Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TIỂU LUẬN tâm lý học học THUYẾT mác xít về CON NGƯỜI, HOẠT ĐỘNG, ý THỨC là cơ sở lý LUẬN – PHƯƠNG PHÁP LUẬN xây DỰNG và PHÁT TRIỂN nền tâm lý học ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.96 KB, 25 trang )

MỤC LỤC
Mở đầu:

3

Nội dung:

4

1. Sự khủng hoảng về phương pháp luận

4

của tâm lý học thế giới sau năm 1879.
2. Học thuyết Mác-xít về con người, về hoạt động,

9

ý thức của con người là cơ sở lý luận-phương pháp luận
xây dựng nền tâm lý học mác-xit.
2.1. Tính tất yếu ra đời của nền tâm lý học mác-xít.

9

2.2. Học thuyết mác-xít về con người, về hoạt động, ý thức.

12

3. Vận dụng trong xây dựng và phát triển nền

21



tâm lý học ở Việt Nam hiện nay.
Kết luận:

25

Danh mục tài liệu tham khảo

26


2

Trải qua quá trình lâu dài, Tâm lý học đã xây dựng cho mình hệ thống
các nguyên tắc phương pháp luận khoa học dựa trên cơ sở vững chắc của một
lý luận khoa học, cách mạng triệt để nhất đó là học thuyết Mác-Lênin, mà cụ
thể đó là lý luận của học thuyết mác-xít về vấn đề bản chất con người, về vấn
đề hoạt động, về ý thức con người.
Năm 1879 Tâm lý học ra đời ở Đức với tư cách là một khoa học độc lập
gắn liền với vai trị của W.Wundt khi ơng tổ chức ra phịng thực nghiệm tâm lý
đầu tiên trên thế giới. Nhưng do những hạn chế về thế giới quan và phương
pháp luận trong việc nghiên cứu tâm lý người nên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ
XX tâm lý học rơi vào tình trạng khủng hoảng trên con đường xây dựng tâm lý
học trở thành một khoa học thực sự khách quan phục vụ cho cuộc sống của con
người. Trong hồn cảnh đó, một loạt các trường phái tâm lý học khách quan ra
đời như: Tâm lý học Gestalt; Tâm lý học hành vi; Phân tâm học… với nguyện
vọng chung là đưa tâm lý học thế giới thốt khỏi cuộc khủng hoảng đó. Tuy
nhiên, các trường phái tâm lý học đó đều khơng dựa trên một cơ sở lý luận và
phương pháp luận đúng đắn nên khơng có cách nhìn biện chứng về con người,
về hoạt động của con người, về ý thức con người, từ đó dẫn đến quan niệm

khơng đúng về đối tượng và sử dụng các phương pháp nghiên cứu theo tư duy
siêu hình, cơ học của chủ nghĩa thực chứng. Do đó, các trường phái này cũng
khơng đảm nhiệm được sứ mệnh đưa tâm lý học thoát khỏi cuộc khủng hoảng,
trở thành một khoa học thực sự khách quan, đáp ứng được những đòi hỏi của
thực tiễn cuộc sống. Từ hồn cảnh lịch sử đó, nhu cầu xây dựng lại tâm lý học
từ cơ sở nền tảng của nó là một địi hỏi tất yếu. Chính từ tình hình đó đã tạo
điều kiện cho sự ra đời của Tâm lý học Mác xít – nền tâm lý học dựa trên cơ sở
lý luận và phương pháp luận của triết học Mác. Trong đó học thuyết Mác về
con người, về hoạt động của con người và về ý thức được coi là ba tiền đề tư
tưởng quan trọng nhất để xây dựng nền tâm lý học Mác xít. Việc nghiên cứu
làm sáng tỏ vấn đề này có giá trị to lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn, góp phần
làm rõ tính khách quan, khoa học, chiều hướng phát triển của tâm lý học Mác xít; là cơ sở vận dụng, xây dựng và phát triển nền tâm lý học Việt Nam nói
chung, nền tâm lý học quân sự nói riêng.


3

1. Sự khủng hoảng về phương pháp luận của tâm lý học thế giới sau
năm 1879.
Sau khi ra đời với tư cách là khoa học độc lập vào năm 1879, tâm lý học
thế giới đi vào cuộc khủng hoảng. Đó là cuộc khủng hoảng về phương pháp
luận. W. Wundt đã đóng góp cơng lao to lớn cho sự ra đời của Tâm lý học với
tư cách là một khoa học độc lập, nhưng tâm lý học của Wundt thực chất là
tâm lý học duy tâm. Bằng phương pháp nội quan trong việc nghiên cứu tâm
lý, nền tâm lý học này cũng đã đi vào bế tắc. Từ đó xuất hiện nhiều dòng phái
tâm lý học chống lại tâm lý học nội quan của Wundt và đề xuất những con
đường phát triển mới cho tâm lý học. Tiêu biểu phải kể đến các trường phái
tâm lý học khách quan như: tâm lý học hành vi, tâm lý học Gestalt, phân tâm
học. Những thành tựu mà các trường phái tâm lý học này đạt được đã để lại
dấu ấn to lớn trong lịch sử phát triển của khoa học tâm lý.

Tâm lý học hành vi ra đời vào năm 1913 ở Mĩ từ một bài báo có tính
chất cương lĩnh do J.Watson (1878-1958) viết với tiêu đề “Tâm lý học từ
những quan điểm của nhà hành vi”. Tâm lý học hành vi tuyên bố không quan
tâm đến việc mô tả giảng giải các trạng thái tâm lý của ý thức mà chỉ quan
tâm đến hành vi của tồn tại người. Đối tượng của tâm lý học hành vi là hành
vi. Hành vi được xem như là tổ hợp các phản ứng của cơ thể trước các kích
thích của mơi trường bên ngồi. Quan sát cũng như giải thích hành vi đều
phải tuân theo cơng thức S - R (Stimulant: Kích thích; Reaction: Phản ứng).
Điều đó có nghĩa là bất kỳ một hành vi nào của người và động vật đều có thể
quan sát, nghiên cứu, phân tích một cách khách quan. Có thể nhận thấy, công
thức S - R của tâm lý học hành vi cổ điển do J.Watson đưa ra rõ ràng có một
khiếm khuyết bởi có thể cùng một kích thích S như nhau nhưng lại có thể thu
về các R khác nhau ở các con người hoặc ở cùng một con người trong những
điều kiện hoàn cảnh khác nhau. Điều này liên quan đến yếu tố thuộc về chủ
thể phản ứng. Vì vậy, dẫn đến sự phân hóa của dòng phái tâm lý học này.
Những nhà tâm lý học chủ trương đưa vào công thức cổ điển S - R một biến
số trung gian gọi là những nhà hành vi mới mà tiêu biểu là C.Hall (18841952), E.Tolman (1886-1959), E.Garơđi (1886-1959). Nổi bật trong các tác


4

giả của thuyết hành vi mới là E.Tolman. E.Tolman và các cộng sự của ông đã
đưa vào giữa S và R yếu tố trung gian liên quan đến điều kiện mơi trường.
Khi kích thích S tác động đến cơ thể thì điều kiện mơi trường ra sao. Đồng
thời, tại thời điểm kích thích S phát huy tác dụng thì trạng thái, nhu cầu cơ thể
diễn ra như thế nào? Tuy nhiên, việc bổ sung này của E.Tolman và những
cộng sự của ông đã không thay đổi và khắc phục được thiếu sót căn bản của
tâm lý học hành vi là loại bỏ ý thức, xem hành vi với tư cách là tổng các phản
ứng của cơ thể trước các kích thích bên ngồi là đối tượng nghiên cứu của
tâm lý học. Trong những người kế tục những quan điểm tư tưởng của thuyết

hành vi do J.Watson đề xướng từ những năm 1913 một cách trung thành nhất,
phải kể đến B.F.Skinner. Skinner công khai chủ trương tuân thủ nghiêm ngặt
các nguyên lý của thuyết hành vi cổ điển đồng thời gia công, phát triển thêm
tạo nên chủ nghĩa hành vi bảo thủ, đặc biệt phải kể đến các luận điểm về hành
vi xã hội và tạo tác của ông.
Như vậy, luận điểm cơ bản của thuyết hành vi coi con người chỉ là cơ thể
riêng lẻ chỉ có khả năng phản ứng. Vì vậy, cơ thể này hồn tồn phụ thuộc vào
các kích thích tác động vào cơ thể. Mục đích của con người chỉ còn lại là làm
sao sống còn được, mà muốn vậy thì chỉ cần thụ động thích nghi với mơi
trường xung quanh. Vấn đề hình thành và phát triển hành vi trong lý thuyết này
chỉ còn là vấn đề tạo ra một hệ thống kích thích để tạo ra các phản ứng theo ý
muốn của một ai đó. Đó là một hình thái hành vi thấp kém. Điều đó chứng tỏ
rằng trong lý thuyết này khơng cịn phạm trù hành vi nữa chỉ còn lại phạm trù
phản ứng. Con người trong thuyết hành vi là con người khơng có ý thức, chỉ
như một cái máy. Đây là quan điểm tự nhiên chủ nghĩa, quan điểm thực dụng,
phi lịch sử về con người. Vì vậy, tồn bộ sự phấn đấu trong suốt gần bảy mươi
năm qua của Watson và những người kế nghiệp ơng đã khơng hồn thành sứ
mệnh lịch sử, không làm được cuộc cách mạng vứt bỏ xiềng gông của tâm lý
học truyền thống. Nhiều lắm là họ mới chỉ làm được một cuộc khởi nghĩa mở
đầu cuộc đấu tranh mãnh liệt vì một nền tâm lý học khách quan. Đó là sự đóng
góp to lớn của các nhà nhà vi Mỹ vào sự nghiệp xây dựng tâm lý học.


5

Tâm lý học Gestalt ra đời vào năm 1913, thời kỳ khủng hoảng của tâm lý
học thế giới, do các nhà tâm lý học cấu trúc người Đức là M. Wertheimer
(1880-1943), V.Kohler ( 1887-1967), K. Koffka (1886-1941) lập ra. Đây là một
trường phái chuyên nghiên cứu về tri giác, ít nhiều nghiên cứu về tư duy con
người nhằm chống lại tâm lý học nội quan, đồng thời chống lại cả tâm lý học

liên tưởng, tham vọng xây dựng một nền tâm lý học khách quan theo kiểu mẫu
của vật lý học. Tâm lý học Gestalt phát triển chủ yếu trong những năm 20 của
thế kỷ XX, hiện nay nó khơng cịn tồn tại là một trường phái độc lập, có quan
điểm, phương pháp luận và hệ phương pháp nghiên cứu riêng. Tuy vậy tâm lý
học Gestalt đã có những đóng góp tích cực, có vị trí nhất định trong việc phát
hiện và xây dựng nền tâm lý học khách quan. Các qui luật mà các nhà Gestalt
tìm ra hiện nay vẫn được tiếp tục nghiên cứu và vận dụng vào thực tiễn cuộc
sống. Sự xuất hiện của tâm lý học Gestalt đã đáp ứng đòi hỏi khách quan của
khoa học tâm lý học: phải trở thành một khoa học khách quan thực sự. Trường
phái Gestalt cũng để lại nhiều hiện tượng khoa học và một số qui luật cho đến
nay vẫn được nhắc tới và được vận dụng trong thực tiễn cuộc sống, nhất là
trong lĩnh vực hội hoạ, nghệ thuật, sân khấu, điện ảnh, thời trang.
Phân tâm học là một dòng phái tâm lý học đi sâu vào nghiên cứu hiện
tượng vô thức trong con người, coi vô thức là mặt chủ đạo của đời sống tâm lý
người, là đối tượng thực sự của tâm lý học. Người sáng lập ra Phân tâm học là
nhà tâm lý học, bác sỹ thần kinh và tâm thần người Áo gốc Do Thái S.Freud
(1856-1939). Học thuyết phân tâm của Freud được xây dựng trên khái niệm vô
thức. Freud quan niệm, tất cả các hiện tượng tâm thần người về bản chất là hiện
tượng vô thức. Vô thức là phạm trù chủ yếu trong đời sống tâm lý con người.
Mọi hoạt động trong tâm trí đều bắt nguồn trong vơ thức và tuỳ theo tương
quan của những lực lượng thôi thúc và ngăn cản được biểu hiện ra theo những
qui luật khác hẳn với ý thức. Trong các loại vơ thức thì đam mê tính dục có một
vị trí đặc biệt quan trọng trong toàn bộ đời sống tâm lý con người. Đam mê tính
dục rạo ra nguồn năng lực cực kỳ mạnh mẽ gọi là libiđơ, đó là cội nguồn của
mọi cội nguồn tinh thần, là nguyên nhân của mọi bệnh tâm thần cũng như các


6

khả năng lao động sáng tạo ở con người. Vai trị quan trọng của cái vơ thức

trong đời sống tâm lý người được S.Freud làm rõ trong các cơng trình nghiên
cứu về bệnh Hystêri, về giấc mơ và về lý thuyết tính dục cũng như về nhiều
vấn đề khác trong các nghiên cứu cụ thể của ông. Trên cơ sở của chữa trị bệnh
Hystêri, phân tích lý giải các giấc mơ... Freud đã đi đến xác định bộ máy tâm
thần con người bao gồm: cái nó, cái tơi và cái siêu tơi. Trên cơ sở đó, ơng xây
dựng lý thuyết tổng quát về các chứng nhiễu tâm và đề xuất phương pháp trị
liệu bệnh tâm thần bằng “tự do liên tưởng” nhằm “giải toả tâm lý”. Có thể thấy
rằng, do quá nhấn mạnh đến mặt vô thức trong con người, Freud đã không thấy
được mặt bản chất ý thức của con người, không thấy được bản chất xã hội lịch sử của các hiện tượng tâm lý người. Luận điểm, động lực của mọi hoạt
động tâm lý người là cái vơ thức gắn liền với các đam mê tính dục là một luận
điểm không đúng. Quan niệm về con người và nhân cách con người trong phân
tâm học Freud cũng bộc lộ những khía cạnh khơng đúng đắn. Con người trong
học thuyết phân tâm là con người cơ thể, con người sinh vật bị phân ly ra nhiều
mảng, con người với những mong muốn chủ yếu là thoả mãn các đam mê tính
dục, con người đối lập với xã hội.
Do những quan niệm sai lầm như ở trên, một số học giả kế tục Freud đã
cố gắng tìm cách khắc phục các hạn chế của phân tâm học, mong muốn xây
dựng một phân tâm học mới. Đó là một trào lưu triết học và tâm lý học tư sản
hiện đại xuất hiện vào cuối những năm 30 của thế kỷ XX do các đồ đệ của
Freud thực hiện như Jung (1897-1961) - người có cơng phát triển học thuyết
Freud, người tuyên truyền phổ biến Freud; Adler (1870-1937); K.Horney và
người nổi bật trong số này là Erich Fromm (1900-1980) nhằm khắc phục một
số hạn chế của phân tâm học của Freud. Họ định đem những yếu tố xã hội cộng
một cách máy móc với các yếu tố bản năng để lý giải thế giới tinh thần, tâm lý
của con người. Nhưng trong phép cộng máy móc ấy, các yếu tố bản năng vẫn
giữ vai trị chủ đạo. Do đó, họ khơng vượt qua được giới hạn, bế tắc của tâm lý
học Freud. Như vậy, mặc dù cịn có những hạn chế nhất đinh song sự xuất hiện


7

của phân tâm học một cách khách quan đã làm cho tâm lý học phát triển.
Những thành tựu mà Freud mang đến cho khoa học lồi người nói chung, tâm
lý học nói riêng là một khám phá vơ cùng lớn về một mảng hiện tượng vô thức
ở con người mà cho đến nay trên lĩnh vực này chưa có ai vượt qua được Freud.
Tóm lại, các trường phái tâm lý học khách quan đã có đóng góp khơng nhỏ
trong việc tìm kiếm con đường phát triển mới cho tâm lý học. Những thành tựu
mà các trường phái này đạt được có ý nghĩa vơ cùng to lớn đối với sự phát triển
của khoa học tâm lý. Tuy nhiên, do điều kiện xã hội lịch sử, do thiếu những cơ sở
lý luận và phương pháp luận đúng đắn, các dòng phái tâm lý học này cịn có
những hạn chế nhất định, không thực hiện được cuộc cách mạng để đưa tâm lý
học trở thành một khoa học thực sự khách quan, đúng như GS, VS Phạm Minh
Hạc đã viết trong tác phẩm “Hành vi và hoạt động”: “tâm lý học phân tâm mới
bước lên đường xây dựng tâm lý học khách quan, nhưng với các quan điểm cơ
bản về con người và tâm lý người cịn chưa thốt khỏi phạm vi của thuyết sinh vật
hóa con người và tâm lý người, chưa thấy được bản chất xã hội – lịch sử của con
người và tâm lý người. Cho nên tâm lý học phân tâm, cũng như tâm lý học hành
vi và tâm lý học Gestalt đều khơng đạt tới đích thực sự nghiên cứu thế giới tâm lý
trong cuộc sống thực của con người”. Chính vì vậy đã dẫn đến cuộc khủng hoảng
lần thứ hai trong tâm lý học thế giới hay còn gọi là cuộc khủng hoảng của tâm học
tư sản hiện đại mà thực chất là sự bế tắc trong việc xác định phương hướng cho sự
phát triển tâm lý học cụ thể là là bế tắc trong việc xác định cơ sở phương pháp
luận, phương pháp tiếp cận để nghiên cứu tâm lý và quan niệm về bản chất tâm lý
cũng như đối tượng nghiên cứu của tâm lý học. Chính trong hồn cảnh đó, tâm lý
học Xơ Viết hay cịn gọi là nền tâm lý học Mác-xít ra đời. Tâm lý học mác xít ra
đời dựa trên cơ sở vững chắc là lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin về con người, về
hoạt động và về ý thức của con người.
2. Học thuyết Mác-xít về con người, về hoạt động, ý thức của con người
là cơ sở lý luận-phương pháp luận xây dựng nền tâm lý học mác-xit.



8

2.1. Tính tất yếu ra đời của nền tâm lý học mác-xít.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tâm lý học rơi vào tình trạng bế tắc,
khơng đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống. Từ hồn cảnh
lịch sử đó, nhu cầu xây dựng một nền tâm lý học thực sự khách quan khoa
học là một đòi hỏi tất yếu. Các nhà tâm lý học Liên Xô (cũ) thời kỳ này như
K.N.Coocnhilôp, L.X. Vưgôtxki, P.P. Bơlônxki…nhận thấy các dịng phái tâm
lý học trước đó có nhiều khiếm khuyết và đã cố gắng cải tổ nền Tâm lý học
Liên xô trên cơ sở triết học Mác - xít. Năm 1920, trong tác phẩm “Cải cách
khoa học”, P.P.Blơnxki đã viết: Tâm lý học phải hướng theo chủ nghĩa Mác.
Tiếp thu chiều hướng suy nghĩ đó, năm 1923, trong Báo cáo “Chủ nghĩa Mác
và Tâm lý học” đọc tại hội nghị tồn quốc về Tâm lý học thần kinh,
K.N.Coocnhilơp đưa ra tuyên bố: Tâm lý học phải đoạn tuyệt với triết học nhị
nguyên, phải đoạn tuyệt với Tâm lý học kinh nghiệm chủ nghĩa, phải từ bỏ
khoa học tư biện, siêu hình. Muốn trở thành một khoa học thực sự khách
quan, tâm lý học phải là tâm lý học Mác - xít. Tư tưởng đó đã trở thành ngọn
cờ tập hợp những nhà tâm lý học Liên Xô tập trung nghiên cứu xây dựng một
nền Tâm lý học kiểu mới - nền tâm lý học Mác - xít.
Sự ra đời của tâm lý học Mác xít là một tất yếu khách quan của lịch sử,
gắn liền với tên tuổi của nhà tâm lý học người Nga L.X. Vưgốtxki. Năm 1925,
ông đã viết bài báo “Ý thức như một vấn đề của tâm lý học hành vi” trong đó,
ơng đã phân tích sự khủng hoảng của tâm lý học và đưa ra khuyến cáo nhằm
xây dựng một nền tâm lý học kiểu mới: tâm lý học theo chủ nghĩa Mác. Đây
được coi là cương lĩnh mở đầu xây dựng nền tâm lý học Mác xít. Theo
Vưgốtxki, tất cả các dịng phái tâm lý học cũ, các dòng phái tâm lý học khách
quan đều không thể dùng làm khởi điểm xây dựng nền tâm lý học kiểu mới
nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng trong tâm lý học. Muốn xây dựng một nền
tâm lý học kiểu mới thực sự khách quan khoa học thì phải bắt tay xây dựng lại
từ những cơ sở nền tảng của nó. Bằng các lập luận sắc sảo thuyết phục

Vưgốtski đã đưa ra các nhận xét, đánh giá và đề xuất cách tháo gỡ tình trạng
khủng hoảng trong tâm lý học hiện thời, khẳng định sự cần thiết phải xây dựng


9

một nền tâm lý học thực sự khách quan khoa học, trong đó: Nền tâm lý học
mới phải nghiên cứu cả hành vi lẫn ý thức. Nhưng cả hành vi lẫn ý thức đều là
vấn đề vô cùng phức tạp. Ý thức và hành vi đều cùng tồn tại một cách khách
quan có thực, đều có vai trị quan trọng trong cuộc sống của con người. Muốn
hiểu được ý thức thì phải hiểu hành vi và ngược lại khi xét đến hành vi, không
thể không xét đến ý thức. Với phạm trù hành vi, không được hiểu như tâm lý
học hành vi đã hiểu trong đó quan niệm hành vi là tổ hợp của các phản xạ, là
phản ứng máy móc nhằm giúp cơ thể thích nghi với mơi trường. Hành vi theo
ơng đó là “cuộc sống”, là “lao động”, là “thực tiễn”. Hành vi chính là hoạt động
thực tiễn của con người. Cần phải nghiên cứu hành vi ở chỗ làm rõ cơ chế,
thành phần và cấu trúc của nó. Phạm trù phản xạ là cần thiết nhưng khơng thể
lấy phản xạ là khái niệm cơ bản của tâm lý học. Với con người, ông quan niệm
không thể nghiên cứu hồn tồn bằng chìa khố phản xạ có điều kiện. Tâm lý
học không được loại bỏ ý thức trong nghiên cứu tâm lý mà cần phải vật chất
hố nó, không được coi ý thức là một loại hiện tượng thứ yếu. Muốn nghiên
cứu ý thức thì phải nghiên cứu cấu trúc của hành vi. “Ý thức là một vấn đề của
cấu trúc hành vi”. Hành vi của con người khác hành vi của con vật ở chỗ trong
hành vi của con người có sự kế thừa các kinh nghiệm: kinh nghiệm lịch sử,
kinh nghiệm xã hội và kinh nghiệm đã được tăng cường. Thông qua bài báo đã
nêu trên và qua nhiều cơng trình nghiên cứu khác Vưgốtxki xác định phương
pháp nghiên cứu tâm lý: Nghiên cứu tâm lý người bằng phương pháp hoạt
động. Tâm lý con người được tồn tại thể hiện trong hoạt động.
Đến năm 1934, X.L. Rubinstêin (1889 –1960) viết tác phẩm “ Những
vấn đề Tâm lý học trong các tác phẩm của C.Mác”. Tác phẩm này có ý

nghĩa quan trọng về mặt phương pháp luận và tạo tiền đề xây dựng nền tâm
lý học mới đáp ứng nhu cầu lý luận và thực tiễn phát triển của nền Tâm lý
học Liên Xơ lúc đó. Ơng viết: “Trong tồn tập của C.Mác khơng thấy có bài
nào bàn về tâm lý học. Nhưng trong nhiều tác phẩm khác nhau của Ơng,
dường như là đồng thời trí tuệ thiên tài ấy đã nêu ra một loạt những nhận


10
định về các vấn đề tâm lý học khác nhau” 1. Trên cơ sở phân tích sâu sắc
những ý kiến của C.Mác về các vấn đề tâm lý học, các nhà tâm lý học Xô
Viết nhận thấy nhiệm vụ hàng đầu trong khi cải tổ tâm lý học là nhiệm vụ
xây dựng cơ sở triết học mới cho khoa học tâm lý theo lập trường Mác – xít.
Triết học Mác chính là cơ sở lý luận và phương pháp luận để xây dựng một
nền tâm lý học mới khách quan khoa học. Trong đó những quan điểm, tư
tưởng của Học thuyết Mác về con người, về hoạt động của con người, về ý
thức con người được coi là ba tiền đề tư tưởng nền tảng quan trọng nhất để
xây dựng nền tâm lý học Mác – xít.
2.2. Học thuyết mác-xít về con người, hoạt động, ý thức.
* Học thuyết mác-xít về bản chất con người là cơ sở nền tảng để tìm
hiểu tâm lý con người.
Các trường phái triết học và tâm lý học phi mác xít đều quan niệm về
con người một cách trừu tượng, phiến diện và siêu hình. Chỉ đến khi triết học
Mác ra đời mới cho chúng ta những hiểu biết sâu sắc, chính xác và tồn diện
về con người. Học thuyết Mác xít về con người được thể hiện ở các luận điểm
cơ bản sau: Con người vừa là thực thể tự nhiên, vừa là thực thể xã hội. Con
người tồn tại trong xã hội, tồn tại trong lịch sử, con người là sản phẩm của sự
phát triển xã hội - lịch sử. Các Mác viết: “Con người trực tiếp là thực thể tự
nhiên”(1), “Giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người… Con người sống
dựa vào tự nhiên. Như thế nghĩa là tự nhiên là thân thể của con người, để khỏi
chết, con người phải ở trong quá trình giao dịch thường xuyên với thân thể

đó. Sinh hoạt vật chất và sinh hoạt tinh thần của con người liên hệ khăng khít
với tự nhiên, điều đó chẳng qua chỉ có nghĩa là tự nhiên liên hệ khăng khít với
bản thân tự nhiên, vì con người là một bộ phận của tự nhiên(2).
Con người vừa là thực thể tự nhiên, đồng thời lại là thực thể xã hội. Con
người từ khi mới sinh ra, sự tồn tại của con người gắn với sự tồn tại của cả
loài người, sự tồn tại của xã hội, của lịch sử. Sự phát triển của xã hội, những
điều kiện thuận lợi của lịch sử đã đem đến những điều kiện thuận lợi cho sự

1

X.L. Rubinstêin, Những vấn đề Tâm lý học trong các tác phẩm của C.Mác,Học viện CTQS, 1984, tr 25.
C.Mác, Bản thảo kinh tế - triết học năm1844, Nxb Sự thật, Hà nội, 1962, Tr 200.
2
SĐD, Tr 92.
1


11

phát triển của con người. Trên ý nghĩa đó, chúng ta khẳng định con người là
sản phẩm của sự phát triển xã hội - lịch sử.
Quan niệm con người được hiểu là những con người cụ thể, có thực.
Con người là con người hoạt động gắn liền với những điều kiện sinh hoạt vật
chất cụ thể. Đây là điều khác biệt căn bản giữa triết học duy vật lịch sử mác
xít với các trào lưu triết học khác. Các Mác viết: “Những tiền đề xuất phát của
chúng tôi không phải là những tiền đề tuỳ tiện, không phải là giáo điều. Đó là
những tiền đề hiện thực mà người ta chỉ có thể bỏ qua trong trí tưởng tượng
thơi. Đó là những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện
sinh hoạt vật chất của họ(3).
Học thuyết Mác xít về con người khẳng định con người gắn với tính tích

cực hoạt động cải tạo hiện thực. Con người khác động vật ở chỗ, động vật
trực tiếp đồng nhất nó với tự nhiên. Động vật lệ thuộc vào tự nhiên, lệ thuộc
vào hồn cảnh mà nó có mặt trong đó, động vật với tự nhiên là một và khơng
có năng lực tự tách mình ra khỏi tự nhiên để nhận thức tự nhiên. Còn con
người với tự nhiên là khơng đồng nhất. Con người có năng lực tự tách mình
ra khỏi tự nhiên để nhận thức tự nhiên. Trong mối quan hệ với tự nhiên, con
người là chủ thể tích cực cải tạo tự nhiên và quá trình đó cũng là q trình con
người cải tạo chính bản thân mình. Các Mác đã viết: “Hồn cảnh được biến
đổi bởi chính con người”(1). “Con người tác động vào tự nhiên bên ngoài và
thay đổi tự nhiên, đồng thời cũng thay đổi bản tính của chính mình và phát
triển những năng khiếu tiềm tàng trong bản thân mình” (2). Cịn khi phân tích
về khía cạnh này, Ph.Ăngghen, trong Biện chứng của tự nhiên, viết: “Loài
động vật chỉ lợi dụng tự nhiên bên ngoài và chỉ gây ra những biến đổi trong tự
nhiên đơn thuần bằng sự có mặt của chúng; cịn con người thì do đã tạo ra
những biến đổi trong tự nhiên, và bắt tự nhiên phải phục vụ cho những mục
đích của mình và thống trị tự nhiên(3).
* Học thuyết mác-xít về hoạt động của con người đã đặt nền móng khoa
học cho tâm lý học.
Kế thừa có chọn lọc thành tựu của triết học trong lịch sử mà trực tiếp là
triết học của Hêghen, C.Mác đã xây dựng học thuyết duy vật biện chứng về
3

C.Mác - Ph.Ănghen, Toàn tập, Tập 1, Nxb ST, H.1980, Tr 267.
Các Mác - Ph. Ăngghen, Tuyển tập, Tập 2, Nxb ST, H. 1971, Tr 491.
2
Các Mác, Tư bản, Quyển 1, Tập 1, Nxb ST, H.1959, Tr 247.
3
Ph.Ăngghen, Biện chứng của tự nhiên, NxbST,H.1963, Tr 283.
1



12

hoạt động của con người. Học thuyết này được tóm tắt vào một trong các luận
cương của C.Mác về Phơbách (1804 -1872). C.Mác phê phán tồn bộ triết học
trước đó, kể cả Phơbách, nhà triết học lớn nhất thời ấy là chỉ thấy sự vật như
một khách thể, như cái có thể quan sát được mà khơng thấy chính trong sự vật
có hoạt động thực tiễn của con người. Các vật thể, hay nói rộng ra cả thế giới
đối tượng là sản phẩm của lao động của cả loài người, đó chính là hoạt động
của con người ở thể tĩnh. Tức là vật thể, thế giới đối tượng chứa đựng năng
lực của con người bao gồm suy nghĩ về công dụng, tri thức về vật liệu, về q
trình cơng nghệ… Và ở đó có cả khiếu thẩm mỹ nữa. Nói cách khác, việc làm
ra sản phẩm là quá trình con người vật chất hoá (đối tượng hoá) các suy nghĩ,
tri thức, quan niệm của mình. Về vấn đề này C.Mác viết: “Sự vĩ đại của “hiện
tượng học” của Hêghen và của kết quả cuối cùng của nó - phép biện chứng
của tính phủ định coi như nguyên lý đang vận động và đang sản sinh là ở chỗ
Hêghen xem xét sự tự sản sinh của con người như là một q trình, xem xét
sự đối tượng hố như là sự đối lập hoá và sự tước bỏ sự tự tha hố ấy, do đó
Ơng ta nắm lấy bản chất của lao động và lý giải con người đã được đối tượng
hố, con người chân chính, do đó có tính chất hiện thực, như là kết quả của
lao động của bản thân con người”2. Luận điểm này của C.Mác có ý nghĩa to
lớn cho tâm lý học ở chỗ cần phải nhìn thấy sự vật, hiện tượng xung quanh
con người chính là kết quả hoạt động thực tiễn của con người, chứa đựng lực
lượng bản chất người. Đối với C.Mác, toàn bộ hoạt động của con người là sự
đối tượng hoá của bản thân con người, hay nói cách khác, là quá trình bộc lộ
ra khách quan của những lực lượng bản chất của con người. Trong tác phẩm
Tư bản, khi phân tích lao động C.Mác đã nói giản đơn rằng, trong lao động
“chủ thể di chuyển vào khách thể”. Như vậy hoạt động của con người không
phải là phản ứng của cơ thể đối với kích thích bên ngồi như tâm lý học hành
vi quan niệm, cũng không phải là một việc làm theo lối thao tác bên ngoài của

chủ thể đối với khách thể, mà nó là sự di chuyển của chủ thể vào khách thể.
Bản thân quan niệm về hoạt động như là sự đối tượng hoá đã chứa đựng tư
tưởng đó. Đồng thời C.Mác cũng có ý tưởng về chủ thể. C.Mác nhấn mạnh:
2

C.Mác, Bản thảo Kinh tế – Triết học năm 1844, Nxb Sự Thật, H.1962, tr194.


13

“Hoạt động và đối tượng thâm nhập lẫn vào nhau”. Bởi vì hoạt động của con
người là sự đối tượng hoá, là sự khách thể hoá con người, hoặc là sự di
chuyển chủ thể vào khách thể, là sự phát lộ ra trong các đối tượng của hoạt
động những lực lượng bản chất của con người, trong đó có tình cảm và ý
thức. C.Mác viết: “Sự tồn tại đối tượng hố đã hình thành của cơng nghiệp là
quyển sách đã mở ra của những lực lượng bản chất của con người, là tâm lý
con người bày ra trước mắt chúng ta một cách cảm tính:” 3. Vì vậy C.Mác viết
tiếp: “Tâm lý học - quyển sách ấy, nghĩa là chính cái bộ phận dễ cảm thấy
nhất, dễ tiếp xúc nhất của lịch sử không mở ra cho tâm lý học này- khơng thể
trở thành khoa học thực sự có nội dung phong phú và hiện thực” 4. Như vậy,
theo luận điểm của C.Mác về hoạt động của con người thì mối quan hệ qua lại
giữa con người với môi trường xung quanh được xác định là sự tác động qua
lại có nội dung hoạt động. Tác động là cái thứ nhất, tâm lý là cái thứ hai. Sự
tác động giống như nhu cầu ở ngoài con người cần được thoả mãn. Trong q
trình hiện thực hố mối quan hệ này, con người cải tạo tự nhiên bằng hoạt
động của mình và sản xuất ra thế giới đối tượng. Do đó, sản phẩm đối tượng
là do con người tạo ra, là “những lực lượng bản chất” của con người được
đưa ra ngoài thành sản phẩm. Sản phẩm là sự khẳng định của một trong
những lực lượng bản chất của con người.
Đó là hoạt động lao động và có thể coi đó là một mặt, một chiều của hoạt

động nói chung trong hoạt động của con người. Theo C.Mác, hoạt động của
con người cịn có một mặt khác, một chiều khác - đó là chiều ngược lại với
chiều vừa mơ tả. Ở trên ta có chiều đối tượng hố năng lực, tâm lý, ý thức con
người thành sản phẩm của hoạt động lao động. Cịn ở đây ta có chiều tâm lý, ý
thức đã được đặt vào sản phẩm, tách ra khỏi sản phẩm và chuyển thành năng
lực, tâm lý, ý thức. C.Mác chỉ ra do sự nối liền sợi dây liên hệ từ chủ thể đến
khách thể mà trong hoạt động của con người lại bộc lộ ra một quan hệ phụ
thuộc khác từ khách thể đến chủ thể. Nói cách khác, trong quá trình chủ thể di
chuyển vào khách thể thì bản thân chủ thể cũng đã tự hình thành. C.Mác viết:
3
4

C.Mác, Bản thảo Kinh tế – Triết học năm 1844, Nxb Sự Thật, H.1962, tr139.
C.Mác, Bản thảo Kinh tế – Triết học năm 1844, Nxb Sự Thật, H.1962, tr139,140.


14

“Chỉ có thơng qua sự phong phú đã được phát triển về mặt vật chất của bản
chất con người thì sự phong phú của cảm giác chủ quan của con người mới
được phát triển và một phần thậm chí lần đầu tiên mới được sản sinh ra: lỗ tai
thính âm nhạc, con mắt cảm thấy cái đẹp của hình thức, nói tóm lại là những
cảm giác có khả năng về những sự hưởng thụ có tính chất người và tự khẳng
định mình như là những lực lượng bản chất của con người” 5. Như vậy sự đối
tượng hoá bản chất con người là tất yếu – xét về phương diện lý luận cũng
như phương diện thực tiễn, như C.Mác nói: “để một mặt nhân loại hoá cảm
giác của con người, và mặt khác sáng tạo cảm giác con người tương ứng với
toàn bộ sự phong phú của bản chất nhân loại và tự nhiên” 6. Theo cách nói của
C.Mác thì “bằng cách biến đổi tự nhiên bên ngoài con người, đồng thời con
người biến đổi bản tính của chính mình”. Có nghĩa là tâm lý, ý thức con

người hình thành không phải theo cách âm thầm, tự hiểu, không bộc lộ ra,
không phải trong trạng thái vô vị không hoạt động, mà là trong lao động,
trong bản thân hoạt động cải tạo thế giới của con người.
Trong các tác phẩm của C.Mác, mặc dù không phải là những tác phẩm
chuyên về tâm lý học, nhưng bằng cách phân tích, lập luận khoa học, có dẫn
chứng, kết hợp với so sánh, phê phán những sai lầm của các quan điểm triết
học khi nghiên cứu về hoạt động của con người, C.Mác đã khai thông bế tắc
về mặt phương pháp luận trong nghiên cứu hoạt động của con người. Theo
quan điểm của C.Mác thì sự tác động qua lại có nội dung hoạt động giữa con
người và thế giới bên ngoài được xem như là q trình đối tượng hố chủ thể
(con người tạo ra sản phẩm) và quá trình chủ thể hóa đối tượng (con người
lĩnh hội các thao tác nằm trong đối tượng, các quan hệ sau đối tượng). Quá
trình thứ nhất là quá trình con người dùng tri thức, kỹ năng, kỹ xảo… của
mình để tham gia vào việc sáng tạo ra thế giới đối tượng. Quá trình thứ hai
được hiểu là quá trình hình thành tâm lý, ý thức, chính là hình thành tri thức,
kỹ năng, kỹ xảo… của con người - hình thành nhân cách nói chung. Nếu gọi
quá trình thứ nhất là quá trình “xuất tâm” thì quá trình thứ hai được gọi là quá
5
6

C.Mác, Bản thảo Kinh tế – Triết học năm 1844, Nxb Sự Thật, H.1962, tr137
C.Mác, Bản thảo Kinh tế – Triết học năm 1844, Nxb Sự Thật, H.1962, tr138.


15

trình “nhập tâm”. Quá trình thứ nhất là quá trình sáng tạo, cịn q trình thứ
hai là q trình lĩnh hội. Hai q trình này có quan hệ biên chứng với nhau,
xâm nhập vào nhau. Chính thơng qua hai q trình này, đặc biệt là quá trình
thứ hai mà tâm lý, ý thức con người được nảy sinh, hình thành và phát triển.

Hoạt động của con người càng phong phú thì tâm lý, ý thức người càng phong
phú. Hoạt động chính là chìa khố để hình thành, tìm hiểu, đánh giá và điều
khiển tâm lý, ý thức con người một cách khách quan, khoa học.
* Học thuyết Mác xít về bản chất của ý thức đã tạo ra lý luận chung về
tâm lý con người.
Học thuyết về ý thức do C.Mác vạch ra đã chỉ rõ ý thức của con người
được hình thành một cách khách quan, được sản xuất ra bởi mối quan hệ giữa
con người và thế giới xung quanh. Điều đó có nghĩa ý thức con người khơng
phải là cái có sẵn. Các quan niệm bẩm sinh về ý thức cho rằng ý thức có từ
khi con người sinh ra là điều không đúng.
Quan hệ giữa con người với thế giới xung quanh được thực hiện thông qua
hoạt động của con người. Ý thức con người được nảy sinh bằng hoạt động của
con người thông qua quá trình tác động vào thế giới đối tượng. Đây là một luận
điểm có ý nghĩa vơ cùng quan trọng. X.L.Rubinstêin (1889 - 1960), nhà tâm lý
học vĩ đại người Nga viết: “Quan niệm trung tâm đó của C.Mác về sự hình thành
tâm lý con người trong quá trình hoạt động thơng qua sản phẩm của hoạt động
đó đã giải quyết vấn đề mấu chốt của tâm lý học hiện đại và vạch ra con đường
đi tới cách giải quyết vấn đề đối tượng của tâm lý học hoàn toàn khác với các
khuynh hướng đang chống đối nhau trong tâm lý học hiện đại”(1).
Ý thức con người là sản phẩm cao nhất của vật chất được tổ chức theo
một cách thức đặc biệt. V.I. Lênin, viết: “Vật chất gây nên cảm giác bằng cách
tác động vào giác quan của chúng ta. Cảm giác phụ thuộc vào óc, thần kinh,
võng mạc… nghĩa là vào vật chất được tổ chức theo một cách thức nhất định
1

X.L.Runbinstêin, Những vấn đề tâm lý học trong các tác phẩm của Các Mác, trong sách “Tâm lý học những cơ sở lý luận và phương pháp luận”, Học viện chính trị quân sự, H.1984, Tr 38.


16
sự tồn tại của vật chất không phụ thuộc vào cảm giác” (2). Còn nội dung của ý

thức, bắt nguồn từ những biến đổi trong quan hệ thực của con người với hoàn
cảnh, điều kiện sống cụ thể của mỗi cá nhân, như X.L.Rubinstêin nhấn mạnh
“Đó là điểm có ý nghĩa quyết định về phương pháp luận”(7) .
Theo luận điểm của C.Mác thì tâm lý người hình thành trong quá trình
con người thực hiện hoạt động, qua sản phẩm của hoạt động đó Đồng thời,
tâm lý, ý thức người có tính chất gián tiếp khách quan. Ý thức khơng phải là
cái tồn tại trong thế giới tâm lý nội tại khép kín, tách biệt, mà là cái tồn tại
thơng qua hoạt động thực tiễn trong thế giới khách quan. Tức là, ý thức hình
thành và vận hành trong quá trình chuyển hoá qua lại giữa chủ thể và khách
thể - các quá trình được thực hiện bằng hoạt động của chủ thể. Trong quan hệ
đối với môi trường xung quanh, ý thức và tâm lý không phải là một thứ tinh
thần nào đó có khả năng sáng tạo tuỳ ý, khơng phải là một cái gì đó hồn tồn
thụ động, đứng ngoài lề mà phải được coi là một thứ có chức năng tích cực
đối với hoạt động tác động vào thế giới khách quan, cũng chính là tác động
vào chính chủ thể của hoạt động đó Từ hai vấn đề trên rút ra kết luận là chỉ có
thể nhận thức được tâm lý, ý thức thông qua hoạt động của con người và sản
phẩm của hoạt động đó. Vì hoạt động và sự sử dụng thành quả của hoạt động
cả về nội dung lẫn phương thức tồn tại đều có tính chất xã hội. C.Mác khẳng
định: “Hoạt động và sự hưởng thụ những thành quả của hoạt động, xét theo
nội dung của nó cũng như xét theo phương thức tồn tại, là có tính chất xã hội:
hoạt động xã hội và hưởng thụ xã hội”8. Vì vậy, nguồn gốc và sự vận hành
của ý thức nói riêng, tâm lý nói chung đều có các quan hệ xã hội của con
người và sự vận động của các mối quan hệ đó tham gia vào. Nhờ đó, ý thức
và tâm lý mang tính chất gián tiếp. Từ đó có thể suy ra rằng việc nhận thức ý
thức, tâm lý phải tiến hành thông qua sản phẩm lao động và các quan hệ xã
hội, tức là qua thực tiễn của loài người nói chung và thực tiễn cuộc sống của
2

V.I.Lênin, Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, Toàn tập, Tập 18, Nxb Tiến bộ.
X.L.Rubinstêin, những vấn đề tâm lý học trong các tác phẩm của Các Mác, Sđd, Tr 43.

8
C.Mác, Bản thảo Kinh tế – Triết học năm 1844, Nxb Sự Thật, H.1962, tr130,131
7


17
từng người nói riêng. Phương pháp nghiên cứu tâm lý, ý thức phải là phương
pháp khách quan rút ra từ tính chất gián tiếp của tâm lý, ý thức. Quan niệm
trung tâm đó của C.Mác về sự hình thành tâm lý con người trong q trình
hoạt động thơng qua sản phẩm của hoạt động đó đã giải quyết vấn đề mấu
chốt của tâm lý học hiện đại và vạch ra con đường đi tới cách giải quyết vấn
đề đối tượng của tâm lý học hoàn toàn khác với các khuynh hướng đang
chống đối nhau trong tâm lý học hiện đại. Nói cách khác, phải tìm chìa khố
để nghiên cứu tâm lý, ý thức người ngay trong hoạt động lao động làm ra sản
phẩm. Tư tưởng về cơ chế gián tiếp của hoạt động của con người nói chung
như đã nói ở trên đã mở ra con đường đi tới một quan niệm mới về tâm lý, ý
thức cũng như nhân cách và các thuộc tính của nhân cách con người nói
chung. Như X.L. Rubinstêin đã chỉ ra: “Hành động của con người một khi trở
thành gián tiếp chẳng những do tình huống đương thời trực tiếp quyết định,
mà cịn bởi cả những mục đích và nhiệm vụ ở bên ngồi giới hạn đó quyết
định nữa; hành động của con người trở thành có tính lựa chọn, tính mục đích
và tính ý chí, đó chính là những nét định tính cho hoạt động của con người
trong sự khác biệt hẳn với hành vi của con vật” 9. Từ đó có thể khắc phục được
quan niệm máy móc về hành động của con người theo cách hiểu của chủ
nghĩa hành vi. Đồng thời tâm lý, ý thức trở thành đối tượng thực của một nền
tâm lý học có thực, một nền tâm lý học có nội dung khác hẳn trào lưu hành vi
chủ nghĩa là học thuyết đã loại trừ tâm lý và ý thức ra ngoài phạm vi nghiên
cứu, cũng như vượt lên trên quan niệm nội quan của tâm lý học cũ trước Mác
- xít về tâm lý và ý thức.
Tóm lại, học thuyết Mác - xít về bản chất con người, hoạt động, ý thức

của con người được vận dụng vào tâm lý học có thể khái quát như sau:
Thứ nhất, Muốn tìm hiểu đời sống tâm lý con người, trước hết phải có
quan niệm đúng về con người, đó là con người tồn tại với tư cách là sản phẩm
và là chủ thể tích cực của điều kiện xã hội – lịch sử. Tâm lý người được giải
9

X.L. Rubinstêin, Những vấn đề Tâm lý học trong các tác phẩm của C.Mác,Học viện CTQS, 1984, tr 41.


18
thích bằng nội dung của cả lịch sử xã hội lồi người, từ khi hình thành lồi
người, qua các hình thái kinh tế xã hội, cũng như trong các điều kiện xã hội
cụ thể mà con người đang sống trong đó. Nghiên cứu tâm lý con người phải
dựa trên quan điểm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác về con người, lấy con
người làm trung tâm, từ đó đi tìm hiểu cái gọi là “tính người” trong mỗi con
người cụ thể, từng xã hội cụ thể. Bên cạnh đó, phải khắc phục những hạn chế
trước đó về cách thức tiếp cận để tìm hiểu, đánh giá tâm lý con người. Muốn
hiểu được tâm lý con người cần phải thoát ra khỏi mối quan hệ của cơ thể với
môi trường tự nhiên đảm bảo sự tồn tại của cơ thể. Nói cách khác, là tâm lý
cần phải thốt ra khỏi vòng cương tỏa của sinh vật luận, tâm lý học phải
chuyển sang vương quốc của “tâm lý học lịch sử người”.
Thứ hai, Phương pháp tiếp cận tâm lý con người là thơng qua hoạt
động, hoạt động chính là chìa khóa để nghiên cứu, tìm hiểu, đánh giá và
cũng là nơi tâm lý hình thành, phát triển. Nói cách khác, tâm lý con người
được hình thành và biểu hiện trong hoạt động, hoạt động là bản thể của tâm
lý. Trong hoạt động lao động bản chất, năng lực của con người được bộc lộ
ra; hoạt động của con người là hoạt động thực tiễn trong đó có q trình đối
tượng hóa, di chuyển tinh lực của con người vào khách thể; tâm lý con
người hình thành trong hoạt động, lao động, trong sản xuất công nghiệp;
hoạt động của con người mang tính xã hội. Tư tưởng của C.Mác về hoạt

động của con người đã chỉ ra một cách khoa học sự hình thành phát triển
tâm lý con người là thơng qua hoạt động và bằng hoạt động. Đồng thời tâm
lý, ý thức con người được biểu hiện ra trong hoạt động và được ghi lại trong
sản phẩm hoạt động. Như vậy, tâm lý, ý thức và hoạt động của con người có
sự gắn bó hữu cơ với nhau, thống nhất biện chứng không thể chia cắt. Cần
lưu ý ở đây là sự thống nhất tâm lý - ý thức và hoạt động là sự thống thống
nhất trong cả quá trình. Cũng có các hiện tượng tâm lý bị giữ lại phần lớn ở
bên trong, phần biểu hiện ra ngoài yếu ớt và khó quan sát thấy, nhưng suy
cho cùng và về cơ bản nó vẫn được bộc lộ ra bên ngồi, thông qua hành vi,


19

hoạt động cụ thể của con người. Đương nhiên không thể hiểu một cách đơn
giản, tâm lý chỉ là cái bên trong, hoạt động chỉ là cái bên ngoài. Hoạt động là
sự thống nhất giữa cái bên trong và cái bên ngồi. Nhờ đó, giúp tâm lý học
tìm ra đối tượng và phương pháp nghiên cứu tâm lý con người một cách
khách quan khoa học, khắc phục được tình trạng khủng hoảng về đối tượng,
phương pháp nghiên cứu của tâm lý học trong những năm đầu của thế kỷ XX.
Thứ ba, Ý thức là một hình thức đặc biệt của tâm lý. Lý luận mác - xít về
ý thức có ý nghĩa trực tiếp đối với việc giải quyết vấn đề nguồn gốc nảy sinh
của tâm lý. Ý thức được hình thành trong mối quan hệ giữa con người với thế
giới xung quanh, ý thức được hình thành trong mối quan hệ giữa chủ thể với
thế giới bên ngoài chứ khơng phải sinh ra đã có. Nói đến quan hệ là nói đến
mối quan hệ hai chiều giữa chủ thể ý thức và các khách thể tham gia kiến tạo
nên các mối quan hệ ấy. Ý thức được hình thành trong hoạt động, mà trực tiếp
là hoạt động lao động của con người, thông qua hoạt động, tâm lý, ý thức người
hình thành và phát triển. Theo Leonchiep: phát kiến của Mac có ý nghĩa căn
bản đối với lý luận tâm lý học là: ý thức không phải là sự biểu hiện một năng
lực thần bí nào đó của bộ não người phát ra “ánh sáng ý thức” do ảnh hưởng

của những vật – kích thích tác động vào nó, mà là sản phẩm của những quan hệ
đặc biệt, tức là của những quan hệ xã hội mà con người tham gia vào và cũng
chỉ được thực hiện thông qua bộ não, các cơ quan cảm giác và cơ quan hành
động của con người. Trong các quá trình do những quan hệ ấy sinh ra cũng
diễn ra việc các khách thể có hình thức là những hình tượng chủ quan của
chúng trong đầu óc con người, tức là hình thức ý thức” 10. Điều này nhấn mạnh,
vấn đề ý thức chỉ có thể được làm sáng tỏ khi tiếp cận dưới góc độ hoạt động.
3. Vận dụng trong xây dựng và phát triển nền tâm lý học ở Việt
Nam hiện nay.
Nghiên cứu tồn bộ tiến trình phát triển của lịch sử tâm lý học từ khi
xuất hiện những tư tưởng sơ khai về đời sống tâm hồn con người của các triết
10

Sđd, tr. 36 - 37


20
gia Cổ đại đến khi tâm lý trở thành một khoa học độc lập và phát triển với
những thành tựu to lớn đóng góp tích cực vào sự phát triển của xã hội cũng
như giải phóng con người. Tồn bộ q trình đó cho chúng ta thấy rằng, khoa
học tâm lý muốn trở thành một khoa học độc lập cần phải xác định được
những nhân tố cơ bản đó là: đối tượng nghiên cứu, nhiệm vụ, mục đích
nghiên cứu; phương pháp, phương tiện nghiên cứu; đội ngũ nhà khoa học và
thông tin khoa học; khả năng ứng dụng và phục vụ thực tế cuộc sống v.v…
Đồng thời, một vấn đề rất quan trọng khác đặt ra là phải có cơ sở lý luận và
phương pháp luận thực sự cách mạng, khoa học chỉ đạo tồn bộ q trình hình
thành và phát triển của khoa học đó. Nghiên cứu tâm lý học dựa trên cơ sở lý
luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin do các nhà tâm lý học
Liên Xô đưa ra từ năm những năm hai mươi của thế kỷ trước vẫn còn nguyên
giá trị với nền Tâm lý học Mác - xít nói chung và Tâm lý học Việt Nam nói

riêng. Đó vẫn là phương châm chỉ đạo, vấn đề có tính ngun tắc khi nghiên
cứu tâm lý con người. Đồng thời là cơ sở đấu tranh, phê phán không khoan
nhượng với các quan điểm, tư tưởng sai trái.
Tâm lý học ở nước ta là một ngành khoa học cịn non trẻ, chính thức
được đưa vào nghiên cứu, giảng dạy từ thập niên 60 của thế kỷ 20. Ra đời và
phát triển gắn bó chặt chẽ với thắng lợi của cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc, với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngay từ đầu tâm lý học Việt
Nam đã được Hệ tư tưởng Mác - xít dẫn đường với những định hướng đúng
đắn về lý luận và phương pháp luận và thông qua ảnh hưởng to lớn của các
nhà Tâm lý học Liên Xô trước đây với những nguyên tắc chỉ đạo đã được tiếp
thu và vận dụng: phép biện chứng duy vật của triết học Mác - Lênin, nguyên
tắc quyết định luận duy vật các hiện tượng tâm lý, nguyên tắc phát triển,
nguyên tắc lịch sử, nguyên tắc thống nhất giữa ý thức và hoạt động, cách tiếp
cận nhân cách, tiếp cận giá trị, đường lối cách mạng của Đảng ta và tư tưởng
Hồ Chí Minh đã có tác dụng to lớn soi sáng các cơng trình nghiên cứu tâm lý
học trong hơn 30 năm qua. Ngày nay, trước yêu cầu mới của sự nghiệp xây


21

dựng và bảo vệ Tổ quốc, nền tâm lý học Việt Nam muốn đứng vững, phát
triển thì trước hết cần tiếp tục nắm vững cơ sở lý luận và phương pháp luận
của tâm lý học Mác - xít, đặc biệt là quan điểm tư tưởng của C.Mác về tâm lý
học; đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí
Minh và các địi hỏi của sự nghiệp cách mạng để đề xuất các nội dung và
phương hướng nghiên cứu. Đồng thời cần ra sức học tập, nghiên cứu, khai
thác, tiếp thu những kinh nghiệm, thành tựu của nền tâm lý học thế giới trên
lập trường quan điểm của tâm lý học Mác - xít. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các thành tựu tâm lý học Xô Viết và tâm
lý học Việt Nam trong thời gian qua, chúng ta hồn tồn có quyền lạc quan,

tin tưởng vào sự phát triển của nền tâm lý học nước nhà trong tương lai, xứng
đáng là một ngành khoa học mũi nhọn trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện
đại hố đất nước. Tâm lý học Việt Nam sẽ làm tròn “sứ mệnh” của mình là:
“làm cho từng con người có được thể lực, tâm lực, trí lực - tức là thành nguồn
vốn nhân lực và thực sự trở thành chủ thể trong mọi hoạt động học tập, sản
xuất, kinh doanh…”11, góp phần “xây dựng con người Việt Nam phát triển
tồn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo,
có ý thức cộng đồng, lịng nhân ái, khoan dung, tơn trọng nghĩa tình, lối sống
có văn hố, quan hệ hài hồ trong gia đình, cộng đồng và xã hội”12.
Tâm lý học quân sự là một chuyên ngành tâm lý học được Bộ quốc
phịng, Tổng cục chính trị tổ chức và chỉ đạo nghiên cứu từ năm 1969 và phát
triển mạnh mẽ từ thập niên 70 của thế kỷ XX đến nay, đã góp phần quan
trọng vào sự nghiệp xây dựng quân đội về chính trị và tinh thần, đáp ứng
được những đòi hỏi của cách mạng nước ta trong từng giai đoạn.
Sự ra đời của Tâm lý học quân sự Việt Nam trước hết do chính bản thân sự
phát triển của khoa học tâm lý, đồng thời đó là sự phù hợp duy nhất đối với tiến
trình phát triển của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Hoạt động quân sự khác với
nhiều loại hoạt động khác của con người cả về mục đích cũng như điều kiện,
phương tiện để đạt mục đích. Trên thực tế, q trình lãnh đạo cách mạng và xây
11
12

Phạm Minh Hạc, Tuyển tập Tâm lý học, Nxb Giáo dục, H.2002, tr 636.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H.2001, tr 114.


22
dựng quân đội, Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh ln quan
tâm tới việc phát huy ưu thế của yếu tố chính trị, tinh thần, tâm lý. Những tư
tưởng tâm lý học quân sự của Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí

Minh có ý nghĩa định hướng quan trọng cho sự ra đời, phát triển của tâm lý học
quân sự Việt Nam. Trong khi đó, những tác động của bộ mơn tâm lý học được
giảng dạy ở các nhà trường ngoài quân đội, của tâm lý học qn sự Xơ Viết cũng
có ảnh hưởng tới sự ra đời của tâm lý học quân sự Việt Nam.
Mặt khác, do những yêu cầu trong hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán
bộ quân đội, để có thể khai thác có hiệu quả hơn yếu tố con người, đặc biệt trong
điều kiện của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, cung cấp các luận
cứ khoa học cho các giải pháp xây dựng nhân cách quân nhân và tập thể quân
nhân, lãnh đạo - quản lý con người đòi hỏi người cán bộ quân đội phải hiểu sâu
sắc tâm lý quân nhân và tập thể quân nhân. Muốn thế, họ phải được trang bị
những tri thức khoa học giúp họ hiểu được thế giới tâm hồn hết sức bí ẩn và
phức tạp của con người, nắm được các quy luật tâm lý của quân nhân và tập
thể quân nhân.
Tâm lý học quân sự Việt Nam hiện đại theo trường phái tâm lý học Mác
- xít là một chuyên ngành khoa học còn non trẻ trong hệ thống khoa học tâm
lý được hình tành và phát triển từ những năm sáu mươi của thế kỷ XX. Dưới
ánh sáng lý luận tiên phong của chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối chính trị
đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng với
việc tiếp thu có chọn lọc và vận dụng sáng tạo những thành tựu tâm lý học Xô
Viết vào điều kiện cụ thể xây dựng quân đội - tâm lý học quân sự Việt Nam đã
không ngừng trưởng thành và phát triển. Nền tâm lý học quân sự Việt Nam
gắn liền với tên tuổi và công lao của các nhà tâm lý học quân sự như: Đại tá,
Phó giáo sư Hồng Linh; Đại tá, Phó giáo sư, Tiến sĩ Hồng Ngọc Phách; Đại
tá, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Phú…. Trung thành và vận dụng sáng tạo
những nguyên tắc, thành tựu của tâm lý học Mác - xít với phạm trù trung tâm
là phạm trù hoạt động có đối tượng, tâm lý học quân sự Việt Nam đã góp


23


phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng quân đội về chính trị và tinh thần,
đáp ứng được những địi hỏi của cách mạng nước ta trong từng giai đoạn.
Những thành tựu của tâm lý học quân sự đã trở thành một bộ phận rất quan
trọng trong lịch sử xây dựng và phát triển nền Tâm lý học Mác - xít ở nước ta.
Cho đến nay, tâm lý học quân sự đã khẳng định được vị trí khơng thể thiếu
của mình trong hệ thống các mơn học ở các học viện, nhà trường quân đội,
tạo cơ sở khoa học cho công tác lãnh đạo, chỉ huy, quản lý bộ đội của cán bộ
các cấp trong quân đội. Các kết quả nghiên cứu cụ thể có thể kể đến như:
“Thanh niên với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc” (1989 -1990), “Nhân cách chiến
sĩ – bộ đội Cụ Hồ. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” (1990), “Tâm lý học
trong sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng” (1998), “Những
điều kiện tâm lý xã hội nhằm đẩy nhanh q trình thích ứng nghề nghiệp của
sĩ quan chính trị cấp phân đội”, Các cơng trình nghiên cứu về tập thể quân
nhân, tính kỷ luật của quân nhân; các vấn đề tâm lý trong hoạt động của các
quân binh chủng như Không quân, Hải quân, Tăng -Thiết giáp, Đặc công,
Biên phòng, Quân y…; các vấn đề tâm lý học sư phạm qn sự… Tất cả các
cơng trình nghiên cứu ấy đều dựa trên nền tảng lý luận và phương pháp luận
của tâm lý học Mác - xít và đã góp phần phát triển tâm lý học quân sự Việt
Nam nói riêng, phát triển khoa học tâm lý nói chung.

KẾT LUẬN
Học thuyết Mác-lênin ra đời với những luận điểm mang tính cách mạng,
khoa học về con người, về thế giới đã tạo bước ngoặt vĩ đại cho lịch sử khoa học
nhân loại, trong đó những lý luận về bản chất con người, về hoạt động của con
người cũng như vấn đề bản chất của ý thức con người là tiền đề, cơ sở trực tiếp


24

xây dựng nên hệ thống các nguyên tắc, phương pháp luận trong nghiên cứu cũng

như phát triển tâm lý người. Việc quán triệt, vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác – lê
nin trong xây dựng và phát triển nền tâm lý học ở Việt Nam nói chung, tâm lý học
quân sự Việt Nam nói riêng khơng chỉ mang ý nghĩa phương pháp luận mà cịn có
ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
Thực tiễn hoạt động quân sự, xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, tâm
lý học quân sự cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu các vấn đề lý luận và phương pháp
luận của tâm lý học quân sự, khai thác tư tưởng tâm lý học quân sự của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng vào hoạt động chỉ huy,
lãnh đạo, quản lý bộ đội; Các vấn đề lý luận và thực tiễn của sự hình thành và phát
triển nhân cách quân nhân, định hướng giá trị nhân cách quân nhân, giáo dục đạo
đức người quân nhân cách mạng; Các vấn đề tâm lý học tập thể quân nhân, tâm lý
học lãnh đạo, quản lý bộ đội; Các vấn đề tâm lý học của chống chiến tranh tâm lý,
tâm lý học sẵn sàng chiến đấu, vấn đề chuẩn bị tâm lý, củng cố kỷ luật quân sự,
tâm lý học sư phạm quân sự… Đồng thời, cán bộ chỉ huy, lãnh đạo cần nắm vững
những đặc điểm của hoạt động quân sự để tổ chức mọi mặt hoạt động của đơn vị
phù hợp với những yêu cầu của nhiệm vụ, sử dụng tốt nhất các điều kiện, phương
tiện hiện có phù hợp với khả năng của quân nhân thuộc quyền, bảo đảm cho đơn
vị sẵn sàng hồn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Hình thành cho mình mình
những phẩm chất của người lãnh đạo, chỉ huy: nhạy bén năng động, khả năng
phán đoán và ra quyết định chính xác. Thơng qua thực tiễn hoạt động quân sự để
hình thành, phát triển các phẩm chất tâm lý cần thiết cho quân nhân như ý chí kiên
cường, sẵn sàng hy sinh, sự bình tĩnh, tự tin, sự vững vàng cảm xúc, sự thành thạo
nghiệp vụ quân sự…đáp ứng yêu cầu hoạt động quân sự. Kiên quyết đấu tranh với
các quan điểm, tư tưởng sai trái xung quanh việc vận dụng, tiếp thu thành tựu tâm
lý học trong lĩnh vực hoạt động quân sự. Tâm lý học quân sự phải bám sát hoạt
động quân sự tạo ra những bước phát triển mới cả về lý luận và thực nghiệm để
xứng đáng là khoa học trung tâm trong các khoa học nghiên cứu về con người.
TÀI LIỆU THAM THẢO
1. Lịch sử tâm lý học và tâm lý học quân sự, Nxb QĐND, H 2003.
2. Lịch sử tâm lý học, Nxb ĐHQG, H 2004.

3. Các lý thuyết phát triển tâm lý người, Nxb ĐHSP, H 2003.


25
4. Tuyển tập Phạm Minh Hạc, Nxb CTQG, H 2006.
5. Bản thảo kinh tế - triết học, Nxb Sự thật, H 1962.
6. Tâm lý học Liên Xô, Nxb Tiến bộ, H 1978.
7. Những vấn đề Tâm lý học trong các tác phẩm của C.Mác, Học viện
CTQS, H.1984
8. A.N. Lêônchiep, Một số cơng trình Tâm lý học, Nxb Giáo dục, H.2003.
9. Tuyển tập tâm lý học (L.X.Vưgốtxki), Nxb ĐHQG, H 1997.
10. Phạm Minh Hạc, Nhập môn tâm lý học, Nxb Giáo dục, H.1980.
11. Tâm lý học những cơ sở lý luận và phương pháp luận, Học viện
chính trị quân sự 1984.
12. A.N. Leonchiep, Hoạt động, ý thức, nhân cách. Nxb GD. H.1989
(Phạm Minh Hạc, Phạm Hoàng Gia, Phạm Huy Châu dịch).


×