng như sự hoạt động của các doanh nghiệp.

(1)

Kinh tế Chính trị Mác - Lênin - Trường ĐH KTQD - NXB Giáo dục 1998 - Tập II, Trang 142-143
13


Sự tồn tại và phát triển của cơ chế thị trường là yêu cầu khách quan đối với
những xã hội cịn tồn tại nền kinh tế hàng hố. Coi nhẹ hoặc bỏ qua vai trò của
kinh tế thị trường là một trong những nguyên nhân thất bại trên lĩnh vực kinh tế.
Trong lịch sử cơ chế thị trường có được không gian rộng lớn ở giai đoạn cạnh
tranh tự do tư bản chủ nghĩa. Vì vậy tác động của cơ chế thị trường được phtá hiện
khá sớm. Cơ chế thị trường được coi là “Bàn tay vơ hình” có tác động điều tiết sự
vận động của nền kinh tế hàng hoá.
3.3. Qui luật cung cầu - giá cả thị trường.
Qui luật cung cầu là qui luật cơ bản nhất điều tiết thị trường, bất cứ một chủ
thể sản xuất kinh doanh nào khi quyết định sản xuất ra sản phẩm gì, kinh doanh
hàng hố nào thì đều phải căn cứ vào cung và cầu ở trên thị trường, khi mà cung về
hàng hố nào đó trên thị trường thấp, cầu lại lớn thì chủ thể sản xuất loại hàng hố
đó sẽ mở rộng qui mơ sản xuất loại hàng hố đó để đáp ứng nhu cầu của thị trường
đồng thời thu được nhiều lợi nhuận và ngược lại khi cung cao, cầu thấp thì sẽ thu
hẹp qui mơ sản xuất. Như vậy qui luật cung cầu sẽ điều tiết qui mô sản xuất. Qui
luật cung cầu gắn liền với giá cả thị trường. Khi cung hàng hoá lớn, cầu hàng hố
nhỏ thì sẽ gây ra hiện tượng dư thừa hàng hồ mà cung thấp, cầuhàng hố cao thì
nó sẽ tạo ra sự khan hiếm hàng hoá trên thị trường và đẩy giá cả lên cao. Như vậy

giá cả hàng hoá cao hay thấp là phụ thuộc vào quan hệ cung cầu ở trên thị trường
chứ không phụ thuộc vào cơ sở sản xuất nào, xí nghiệp sản xuất nào khơng có bất
kỳ một xí nghiệp sản xuất nào có thể chi phối được giá cả sản phẩm của mình bởi
vì nếu xí nghiệp đó tự tăng giá bán lên thì khách hàng sẽ bỏ họ và họ không bán
được hàng hoá. Ngược lại, nếu họ hạ giá bán xuống dưới giá cả thị trường thì họ sẽ
mất đi số lợi nhuận. Số cung và số cầu hàng hoá được coi như hai lưỡi kéo, chúng
ln có một điểm giao nhau điểm đó gọi là điểm cân bằng của thị trường. Tại mức
giá đó thì số lượng hàng hố mà người sản xuất muốn cung ứng sẽ bằng với số
lượng hàng hoá mà người tiêu dùng muốn mua. Bất kỳ một mức giá nào khác thì
mức cân bằng sẽ khơng tồn tại lâu được. Bởi vì: với mức giá cao hơn thì số lượng
hàng hố mà người sản xuất cung ứng sẽ lớn hơn mức cầu mà người tiêu dùng
muốn mua và sẽ gây ra sức ép đòi giảm giá. Còn đối với mức giá thấp hơn sẽ gây
ra sự thiếu hụt hàng hố và sẽ tạo ra sức ép địi tăng giá từ phía người mua.
Như vậy qui luật cung cầu đóng vai trị hết sức quan trọng, nó giúp cho các
nhà doanh nghiệp hoạch định chiến lược sản xuất - kinh doanh của mình.
3.4. Qui luật giá trị.
Qui luật giá trị là qui luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hố
chừng nào cịn tồn tại sản xuất và trao đổi hàng hố thì chừng đó cịn tồn tại qui
luật giá trị.
u cầu của qui luật giá trị là sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ
sở lượng giá trị của hàng hoá hay thời gian lao động xã hội cần thiết. Trong sản
xuất hàng hoá để bán được hàng hoá của mình thì hao phí lao động cá biệt để sản
xuất ra hàng hố phải phù hợp với hao phí lao động xã hội cần thiết. Qui luật giá trị
14


là trừu tượng, nó thể hiện sự vận động thơng qua sự vận động của giá cả hàng hoá.
Giá cả hàng hoá là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị, giá cả phụ thuộc vào giá trị vì
giá trị là cơ sở của giá cả, nó được thể hiện thơng qua hàng hố. Nếu mà hao phí
lao động để sản xuất ra nó nhiều thì giá trị của nó lớn và do vậy giá cả thị trường sẽ

cao và ngược lại, ngoài ra sự ảnh hưởng của nhân tố khác sẽ làm cho giá cả hàng
hoá ở trên thị trường xoay quanh giá trị của nó, nhưng vẫn đảm bảo tổng giá trị
bằng tổng giá cả.
Qui luật giá trị có tác dụng rất lớn đến nền sản xuất hàng hoá, cụ thể:
Thứ nhất, qui luật giá trị điều tiết sản xuất và lưu thơng hàng hố: nó điều tiết
việc phân phối tư liệu sản xuất và sức lao động giữa các ngành sản xuất thông qua
sự biến động của giá cả hàng hoá. Giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá trị
của nó, cho nên nếu một ngành nào đó cung khơng đáp ứng được cầu, giá cả hàng
hố lên cao thì người sản xuất sẽ đổ xơ vào đó làm cho khối lượng tư liệu sản xuất
và lao động của ngành đó tăng lên và ngược lại khi ngành đó thu hút quá nhiều lao
động xã hội, cung vượt q cầu, giá cả hàng hố thấp thì người sản xuất sẽ phải
chuyển bớt tư liệu sản xuất và lao động ra khỏi ngành này và đầu tư vào ngành
khác có giá cả hàng hố cao.
Thứ hai, kích thích lực lượng sản xuất phát triển. Để hàng hố của mình đứng
vững và cạnh tranh được ở trên thị trường thì mỗi người sản xuất phải tìm mọi
cách để giảm bớt đến mức tối thiểu hao phí lao động cá biệt, muốn vậy họ phải
ln ln khơng ngừng tìm cách cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, điều đó
sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh.
Thứ ba, thực hiện bình tuyển tự nhiên và phân hoá người sản xuất thành kẻ
giàu người nghèo. Người nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động
xã hội cần thiết thì người đó sẽ thu được nhiều lợi nhuận, họ sẽ mở rộng qui mơ
sản xuất và ngày trở lên giàu có hơn. Cịn người nào mà sản xuất với hao phí lao
động cá biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội cần thiết thì sẽ bị thua lỗ, thua lỗ kéo
dài sẽ dẫn đến bờ vực của sự phá sản họ sẽ trở thành người làm thuê.
3.5. Ưu điểm và hạn chế của cơ chế thị trường.
3.5.1. Ưu điểm của cơ chế thị trường.
Thứ nhất, năng động và có khả năng thích nghi nhanh chóng với những biến
động của nền kinh tế bởi vì cơ chế thị trường có khả năng tự động điều tiết nền sản
xuất xã hội, tự động phân bổ các nguồn tài nguyên sản xuất vào những khu vực,
các ngành kinh tế mà không cần bất cứ một sự điều khiển từ trung tâm nào chính vì

vậy mà khi có sự biến động xảy ra trong nền kinh tế thì cơ chế thị trường trực tiếp
nhanh chóng tự điều tiết để phù hợp với tình hình mới mà không cần chờ quyết
định hay sự điều khiển từ một trung tâm nào cả.
Thứ hai, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho mọi thành viên trong xã
hội, cơ chế thị trường tự động kích thích sự phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế
cả theo chiều rộng lẫn chiều sâu, vì thế qui mơ sản xuất ngày càng được mở rộng,
chất lượng sản phẩm ngày càng tốt hơn, thị trường hàng hoá rất phong phú và đa
15


dạng, nhờ đó nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thoả mãn ngày càng tốt hơn những
nhu cầu vật chất, văn hố và sự phát triển tồn diện của mọi thành viên trong xã hội.
Thứ ba, thúc đẩy, kích thích đổi mới và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất. Cạnh tranh và lợi nhuận buộc người sản xuất phải giảm hao phí lao
động cá biệt xuống mức thấp nhất, có thể được bằng cách áp dụng khoa học - kỹ
thuật mới vào sản xuất, nhờ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao
năng suất lao động, nâng cao số lượng và chất lượng của hàng hoá.
3.5.2. Hạn chế (khuyết tật) của cơ chế thị trường.
Thứ nhất, diễn ra sự phân hoá xã hội sâu sắc thành kẻ giàu người nghèo, do
trong cơ chế thị trường diễn ra sự cạnh tranh mà đã cạnh tranh thì phải có người
thắng người thua, người nào mà thắng giành được ưu thế trên thị trường thì họ
ngày càng mở rộng qui mô sản xuất ngày càng thu được nhiều lợi nhuận và họ trở
thành những người giàu cịn ngược lại người nào thua thì sản xuất ngày càng thua
lỗ dẫn đến phá sản và trở thành người đi làm thuê. Hay nói một cách khác đi là cơ
chế thị trường có sự bình tuyển tự nhiên nhưng cái bình tuyển tự nhiên đó nhiều
khi đã phân hoá xã hội ngày càng sâu sắc thành hai cực: một cực là người giàu,
một cực là những người nghèo, làm cho hố ngăn cách giàu nghèo ngày càng trở lên
sâu hơn, rộng hơn gây tâm lý bất bình trong xã hội, nhất là trong xã hội XHCN.
Hai là, thường xuyên mất ổn định, lạm phát và thất nghiệp: cơ chế thị trường
có thể gây ra những mất ổn định và thường xuyên phá vỡ các mất cân đối trong nền

sản xuất xã hội. Hậu quả tiêu cực của sự vận động và phát triển của nó thường đi
liền với những vấn đề nan giải. Thực tế phát triển nền kinh tế thị trường trong mấy
thập kỷ qua chỉ rõ vấn đề lạm phát, thất nghiệp và chu kỳ kinh doanh luôn là những
căn bệnh kinh niên không thể nào khắc phục được nếu khơng có sự can thiệp của
Nhà nước.
Ba là, Gây ô nhiễm môi trường sinh thái, gây ra các tệ nạn xã hội. Mục đích
hoạt động của các doanh nghiệp là làm thế nào để thu được lợi nhuận tối đa, chính
vì vậy họ có thể bất chấp, lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường
sống của con người mà xã hội phải gánh chịu. Do đó hiệu quả kinh tế khơng được
đảm bảo. Có những mục tiêu xã hội mà cơ chế thị trường dù có hoạt động tốt cũng
khơng thể đạt được. Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến nhiều tiêu cực xã
hội, nhiều tệ nạn xã hội ảnh hưởng xấu đến đạo đức và tính người. Họ đã vì lợi
nhuận mà làm lu mờ đi những luân thường đạo lý làm người, những truyền thống
văn hoá lâu đời.
Như vậy, cơ chế thị trường có khả năng tập hợp tự động được hành động, trí
tuệ và tiềm lực của hàng triệu con người và hướng đến lợi ích chung của tồn xã
hội đó là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tăng năng xuất lao động và tăng hiệu quả sản
xuất. Nhưng đó khơng phải là một hệ thống được tổ chức hài hồ mà trong hệ
thống đó cũng chứa đựng rất nhiều các yếu tố phức tạp và nan giải cần được giải
quyết. Để giải quyết nó thì cần có sự can thiệp của Nhà nước.

16


4.

Quan điểm của Lênin về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Lênin là người kế thừa bảo vệ và phát triển học thuyết về nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa của C.Mác và Ăngghen. Lênin cho rằng:

Thứ nhất, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa phải được xây dựng theo kiểu sản xuất
hàng hố. Nó phải vận động theo các qui luật của nền kinh tế hàng hoá, theo các
qui luật của kinh tế thị trường, phải xây dựng, vận dụng và phát huy tốt quan hệ
hàng tiền, các phạm trù của sản xuất hàng hoá để thực hiện mục đích phát triển của
chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa phải được xây dựng trên cơ sở xác định
được nền tảng của chủ nghĩa xã hội. Lênin đã khẳng định rằng mục đích của nền sản
xuất xã hội XHCN là thoả mãn phúc lợi vật chất đầy đủ cho toàn xã hội và sự phát
triển tự do, toàn diện của mỗi thành viên của nó chứ khơng phải như chủ nghĩa tư
bản với mục đích là lợi nhuận là giá trị thặng dư. Muốn vậy cần phải phát triển toàn
diện lực lượng sản xuất, mở rộng và hoàn thiện nền sản xuất xã hội trên cơ sở thành
tựu khoa học kỹ thuật mới. Ở đây, Lênin đặc biệt chú ý đến năng suất lao động trong
sự phát triển chủ nghĩa xã hội. Theo Lênin suy cho cùng thì năng suất lao động là cái
quan trọng nhất quyết định cho sự thắng lợi của xã hội mới. Để nâng cao năng suất
lao động, kiểm tra mức cống hiến, mức hưởng thụ của người lao động, đảm bảo lợi
nhuận cho các doanh nghiệp nhằm tạo tích luỹ cần thiết để phát triển kinh tế. Lênin
chỉ ra là cần phải thực hiện nghiêm ngặt chế độ hạch toán kinh tế.
Thứ ba, Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải đóng vai trị kinh tế đặc biệt. Trong
điều kiện chủ nghĩa xã hội, Nhà nước khơng cịn là bộ máy ăn bám đứng trên q
trình sản xuất. Nó phải chuyển sang tổ chức thực hiện các chức năng quản lý nền
kinh tế quốc dân. Chức năng này gắn liền với q trình hạch tốn kinh doanh,
thống nhất, quản lý sản xuất và phân phối sản phẩm.
Thứ tư, nguyên tắc phân phối vật phẩm tiêu dùng cá nhân trong chủ nghĩa xã
hội là phân phối theo lao động và coi đó là nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa xã hội.
Lênin đã đưa ra hai nguyên tắc phân phối là:
1. Người nào khơng làm thì khơng có ăn. Theo Lênin thì đây là cơ sở tồn tại
của chủ nghĩa xã hội, sức mạnh bảo đảm cho sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
2. Với số lượng lao động ngang nhau thì hưởng số lượng sản phẩm ngang nhau.
Lênin đã chỉ ra hình thức phân phối theo lao động trong doanh nghiệp Nhà
nước là tiền lương, các nguyên tắc cơ bản tổ chức tiền lương, các hình thức, các

yếu tố ảnh hưởng tới tiền lương,... Đặc biệt, Lênin phê phán tư tưởng bình qn
trong phân phối. Ơng chỉ ra sự khác nhau giữa bình đẳng và bình qn. Theo ơng,
dưới chủ nghĩa xã hội bình đẳng là giải phóng cho con người thốt khỏi sự bóc lột.
Mọi người phải làm việc theo khả năng lao động của mình và hưởng thụ theo lao
động của mình. Ngược lại, bình quân là sự xan bằng thu nhập của những người lao
động khác nhau. Điều này dẫn đến người làm tốt có thu nhập bằng người làm xấu,
người siêng năng có thu nhập bằng người lười biếng, người có trình độ chun
mơn cao có thu nhập bằng người lao động giản đơn.
17


Quan điểm này được thể hiện rõ nét trong nội dung và biện pháp chủ yếu của
chính sách kinh tế mới (NEP) đó là:
Thay thế chính sách trưng thu lương thực bằng chính sách thuế lương thực.
Theo chính sách này thì người nơng dân chỉ nộp thuế lương thực với một mức cố
định trong nhiều năm.
Tổ chức thị trường, thương nghiệp, thiết lập quan hệ hàng hoá, tiền tệ giữa Nhà
nước và nông thôn, giữa thành thị và nông thôn, giữa nông nghiệp và công nghiệp.
Sử dụng sức mạnh kinh tế nhiều thành phần, các hình thức quá độ như
khuyến khích phát triển sản xuất, củng cố lại các doanh nghiệp Nhà nước, chuyển
sang chế độ hạch toán kinh tế. Đồng thời Lênin chủ trương phát triển mạnh mẽ
quan hệ hợp tác kinh tế với các nước tư bản phương Tây để tranh thủ kỹ thuật, vốn
và khuyến khích kinh tế phát triển.

B - VẬN DỤNG LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM ĐỂ XÂY DỰNG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN
I.

TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ

TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở NƯỚC TA.

1.

Thực trạng nền kinh tế nước ta khi phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN.

Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường thì nước ta đứng trước một thực trạng
khơng mấy sáng sủa, mặc dù chúng ta đã có sản xuất hàng hoá nhưng chưa phải là
sản xuất hàng hoá theo đúng cái nghĩa của nó. Sở dĩ như vậy là do nhiều nguyên
nhân khác nhau tác động đến, trước hết là do đất nước ta vừa phải trải qua một
cuộc chiến tranh lâu dài, nó đã để lại những hậu quả rất lớn cho nền kinh tế, hơn
nữa tư tưởng kinh tế của chúng ta vẫn còn chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng
kinh tế tự cung tự cấp, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội là rất thấp, một nguyên nhân mang tính
khách quan nữa là do phân công lao động xã hội của nước ta còn thấp chưa đáp
ứng được xu thế của sự phát triển. Từ đó ta có thể nói rằng thực trạng nền kinh tế
nước ta khi chuyển sang kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá kém phát triển,
cịn mang nặng tính tự cung tự cấp và chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp. Thực trạng đó được biểu hiện ở những mặt dưới đây:
Thứ nhất, là cơ sở vật chất kỹ thuật và cơng nghệ sản xuất cịn thấp kém, kết
cấu hạ tầng phục vụ sản xuất chưa đầy đủ. Một mặt đó là do hậu quả của hai cuộc
chiến tranh để lại, mặt khác là do nước ta chưa thực sự mở rộng giao lưu với các
nước trên thế giới, chưa học hỏi được trình độ kỹ thuật tiên tiến của thế giới, chưa
thu hút đầu tư của nước ngoài vào nước ta.
18


Thứ hai, là cơ cấu kinh tế còn mất cân đối và kém hiệu quả, chứng tỏ một điều
là chúng ta chưa tôn trọng và vận dụng những qui luật khách quan, tư tưởng kinh tế

vẫn còn chủ quan duy ý trí. Cụ thể cơ cấu kinh tế cịn mất cân đối nghiêm trọng giữa
công nghiệp và nông nghiệp, nông nghiệp vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong nền
kinh tế, hiện tượng độc canh cây lúa còn khá phổ biến, cây cơng nghiệp có giá trị
cao chưa có cơ hội phát triển, đồng thời các ngành nghề chưa phát triển chính vì thế
có thể nói cơ cấu kinh tế của nước ta còn mang nặng đặc trưng của một cơ cấu kinh
tế nông nghiệp. Tuy từ Đại hội VI của Đảng đến nay Đảng và Nhà nước ta đã có chủ
trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đã đạt được một số thành quả đáng khích lệ
nhưng chúng ta vẫn chưa hình thành được một cơ cấu kinh tế hợp lý và có hiệu quả.
Thứ ba, là chưa hình thành được thị trường theo đúng nghĩa của nó, ở nước ta
thị trường cịn mang tính sơ khai, hoang sơ, các quan hệ tiền tệ, hàng hố chưa
hình thành một cách rõ nét, chúng ta chưa có thị trường sức lao động, thị trường
tiền tệ, thị trường vốn hoặc chỉ mới có các thị trường này ở khu kinh tế ngoài quốc
doanh. Trong khu vực kinh tế Nhà nước về cơ bản vẫn còn sử dụng chế độ lao
động theo biên chế, vẫn sử dụng lãi suất, tỷ giá và quan hệ tài chính tiền tệ do Nhà
nước qui định chưa có tỷ giá, lãi suất và tín dụng thực sự theo cơ chế thị trường.
Thứ tư, là năng suất lao động xã hội và thu nhập quốc dân tính theo đầu người
còn thấp, đời sống của nhân dân còn khó khăn.
Thực trạng nền kinh tế hàng hố cịn manh mún, nhỏ lẻ, kém phát triển đựoc
biểu hiện ra bên ngoài ở năng suất lao động xã hội thấp, ở đời sống nhân dân
không được cải thiện là bao, so với các nước Đơng Nam Á thì thu nhập bình quân
tính theo đầu người của nước ta vào dạng thấp.
Thứ năm, là do nhận thức chưa đầy đủ về nền kinh tế thị trường kết hợp với tư
tưởng chủ quan duy ý chí về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa hơn nữa một quan niệm
đã được hình thành và tồn tại rất lâu từ trước đến nay trong lý luận về chủ nghĩa xã
hội là cho rằng kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội, không thể dung hợp với
nhau được như lời của GS - PTS Lê Hữu Nghĩa đã diễn đạt: “Nếu kết hợp chúng sẽ
làm một cuộc “ép dun” mà đã “ép dun” thì khơng thể chung sống hạnh phúc
được”(1). Tất cả những tư tưởng những quan điểm trên đã kìm hãm sự phát triển
của sản xuất hàng hoá ở nước ta, từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN. Tại Đại hội lần thứ VI Đảng ta đã thừa nhận: “Chúng ta đã có

những thành kiến khơng đúng, trên thực tế chưa thực sự thừa nhận những qui luật
của sản xuất hàng hố đang tồn tại khách quan do đó, khơng chú ý vận dụng chúng
vào việc chế định các chủ trương chính sách kinh tế. Trong nhận thức cũng như
trong hành động chúng ta chưa thực sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và vận
dụng đúng qui luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất”.
GS-PTS Lê Hữu Nghĩa - Về kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta - Tạp chí Nghiên cứu lý luận số
9, Trang 28 - 1999
(1)

19


Mặt khác, do hạn chế của cơ chế cũ, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã dẫn
đến kinh tế nước ta khơng thể phát triển được và có nguy cơ tụt hậu so với xu
hướng phát triển của nhân loại.
2.

Xu hướng chung của nền kinh tế thế giới.

Thứ nhất, các quốc gia tồn tại nền kinh tế thị trường có xu hướng đa dạng về
mục đích. Do mỗi nước có hồn cảnh lịch sử, có điều kiện tự nhiên - kinh tế chính trị xã hội khác nhau, có trình độ lực lượng sản xuất khác nhau nên mục tiêu
đạt được của mỗi nước khác nhau, nhưng nhìn chung mục tiêu chung, cuối cùng
mà tất cả các nước đề ra là đưa nền kinh tế đạt được ở mức độ tăng trưởng cao và
ổn định, giải quyết các vấn đề về xã hội, về con người, về chất lượng cuộc sống.
Đối với các nước có trình độ phát triển thì mục tiêu của họ đề ra là làm thế nào để
có mức tăng trưởng kinh tế cao và ổn định. Để đạt được mục đích đó thì một mặt
họ phải phát triển tự do cá nhân, mặt khác họ có điều kiện quan tâm đến vấn đề
cơng bằng xã hội và bảo vệ mơi trường sinh thái. Cịn đối với các quốc gia phát

triển thì ngồi vấn đề tăng trưởng cao và ổn định thì họ cịn quan tâm đến mục tiêu
khác như nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Ở đây họ mong muốn xây
dựng một mơ hình xã hội có dạng hình cầu mà đỉnh và đáy là những người nghèo
chiếm số lượng ít còn ở giữa là tầng lớp trung lưu chiếm số lượng lớn. Đây là mơ
hình hấp dẫn khơng những cho các quốc gia phát triển và cho cả những quốc gia
đang phát triển.
Thứ hai, vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ngày càng
được tăng cường. Như chúng ta đã biết rằng cơ chế thị trường ngồi những ưu
điểm ra nó cịn có khơng ít những hạn chế, đó là mặt trái của nền kinh tế thị
trường, để hạn chế những tiêu cực, phát huy mặt tích cực của nền kinh tế thị trường
thì buộc Nhà nước phải can thiệp vào nền kinh tế thị trường, điều tiết nó ở tầm vĩ
mơ. Cuộc đại suy thoái năm 1929-1933 đã là một thực tế hùng hồn khẳng định
rằng vai trò điều tiết nền kinh tế của Nhà nước là không thể thiếu được. Hầu hết
các nhà kinh tế hiện nay đều nhất trí rằng muốn khắc phục những nhược điểm của
nền kinh tế thị trường, Nhà nước phải can thiệp sâu hơn vào nền kinh tế thị trường.
Thiếu vai trò kinh tế của Nhà nước nền kinh tế thị trường khơng thể nào phát triển
bình thường được. Trong nền kinh tế thị trường tự do thì sự can thiệp của Nhà
nước vào nền kinh tế ở mức rất thấp. Nhà nước chỉ đóng vai trị canh gác, bảo vệ
trật tự xã hội nhằm tạo ra môi trường an ninh trật tự cần thiết để các nhà kinh
doanh yên tâm kinh doanh sản xuất, cho nên Nhà nước hầu như khơng gây ra ảnh
hưởng gì trong việc giải quyết những vấn đề kinh tế cơ bản. Còn trong nền kinh tế
chỉ huy Nhà nước lại can thiệp quá sâu vào nền kinh tế, thực hiện quản lý toàn bộ
nền kinh tế quốc dân ở cả tầm vĩ mơ và vi mơ, do đó làm cho các hoạt động kinh tế
hoạt động bị sai lệch cạnh tranh bị thủ tiêu, động lực phát triển kinh tế mất dần.
Chính vì vậy nền kinh tế kế hoạch hố kéo dài thường dẫn đến kém hiệu quả.
Trong nền kinh tế hỗn hợp thì mức độ can thiệp của Nhà nước là vừa phải. Tuy
nhiên ở những quốc gia khác nhau, ở những giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau,

20



liều lượng và biện pháp can thiệp của Nhà nước cũng khác nhau nhằm phát huy
những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.
Thứ ba, xu hướng chuyển đổi cơ chế kinh tế của các nước trên thế giới.
Nếu như sau cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã thúc đẩy tất cả các quốc
gia tư bản chuyển từ nền kinh tế thị trường tự do sang nền kinh tế hỗn hợp thì
trong những năm cuối của thập kỷ 80 cuộc khủng hoảng của các nước thực hiện
nền kinh tế tập trung đã buộc các nước này chuyển từ nền kinh tế tập trung sang
nền kinh tế thị trường.
Như vậy, hầu như tất cả các nước trên thế giới kể cả các nước chủ nghĩa tư
bản, kể cả các nước xã hội chủ nghĩa đều có xu hướng chuyển sang nền kinh tế thị
trường mà ở đó vai trị kinh tế của Nhà nước có một tầm quan trọng mới. Sự
chuyển đổi này diễn ra hết sức mạnh mẽ.
3.

Sự cần thiết phải phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta.

Từ thực trạng của nền kinh tế và xu thết chuyển đổi một cách nhanh chóng
của nền kinh tế thế giới ta có thể khẳng định rằng nước ta chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và có
sự quản lý của Nhà nước là một việc hết sức cần thiết và cấp bách, nếu chúng ta
không chuyển đổi một cách khẩn chương thì khơng những chúng ta khơng theo
được xu thế phát triển như vũ bão của nền kinh tế thế giới mà chúng ta cịn có
nguy cơ tụt hậu. Chính vì sự cần thiết đó mà tại Đại hội VI của Đảng đã chủ
chương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và thực hiện chuyển đổi
cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế hạch toán kinh
doanh XHCN. Đảng ta đã đề ra: “Kiên quyết xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu,
bao cấp thiết lập và hình thành cơ chế kế hoạch hố theo phương thức hạch tốn
kinh doanh xã hội chủ nghĩa đóng ngun tắc tập trung dân chủ” (1)
Đến Đại hội VII Đảng ta đã xác định rõ việc đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta

là một tất yếu khách quan và trên thực tế đã diễn ra việc đó, tức là từ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Tại Đại hội VII Đảng đã khẳng định: “Phải tiếp tục
xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước” (2)
Đến Đại hội VIII Đảng và Nhà nước ta tiếp tục xác định việc phát triển kinh tế
thị trường có sự quản lý Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là đúng đắn, là
khách quan. Đảng ta đã đề ra phương hướng nhiệm vụ cho những năm tới là: “Xây
dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, đi đôi
với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (3)
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành TW khoá VI về đổi mới cơ chế quản
lý kinh tế - NXB Sự thật, Hà Nội 1987 - Trang 16-17
(2)
Đảng Cộng sản Việt Nam-Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII - NXB Sự thật, Hà Nội-1991Tr118
(3)
Đảng Cộng sản Việt Nam-Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII-NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội-1996Tr72
(1)

21


Đây là sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng
như trong thực tế lãnh đạo của Đảng trên lý luận trên mặt trận làm kinh tế. Xem
xét dưới góc độ khoa học thì việc chuyển đổi nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế
thị trường là hồn tồn đúng đắn. Nó vừa phù hợp với thực tế ở nước ta, nó vừa
phù hợp với qui luật khách quan và xu thế phát triển chung của thế giới. Cơ sở
khách quan của việc chuyển đổi nền kinh tế được thể hiện ở:
Thứ nhất, nếu không thay đổi cơ chế kinh tế vẫn giữ ngun cơ chế kinh tế cũ
thì khơng thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa muốn nói đến tích luỹ vốn
để mở rộng sản xuất. Thực tế những năm cuối của thập kỷ 80 đã chỉ rõ thực hiện

cơ chế kinh tế cũ cho dù chúng ta đã liên tục đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý
kinh tế, nhưng hiệu quả của nền sản xuất xã hội đạt mức rất thấp. Sản xuất không
đáp ứng nổi nhu cầu tiêu dùng của xã hội, tích luỹ hầu như khơng có đơi khi cịn
ăn lạm cả vào vốn vay của nước ngoài.
Thứ hai, do đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cức nhắc do đó nó chỉ có
tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn ngắn và chỉ có tác dụng phát
triển nền kinh tế theo chiều rộng. Nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại quá dài do
đó nó khơng những khơng cịn tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy sản xuất phát
triển mà nó cịn sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng suất, chất lượng
và hiệu quả sản xuất.
Thứ ba, xét về sự tồn tại thực tế ở nước ta những nhân tố của kinh tế thị
trường. Nhiều ý kiến cho rằng thị trường ở nước ta là thị trường mới hình thành
cịn non yếu và còn là thị trường sơ khai. Thực tế, kinh tế thị trường đã hình thành
và phát triển đạt được những mức phát triển khác nhau, nhưng thị trường ở nước ta
phát triển chưa đồng bộ còn thiếu hẳn thị trường các yếu tố sản xuất như: thị
trường sức lao động, thị trường vốn và thị trường đất đai và về cơ bản vẫn là thị
trường tự do, mức độ can thiệp của Nhà nước là rất thấp.
Thứ tư, xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang
hoà nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, sự giao lưu về hàng hoá, dịch vụ và
đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta gần
gũi hơn với tương quan giá cả hàng hoá quốc tế.
Thứ năm, xu hướng phát triển kinh tế của thế giới là sự phát triển kinh tế của
mỗi nước không thể tách dời sự phát triển và hoà nhập quốc tế, sự cạnh tranh giữa
các quốc gia đã thay đổi hẳn về chất khơng cịn là dân số đơng, khơng cịn là vũ
khí nhiều, qn đội mạnh mà là tiềm lực kinh tế. Mục đích của các chính sách của
các quốc gia là tạo ra nhiều của cải vật chất trong quốc gia của mình là tốc độ phát
triển kinh tế cao, đời sống nhân dân được cải thiện, thất nghiệp thấp. Tiềm lực kinh
tế đã trở thành thước đo chủ yếu, vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ
chủ yếu để bảo vệ uy tín và duy trì sức mạnh của các Đảng cầm quyền.
Như vậy, với điều kiện hoàn cảnh cụ thể của đất nước ta và trước đòi hỏi của

qui luật khách quan, của xu thế phát triển của thế giới, một lần nữa ta hồn tồn có
thể khẳng định rằng nước ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế

22


thị trường có sự quản lý của Nhà nước là hồn tồn đúng đắn, hồn tồn sáng suốt.
Chính vì vậy Đảng và Nhà nước và nhân dân ta đã và đang ra sức dồn tâm, dồn lực
để thực hiện ý tưởng đó.
II.

ĐẶC ĐIỂM CỦA NỀN KINH TẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA.

Trước hết nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở nước ta có những đặc
điểm chung của nền kinh tế thị trường của các nước trên thế giới đó là nền kinh tế
vận hành theo cơ chế thị trường tuân theo những qui luật nội tại của nó như: qui
luật cung cầu giá cả thị trường - qui luật cạnh tranh - qui luật giá trị, nền kinh tế có
sự điều tiết ở tầm vĩ mô của Nhà nước để khắc phục những hạn chế và phát huy
những mặt tích cực của nền kinh tế. Những bất cứ một nền kinh tế thị trường nào
cũng đều được ra đời và phát triển trong những điều kiện lịch sử khác nhau, trong
những hoàn cảnh kinh tế chính trị - xã hội - văn hố - tơn giáo khác nhau cho nên
nó bị chi phối bởi những điều kiện lịch sử và đặc biệt là chế độ xã hội của nước đó.
Do đó nền kinh tế thị trường của mỗi nước nó có những đặc trưng riêng biệt của
nước đó để phân biệt với các nền kinh tế thị trường của các nước khác. Trung
Quốc có nền kinh tế thị trường mang màu sắc riêng của Trung Quốc. Mỹ có nền
kinh tế thị trường mang màu sắc riêng của nước Mỹ. Nền kinh tế thị trường ở nước
ta khơng những nằm ngồi qui luật đó, chính vì vậy nền kinh tế thị trường của
nước ta có những đặc trưng riêng biệt của nước ta đó là:
1. Nền kinh tế thị trường nước ta dựa trên cơ sở đa dạng hố các loại hình sở
hữu trong đó sở hữu Nhà nước đóng vai trị chủ đạo. Từ đó tương ứng với các loại

hình sở hữu là các thành phần kinh tế trong đó kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ
đạo.
Trong nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay tồn tại năm loại hình sở hữu đó
là: sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu hỗn hợp, sở hữu tư nhân của những
người sản xuất nhỏ và sở hữu tư nhân tư bản. Trong đó sở hữu Nhà nước đóng vai
trị chủ đạo.
Tương ứng với năm loại hình sở hữu đó nước ta đã hình thành nên năm thành
phần kinh tế đó là: thành phần kinh tế Nhà nước tương ứng với sở hữu Nhà nước,
thành phần kinh tế hợp tác ứng với sở hữu tập thể, thành phần kinh tế tư bản Nhà
nước ứng với sở hữu hỗn hợp, thành phần kinh tế cá thể ứng với sở hữu tư nhân
của những người sản xuất nhỏ và thành phần kinh tế tư bản tư nhân ứng với sở hữu
tư bản tư nhân.
Trong năm thành phần kinh tế trên thì thành phần kinh tế Nhà nước đóng vai
trị chủ đạo. Việc xác định kinh tế Nhà nước đóng vai trị chủ đạo là sự khác biệt
có tính chất bản chất giữa kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở nước ta với nền
kinh tế thị trường ở những nước khác. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền
kinh tế thị trường ở nước ta đã qui định kinh tế Nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo
trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Bởi lẽ, mỗi một chế độ kinh tế xã hội đều
có một cơ sở kinh tế tương ứng với nó, kinh tế Nhà nước đã tạo ra cơ sở kinh tế
cho chế độ xã hội mới, chế độ xã hội chủ nghĩa. Việc vịn vào tình trạng kém hiệu
23


quả của kinh tế Nhà nước trong thời gian vừa qua nhằm phủ định vai trò chủ đạo
của kinh tế Nhà nước là sai lầm về lý luận. Vấn đề chủ yếu khơng phải là phủ định
vai trị chủ đạo của kinh tế Nhà nước mà là cơ cấu lại khu vực kinh tế Nhà nước và
đổi mới cơ bản cơ chế quản lý doanh nghiệp Nhà nước để chúng hoạt động có hiệu
quả.
2. Nền kinh tế thị trường ở nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa dựa trên cơ sở phân phối thu nhập theo lao động là chính.

Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta đã thực hiện nhiều hình thức phân phối
thu nhập: phân phối theo lao động, phân phối theo tài sản hay vốn và những đóng
góp khác và phân phối ngồi thù lao lao động thông qua các quĩ phúc lợi xã hội.
Trong đó phân phối theo lao động là chủ yếu thích hợp nhất với các thành
phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công hữu về tư liệu sản xuất. Trong các thành
phần kinh tế này tất cả mọi người đều có quyền bình đẳng đối với tư liệu sản xuất,
thì chỉ có thể thực hiện phân phối giữa những người lao động với nhau thông qua
việc lấy lao động làm thước đo. Đối với các thành phần kinh tế này thì phân phối
theo lao động là một tất yếu khách quan.
Mỗi chế độ xã hội có một chế độ phân phối tương ứng với nó. Chế độ phân
phối do quan hệ sản xuất thống trị trước hết là quan hệ sở hữu quyết định. Dưới
chủ nghĩa tư bản, phân phối theo nguyên tắc giá trị: đối với người lao động theo
giá trị sức lao động, còn đối với nhà tư bản thì theo giá trị của tư bản. Như vậy, thu
nhập của người lao động chỉ giới hạn ở giá trị sức lao động mà thôi. Chủ nghĩa xã
hội có những đặc trưng riêng về sở hữu, do đó chế độ phân phối cũng có đặc trưng
riêng. Đặc trưng của chủ nghĩa xã hội là phân phối theo lao động ở đó thu nhập của
người lao động không chỉ giới hạn ở giá trị sức lao động mà nó phải vượt qua đại
lượng đó, nó phụ thuộc chủ yếu vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta gồm nhiều
thành phần kinh tế. Vì vậy cần thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập. Có
như vậy mới khai thác được khả năng của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Huy
động được mọi nguồn lực của đất nước vào phát triển kinh tế.
3. Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Thành tố quan trọng mang tính chất quyết định trong nền kinh tế thị trường
hiện đại là Nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế. Những khác với Nhà nước
của nhiều nền kinh tế thị trường trên thế giới. Nhà nước ta là Nhà nước “của dân,
do dân và vì dân”, Nhà nước công nông, Nhà nước của đại đa số tầng lớp nhân dân
lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Nó có đủ bản lĩnh,
khả năng và đang tự đổi mới để đảm bảo giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa

trong việc phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại ở nước ta. Sự khác biệt về bản
chất Nhà nước là một nội dung, là một điều kiện và là một tiền đề cho sự khác biệt
về căn bản của mơ hình kinh tế thị trường ở nước ta so với nhiều mơ hình kinh tế
thị trường khác hiện có trên thế giới. Bởi lẽ, sự quản lý của Nhà nước đối với nền

24


kinh tế thị trường ở nước ta được thực hiện bằng pháp luật và các cơng cụ chính
sách vĩ mơ khác. Nhà nước ta sử dụng những cơng cụ đó để quản lý các hoạt động
kinh tế làm cho nền kinh tế “lành mạnh” hơn, giảm bớt những thăng trầm đột biến
xấu trên con đường phát triển của nó, khắc phục được tình trạng phân hố bất bình
đẳng, bảo vệ được tài nguyên môi trường của đất nước. Như vậy, sự vận hành của
nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước ở nước ta
là một sự vận động, điều tiết bởi sự thống nhất giữa cơ chế thị trường “Bàn tay vơ
hình” và sự quản lý của Nhà nước “Bàn tay hữu hình”.
4. Nền kinh tế nước ta phát triển theo hướng tăng trưởng kinh tế đồng thời với
việc đảm bảo công bằng xã hội.
Phát triển trong cân bằng được hiểu là những chính sách phát triển phải bảo
đảm sự cơng bằng xã hội, là tạo cho mọi tầng lớp nhân dân đều có cơ hội tham gia
vào q trình phát triển và được hưởng những thành quả xứng đáng với sức lực,
khả năng và trí tuệ của họ bỏ ra là giảm khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa
các tầng lớp dân cư và giữa các vùng.
Điểm khác với nhiều nước ta chúng ta phát triển kinh tế thị trường nhưng chủ
trương bảo đảm công bằng xã hội trong tất cả các giai đoạn phát triển của sự
nghiệp phát triển kinh tế ở nước ta. Tuy nhiên cũng cần khẳng định rằng, sự bảo
đảm công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hoàn toàn xa lạc và khác hẳn về bản chất với chủ nghĩa bình quân, cân
bằng thu nhập và “chia đều sự đói nghèo” cho mọi người. Mức độ công bằng xã
hội phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển, khả năng và sức mạnh kinh tế của quốc gia.

Vì vậy, nếu q nhấn mạnh tới cơng bằng xã hội trong điều kiện nền kinh tế còn
kém phát triển, ngân sách cịn eo hẹp thì chắc hẳn sẽ làm triệt tiêu động lực phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
5. Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế mở, hội nhập kinh tế thế giới và khu vực,
thị trường trong nước gắn với thị trường thế giới, thực hiện thông lệ trong quan hệ
quốc tế nhưng vẫn giữ được độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ được
lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Thực ra đây không phải là
đặc trưng riêng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà là xu hướng
chung của nền kinh tế thế giới hiện nay. ( Ở đây muốn nhấn mạnh sự khác biệt giữa
nền kinh tế đóng, khép kín trước đổi mới với nền kinh tế mở sau khi đã đổi mới).
Trong điều kiện hiện nay chỉ có mở cửa mới thu hút được vốn, công nghệ và kỹ
thuật hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến để khai thác tiềm năng và thế mạnh
của nước ta, thực hiện kinh tế thị trường theo kiểu rút ngắn, thực hiện mở cửa nền
kinh tế theo hướng đa phương hố và đa dạng hố các hình thức kinh tế đối ngoại,
hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm mà trong
nước sản xuất có hiệu quả.
6. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta sẽ xây dựng
là nền kinh tế thị trường hiện đại với tính chất xã hội hiện đại, sản xuất hàng hoá
lớn xã hội chủ nghĩa chứ không phải là kinh tế thị trường hiện đại tư bản chủ nghĩa
mà cũng không phải là nền kinh tế thị trường tự do.
25


×