Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Văn hóa ngôn ngữ teen trong giao tiếp của giới trẻ Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (867.65 KB, 21 trang )

ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
KHOA TIẾNG ANH
---------------------------

TÊN ĐỀ TÀI: VĂN HĨA NGƠN NGỮ TEEN TRONG
GIAO TIẾP CỦA GIỚI TRẺ VIỆT NAM HIỆN NAY

HÀ NỘI, 2020


MỤC LỤC
Mở đầu........................................................................................................................ 2
1. Lí do chon đề tài..................................................................................................... 2
2. Mục đích nghiên cứu.............................................................................................. 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.......................................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................ 4
5. Bố cục tiểu luận...................................................................................................... 4
Chương I: Một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài............................................... 4
1. Khái quát về ngôn ngữ............................................................................................ 4
2. Khái quát về văn hóa............................................................................................... 5
3. Mối quan hệ giữa ngơn ngữ và văn hóa.................................................................. 6
4. Giao tiếp, cộng đồng giao tiếp, mạng xã hội........................................................... 7
Chương II: Vấn đề ngôn ngữ teen trong giao tiếp của giới trẻ Việt Nam hiện nay..... 8
1. Dẫn nhập.................................................................................................................. 8
2. Thực trạng vấn đề văn hóa ngơn ngữ teen của giới trẻ............................................ 9
3. Đặc trưng ngơn ngữ và văn hóa trong ngơn ngữ teen của giới trẻ.......................... 13
4. Tiểu kết.................................................................................................................... 16
Chương III: Nguyên nhân và các biện pháp hạn chế sự lệch lạc của giới trẻ trong sử
dụng ngôn ngữ teen..................................................................................................... 16
1. Nguyên nhân của vến đề.......................................................................................... 16
2. Đề xuất giải pháp..................................................................................................... 18


Kết luận........................................................................................................................ 19

1


MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
“Tiếng Việt, một biểu hiện hùng hồn của sức sống dân tộc. Tiếng Việt có những đặc
sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay...” (Phạm Văn Đồng).
Trải qua rất nhiều thời kì, ngôn ngữ luôn luôn vận động và biến đổi, đây là một đặc
tính quan trọng và cố hữu của ngơn ngữ. Và bản thân tiếng Việt cũng đã có sự vận
động, biến đổi theo quy luật phát triển của nó và nhu cầu của người sử dụng. Nó thể
hiện, diễn đạt tâm tư, suy nghĩ và mong ước của mọi con người, mọi thế hệ đặc biệt là
trong thế kỉ XXI –thế kỉ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, sẽ mở
ra cơ hội tốt đẹp cho sự phát triển của toàn đát nước ta.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của ngôn ngữ, sự giao thoa giữa các nền văn hóa và
cơn lốc phát triển, hội nhập nền kinh tế trên thế giới cũng đã tạo ra một thế giới ảo –
thế giới mạng Internet, nơi mà giới tẻ sử dụng một thứ ngôn ngữ riêng – thứ ngôn ngữ
“không đụng hàng” mà chúng ta thường hay gọi đó là “ngơn ngữ tuổi teen”, “ngơn
ngữ thời@”, “tiếng Việt trong ngoặc kép” hay “ngôn ngữ riêng của giới trẻ”....
Hiện nay loại ngôn ngữ này đã, đang và sẽ lan truyền ngày càng rộng rãi trong giới
trẻ, đặc biệt là giới học sinh, sinh viên. Nhiều người cho rằng chẳng thể hiểu nổi giới
trẻ nghĩ gì và viết những gì trên những chatroom, blog, các diễn đàn mạng xã hội...
Chính vì thế, đã có khơng ít các ý kiến trái chiều về việc sử dụng loại ngôn ngữ này
xuất hiện trên nhiều mặt bào, các phương tiện thông tin đại chúng và ngay cả trên các
diễn đàn tuổi trẻ. Kiểu sử dụng ngôn ngữ này lan tràn trên hầu hết các diễn đàn, nhật
kí trực tuyến nhất là khi tán gẫu qua mạng, tin nhắn điện thoại. Đối tượng sử dụng chủ
yếu là giới trẻ, thuộc nhóm tuổi teen, trong đó phần lớn là các học sinh phổ thơng.
Mối nguy hại lớn chính là ngơn ngữ này lan vào nhà trường một cách âm thầm. Kiểu
ngôn ngữ khó hiểu như vậy hiện đang được giới trẻ sử dụng ngày càng rầm rộ trọng

việc giao tiếp, nó xa lạ với tiếng phổ thông và cũng chẳng giống với một ngơn ngữ
nào trên thế giới. Nó bao gồm những kí hiệu phức tạp, tiếng lóng, xen lẫn ngoại ngữ
và đặc biệt là nhiều từ được viết theo âm đọc, nhưng lại bị biến tưởng một cách cực kì
sai chính tả.

2


Văn hóa ngơn ngữ của giới trẻ hay cịn gọi là “ngơn ngữ teen” đang là vấn đề nóng
trong xã hội, tuy nó khơng ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế hay tính mạng con
người nhưng về lâu dài nó sẽ hủy hoại đến nền văn hóa của chúng ta. Từ tầm quan
trọng là thực tiễn trên, tôi xin chọn đề tài nghiên cứu: “Văn hóa ngơn ngữ teen trong
giao tiếp của giới trẻ Việt Nam hiện nay” nhằm đánh giá đúng sự nghiêm trọng của
vấn đề và đưa ra các giải pháp thích hợp để giải quyết vấn đề.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Việc nghiên cứu và tìm ra hướng đi hợp lý định hướng cho giới trẻ trong việc sử
dụng ngơn ngữ một cách có văn hóa là rất cần thiết và cấp bách nhằm giáo dục cho
thế hệ trẻ trong việc giữu gìn , phát huy sự trong sáng của Tiếng Việt. Điều này góp
phần giữu gìn nét đẹp trong văn hóa dân tộc, đây là một cơng việc bình thường, tự
nhiên và thường xuyên, lâu dài trong suốt quá trình phát triển của tiếng Việt từ trước
tới nay và từ nay về sau, nhằm bảo vệ và phát huy bản sắc, tinh hoa của tiếng Việt,
không để cho mất đi một cái gì vơ cùng q báu khiên cho tiếng Việt là tiếng Việt.
Đồng thời việc nghiên cứu những vấn đề trong văn hóa ngơn ngữ của giới trẻ nhằm
giữ gìn một xá hội văn minh trong tiếng nói. Bởi các bạn trẻ ở độ tuổi dở dở ương
ương này dễ bị tác động bới các yếu tố bên ngồi dù yếu tố đó là tốt hay xấu, nhiều
khi họ vẫn chưa thể tự quyết định được đâu là đúng đâu là sai, và đây cũng là giai
đoạn hình thành nhân cách của mỗi con người, việc định hướng đúng sẽ tránh gây ra
ảnh hưởng xấu đến tương lai sau này của các bạn cúng như xã hội.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu: Các đặc trưng và văn hóa ngôn ngữ teen trong giao tiếp của

giới trẻ Việt Nam hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu vấn đề văn hóa ngơn ngữ của giới trẻ trên
phạm vi thành phố Hà Nội. Đây là nơi mà văn hóa ngơn ngữ đã trở thành một vấn đề
nổi cộm và mang tính nhức nhối. Các bạn trẻ, đặc biệt là những người dưới 18 tuổi,
đây là lứa tuổi thiếu sự chín chắn nhưng lại là giai đoạn quan trọng để hình thành nhân
cách một con người.

3


4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đề tài, tôi đã sử dụng phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp khảo
sát điều tra, Phương pháp nghiên cứu tổng hợp tài liệu: sử dụng spss để phân tích tài
liệu về thực trạng sử dụng ngôn ngữ của một bộ phận giới trẻ trong quá trình phỏng
vấn điều tra và các phương pháp như phân tích, miêu tả và đối chiếu từ đó rút ra
những đặc điểm của ngơn ngữ và phân tích được những ảnh hưởng của nó đối với giới
trẻ hiện nay, suy luận ra phương pháp khắc phục thực trạng sử dụng ngôn ngữ trong
giới trẻ Việt Nam hiện nay.
5. BỐ CỤC TIỂU LUẬN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, phần chính của
bài tiểu luận gồm 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài.
Chương II: Vấn đề ngôn ngữ teen trong giao tiếp của giới trẻ Việt Nam hiện nay.
Chương III: Nguyên nhân và các biện pháp hạn chế, khắc phục sự lệch lạc của giới trẻ
trong sử dụng ngôn ngữ teen.

CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1. KHÁI QUÁT VỀ NGƠN NGỮ
Ngơn ngữ là hiện tượng lịch sử - xã hội nảy sinh trong hoạt động thực tiễn của con
người. Trong q trình cùng nhau lao động, lồi người cổ xưa có nhu cầu trao đổi ý

nghĩ, dự định, nguyện vọng, tâm tư tình cảm... Nhờ đó đến một giai đoạn phát triển
nhất định đã xuất hiện những dấu hiệu quy ước chung để giao tiếp, trong đó có những
dấu hiệu âm thanh, từ những tín hiệu này dần dần tạo thành từ ngữ và một hệ thống
quy tắc ngữ pháp, đó chính là ngơn ngữ.
Vậy ngơn ngữ là gì? Ngơn ngữ là một hệ thống kí hiệu từ ngữ đặc biệt dùng làm
phương tiện giao tiếp và làm cơng cụ tư duy. Kí hiệu từ ngữ là một hiện tượng tồn tại
khách quan trong đời sống tinh thần của con người, là một hiện tượng của nền văn hoá

4


tinh thần của lồi người. Kí hiệu từ ngữ là một hệ thống, trong đó mỗi kí hiệu chỉ có ý
nghĩa và thực hiện một chức năng nhất định ở trong hệ thống của mình.
Ngơn ngữ gồm ba bộ phận: ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp. Các đơn vị của ngơn ngữ là
âm vị, hình vị, từ, câu, ngữ đoạn, văn bản.... Bất cứ ngôn ngữ của dân tộc nào cũng
chứa đựng phạm trù ngữ pháp và phạm trù lôgic. Phạm trù ngữ pháp là một hệ thống
các quy định việc thành lập từ và câu, quy định sự phát âm. Phạm trù ngữ pháp ở các
ngôn ngữ khác nhau là khác nhau. Phạm trù lôgic là quy luật, phương pháp tư duy
đúng đắn của con người, vì vậy tuy dùng các ngơn ngữ (tiếng nói) khác nhau, nhưng
các dân tộc khác nhau vẫn hiểu được nhau.
Ngơn ngữ có tác động thay đổi hoạt động tinh thần, hoạt động trí tuệ, hoạt động bên
trong của con người. Nó hướng vào và làm trung gian hoá cho các hoạt động tâm lý
cấp cao của con người như tri giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng...
Ngôn ngữ do cá nhân tiến hành có thể có những xu hướng, mục đích khác nhau nhằm
truyền đạt một thông báo mới, những tri thức mới, giải quyết một nhiệm vụ tư duy
mới...
Ngôn ngữ của mỗi cá nhân phát triển cùng với năng lực nhận thức của cá nhân đó và
bao giờ cũng mang dấu ấn của những đặc điểm tâm lý riêng. Song ngôn ngữ của mỗi
cá nhân không chỉ phản ánh nghĩa của các từ mà còn phản ánh cả thái độ của bản thân
đối với đối tượng của ngôn ngữ và đối với người đang giao tiếp. Ngôn ngữ đặc trưng

cho từng người. Sự khác biệt cá nhân về ngôn ngữ thể hiện ở cách phát âm, ở giọng
điệu, cách dùng từ, cách biểu đạt nội dung tư tưởng, tình cảm.
2. KHÁI QT VỀ VĂN HĨA
Theo nghĩa hẹp, văn hố được giới hạn theo chiều sâu hoặc theo chiều rộng, theo
không gian hoặc theo thời gian… Giới hạn theo chiều sâu, văn hóa được hiểu là
những giá trị tinh hoa của nó (nếp sống văn hoá, văn hoá nghệ thuật…). Giới hạn theo
chiều rộng, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị trong từng lĩnh vực. Giới hạn theo
không gian, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị đặc thù của từng vùng . Giới hạn
theo thời gian, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị trong từng giai đoạn .

5


Theo nghĩa rộng, văn hoá thường được xem là bao gồm tất cả những gì do con người
sáng tạo ra. Hồ Chí Minh đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống,
lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa
học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn,
mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là
văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện
của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi
hỏi của sự sinh tồn”. Trần Ngọc Thêm cho rằng: Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các
giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua q trình hoạt động
thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của
mình.
Văn hóa là sản phẩm của lồi người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ
qua lại giữ con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con
người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác thơng qua q trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển
trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát
triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức

đời sống và hành động của con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà
do con người tạo ra.
Văn hóa là một công cụ giao tiếp. Nếu ngôn ngữ là một cơng cụ của giao tiếp thì văn
hóa là nội dung của nó. Văn hóa thường xuyên làm tăng độ ổn định xã hội, cung cấp
cho xã hội mọi phương tiện cần thiết để ứng phó với mơi trường xã hội và mơi trường
tự nhiên. Văn hóa giúp cho xã hội duy trì được trạng thái cân bằng động của mình,
khơng ngừng hồn thiện và thích ứng với những biến đổi của môi trường nhằm tự bảo
vệ để tồn tại và phát triển. Do mang tính nhân sinh, văn hóa trở thành sợi dây nối con
người với con người. Văn hóa thực hiện chức năng giáo dục bằng những giá trị ổn
định và cả những giá trị đang hình thành.
3. MỐI QUAN HỆ GIỮA NGƠN NGỮ VÀ VĂN HĨA

6


- Biểu hiện bên trong của ngôn ngữ và văn hố: Ngơn ngữ và văn hố có mối quan
hệ hữu cơ với nhau. Tuy nhiên, mối quan hệ này có thể được biểu hiện ra bên ngoài
thành những phương tiện vật chất cụ thể, nhưng cũng có thể biểu hiện qua mối quan
hệ bên trong. Mối quan hệ bên trong này được hình thành từ một trong những chức
năng quan trọng nhất của ngơn ngữ, đó là chức năng tư duy. Các Mác từng nói "Ngơn
ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng". Khơng có ngơn ngữ, con người khơng thể tư
duy. Nói một cách khác, mọi hoạt động tư duy của con người đều thực hiện trên chất
liệu của ngơn ngữ. Lênin ngồi việc đánh giá "Ngơn ngữ là công cụ giao tế quan trọng
nhất của con người" còn nhấn mạnh đến chức năng quan trọng khác của ngơn ngữ là
chức năng tư duy. Người nói: "khơng có tư tưởng nào lại trống rỗng cả".Từ phương
diện này, chúng ta nhận thấy, xét về bản chất, ngôn ngữ bao giờ cũng tham gia vào cả
hai loại văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể tuy cách biểu hiện của nó rất khác nhau.
Nói một cách khác, quan hệ giữa ngơn ngữ và văn hố khơng nổi lên trên bề mặt mà
ẩn sâu ở quan hệ bên trong giữa chúng. Mối quan hệ này chỉ được bộc lộ khi ta phân
tích vai trị và chức năng của ngơn ngữ khi nó tham gia vào q trình hình thành nên

một sản phẩm văn hoá vật thể cụ thể. Trên phương diện này, ngôn ngữ không chỉ là
công cụ của tư duy, là linh hồn cho sự sáng tạo ra các vật thể mang tính văn hố mà
cịn là một phương tiện lưu giữ thông tin, truyền bá những kinh nghiệm từ thế hệ này
qua thế hệ khác.
- Biểu hiện bên ngồi của mối quan hệ giữa ngơn ngữ và văn hố: Nói tới mặt biểu
hiện bên ngồi của mối quan hệ giữa văn hố và ngơn ngữ là nói tới khả năng quan sát
được những sự liên quan giữa văn hố và ngơn ngữ trên cơ sở những dấu hiệu, ký hiệu
cụ thể.
Như vậy, dù ở đâu thì giữa ngơn ngữ và văn hố vẫn có một mối quan hệ không thể
tách rời.
4. GIAO TIẾP, CỘNG ĐỒNG GIAO TIẾP, MẠNG XÃ HỘI
a. Giao tiếp
“Giao tiếp là trao đổi, tiếp xúc với nhau; ngôn ngữ là công cụ của giao tiếp”. Giao
tiếp chính là sự xác lập mối quan hệ giữa các cá nhân và giữa cá nhân với cộng đồng,

7


là quá trình kết nối con người với nhau, tạo nên giá trị một cộng đồng cũng như văn
hóa của cộng đồng đó. Giao tiếp thể hiện qua q trình chia sẻ thông tin, trao đổi quan
điểm nhằm tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau. Giao tiếp tốt là giao tiếp có văn hóa,
trong đó mức độ đánh giá được nhìn nhận qua thái độ, nguyên tắc ứng xử, nghi thức
lời nói… Ngơn ngữ là một trong những phương tiện hữu hiệu để đáp ứng được mục
đích giao tiếp. Nhờ ngơn ngữ mà con người có thể diễn đạt và làm cho người khác
hiểu được tư tưởng, tình cảm, trạng thái và nguyện vọng của mình.
b. Cộng đồng giao tiếp
Là phạm vi giới hạn nghiên cứu của biến thể, cộng đồng giao tiếp có thể được hiểu
là một tập hợp giữa những người có một số nguyên tắc xã hội chung khi sử dụng một
ngơn ngữ hay hình thức ngơn ngữ nào đó.
c. Mạng xã hội

Mạng xã hội, hay gọi là mạng xã hội ảo (social network) là dịch vụ nối kết các thành
viên cùng sở thích trên Internet lại với nhau với nhiều mục đích khác nhau khơng
phân biệt thời gian và khơng gian.

CHƯƠNG II: NGƠN NGỮ TEEN TRONG GIAO TIẾP CỦA GIỚI TRẺ
1. DẪN NHẬP
Một trong những vấn đề được bàn luận khá sôi nổi trên các diễn đàn mạng và truyền
thông đại chúng hiện nay là việc sử dụng ngơn ngữ trong văn hóa giao tiếp thường
ngày của giới trẻ (nhắn tin trên điện thoại, chat trên mạng, hội thoại ngoài đời sống...).
Giới trẻ đã sáng tạo ra cho mình một kiểu loại ngơn ngữ riêng khơng theo quy chuẩn
của tiếng Việt, thường được gọi là “ngôn ngữ teen” hay “ngơn ngữ chat”, “ngơn ngữ
@”. Đó là dạng thức ngôn ngữ được tạo ra bằng cách thay đổi từng chi tiết của các
chữ cái tiếng Việt, kết hợp nhiều loại ký hiệu khác nhau và với ngôn ngữ khác ngồi
tiếng Việt. Ngơn ngữ này thường được sử dụng trên mạng internet, cụ thể là trên các
diễn đàn, mạng xã hội, các cơng cụ trị chuyện trực tuyến khác, đặc biệt là trong tin
nhắn điện thoại. Khơng ít người phê phán cho rằng ngôn ngữ của giới trẻ hiện nay là
“xa lạ với tiếng phổ thông” và “cần có giải pháp khắc phục. Song, bên cạnh đó, cũng

8


có những bình luận tích cực, coi đó như là nhu cầu phát triển ngôn ngữ tất yếu của
giới trẻ trong xã hội hiện đại. Còn bản thân các bạn trẻ nghĩ gì về vấn đề đó, và những
suy nghĩ của họ nói lên điều gì? Từ góc độ văn hóa, tơi cho rằng, ngơn ngữ hàm chứa
ý thức xã hội và việc sử dụng ngôn ngữ không theo hệ quy chuẩn tiếng Việt của giới
trẻ là một hiện tượng văn hóa mang ý nghĩa thể hiện phong cách đặc trưng của giới
trẻ, sự va chạm giữa các giá trị, và là hình thức biểu đạt văn hóa của một nhóm xã hội
được giới trẻ thể hiện thơng qua dạng thức sử dụng ngôn ngữ “chung”.
2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ VĂN HĨA NGƠN NGỮ TEEN CỦA GIỚI TRẺ
Việc chửi tục, nói bậy khơng chỉ khiến cho tiếng Việt bị vẩn đục mà đáng báo động

nữa là tình trạng giới trẻ sử dụng “ký hiệu teen” đang trở nên phổ biến. Việc các bạn
trẻ dùng ký hiệu tràn lan, “tây, ta” lẫn lộn khiến cho cả các nhà ngôn ngữ học cũng
phải “bó tay”. Trong thời đại thơng tin hiện nay, việc sử dụng các ký hiệu đơn giản là
không sai. Nhưng điều đáng nói là họ đã lầm lẫn khi biến nó thành ký hiệu chung để
nói hoặc viết ở mọi nơi, mọi lúc. Tiếng Việt đang bị bóp méo và xâm phạm đến đáng
sợ. Tương lai của nó sẽ đi đến đâu, dưới bàn tay của “giới trẻ”, những chủ nhân tương
lai của đất nước. Từ “bóp méo” mà mình dùng ở đây mang cả nghĩa đen và nghĩa
bóng. Những thực tế làm chúng ta cảm thấy thương cho ngôn ngữ của dân tộc Việt
Nam…
- Tiếng Việt bị bẩn: Từ xưa, ông bà đã chú trọng rèn dạy lời ăn tiếng nói, rằng “tiên
học lễ, hậu học văn”, “học ăn, học nói, học gói, học mở”. Khi cịn đi học, việc khơng
nói tục, chửi thề là một trong những tiêu chuẩn thi đua hạnh kiểm ở trường. Vậy mà
hiện nay, nhiều người có trình độ văn hóa đang tự biến mình thành người thiếu văn
hóa. Khi nói tục, chửi thề, các em học sinh đang cố tình làm vấy bẩn tiếng Việt vốn vô
cùng đẹp đẽ và thiêng liêng. Chắc chắn ai cũng phải thừa nhận rằng chuyện chửi thề,
văng tục là một thói xấu, khơng văn hóa. Thế nhưng lại có khơng ít các bạn trẻ thường
xun có những “phát ngơn khiến nhiều người phải giật mình và cảm thấy khó chịu,
hơn hết là lo lắng rằng văn minh của họ ngày càng “ngắn” dần. Nhiều bạn trẻ coi chửi
bậy là sành điệu, khơng văng tục nói khơng lưu lốt. Khi bực dọc một vấn đề nào đó
họ chửi; bị điểm kém: chửi; khơng thích đứa bạn ngồi cùng bàn: chửi; không đến
được buổi hẹn với bạn bè: chửi, thậm chí cịn chửi u để bày tỏ tình cảm. Trong các
9


câu chuyện phiếm và cả chuyện nghiêm túc, các teen cũng vận dụng triệt để từ bậy
thay thế câu thông thường. Họ coi việc chửi bậy là để xả stress, xả bức xúc, thể hiện
cảm xúc…, ai không biết chửi sẽ rất “quê”. "Chửi bậy" đã trở thành chủ đề nóng trên
nhiều diễn đàn của các trường, trên blog. Vấn đề này đã được các teen tranh luận rất
thẳng thắn và đã có rất nhiều ý kiến trái chiều. Phần nhiều các teen tỏ ra ủng hộ, thơng
cảm, thậm chí coi chửi bậy là “một phần tất yếu”. Nhưng cũng có những ý kiến hồi

nghi, lo lắng: “Chẳng nhẽ bây giờ lại thiếu văn minh hay sao? Em không hiểu được xã
hội ngày nay như thế nào nữa? Đi đến đâu cũng thấy những lời nói bậy, nói tục, thiếu
văn hoá. Ngay cả tại các trường chuyên lớp chọn bây giờ cũng không hề giữ được nếp
sống văn minh như thời trước. Làm thế nào để hết những tệ nạn này đây!”
- Tiếng Việt không dấu: Đơn giản là những kiểu viết khơng có dấu thanh. Nhiều
người nghĩ viết thế cho nó nhanh gọn nhẹ, vả lại biết tiếng với nhau cả rồi, chẳng lẽ
không dịch được? Nhưng hãy nghĩ lại: ví dụ như dịng chữ khơng dấu dưới đây: “Ban
that la dam dang” – nên hiểu “Bạn thật là đảm đang” hay “Bạn thật là dâm đãng”
đây??? Một tập hợp những con chữ khơng có dấu, phải dịch chán mới hiểu. Hay một
nữ học sinh nhắn cho bạn: “Tau pun ngu we” (Tao buồn ngủ quá). Tin nhắn trả lời:
“Bit oj, mey mep nhu heo hem bik seo pun ngu lu‟m tje?” (Biết rồi, mày mập như heo
không biết sao buồn ngủ lắm thế).
- Sự biến dạng của những từ ngữ, chữ viết: Qua tìm hiểu được biết đây là “mốt” ngôn
ngữ riêng của giới trẻ. Đọc một đoạn tin nhắn trên điện thoại di động, lướt qua vài
trang blog hoặc diễn đàn của giới trẻ, dễ dàng bắt gặp những mẩu đối thoại khác
người. Thật là nực cười cho những kiểu viết quái gở: từ “rồi” viết thành “rồi”,
“khơng” thành “hơng”, “hem”, “biết” thành “bít”. Ồ, hãy thử lắp vào một câu xem:
“The la cau hem bit roai, hihi” Nhưng, đó chỉ là những kiểu thay đổi “sơ khai”. Hẳn
trí tuệ ln ln phát triển và họ dành nó để cho ra đời những đứa con tinh thần quái
gở hơn, từ “bóp méo” đến lúc này đã có thể dùng theo nghĩa vốn có của nó. Chữ “a”
viết thành 4, chữ e viết thành 3, i thành j, g đổi sang 9, o thành 0, c thành k, b thành p
… Trên một diễn đàn, một nick name có tên “co_nang_ ngo_ngao” viết: “Hum ni là
14-2 đéy pà kon ạ, đư pợn na dwc twng hoa kua! Ko 1 fan twng hoa jo min nen thay
zui zui, (Hôm nay là 14/2 đấy bà con ạ, đã bạn nào được tặng hoa chưa! Có một người

10


hâm mộ tăng hoa cho mình nên thấy vui vui). Một số em không biết cách định dạng
kiểu chữ tiếng Việt trên trang soạn thảo blog nên dùng sẵn những gì có ngay trên bàn

phím để chữ viết có thêm dấu cho dễ đọc. Cũng tại một diễn đàn dành cho tuổi mới
lớn, chúng tôi bắt gặp một nick name có tên “dang_yeu” tâm sự: “Ngoi` pun` hok bjk
lem` je^`, vo^ tinh` nghj~ den' anh, hok bjk jo` nay` anh dang lam` j` ” (Ngồi buồn
khơng biết làm gì, vơ tình nghĩ đến anh, khơng biết giờ này anh đang làm gì) … Đây
là câu nói sau khí được “chế tác” lần 3: “Th3 l4 k4u h3m pjt r04j, hyhy”. Đó là một
đống ký tự lộn xộn khơng dịch nổi và khơng biết có phải là ngơn ngữ khơng, chưa nói
gì đến đó là ngơn ngữ của chính dân tộc chúng ta. Và óc sáng tạo vơ bờ bến của tuổi
trẻ hiện nay vẫn chưa dừng lại. Viết thì có 2 kiểu viết: viết in và viết thường, đó cùng
là một kiểu “cá tính”. “ThE^ lA` kA^.u hEm pYt r0A`j nhA, hYhY”. Đến đây thì
khơng cịn là ngơn ngữ nữa, hãy hiểu rằng đó chỉ là một tập hợp ơ hợp, hỗn độn những
con chữ vô giá trị. Nhưng đến khi nó đã là trở thành nhếch nhác như … rác thải thì
hình như các bạn trẻ vẫn khơng được bng tha cho Tiếng Việt. Có vẻ như viết ra
chừng ngắn và kém độ hoành tráng “giới trẻ” đã biến chữ a phải thành Cl, @ hay là ã,
Ỉ mới đủ hồnh tráng, chữ q thì phải là v\/ mới sành điệu, p thành º]º mới “xì tin” …
Hãy xem lại “đứa con tinh thần” của họ: “††|é ]_à ßạ]\[ ]<ỳ( ó ]_õà \/ \/]\[
]]\[(ơ \/] ò òú] /v\ộ, |ụ/v\ ]\[ClƠ Pv]\[| Pv] ]\[(ơ] \/] \/Ơ, (| ]\[
(ơ]]\[ ]_ ]\[|]\[(ơ ĐàƠ ]\[(ơ| ]\[ /v\]\[ |ụ] [/.
- S ln ỏt của ngoại ngữ … Từ xưa, Trung Quốc xâm lược Việt Nam và thiết lập chế
độ Bắc thuộc đến cả 1000 năm, đó là điều tại sao Tiếng Việt chịu ảnh hưởng rất lớn
của tiếng Hán, nhiều từ Việt hiện nay có gốc từ tiếng Hán. Nhưng điều đó có thể nói
là mang tính khách quan và có nói thì … cũng khơng làm gì được, vì dù sao nó cũng
là quá khứ rồi. Nhưng hiện tại thì sao? Nền văn hóa phương Tây du nhập vào Việt
Nam ngày một tăng, đặc biệt thơng qua mạng Internet. Những mặt tích cực thì khơng
ai có thể chối cãi, nhưng nó mang theo một hiện tượng mà người ta gọi là “sính
ngoại”, tức là quá tôn sùng và ưa dùng ngôn ngữ nước ngồi. Mình xin nói cụ thể ở
đây là Tiếng Anh … “Hiện nay, người ta viết rất ẩu và dùng nhiều chữ nước ngồi
q. Điều đó rất dở và rất bực... Bác Hồ thường phê bình: “Đã dốt lại hay nói chữ!
Đúng q, chính vì dốt mà hay nói chữ!" Nhưng theo nhận xét của mình hiện nay thì
khơng giới hạn trong những cái thùng rỗng đó mà mở rộng ra nhiều rồi … “Người
11



người chơi chữ, nhà nhà chơi chữ”. Nhưng chúng ta phải hiểu “chơi chữ” ở đây không
phải thâm thúy, sâu cay như Trạng Quỳnh ngày xưa hay các cụ Nguyễn Khuyến,
Nguyễn Cơng Hoan mà nó chỉ đơn giản là … thích dùng tiếng nước ngồi. Những từ
Tiếng Anh hay được dùng nhất bây giờ là “xì tin” (chú thích là đã bị biến dạng, từ
nguyên gốc là “style”, có nghĩa là phong cách), bên cạnh có một vài “dị bản” như tin,
tyn, xì tyn, xì teen, hay … xì ten ). Không kém phần thông dụng là từ “pro” (viết tắt
của từ Professional – nghĩa là chuyên nghiệp), các bạn trẻ cứ nghiễm nhiên dùng và
cho nó một cái nghĩa là “siêu”, tất nhiên các “láng giềng” thì hẳn là nhiều đi rồi, prồ,
prô, pzo, pzo`… Ồ, thật là muôn hình vạn trạng. Các “thuật ngữ” về trị chơi trực
tuyến có thể nói là được ưa dùng nhất. Trong đó có thể kể tới những từ phổ biến như
“server” (máy chủ), ks - kill steal (ăn cắp điểm kinh nghiệm giết quái vật), disconnect
(ngắt kết nối với máy chủ), gọi là phổ biến vì là người ta dùng nhiều, chứ dùng đúng
hay khơng phải xem xét Đúng nghĩa chưa nói chứ đúng từ thì thật là cịn lắm gian
trn … có những bạn hồn nhiên dùng từ “sever”, “disconect” mà khơng thèm nói
Tiếng Việt như máy chủ hay ngắt kết nối. Ngay đến cách viết còn chẳng biết, đã đua
nhau viết, ra chừng mình giỏi giang. Nhưng những từ đó không gây đáng ngại cho
lắm. Công nghệ thông tin là lĩnh vực Tiếng Việt đang bị dồn ép đến chân tường nhiều
nhất… nhưng đó mới là một lĩnh vực , thực sự là đâu đâu cũng thấy việc người ta lạm
dụng quá mức Tiếng Anh. “Siêu sao” thì dùng “superstar”, điện thoại di động thì
“mobile phone”, “vụ bê bối” thì “scandal”. Ví dụ như câu “Vụ bê bối của các ngơi
sao” thì lại viết kiểu “Tây” hơn như “Scandal của Superstar”. Dường như các bạn trẻ
đã và đang tạo lập cho mình một "ngơn ngữ" riêng, lệch với chuẩn của ngơn ngữ mẹ
đẻ, thậm chí các em cịn tự tin xen rất nhiều từ tiếng Anh vào ngơn ngữ chính thống.
Ở các nước sử dụng tiếng Anh, khi họ viết trong tin nhắn chữ "sk8board" thay vì viết
đầy đủ là "skateboard" (ván trượt). Sở dĩ có sự viết tắt này là vì âm "ate" được phát ra
nghe tương tự như "eight" (số 8). Còn ở Việt Nam, giới trẻ cũng có nhiều cách vận
dụng ngơn ngữ thú vị và mặc dù biết tiếng Anh nhưng chúng tôi đã phải mất vài phút
để hiểu các bạn nói gì. Ví dụ như: “Ugly tiger” nghĩa là “xấu hổ” (ugly = xấu, tiger =

con hổ); “no have spend” nghĩa là “khơng có chi” (no = khơng, have = có, spend =
chi, ví dụ như chi tiền!). Khi được đặt câu hỏi với một số bạn tại sao lại chọn cách

12


diễn đạt bằng thứ tiếng Anh sai từ loại và ngữ pháp như vậy, thì nhận được câu trả lời:
“chúng em quen dùng rồi”, “ngôn ngữ ấy đã phổ biến” và “vậy mới là... sáng tạo”.
- Xuyên tạc ca dao, tục ngữ. Tình trạng ca dao, tục ngữ “chế” ngày một phổ biến, và
nó cịn ảnh hưởng khá mạnh đến các em tuổi teen. Các bạn trẻ đã nhái lại nhiều thành
ngữ, tục ngữ theo cách nói vần vè, phần lớn vô nghĩa, chủ yếu để gây cười. Những câu
này chưa đạt tới chuẩn của thành ngữ. Số câu hay và sáng tạo, như: “Đã siđa cịn xơng
pha hiến máu”, rất hiếm. Lại có một hai câu gây cười vơ ý thức, xúc phạm tới người
khác, chẳng hạn: “Bộ đội phải chơi trội”; “Hận đời cắt tóc đi tu, nghĩ đi nghĩ lại đi tù
sướng hơn”. Nhìn chung, chúng là những “ranh ngơn” cho tuổi teen. “Nó học giỏi vì
nó thường ăn tỏi”, hay khi thầy giáo khen bạn khác có ý chí học tập, lại có tiếng trả
lời: “Nó có ý chí vì nó có lý”, đại khái là như vậy. Hay các dân nhậu khi lỉn xỉn rồi
cũng có “thành ngữ”, ví dụ: “Khơng lai rai coi chừng đai”, “Vô vô vô, không vô cái
mặt như cái tô”…
Ngôn ngữ của giới trẻ hiện nay hầu như chỉ lưu hành trên mạng internet, trang web
hay blog cá nhân và trên tin nhắn điện thoại. Điều này cho thấy rõ, sự ra đời của ngôn
ngữ cua gioi tre hien nay gắn liền với mức độ phổ biến của công cụ máy tính và điện
thoại di động đối với thế hệ trẻ. Nếu tách rời khỏi điện thoại và máy tính, ngôn ngữ
cua gioi tre hien nay hầu như không phát huy được sức mạnh và sự cộng cảm lớn của
đa số người sử dụng. Đồng nghĩa với việc, “sân chơi” của ngơn ngữ tuổi teen chỉ có
thể trên “thế giới ảo” là mạng internet, chứ khó có thể “lấn sân” sang các “sân chơi”
khác vì gặp phải thái độ cự tuyệt của cộng đồng, thậm chí có thể của chính bản thân
những người đang sử dụng ngôn ngữ tuổi teen vốn rất yêu quý tiếng Việt. Điều này
khiến chúng ta có thể n tâm rằng, ngơn ngữ tuổi teen khơng đủ sức mạnh để thay
thế hệ thống chữ viết tiếng Việt lưu hành hiện nay.

3. ĐẶC TRƯNG NGÔN NGỮ VÀ VĂN HĨA TRONG NGƠN NGỮ TEEN CỦA
GIỚI TRẺ
3.1. Đặc trưng ngôn ngữ teen
3.1.1. Ngữ âm, chữ viết

13


Trong ngôn ngữ teen, từ ngữ bị biến đổi, cắt bớt hoặc thay thế nguyên âm và phụ
âm.
3.1.2. Ngữ pháp
Trong ngơn ngữ teen, ngữ pháp biến đổi một sổ hình thức sau: viết tắt, thêm thán từ
để biểu lộ, thay đổi các thanh điệu.
3.1.3. Từ vựng
Một hình thức phổ biến trong việc biến đổi từ vựng trong ngôn ngữ teen là việc sử
dụng tiếng bồi và tiếng lóng.
3.1.4. Ngữ nghĩa
Người giao tiếp thường trò chuyện với tâm trạng thoải mái, tự nhiên, khơng bị gị bó
bởi người đối diện , khơng câu nể trong cách dùng từ, lời nói khi diễn đạt. Do đó, cách
giao tiếp thường thiếu chủ ngữ, lời lẽ có tính tức thời, khơng gọt giũa.
3.2. Văn hóa giao tiếp trong giới trẻ
3.2.1. Giao lưu văn hóa ảnh hưởng đến giới trẻ sử dụng ngôn ngữ
Giao lưu văn hóa là sự vận động thường xuyên của xã hội gắn với tiến bộ xã hội
nhưng cũng gắn bó với sự phát triển của văn hóa, là sự vận động thường xun của
văn hóa. Việc lạm dụng ngơn ngữ teen trong học tập có thể gây ra những hệ quả tiêu
cực, khiến học sinh quên đi cách sử dụng từ ngữ theo đúng chuẩn mực, gây trở ngại
trong quá trình giao tiếp. Xa hơn, khi thường xuyên sử dụng thứ ngơn ngữ này một
cách bừa bãi có thể ít nhiều gây ảnh hưởng tới tính cách như tùy tiện, cẩu thả.
3.2.2. Các đặc trưng giao tiếp của giới trẻ
a. Thái độ giao tiếp

Trong ngôn ngữ teen, các chủ thể giao tiếp muốn thể hiện cái tôi cá nhân, trước hết
là phải cho mọi người thấy cái tơi đó khác với mọi người, khơng đụng hàng với bất kì
một ai, nếu hai người biết nhau, ngơn ngữ có phần thân quen, dạn dĩ hơn . Đối với

14


giới trẻ, việc chat là cách chứng tỏ vai trò, bản lĩnh, vị trí của họ trong giai đoạn
trưởng thành.
b. Quan hệ giao tiếp
Mối quan hệ giữa những người đó dẫn tới đặc điểm văn hóa của ngơn ngữ teen.Khi
những người quen biết có quan hệ bạn bè, gia đình, thầy trò, đồng nghiệp, bạn hàng...
chat với nhau, khi người viết blog có vị trí xác định trong xã hội thì ngơn ngữ được
dùng đúng chuẩn mực văn hóa, xã hội như yêu cầu.
c. Đối tượng giao tiếp
Tham gia có rất nhiều thành phần với nhiều trình độ trong giới trẻ.
d. Cách thức giao tiếp
Tùy theo tính cách của mình mà sẽ có thế mạnh riêng cho từng cách thức giao
tiếp.Họ bất mãn, thất bại, cô đơn trong đời sống , học tập và muốn tìm sự đồng cảm
trên mạng xã hội. Hình thức đó khá đặc biệt vì người tiếp nhận khơng xác định cụ thể
là ai. Vì thế cảm xúc, sự kiện được chia sẻ trở lên thật hơn, táo bạo hơn.
3.3. Các đặc trưng về nghệ thuật ngơn từ và văn hóa trong ngơn ngữ teen
a. Tính biểu trưng cao
Trong ngôn ngữ teen, đặc biệt ngôn ngữ chat, tính biểu trưng cao bộc lộ qua việc sử
dụng các từ cố định. Bên cạnh những câu nói có thể chấp nhận được cịn là những câu
nói dựa vào thành ngữ gốc mà biến đỏi, làm mất hết ý nghĩa của nó và nó mang lại
một thơng tin sai lệch hoàn toàn với thành ngữ ban đầu mà người Việt sử dụng.
b. Giàu biểu cảm, cảm xúc
Qua ngôn ngữ teen, giới trẻ dùng nhiều hình thức khác nhau để thể hiện cá tính, cảm
xúc của mình. “Lạ hóa” cách viết chính tả như: Nhại giọng trẻ con, gây ấn tượng cho

người đọc.
c. Tính động và linh hoạt

15


Bỏ bớt các kí tự khi chat. Khơng có âm đệm trong một số từ có âm đầu là t,c,t,j,l...
và có âm chính là i,e,iê
d. Tính nhanh và gấp
Xuất phát từ nhu cầu muốn quá trình giao tiếp diễn ra nhanh, giới trẻ nảy sinh hiện
tượng viết tắt, thay vì viết “ khơng” thì viết là “ko”, hoặc “k”, “nghĩ” viết thành
“ngĩ”...
e. Rút gọn và biến thể
Từ nhu cầu muốn q trình giao tiếp diễn ra nhanh chóng, giới trẻ nảy sinh một số
hiện tượng biến đổi ngôn ngữ chat như sau: Sử dụng nguyên thể tiếng nước ngoài,
thay thế phụ âm cuối trong ngôn ngữ chat, hiện tượng thêm “h” vào cuối từ, hiện
tượng “z” hóa âm cuối, dùng phong cách sáng tạo, lập chữ để tạo ra trường độ.
4. TIỂU KẾT
Kết quả khảo sát cho thấy mức độ xuất hiện của ngơn ngữ teen trong từng hồn cảnh
cho thấy hơn 75% trong số 100 bạn được phỏng vấn sử dụng ngơn ngữ teen trong việc
nói chuyện qua mạng, tin nhắn, zalo , điện thoại; 10% sử dụng ngôn ngữ teen trong trị
chuyện ở lớp, nơi cơng cộng, 8% sử dụng trong việc viết văn, viết các bài trên mạng,
còn lại là sử dụng trong các bài tập trên lớp cũng như mọi trường hợp. Mức độ sử
dụng của tuổi teen hiện nay là 35% sử dụng ở mức độ bình thường và 32% sử dụng ở
mức độ khá nhiều. Điều này chứng tỏ ngôn ngữ teen đang được các bạn trẻ sử dụng
thường xuyên và có xu hướng tăng dần. Trong ngôn ngữ teen giới trẻ sử dụng phổ
biến là hình thức tiếng Việt khơng dấu, giả dấu và các thanh điệu, dùng phiên âm thay
thế từ vựng và sử dụng nhiều ngôn ngữ. Qua các đặc trưng trong ngôn ngữ teen như
đặc trưng về ngữ âm và chữ viết, ngữ pháp, từ vựng, ngữ nghĩa và văn hóa giao tiếp
trong giới trẻ, các đặc trưng nghệ thuật ngôn từ thể hiện các đặc trưng cao, giàu biểu

cảm, cảm xúc, tính động và linh hoạt, rút gọn và biến thể , có thể nhận thấy được tính
sống nhanh và gấp của giới trẻ hiện nay thể hiện trong ngôn ngữ teen.

16


CHƯƠNG III: NGUYÊN NHÂN VÀ CÁC BIỆN PHÁP HẠN CHẾ SỰ
LỆCH LẠC CỦA GIỚI TRẺ TRONG SỬ DỤNG NGÔN NGỮ TEEN
1. NGUN NHÂN CỦA VẤN ĐỀ
Ngơn ngữ chát, hay nói rộng ra, ngôn ngữ @ này là hiện tượng mới do giới tuổi
teen hiện nay thường dùng. Ngôn ngữ này xuất hiện từ khi có sự bùng nổ của Internet
đồng thời với sự thay đổi của xã hội, từ một xã hội khá bảo thủ sang một xã hội cởi
mở. Đây là một hiện tượng bình thường của ngơn ngữ - xã hội, nó như là một quy luật
tự nhiên. Xã hội cởi mở, dịng thơng tin, lối sống phong cách phương Tây, phương
Đông ồ ạt tràn vào Việt Nam. Giới trẻ là những người thích thú nhất. Họ học tập, sáng
tạo, áp dụng và làm ra cái mới của riêng họ, để thể hiện mình.
Những hiện tượng đó có những nguyên nhân khách quan và chủ quan của nó. Về mặt
khách quan, đó là những ngun nhân ngồi ngơn ngữ như: xu hướng đổi mới, sự thay
đổi, sự hội nhập, các trào lưu xã hội, sự bùng nổ của Interrnet…và trong ngơn ngữ, đó
chính là quy luật tiết kiệm. Đó là quy luật khơng ai có thể phá vỡ nổi, khơng có đạo
luật nghiêm khắc nào có thể ngăn chặn, can thiệp được, dù ghét nó người ta cũng phải
nhượng bộ. Cịn về mặt chủ quan thì giới tuổi teen muốn tìm sự khác biệt, mới lạ. Họ
muốn khẳng định mình trước người lớn, để người lớn phải tơn trọng. Tư duy cần phải
tạo nên sự khác biệt đã ăn sâu vào giới trẻ hiện nay”.
Xét từ góc độ tâm lí học, tuổi teen là lứa tuổi có đặc trưng tâm lí thích cái mới, thích
khám phá và khẳng định “đẳngcấp” của bản thân mình. Do đó, lứa tuổi này dễ bị thu
hút vào những trào lưu mới mang đặc trưng phong cách của lứa tuổi mình. Sử dụng
ngơn ngữ tuổi teen chỉ là một trong hàng loạt những những trào lưu khẳng định bản
thân như cách ăn mặc, kiểu tóc, cách giải trí vui chơi... Nói nơm na là, làm được một
việc gì vừa khác với lứa tuổi con nít trước đây, lại vừa khác với người lớn, phù hợp

với trào lưu giới trẻ lan rộng khắp nơi thì tuổi teen cảm thấy thỏa mãn nhu cầu khẳng
định bản thân mình. Vì vậy, khơng hẳn việc xây dựng hệ thống quy ước kí tự đó sẽ
khiến cho q trình giao tiếp nhanh gọn tiện lợi hơn, mà ngược lại có khi cịn phức tạp
hơn, nhưng cái quan trọng là tuổi teen có thể làm chủ được một điều mới lạ mà người

17


lớn khơng hề biết được. Tuổi teen cảm thấy thích thú và xem khả năng làm chủ đó thể
hiện “đẳng cấp” của thế hệ mình.
Ngồi ra đó cịn là những nguyên nhâm rất cơ bản khiến cho ngôn ngữ của giới trẻ
lệch chuẩn là: Trong gia đình, cách nói năng giao tiếp giữa mọi người cũng không
chuẩn mực; Trong giờ học, học sinh khơng nói bậy nhưng giờ ra chơi các em vẫn chửi
bậy; Cịn ở ngồi xã hội, việc nói tục, chửi bậy khá phổ biến nhưng rất ít người lên án.
Đồng thời những nguyên nhân cơ bản khiến ngôn ngữ của giới trẻ bị biến dạng là:
Thường xuyên xen tiếng nước ngồi vào bài viết, lời nói; q lạm dụng từ viết tắt;
dùng q nhiều tiếng lóng. Chính lớp trẻ - đối tượng giữ vai trò quan trọng nhất trong
việc bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt - lại đang từng ngày bị đe dọa bởi thứ ngơn
ngữ méo mó, qi dị đó.
Hiện nay Internet, điện thoại di động đang lan truyền toàn cầu, từ thành thị tới thơn
q, thậm chí cả vùng sâu ,vùng xa nữa, nơi nào khơng có Interrnet thì đã có sóng
điện thoại di động. Vì vậy, giới trẻ có thể kết nối với nhau mọi lúc, mọi nơi, và họ học
hỏi, cập nhật ngôn ngữ cho nhau rất nhanh. Ngôn ngữ @ nhanh chóng có thể lan
truyền khắp nơi trong giới trẻ và tạo ra 1 làn sóng mạnh mẽ. Nếu mà nói một cách
sịng phẳng thì đó là sự ơ nhiễm ngôn ngữ trong tiếng Việt. Ngôn ngữ @ đã đi q
giới hạn của tiếng Việt văn hóa, thậm chí tiếng Việt bình dân.
2. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
Trong các yếu tố tác động đến ngôn ngữ tuổi teen, yếu tố gia đình vẫn là quan trọng
nhất. Bản thân gia đình cũng phải có ý thức rèn con cái từ lời nói đến hành vi. Bố mẹ,
ông bà cũng phải nêu gương cho con cái. Bên cạnh đó, nhà trường phải chú ý rèn học

sinh về ngơn ngữ, nói đúng, viết đúng chuẩn tiếng Việt, trong đó có viết đúng chính
tả. Trước tiên, chúng ta phải giáo dục để các bạn hiểu rõ đâu là chuẩn mực ngôn ngữ,
chứ không nên lầm lẫn khi biến phương tiện làm việc thành phương tiện giao tiếp. Lời
nói lệch chuẩn có thể dẫn đến tư duy, hành vi lệch lạc. Vì thế, việc làm méo mó ngơn
ngữ tiếng Việt cần phải được lên án.
Cần xây dựng phong trào giữ gìn sự trong sáng tiếng Việt để các bạn trẻ hiểu và thực
hiện theo. Việc giáo dục cần được bắt nguồn từ thực tế, những câu chuyện, tình huống

18


thật xảy ra trong cuộc sống. Ví dụ như cầu thủ Rooney của CLB Machester United
(Anh) chỉ vì trót văng tục trong một trận đá bóng đã bị Liên đồn Bóng đá Anh (FA)
xử phạt và cầu thủ này đã phải lên tiếng xin lỗi khán giả.
Ở một xã hội văn minh, họ khơng chấp nhận, thậm chí tẩy chay nếu những người nổi
tiếng có những lời nói, hành vi xấu trước công chúng. Làm sao để các em hiểu thế nào
là con người văn minh, lịch lãm, về điều này thì giáo dục của chúng ta lại chưa làm
được. Các tờ báo, đặc biệt là báo mạng, cần đi đầu trong việc đưa ra những từ, ngữ,
câu… đúng chuẩn và trong sáng. Kế đó là gia đình. Mới đây, ngành giáo dục Hà Nội
triển khai chương trình “Giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh” xuống các trường
học. Đây phải chăng là một tín hiệu tốt để giải quyết một phần những bất cập trên?
Bởi đặc trưng của tâm lý, độ tuổi nên các bạn trẻ ở thời kì „dở dở ương ương‟ này
nhiều khi vẫn chưa thể tự phân biệt rằng đâu là đúng đâu là sai, cái gì là nên hoặc
khơng nên, do đó, họ cần phải có sự quan tâm, giáo dục từ phía gia đình và xã hội.
Nhiều bạn trẻ nói như thế vì vốn từ vựng tiếng Việt của các bạn còn hạn chế. Trong
lĩnh vực giáo dục, dường như chúng ta đã cung cấp cho học sinh quá nhiều kiến thức
ngôn ngữ học về Tiếng Việt mà lại coi nhẹ phần kĩ năng giao tiếp. Tôi cho rằng nếu
phần kĩ năng giao tiếp được vận dụng tốt trong nhà trường thì sẽ giúp học sinh biết nói
, viết đúng và hay. Để bạn trẻ biết yêu, trân trọng ngôn ngữ của dân tộc thì cần phải
đẩy mạnh giáo dục cho các em nâng cao kiến thức về tiếng mẹ đẻ.


KẾT LUẬN
Ngôn ngữ teen xuất hiện như một hiện tượng văn hóa nhóm trong xã hội đương đại
và là dạng ngôn ngữ đặc trưng trong giao tiếp của giới trẻ hiện nay. Việc sử dụng
dạng ngôn ngữ này trong giao tiếp trên mạng và trong cuộc sống đời thường đã hình
thành nên sự liên kết nhóm do tính thân thiện, cởi mở, vui vẻ với phong cách sáng tạo
“chệch chuẩn” của tuổi trẻ. Sự xuất hiện ngôn ngữ của cư dân mạng là quy luật tất yếu
trong thời đại phát triển của thế giới truyền thơng mà internet đóng vai trị chủ đạo,
mở ra một dạng thức văn hóa mới trong đó ngơn ngữ mang những giá trị cốt lõi
chuyển tải mọi sắc thái của hành vi giao tiếp trong không gian đa chiều, đa phong
cách của thế giới mạng. Với việc đề xuất những giải pháp điều chỉnh ngôn ngữ teen

19


của giới trẻ hiện nay, chúng tôi hi vọng ngôn ngữ của các em có thể trở thành một
cơng cụ giao tiếp hữu hiệu cho họ như một sự phát triển tự nhiên của ngôn ngữ, mà
không làm mất đi những nét đẹp vốn có của tiếng Việt. Bên cạnh đó với việc xác định
hướng phát triển tiếp theo của ngôn ngữ teen, chúng tôi hy vọng xã hội sẽ định hướng
một cách đúng đắn sự phát triển cho ngôn ngữ giới trẻ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Văn Đồng, Về vấn đề giáo dục - đào tạo, NXB Chính trị Quốc gia, năm 1999.
2. Hồ Chí Minh, Nhật ký trong tù (1942-1943).
3. Nhiều Tác Giả, Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa thơng tin, năm 2006.
4. Từ điển Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.

20




×