Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Thực trạng khối liên minh giai cấp công nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.99 KB, 18 trang )

TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

KHOA LÝ LUẬN CƠ SỞ
*
BÀI THU HOẠCH
Phần I.2: Những vấn đề cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh
Lớp Trung cấp LLCT-HC khóa 90
-----Họ và tên: Cấn Ngọc Quyết.

Mã sinh viên: k90 - 50

Lớp: Lớp Trung cấp LLCT-HC khóa 90
Câu hỏi:
Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền. Vận dụng trong
xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
BÀI LÀM
1. Mở đầu:
* Ý nghĩa, vai trò của việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển
chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta; đồng thời là sự kết tinh tinh
hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người. Việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh mang ý nghĩa hết sức to lớn:
trang bị hệ thống quan điểm và phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh, nâng cao thêm
lòng yêu nước, tinh thần phục vụ nhân dân, đạo đức cách mạng cả mỗi người, để làm
cho chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự trở thành nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho hành động của chúng ta.
1




Hồ Chí Minh (19/5/1890 – 2/9/1969) là một nhà cách mạng, một trong những
người đặt nền móng và lãnh đạo cơng cuộc đấu tranh giành độc lập, tồn vẹn lãnh thổ
cho Việt Nam. Người là nhà lãnh đạo nổi tiếng được nhiều người ngưỡng mộ và tôn
sùng, một vị nguyên thủ tài ba mà gần gũi, được hàng triệu đồng bào Việt Nam yêu
mến. Hồ Chí Minh đồng thời cũng là một nhà văn hóa lớn với nhiều tác phẩm văn học
nghệ thuật giá trị để lại cho đời. Có thể nói, có rất nhiều yếu tố để tạo nên một con
người vĩ đại với những thành tựu xuất chúng và dành được trái tim, tình cảm của
nhiều đồng bào trong nước nói riêng và nhân dân thế giới nói chung. Song một yếu tố
quan trọng then chốt và cơ bản đó chính là nội lực tự thân bên trong Hồ Chí Minh – là
tồn bộ tư tưởng, quan điểm, nhận thức cũng như phẩm chất đạo đức của Người.
Vì vậy, việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh giúp ta khám phá và hiểu rõ hơn
những phẩm chất, quan niệm sâu sắc của Người, cũng là qua đó tìm ra cho mình một
tấm gương sáng để noi theo và những bài học bổ ích để vận dụng trong cuộc sống.
Đối với Hồ Chí Minh, giữa tư tưởng với đạo đức – phong cách – lối sống là luôn
thống nhất nên việc nghiên cứu tư tưởng của Người không chỉ cho ta cái nhìn giản
đơn về những quan niệm của Người trong các lĩnh vực, mà mặt khác còn cho ta cảm
nhận được phẩm chất, đạo đức cao đẹp của Người. Hồ Chí Minh là con người “bằng
xương bằng thịt” nhưng Người làm được những việc phi thường, to lớn khơng phải
bất cứ một ai cũng làm được. Hồ Chí Minh cùng thành quả của Người chính là tấm
gương sáng “người thực việc thực” cho những ai am hiểu sâu sắc về những tư tưởng
của Người có thể học tập, làm theo.
Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh cịn là một trong những con đường để nhận thức
đầy đủ và sâu sắc hơn về công lao to lớn của Người đối với nhân dân, đất nước Việt
Nam và nhân dân của các nước thuộc địa trên thế giới. Thấm thía công lao của Người
cũng sẽ khơi gợi trong mỗi một người dân Việt Nam lòng biết ơn, lòng tự hào dân tộc,
thể hiện được nét đẹp truyền thống của dân tộc – đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”.
Với những ý nghĩa hết sức to lớn như trên, tại Đại hội đại biểu Toàn quốc lần
thứ VII (tháng 6/ 1991), Đảng đã trân trọng ghi vào Cương lĩnh và Điều lệ của mình:

“Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động”. Và từ đó tới nay, tư tưởng Hồ Chí Minh ln là ngọn
đèn soi sáng cho con đường của chúng ta, là vũ khí lý luận có giá trị khoa học sâu sắc
và có ý nghĩa thực tiễn to lớn; là tư tưởng chỉ đạo, là kim chỉ nam cho toàn Đảng, toàn
dân ta, đặc biệt là thế hệ trẻ hôm nay và mai sau, nhất là trong giai đoạn cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước.
Bên cạnh yếu tố cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là: tư tưởng về độc lập dân
tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội nhằm
2


giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, cịn có Quan điểm
Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền, việc thấm nhuần sâu sắc và quán
triệt đầy đủ tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân
có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong tổ chức và vận hành nhà nước kiến tạo, phục vụ
nhân dân, phục vụ xã hội, góp phần xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Đây chính là lý do tơi chọn để viết bài thu hoạch.
2. Nội dung:
2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề
Việc thấm nhuần sâu sắc và quán triệt đầy đủ tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong tổ
chức và vận hành nhà nước kiến tạo, phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội, góp phần xây
dựng và hồn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Để góp
phần nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về xây dựng nhà nước pháp quyền theo
quan điểm Hồ Chí Minh tơi xin làm rõ một số vấn đề sau:
* Khái niệm về nhà nước pháp quyền
Nhà nước pháp quyền là một nhà nước có cách thức tổ chức và hoạt động hoàn
toàn khác các nhà nước độc tài, chuyên chế, nhà nước cai trị. Nhà nước pháp quyền
được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, đó là hệ thống pháp luật dân
chủ, phản ánh cơng lí, phù hợp với quyền tự nhiên của con người. Nhà nước pháp

quyền được tổ chức và hoạt động trên cơ sở chủ quyền nhân dân, có cơ chế phân
cơng, kiểm sốt quyền lực nhà nước nhằm bảo đảm, bảo vệ quyền con người, tự do cá
nhân. Nhà nước pháp quyền là công cụ để phục vụ xã hội, phục vụ con người, mang
lại lợi ích cho cơng dân, bảo vệ tự do cá nhân và công bằng xã hội. Nhà nước cũng
như các chủ thể khác trong xã hội đều luôn tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách
nghiêm chỉnh.
* Nguyên tắc “Pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa” là nguyên tắc tương đối mới trong tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Theo
luật hiến pháp năm 2013, cụ thể:
Nó được quy định lần đầu tiên ở Hiến pháp năm 1992 khi được sửa đổi, bổ
sung năm 2001 và được hoàn thiện thêm một bước ở Hiến pháp năm 2013 tại khoản 1
Điều 2 và khoản 1 Điều 8.
Khoản 1 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa của Nhân dân dân,
do Nhân dân, vì Nhân dân Theo quy định này, mơ hình lý tưởng mà cơng cuộc xây
3


dựng bộ máy nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hướng tới là Nhà nước
pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa với bản chất của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
Ke từ khi quy định này xuất hiện lần đầu tiên trong Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ
sung năm 2001 đã có nhiều cơng trình nghiên cứu để tìm ra đặc điểm của Nhà nước
pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, hầu hết trong số đó nhất trí với sáu đặc
điểm: (1) Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; (2) Nhà nước được tổ
chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp; (3) Pháp luật
có vị trí tối tượng trong đời sống xã hội; (4) Nhà nước tôn trọng, bảo vệ các quyền
con người, quyền công dân; (5) Nhà nước bảo đảm quyền lực thống nhất, có sự phân
cơng, phối hợp trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; (6)
Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
* Những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền là biểu hiện tập trung của một

chế độ dân chủ, đó là:
Một là , Nhà nước pháp quyền là biểu hiện tập trung của chế độ dân chủ. Dân chủ vừa
là bản chất của nhà nước pháp quyền vừa là điều kiện, tiền đề của chế độ nhà nước.
Hai là , Nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp
và pháp luật.
Ba là , Nhà nước pháp quyền tôn trọng, đề cao và đảm bảo quyền con người trong
mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Bốn là , Quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền được tổ chức và thực hiện
theo các nguyên tắc dân chủ:
Năm là , Nhà nước pháp quyền gắn liền với một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật
phù hợp.
Sáu là, Trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước luôn được giới hạn trong các
mối quan hệ: Nhà nước và kinh tế; Nhà nước và xã hội.
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân thể hiện
trình độ kết hợp nhuần nhuyễn quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin với việc kế
thừa, tiếp thu có chọn lọc kho tàng tri thức, kinh nghiệm của nhân loại, vận dụng sáng
tạo vào điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam.
Thứ nhất, nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân
“Tất cả quyền bính trong nước là của tồn thể nhân dân Việt Nam” (1) - đó là tư
tưởng nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong phiên họp Hội đồng Chính phủ
ngày 03/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị tiến hành cuộc Tổng tuyển cử. Người
khẳng định: “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những
người có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà. Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là
những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là cơng dân thì có
quyền đi bầu cử… Do Tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội sẽ cử ra
Chính phủ. Chính phủ đó thật là Chính phủ của toàn dân” (2).
4


Thứ hai, nhà nước hợp hiến, hợp pháp, quản lý xã hội bằng pháp luật, kết hợp

với giáo dục đạo đức
Một ngày sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày trước
Hội đồng Chính phủ Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hịa, trong đó nhiệm vụ thứ ba được đề cập là xây dựng một Hiến pháp dân chủ.
Hiến pháp năm 1946 do Hồ Chủ tịch chỉ đạo soạn thảo đã tạo cơ sở pháp lý cho việc
thiết lập một Nhà nước của nhân dân, thiết lập trật tự xã hội trên tất cả các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội... Đồng thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh
số 47 về việc tạm giữ lại các luật lệ cũ, giữ lại mọi luật lệ cũ, chỉ trừ những điều luật
trái với nền độc lập, tự do và ban hành một loạt sắc lệnh cần thiết cho việc xây dựng,
củng cố chính quyền, ổn định đời sống nhân dân. Người cũng rất quan tâm sửa sang
pháp luật và luôn nhắc nhở cơ quan nhà nước phải chú ý lo việc sửa đổi, bổ sung các
đạo luật cho ngày càng hoàn chỉnh hơn, phù hợp hơn với điều kiện, hoàn cảnh mới
phát sinh.
Thứ ba, nhà nước tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân
Trong bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ, Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải
luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”
Thứ tư, nhà nước có hệ thống pháp luật dân chủ, thể hiện ý chí, lợi ích của nhân
dân
Trong tác phẩm Thường thức chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Cách
mạng tháng Tám thành cơng ta lập ra Chính phủ mới với pháp luật mới của nhân dân
để chống kẻ địch trong và ngồi, và để giữ gìn quyền lợi của nhân dân” .
Thứ năm, nhà nước có trách nhiệm và chịu trách nhiệm trước nhân dân, cơng
dân phải làm trịn nghĩa vụ đối với nhà nước và xã hội
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh trách nhiệm pháp lý của Đảng, Nhà nước và cán bộ
đảng viên nếu không làm tốt chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của mình: “Nếu dân đói,
Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là
Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi” .
Thứ sáu, có biện pháp kiểm soát quyền lực nhà nước, đấu tranh chống quan
Thứ bảy, nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân phải có đội ngũ cán bộ,

cơng chức chun nghiệp, trong sạch, thực sự là công bộc của nhân dân
Tư tưởng về nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân của Hồ Chủ tịch
khơng chỉ dừng lại ở văn bản pháp luật, trong các bài nói, bài viết của Người mà còn
thấm đẫm một tấm lòng thương yêu nhân dân, chăm lo cho dân, chăm lo cho ấm no,
hạnh phúc của nhân dân, thấm đượm lòng nhân ái, nghĩa đồng bào theo đạo lý truyền
thống ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Vì thế, pháp quyền Hồ Chí Minh là một nền
pháp quyền đặc biệt, pháp quyền nhân nghĩa - một thứ nhân nghĩa có nội hàm triết lý,
mang đậm tính dân tộc và sâu sắc vơ cùng. Có thể khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân đã phát triển tới một đỉnh
cao, phản ánh sự hoàn thiện của tư duy vừa khoa học, tiến bộ vừa nhân văn cao cả,
5


hướng tới xây dựng một nhà nước chứa đựng đầy đủ những giá trị cao quý nhất của
nền văn minh thế giới, của thời hiện đại, đó là những chân giá trị của chế độ nhà nước
dân chủ và pháp quyền.
* Quan điểm của Đảng, các quy định của Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp
quyền
Khái niệm “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” lần đầu tiên được nêu ra
tại Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (ngày 29/11/1991)
và tiếp tục được khẳng định tại Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng
năm 1994 cũng như trong các văn kiện khác của Đảng. Tiếp theo là tại các Đại hội lần
thứ X và XI của Đảng đã có bước phát triển về chất trong nhận thức về xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Thể chế hoá quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
Đảng, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân; 2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm
chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; 3. Quyền lực nhà nước là

thống nhất có sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng định hướng: “Xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì Nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước.
Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm sốt quyền lực gắn
với siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công
chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phịng, chống tham nhũng, lãng phí,
quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội”.
2.2. Đánh giá thực trạng vấn đề ( Phần liên hệ thực tiễn ) :
* Sau nhiều thập kỷ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng.
Đối với Việt Nam, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền đang được đặt ra như
một tất yếu lịch sử và tất yếu khách quan
Trên bình diện nghiên cứu cơ bản đã đạt được sự thống nhất trong việc xác định
sự cần thiết, bản chất, vai trò, những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Về mặt quyết tâm chính trị, nhiệm vụ xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được xác định là một trong những nhiệm
vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
6


Trên phương diện lập pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là một nguyên tắc hiến định. Dưới góc độ chính trị - pháp lý có thể khái quát
những thành tựu cơ bản của Đảng ta trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa như sau:
Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác lập một số nguyên tắc cơ bản, là nền tảng tư
tưởng và quan điểm cho việc kiến tạo một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đó là các ngun tắc quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân với các cơ chế bảo đảm cho quyền lực nhà nước luôn luôn nằm trong quỹ

đạo phục vụ nhân dân; Nguyên tắc bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực
hiện quyền lực nhà nước từ phía nhân dân; Nguyên tắc Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà
nước pháp quyền… Những nguyên tắc này không chỉ dừng ở những chủ trương chính
trị mà đã được thể chế trong Hiến pháp năm 2013- Đạo luật gốc, đạo luật cơ bản nhất
của Nhà nước.
Hai là, xác định rõ hơn vị trí, vai trị và chức năng của Nhà nước. Nhà nước pháp
quyền là Nhà nước đề cao vai trò của pháp luật, tính độc lập của cơ quan xét xử, hoạt
động của Nhà nước vì con người và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Nhận
thức rõ những giá trị này, trong lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ vị trí, vai trị của Nhà nước là trụ cột,
trung tâm của hệ thống chính trị, chuyển mạnh chức năng của Nhà nước theo hướng
phục vụ nhân dân.
Theo đó, một mặt, Đảng ta đã lãnh đạo phát huy tối đa vai trò trung tâm của Nhà nước
trong quản lý kinh tế - xã hội, đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của các bộ
phận quyền lực nhà nước - từ lập pháp, hành pháp, tư pháp, phát huy dân chủ, tăng
cường pháp chế. Nhà nước từ chỗ là người trực tiếp điều hành sản xuất kinh doanh,
phân phối, sang là người có vai trị định hướng, điều tiết, phối hợp, hướng dẫn một
cách có kế hoạch nền kinh tế thị trường. Nhà nước đang trở thành người bảo trợ, xúc
tác, tạo lập môi trường, huy động các nguồn lực và điều kiện thuận lợi cho hoạt động
kinh tế, ngăn chặn, hạn chế những mặt tiêu cực và khuyết tật của kinh tế thị trường,
bảo đảm cơng bằng xã hội, bảo vệ lợi ích của nhân dân. Mặt khác, q trình xã hội
hóa đang được đẩy nhanh, từng bước loại bỏ dần sự can thiệp của Nhà nước vào
những lĩnh vực quan hệ xã hội mà tính chất của chúng khơng địi hỏi sự can thiệp ấy,
7


tăng cường vai trò và khả năng độc lập của các thiết chế chính trị - xã hội theo hướng
tạo ra những chủ thể bình đẳng và có tư cách kiểm sốt hoạt động của Nhà nước.

Ba là, cơng tác phòng ngừa và đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng đạt được nhiều
kết quả. Với chế độ chính trị nhất nguyên thì quan liêu, tham nhũng là một nguy cơ
hiện thực, đe dọa nền dân chủ. Vì vậy, phịng ngừa và đấu tranh chống quan liêu,
tham nhũng, làm trong sạch bộ máy của Đảng và Nhà nước là một nhiệm vụ tất yếu
được đặt ra. Trong thực tế, nhiệm vụ nói trên đã được triển khai thường xuyên và đạt
những kết quả nhất định. Các văn kiện của Đảng từ Đại hội IX đến nay đều đánh giá:
trong nhiều năm qua, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã được coi trọng. Những
biểu hiện suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên đã giảm khá
nhiều và đang tiếp tục được cảnh tỉnh, răn đe; một số nơi tham nhũng, quan liêu, lãng
phí, trong đó có khơng ít vụ việc tồn đọng kéo dài nhiều năm, đã được tiếp tục giải
quyết…
Bốn là, Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vững được vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội,
từng bước tìm tịi và dẫn dắt quá trình nhận thức cũng như quá trình thể chế hóa các
quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên cả phương diện
chính trị và pháp lý.
Đảng ngày càng xác định rõ hơn nội dung của phương thức lãnh đạo và các kênh, các
con đường đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền đối với Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước bao quát toàn bộ những vấn đề then
chốt về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, thể hiện ở ba bộ phận trọng yếu:
1) lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật,
chính sách của Nhà nước và tổ chức thực hiện thông qua bộ máy nhà nước, bảo đảm
cho đường lối, chủ trương của Đảng trở thành hiện thực sinh động trong đời sống xã
hội của nhân dân; 2) lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu
của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; 3) lãnh
đạo kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội được cải tiến theo hướng
ngày càng có nhiều cách làm nhằm thực hiện và mở rộng dân chủ trong quan hệ Đảng
- Nhà nước - Dân (ứng cử tự do, công khai các cuộc họp của Quốc hội, công bố các
dự thảo luật để nhân dân góp ý, cơng bố nội dung các kỳ họp của Chính phủ...); các

phương tiện thơng tin đại chúng ngày càng phát huy vai trò tuyên truyền, giáo dục,
8


thuyết phục nhân dân và vai trò người phản biện đối với các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước.
Ngày càng phân định rõ hơn chức năng của các tổ chức đảng và các cơ quan nhà
nước, nhất là ở Trung ương, giảm bớt sự chồng chéo. Theo hướng đó, hoạt động của
Đảng và mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước thể hiện ngày càng rõ hơn tính chất
pháp quyền. Vai trò của các tổ chức nhà nước ngày càng được phát huy, được đổi mới
về tổ chức và phương thức hoạt động, tính chủ động, hiệu lực và hiệu quả ngày càng
được nâng cao.
Đảng bố trí cán bộ, đảng viên của mình giữ những cương vị chủ chốt trong bộ máy
chính quyền các cấp, nhờ đó, giữ vững được sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của
Đảng đối với hệ thống chính trị.
Năm là, về phương diện tổ chức quyền lực, Đảng lãnh đạo đổi mới tổ chức, hoạt động
của Nhà nước theo hướng minh bạch, cụ thể các bộ phận thực hiện quyền lực và mối
quan hệ giữa các cấp chính quyền.
Cùng với sự khẳng định về sự thống nhất của quyền lực nhà nước và sự tồn tại của ba
bộ phận quyền lực trong mối quan hệ phân cơng, phối hợp, kiểm sốt quyền lực nhà
nước thì việc phân cơng, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng thể hiện rõ hơn. Tổ chức và
phương thức hoạt động của bộ máy nhà nước pháp quyền nói chung, của từng loại cơ
quan nhà nước từng bước được đổi mới; chủ trương cải cách tổng thể bộ máy nhà
nước đang được triển khai có kết quả:
Trong lãnh đạo tổ chức, kiện toàn hoạt động của Quốc hội
Hoạt động lập pháp đã có sự đổi mới mạnh mẽ trong xây dựng các đạo luật, nghị
quyết, pháp lệnh, đã kịp thời thể chế hóa đường lối của Đảng và bao quát hầu hết các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Đảng lãnh đạo Quốc hội thực hiện tốt chức năng quyết
định các vấn đề quan trọng và chức năng giám sát tổ chức hoạt động của bộ máy nhà

nước.
Trong lãnh đạo tổ chức, kiện tồn hoạt động của Chính phủ
Đảng lãnh đạo Chính phủ thơng qua chủ trương, đường lối và các phương thức khác
để định hướng hoạt động, điều hòa, phối hợp giữa các cơ quan của Chính phủ với các
cơ quan Trung ương và giữa Chính phủ với chính quyền địa phương. Thơng qua đó,
9


Đảng kiểm tra, giám sát toàn bộ hoạt động và cơ chế điều hành của Chính phủ, bảo
đảm cho Chính phủ thực hiện được quyền hành pháp, đồng thời phải bảo đảm được
tính định hướng chính trị thể hiện trong đường lối, chính sách của Đảng.
Trong lãnh đạo tổ chức, kiện toàn hoạt động của các cơ quan tư pháp
Đảng xác định đúng vị trí, chức năng, thẩm quyền của từng cơ quan tư pháp và các
thiết chế bổ trợ tư pháp trong mối liên hệ với khâu trung tâm là xét xử theo yêu cầu
của Nhà nước pháp quyền. Đó là các u cầu về tính độc lập, khách quan, phụng
cơng, thủ pháp, chí cơng vơ tư, tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, dân chủ, minh
bạch. Việc tổ chức thực hiện các chủ trương về cải cách tư pháp của Đảng, các quy
định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan trong thời gian qua đã và
đang tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của tồn xã hội về vị trí, vai trị và
tầm quan trọng của công tác tư pháp trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Trong lãnh đạo tổ chức, kiện tồn hoạt động, đa dạng hóa mơ hình của chính quyền
địa phương các cấp
Hiến pháp năm 2013 đã tạo ra bước tiến lập pháp quan trọng, làm nền tảng cho việc
kiện toàn tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương theo hướng đa dạng hóa
các mơ hình, gắn với thực tiễn và điều kiện tổ chức chính quyền đơ thị, mơ hình tổ
chức chính quyền nông thôn, phù hợp với đặc điểm nông thôn, đơ thị, hải đảo, đơn vị
hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định.
* Để có được các kết quả trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân thời gian qua đó là nhờ:

- Thứ nhất, phát huy dân chủ, tạo dựng cơ chế nhân dân tham gia và đóng góp ý kiến
vào q trình xây dựng, ban hành các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước.
- Thứ hai, luôn đứng vững trên lập trường quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu có chọn lọc những giá trị phổ biến về xây dựng Nhà
nước pháp quyền trên thế giới
Trở thành Đảng cầm quyền, lãnh đạo công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, Đảng
Cộng sản Việt Nam không ngừng phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Đặc biệt, trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta khơng ngừng tìm tịi,
10


nghiên cứu, chọn lọc, tiếp thu và phát triển một cách sáng tạo những tinh hoa, giá trị
tiến bộ về nhà nước pháp quyền của thế giới.
- Thứ ba, Đảng cầm quyền lãnh đạo xây dựng Nhà nước luôn giữ vững nguyên tắc
Đảng lãnh đạo bằng quan điểm, đường lối chính trị và cầm quyền lãnh đạo bằng pháp
luật.
- Thứ tư, Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền luôn tôn trọng, bảo đảm, bảo
vệ quyền công dân, bảo vệ quyền con người.
- Thứ năm, thường xuyên quan tâm xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức
nhà nước có trình độ, năng lực và phẩm chất đạo đức cách mạng trong thời kỳ mới,
từng bước làm trong sạch bộ máy của Đảng và Nhà nước.
Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền luôn chú trọng việc lựa chọn,
giới thiệu đội ngũ cán bộ của Đảng có năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức và
bản lĩnh chính trị vững vàng vào các chức danh chủ chốt trong bộ máy nhà nước. Bên
cạnh đó, đã thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát đội ngũ cán bộ, công chức là
đảng viên và xử lý nghiêm minh đối với những cán bộ đảng viên vi phạm pháp luật.
Đảng có những biện pháp xử lý nghiêm minh đối với các hành vi tham nhũng, lãng
phí của cán bộ, đảng viên, thậm chí kể cả những cán bộ đảng viên giữ những trọng

trách quan trọng trong hệ thống chính trị.
* Bên cạnh các thành tựu đã đạt được trong xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền XHCN của nước ta vẫn còn một số tồn tại như: Vấn đề đổi mới đồng bộ,
phù hợp giữa kinh tế với chính trị, văn hóa, xã hội; giữa đổi mới kinh tế với đổi mới
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước có một số mặt chưa rõ. Cơ chế kiểm sốt
quyền lực chưa hồn thiện; vai trị giám sát của nhân dân chưa được phát huy mạnh
mẽ. Hệ thống pháp luật còn một số quy định chưa thống nhất, chưa đáp ứng kịp thời
yêu cầu thực tiễn. Thực thi pháp luật; kỷ cương, phép nước còn bị xem nhẹ, xử lý vi
phạm pháp luật chưa kịp thời, chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe. Cải cách hành chính
chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển đất nước. Tổ chức và hoạt động của chính
quyền địa phương đổi mới chưa mạnh mẽ; chức năng, nhiệm vụ, phân cấp, phân
quyền chưa thật rõ ràng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động còn hạn chế. Số lượng cán bộ
cấp xã và đội ngũ viên chức trong các đơn vị sự nghiệp cơng vẫn cịn q lớn; phẩm
chất, năng lực, uy tín cịn nhiều hạn chế, thiếu tính chun nghiệp, chưa đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
* Nguyên nhân của tồn tại hạn chế: Tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn
biến rất mới, phức tạp, khó dự báo, tác động trực tiếp đến sự hịa bình, ổn định và
phát triển của mỗi quốc gia. Các thách thức đối với nước ta rất lớn, ngày càng gay gắt
như: Thách thức từ các vấn đề kinh tế, xã hội, môi trường cả trước mắt và lâu dài.
Trong đó, trước mắt là các hoạt động kinh tế do tác động từ cạnh tranh thương mại, từ
11


dịch tả lợn châu Phi, đại dịch Covid-19 và dài hơn là sự chuẩn bị để thích ứng với nền
kinh tế số, từ giáo dục, kỹ năng đến hệ thống luật pháp. Các thách thức an ninh phi
truyền thống như an ninh môi trường, an ninh nguồn nước, an ninh mạng, biến đổi khí
hậu, thảm họa thiên nhiên (bão, lũ, nước biển dâng, hạn mặn...), dịch bệnh; tội phạm
xuyên quốc gia, tội phạm sử dụng công nghệ cao... Đối với lĩnh vực quốc phịng, an
ninh đó là: “Diễn biến hịa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; bảo vệ
chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo; phòng, chống khủng bố, cướp biển... đã ảnh hưởng rất

lớn đến nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
2.3. Một số giải pháp (hoặc đề xuất kiến nghị) nhằm nâng cao hiệu quả trong
xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII xác định mục tiêu chung là: “Tiếp tục
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới
hệ thống chính trị”(3). Để thực hiện được mục tiêu này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII đề ra 08 giải pháp cụ thể để xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn tới. Cụ thể như sau:
Một là, “Xác định rõ hơn vai trị, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trên cơ
sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
cơng rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước”(4).
Giải pháp này xuất phát từ thực tế chúng ta còn lúng túng trong việc xác định vai trò,
chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền
hành pháp và quyền tư pháp. Mặt khác, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của
Đảng đã tổng kết: “Cơ chế kiểm soát quyền lực chưa được phát huy mạnh mẽ”(5). Vì
vậy, trong nội dung phương hướng, nhiệm vụ thứ 10 về tiếp tục xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII nhấn mạnh: “Xác định rõ hơn vai trị, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn
của các cơ quan nhà nước, thực hiện tốt chức năng của Nhà nước, giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội”(6).
Đây là nhiệm vụ, cũng là giải pháp hết sức quan trọng, bởi thực hiện được giải pháp
này thì chức năng của từng cơ quan nhà nước sẽ rõ ràng, khơng chồng chéo, khơng bỏ
sót; như vậy, hoạt động của bộ máy nhà nước mới thống nhất và hiệu quả. Khi các
chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp được xác định rõ ràng thì việc phối hợp,
kiểm sốt quyền lực mới hiệu quả, tránh được tình trạng lạm quyền, lộng quyền, độc
đốn hoặc bng lỏng quyền lực. Tuy nhiên, quyền lực của Nhà nước Việt Nam là
quyền lực của Nhân dân, do vậy không thể dùng quyền lực của Nhân dân phân chia

12


cho cơ quan, bộ phận nào của Nhà nước. Quyền lực nhà nước của chúng ta về bản
chất luôn là thống nhất.
Hai là, “Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi,
công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người
dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát
triển nhanh, bền vững”(7). Giải pháp này cũng xuất phát từ thực tế việc xây dựng hệ
thống pháp luật còn chưa đầy đủ, thiếu kịp thời, nhiều điều luật thiếu tính khả thi.
Tổng kết việc xây dựng, hồn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong
nhiệm kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII của Đảng đã đánh giá: “Hệ thống pháp luật còn một số quy định
chưa thống nhất, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn”(8). Rõ ràng, nếu thiếu cơ
sở pháp lý, thiếu hệ thống pháp luật thì hoạt động quản lý nhà nước đối với các lĩnh
vực kinh tế, xã hội sẽ khó khăn, khơng hiệu quả.
Do vậy, nhiệm vụ quan trọng thứ hai trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đề ra là
xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai,
minh bạch, ổn định. Trong quá trình xây dựng pháp luật, phải lấy quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng
tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững làm mục tiêu. Đây vừa là giải pháp,
vừa là định hướng quan trọng trong xây dựng hệ thống pháp luật của Nhà nước ta.
Ba là, “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực
sự là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
Đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, phát huy dân chủ,
pháp quyền, tăng tính chuyên nghiệp trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, trong
thực hiện chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và
giám sát tối cao”(9). Để thực hiện được giải pháp này, cần tiếp tục thực hiện tốt ba
biện pháp cụ thể sau:

Thứ nhất, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng quy trình lập pháp, tập trung xây
dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tôn trọng,
bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân; hồn thiện cơ chế bảo vệ Hiến
pháp, lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội,
Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Gắn với nhiệm vụ này cần “đẩy nhanh tiến
độ ban hành các luật trực tiếp triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013”(10).
Thứ hai, thiết lập đồng bộ, gắn kết cơ chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân. Với Mặt trận Tổ quốc, cần “thực
hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của đồn viên, hội viên, tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước”(11).
13


Đối với Nhân dân, phải thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm “dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(12).
Thứ ba, bảo đảm tiêu chuẩn, cơ cấu, nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, tăng hợp
lý số lượng đại biểu hoạt động chuyên trách; giảm đại biểu hoạt động ở các cơ quan
hành pháp, tư pháp(13).
Bốn là, “Xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ Nhân dân, dân chủ, pháp quyền,
chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch”(14). Để thực
hiện tốt giải pháp này cần thực hiện tốt năm biện pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng tinh gọn,
hiệu lực, hiệu quả, trên cơ sở tổ chức hợp lý các bộ đa ngành, đa lĩnh vực.
Thứ hai, phát huy đầy đủ vai trị, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính
phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan
chấp hành của Quốc hội, tập trung vào quản lý vĩ mô, xây dựng thể chế, chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch; tăng cường năng lực dự báo, phân tích và đề xuất chính sách
dựa trên luận cứ khoa học và thực tiễn trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xác định rõ trách nhiệm giữa Chính phủ với

các bộ, ngành; giữa Chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa phương; khắc phục
triệt để tình trạng chồng chéo, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn.
Thứ tư, bảo đảm quản lý nhà nước thống nhất, đồng thời phát huy vai trò chủ động,
sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành.
Thứ năm, nâng cao chất lượng dịch vụ công; tiếp tục sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị
sự nghiệp công lập theo hướng tinh gọn, bảo đảm chất lượng, hoạt động hiệu quả(15).
Năm là, “Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chun nghiệp, hiện đại, cơng
bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân”(16). Để thực
hiện tốt giải pháp này, cần thực hiện tốt bốn biện pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân.
Thứ hai, nghiên cứu, ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, trong đó
có Chiến lược xây dựng pháp luật và cải cách tư pháp.

14


Thứ ba, tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và
uy tín của Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi
hành án và các cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp.
Thứ tư, giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các loại tranh chấp, khiếu kiện theo luật
định; phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với hoạt động tội phạm và vi phạm pháp
luật(17). Trong đó tiếp tục: “Thực hiện kiên trì, kiên quyết, có hiệu quả cuộc đấu
tranh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí”(18).
Sáu là, “Tiếp tục hồn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với địa bàn
nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt theo luật định”(19). Để
thực hiện tốt giải pháp này, cần triển khai thực hiện tốt ba biện pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, thực hiện và tổng kết việc thí điểm chính quyền đơ thị nhằm xây dựng và

vận hành các mơ hình quản trị chính quyền đơ thị theo hướng tinh gọn, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả.
Thứ hai, gắn kết và đổi mới tổ chức, bộ máy và cơ chế hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc, các tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp.
Thứ ba, cải cách phân cấp ngân sách nhà nước theo hướng phân định rõ ngân sách
Trung ương, ngân sách địa phương, bảo đảm vai trò chủ đạo của ngân sách Trung
ương, nâng cao tính chủ động, tự chủ của ngân sách địa phương(20).
Bảy là, “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy
tín, phục vụ Nhân dân và sự phát triển của đất nước”(21). Để thực hiện được giải
pháp này, cần thực hiện tốt ba biện pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, tăng cường kỷ luật, kỷ cương đi đôi với cải cách tiền lương, chế độ, chính
sách đãi ngộ, tạo mơi trường, điều kiện làm việc để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phục
vụ phát triển.
Thứ hai, có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích bảo
vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo,
dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích
chung.
Thứ ba, có cơ chế sàng lọc thay thế kịp thời những người khơng hồn thành nhiệm
vụ, vi phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, bị xử lý kỷ luật, khơng
cịn uy tín đối với Nhân dân(22).
(2),(3),(4),(5),(6),(7),(8),(9),(10),(11),(12),(13),(14),(15),(16),(17),(18),(19),(20),(21),(22),(23) Đảng Cộng sản Việt
Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQG

15


Tám là, “Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp
luật”(23). Để thực hiện tốt giải pháp này, cần thực hiện ba biện pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, tập trung chỉ đạo quyết liệt, đầu tư hợp lý nguồn lực và các điều kiện để
thực hiện tốt các nhiệm vụ nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật,

thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật.
Thứ hai, cải cách thủ tục hành chính, kiện tồn tổ chức, tinh giản hợp lý đầu mối, bỏ
cấp trung gian, tinh giản biên chế.
Thứ ba, tích cực thúc đẩy xây dựng chính quyền điện tử, tăng cường kết nối, trao đổi
thông tin thường xuyên giữa chính quyền các cấp, giữa chính quyền với người dân và
doanh nghiệp.
Qua phân tích các nội dung nêu trên cho thấy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
của Đảng đã đề ra hệ thống các giải pháp đồng bộ, toàn diện nhằm xây dựng, hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh, tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì Nhân dân phục vụ. Các giải pháp này có quan
hệ, tác động, ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau. Giải pháp đầu tiên tập trung xác định rõ
hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và kiểm soát quyền lực. Trên
cơ sở xác định rõ chức năng, vai trò, vị trí từng cơ quan thì mới thực hiện các giải
pháp khác được. Giải pháp thứ hai tập trung vào xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ,
kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định. Nghĩa là hình
thành thể chế, cơ sở pháp lý cho các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng của mình
một cách hiệu quả nhất. Giải pháp thứ ba tập trung vào đổi mới tổ chức và hoạt động
của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân,
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan lập pháp và cơ quan giám sát tối cao
của Nhà nước. Giải pháp thứ tư tập trung vào xây dựng nền hành chính nhà nước
phục vụ Nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững
mạnh, công khai, minh bạch. Thiếu nền hành chính này thì Nhà nước khơng thể thực
hiện tốt chức năng quản lý của mình. Giải pháp thứ năm tập trung xây dựng nền tư
pháp Việt Nam chun nghiệp, hiện đại, cơng bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng
sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Giải pháp thứ sáu tập trung hồn thiện tổ chức chính
quyền địa phương phù hợp với địa bàn nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính,
kinh tế đặc biệt theo luật định. Giải pháp thứ bảy tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ,
cơng chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ Nhân dân và sự phát triển đất
nước. Giải pháp thứ tám tập trung kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật và tổ

chức thi hành pháp luật.
Nội dung các giải pháp mà Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của
Đảng đề ra cho việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
16


Nam cho thấy những điểm mới về tính hệ thống, tính đồng bộ, tồn diện nhưng cũng
cụ thể hơn so với các kỳ Đại hội trước đây của Đảng. Đây là kết quả kế thừa tinh thần
các kỳ Đại hội trước, đồng thời là kết quả tổng kết thực hiện Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam./.
3. Kết luận:
Trong lịch sử, tư tưởng “ Lấy dân làm gốc” đã sớm xuất hiện ở những nhà chính trị,
những nhà lãnh đạo lớn. Nhưng đến Hồ Chí Minh tư tưởng về nhà nước của dân, do
dân, vì dân mới được phát triển sâu sắc, phong phú về nội dung với chất lượng mới
trở thành một quan điểm khoa học nhân đạo về bản chất nhà nước mới nhà nước của
dân do dân và vì dân.
Nếu như lấy dân làm gốc là tư tưởng chính trị truyền thống, thì đến Hồ Chí Minh
tư tưởng ấy được diễn đạt trong một mệnh đề chủ động hết sức giản dị, tự nhiên “
dân là gốc” đúng như những câu thơ của người:
Gốc có vững thì cây mới bền
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân
Ngày nay chúng ta xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
lấy tư tưởng pháp quyền của dân, do dân và vì dân của Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng trong xây dựng đó.
Với những kết quả đạt được trong cũng như những khó khăn tồn tại trong 35 năm
đổi mới hoàn thiện nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa đã tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến quá trình đổi mới đất nước nói chung.
Thực tế cho thấy, vấn đề đổi mới và hoàn thiện nhà nước hiện nay là một q trình
khó khăn trên cả lý thuyết và thực tiễn. Điều đó địi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân

ta cần có những bước đi và giải pháp khẩn trương vừa vững chắc trong hiện thực, tiếp
tục cải cách triệt để hơn nữa tổ chức và hoạt động của nhà nước để đáp ứng được tình
hình mới củanhà nước trong quá trình chấn hưng dân tộc và hội nhập ngày nay.
Nam Bình, Ngày 24 tháng 10 năm 2021
Người viết

17


1.

2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.

4. Danh mục tài liệu tham khảo
Giáo trình trung cấp lý luận chính trị - hành chính: Những vấn đề cơ bản của
chủ nghĩa Mác – Leenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận chính trị Hà Nội
2018
Đảng cộng sản Việt nam; Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.
Chính trị quốc gia, H.2006
Đảng cộng sản Việt nam; Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb.
Chính trị quốc gia, H.2016
Đảng cộng sản Việt nam; Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
Nxb. Chính trị quốc gia, H.2021
/> /> />Hồ Chí Minh, tồn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1994


18



×