Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Vai trò của Mỹ trong trong quan hệ quốc tế tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương giai đoạn hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (463.14 KB, 34 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

KHOA QUAN HỆ QUỐC TẾ

---🙥🙧🕮🙥🙧---

TIỂU LUẬN
MƠN: QUAN HỆ QUỐC TẾ ĐẠI CƯƠNG

Đề tài:
Vai trị của Mỹ trong trong quan hệ quốc tế tại
khu vực châu Á – Thái Bình Dương giai đoạn hiện nay.

Họ và tên
Lớp
Mã sinh viên
Giảng viên hướng dẫn

Hà Nội – 05/06/2021



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

NỘI DUNG

3


Chương I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN, KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH
KHU VỰC CHÂU Á – THÁI BÌNH DƯƠNG VÀ NƯỚC MỸ.
3
1.1. Các khái niệm cơ bản

3

1.1.2 Khái niệm quan hệ quốc tế.

3

1.1.2 Khái niệm nước lớn và vai trò của nước lớn.

3

1.2 Khái quát về khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

4

1.3.1 Về địa lý, lịch sử.

4

1.2.2 Về chính trị, kinh tế, an ninh.

6

1.2 Khái quát về nước Mỹ.

8


Chương II: VAI TRÒ CỦA MỸ TRONG QHQT Ở KHU VỰC CHÂU Á THÁI BÌNH DƯƠNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
9
2.1 Vai trò của Mỹ trong quan hệ kinh tế quốc tế ở khu vực châu Á –
Thái Bình Dương.
10
2.1.1 Mỹ có vai trị là đối tác kinh tế quan trọng, không thể thiếu của
khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
10
2.1.2 Mỹ là người dẫn đầu, thúc đẩy sự phát triển và hợp tác kinh tế
trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
12
2.2 Vai trị của Mỹ trong quan hệ chính trị, an ninh quốc tế ở khu vực
châu Á – Thái Bình Dương.
14
2.2.1 Mỹ có vai trị chủ chốt, chi phối tình hình an ninh, trật tự khu
vực châu Á - Thái Bình Dương.
14
2.2.2 Mỹ là đối trọng giúp cân bằng ảnh hưởng của các nước lớn trong
khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
18
Chương III: QUAN HỆ VIỆT – MỸ VÀ VAI TRÒ CỦA MỸ TRONG
VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG.
22
3.1 Quan hệ Việt Nam – Mỹ trong giai đoạn hiện nay.

22

3.2 Vai trò của Mỹ trong vấn đề Biển Đông.


24

3.3 Đề xuất các giải pháp kết hợp vai trò của Việt Nam và Mỹ để giải
quyết vấn đề Biển Đông.
25
KẾT LUẬN

27

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

28


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay khu vực châu Á - Thái Bình Dương đang trở thành một trong
những tâm điểm thu hút sự chú ý của toàn thế giới. Với những tiềm năng phát
triển vượt bậc và vị trí chiến lược quan trọng, châu Á Thái Bình Dương hiện
nay là một chiến trường vơ cùng nóng trong cuộc chiến phân tranh sự ảnh
hưởng của các nước lớn. Và Mỹ với tư cách là siêu cường hàng đầu thế giới
chắc chắn sẽ không bỏ qua bất cứ cơ hội nào để thể hiện vai trị của mình
trong quan hệ quốc tế tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Do đó thơng qua việc nghiên cứu và phân tích vai trị của nước Mỹ
trong quan hệ quốc tế tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương hiện nay ta có
thể nắm bắt được tình hình, diễn biến trong quan hệ quốc tế trong khu vực
cũng như trên thế giới từ đó có cơ sở để đánh giá, dự đoán sự biến động, xu
hướng của quan hệ quốc tế trong tương lai từ đó đưa ra các chính sách, giải
pháp phù hợp để bảo vệ và phát triển đất nước trong điều kiện tình hình thế
giới phức tạp và nhiều biến động.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu.
Mục tiêu nghiên cứu: nghiên cứu này nhằm mục đích làm rõ vai trị của
Mỹ trong quan hệ quốc tế ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và đề xuất
một số giải pháp để kết hợp vai trò của Việt Nam và Mỹ để giải quyết mâu
thuẫn trong khu vực.


2
Nhiệm vụ nghiên cứu:
● Làm rõ các vấn đề lý luận về khái niệm quan hệ quốc tế, nước lớn và
vai trò của các nước lớn trong quan hệ quốc tế.
● Phân tích tổng hợp các chính sách của Mỹ và các nước khu vực châu Á
- Thái Bình Dương để đưa ra vai trò của Mỹ trong quan hệ quốc tế khu
vực châu Á - Thái Bình Dương hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: tập trung vào vai trò của Mỹ tại khu vực châu Á Thái Bình Dương từ thời tổng thống George W. Bush đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận của đề tài là hệ thống các quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngồi ra đề tài có sử dụng có
chọn lọc một số bài báo, cơng trình nghiên cứu trong và ngồi nước đánh giá
về tình hình khu vực châu Á - Thái Bình Dương và vai trị của Mỹ ở khu vực
châu Á - Thái Bình Dương.
Phương pháp nghiên cứu: Tiểu luận sử dụng phép biện chứng duy vật
và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin làm phương pháp
luận chung đồng thời kết hợp phương pháp lịch sử và phương pháp logic để
có thể nhìn nhận vấn đề một cách chính xác khoa học. Ngồi ra cịn áp dụng
các phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh, dự báo.
5. Kết cấu của đề tài
Kết cấu của đề tài gồm 3 phần Mở đầu, Nội dung, Kết luận, Danh mục
tài liệu tham khảo. Trong đó phần Nội dung gồm 3 chương.



3

NỘI DUNG
Chương I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN, KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH
KHU VỰC CHÂU Á – THÁI BÌNH DƯƠNG VÀ NƯỚC MỸ.
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.2 Khái niệm quan hệ quốc tế.
Quan hệ quốc tế là mối quan hệ trên phạm vi thế giới, phạm vi nhân
loại giữa các quốc gia dân tộc, các tổ chức và phong trào quốc tế, các vùng,
khu vực,… Đó là hình thức đặc biệt của quan hệ xã hội gồm nhiều mặt quan
hệ như chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, quân sự, luật pháp, tư tưởng, an
ninh,… trong đó quan hệ chính trị quốc tế là quan hệ cơ bản và quan trọng
nhất. Quan hệ quốc tế gồm các lĩnh vực chủ yếu: quan hệ chính trị quốc tế,
quan hệ kinh tế quốc tế, quan hệ an ninh, quốc phòng quốc tế, quan hệ quốc tế
về văn hóa, y tế, giáo dục và những vấn đề xã hội,…1
1.1.2 Khái niệm nước lớn và vai trò của nước lớn.
Khái niệm “nước lớn” có nhiều điểm tương đồng nhưng cũng có những
điểm khác biệt với khái niệm “cường quốc” và “siêu cường”. Theo Đại từ
điển Tiếng Việt: “Cường quốc là nước mạnh có vai trị quan trọng trong quan
hệ quốc tế”. “Siêu cường là nước lớn và rất mạnh về chính trị, quân sự, kinh
tế, vượt trội hơn các nước khác” 2. “Siêu cường” là khái niệm chỉ một quốc
gia có sức nặng quyết định đối với toàn bộ các vấn đề có tầm quan trọng của
thế giới. Ví dụ như Mỹ hiện nay được gọi là một siêu cường.
Có thể hiểu “nước lớn là những quốc giá có vị thế lớn, có khả năng tạo
ảnh hưởng ở phạm vi tồn cầu” . Ví dụ như Mỹ, Nga, Trung Quốc được gọi là

1
2


Khoa Quan hệ quốc tế (2018), Tập đề cương bài giảng Quan hệ quốc tế, tr.7
Nguyễn Như Ý (chủ biên): Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa – Thơng tin, tr.499


4
các nước lớn trên thế giới. Ngày nay, khi nói đến nước lớn là phải nói đến sức
mạnh tồn diện của quốc gia đó trong quan hệ so sánh với các quốc gia khác
trong cộng đồng quốc tế, là những quốc gia mạnh nhất trong số các cường
quốc.
Vai trò của các nước lớn có thể được thể hiện qua ba nội dung:
● Các nước lớn đóng vai trị là các “diễn viên chính” trên sân khấu thế
giới.
● Quan hệ giữa các nước lớn chi phối quan hệ quốc tế và quá trình
hình thành của trật tự thế giới
● Sự thay đổi tương quan lực lượng về kinh tế, chính trị, qn sự giữa
các nước lớn đóng vai trị quyết định sự thay đổi cục diện chính trị
thế giới.
1.2 Khái quát về khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Châu Á Thái Bình Dương là một khu vực rất đặc thù với tiềm năng
phát triển cùng với sự đa dạng, không thống nhất về địa lý, lịch sử văn hóa.
Có nhiều quan niệm khác nhau đê xác định khu vực châu Á - Thái Bình
Dương tuy nhiên trong nghiên cứu này sẽ sử dụng quan niệm của Mỹ, xác
định rằng khu vực châu Á - Thái Bình Dương bao gồm các nước ven bờ Thái
Bình Dương, các đảo và quần đảo trong Thái Bình Dương và các nước có liên
quan trực tiếp đến khu vực.
1.3.1 Về địa lý, lịch sử.
*Về địa lý
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương có tổng diện tích là 55 triệu km2 3,
gồm các quốc gia từ toàn bộ châu Đại Dương, Bắc Mỹ, Trung Mỹ và một
3


Lê Minh Châu (2001), Quan hệ quốc tế, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, tr.101.


5
phần phía Tây Nam Mỹ, một phần phía Bắc lục địa Á – Âu (Nga), Bắc Á,
Nam Á, Đông Á và Đơng Nam Á. Khu vực này có quy mơ dân số rất lớn
chiếm tới hơn 65% dân số thế giới.4 Khu vực châu Á - Thái Bình Dương có
tài nguyên thiên nhiên dồi dào, phong phú, đặc biệt rất giàu tài ngun biển.
Có nhiều mỏ khống sản với trữ lượng lớn nhưng mới bước đầu được khai
thác, như dầu mỏ, khoáng chất, các loại kim loại quý và hiếm. Khu vực châu
Á - Thái Bình Dương có thiên nhiên phong phú, khí hậu khơng q khắc
nghiệt, phù hợp với sự phát triển của sinh vật và con người.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương bao gồm nhiều quốc gia lớn và có
tầm ảnh hưởng. Trong đó có bốn quốc gia có diện tích lớn nhất thế giới (Nga,
Canada, Hoa Kỳ, Trung Quốc), bốn quốc gia có dân số đông nhất thế giới
(Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ, Indonesia), những cường quốc kinh tế hàng dầu thế
giới (Mỹ, Trung Quốc, Nga, Nhật) và ba trên năm thành viên Hội đồng Bảo
an Liên hợp quốc (Mỹ, Nga, Trung Quốc).
Châu Á Thái Bình Dương là khu vực có vị trí chiến lược vô cùng quan
trọng, tiếp giáp với nhiều đại dương, là nơi kết nối nhiều châu lục, là đầu mối
giao thông đường biển quan trọng để đi đến các khu vực Nam Á, châu Phi,
châu Âu. yết hầu, cửa ngõ kết nối nhiều nước lớn như Mỹ, Nga, Trung Quốc
với thế giới.
*Về lịch sử:
Các quốc gia ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương có lịch sử hình
thành và phát triển rất đa dạng. Trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương có
các quốc gia thành lập sớm và đã có ảnh hưởng nhất định trong khu vực tuy
nhiên sau đó lại trở thành nước thuộc địa trong thế kỉ 20 như các nước Đông


4

Gia An (2019), 11 yếu tố sẽ giúp Châu Á - Thái Bình Dương thống trị thế kỷ 21, Báo Đấu thầu.


6
Nam Á, Trung Quốc, Ấn Độ,… Một số quốc gia khác ra đời muộn hơn nhưng
có sự phát triển rất mạnh như Mỹ, Úc,…
1.2.2 Về chính trị, kinh tế, an ninh.
* Về kinh tế.
Nhìn chung trước chiến tranh thế giới thứ hai, tình hình kinh tế của các
nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương khơng mấy phát triển, hầu hết là các
nước thuộc địa hoặc phụ thuộc vào các quốc gia khác. Đến năm 1945, khi Mỹ
thực hiện kế hoạch Macsan, một số quốc gia trong khu vực châu Á - Thái
Bình Dương được đầu tư mạnh nên đã nhanh chóng ổn định và tăng cường
phát triển (Nhật Bản, Nam Triều Tiên, Thái Lan, Singapore,…)
Những năm cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI, tình hình kinh tế trong khu
vực châu Á - Thái Bình Dương đã có sự chuyển biến mạnh mẽ, nền kinh tế
tăng trưởng nhanh vượt bậc, khoa học kĩ thuật phát triển. Châu Á Thái Bình
Dương là khu vực phục hồi nhanh nhất và đạt mức độ tăng trưởng kinh tế cao
nhất sau những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế toàn cầu.
Hiện nay khu vực châu Á - Thái Bình Dương đã đạt được tiến bộ phát triển
hết sức to lớn, trở thành nguồn đóng góp lớn nhất vào GDP tồn cầu. Thêm
vào đó khu vực châu Á - Thái Bình Dương hiện đang có mức tăng trưởng cao
nhất trên tồn cầu với nhiều quốc gia có mức tăng trưởng đứng đầu thế giới
rất cao như Việt Nam (16,9%), Malaysia (7,2%), Lào (6,9%), Nepal
(6,8%),…5. Các chuyên gia kinh tế đánh giá khu vực châu Á - Thái Bình
Dương đang và sẽ tiếp tục trở thành chiếc neo ổn định và là động lực mới của
nền kinh tế toàn cầu.


5

Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (2019), Cơ sở dữ liệu Triển vọng Kinh tế Thế giới IMF 2017.


7
Tuy nhiên có một điểm yếu trong nền kinh tế khu vực châu Á - Thái
Bình Dương vẫn đang tồn tại và có thể sẽ tiếp tục gia tăng đó chính là sự phân
bổ kinh tế khơng đồng đều. Ví dụ như thu nhập bình quân đầu người hằng
năm năm 2019 của Macau là 129,3 ngàn USD, Singapore 101,3 ngàn USD,
trong khi đó Nepal và Timor-Leste khoảng hơn 3 ngàn USD chỉ bằng 3% so
với Macau.6
*Về chính trị.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương có nhiều hệ tư tưởng chính trị
khác nhau đan xen, hợp tác và đấu tranh với nhau rất phức tạp.
Trong thời kỳ chiến tranh lạnh sự khác biệt về chế độ chính trị - xã hội
có thể tìm thấy ở nhiều nước trong khu vực như giữa Liên Xô, Trung Quốc và
Mỹ,Nhật Bản; giữa các nước Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia) và
các nước ASEAN (Thái Lan, Malaysia, Singapore, Indonesia); giữa hai miền
bán đảo Triều Tiên,…Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc thì sự khác biệt này
vẫn được duy trì. Tuy nhiên ngày nay, dù vẫn có sự khác biệt về tư tưởng,
chính trị nhưng quan hệ giữa các nước đã chuyển sang giai đoạn hợp tác,
không lấy hệ tư tưởng làm quy chiếu để xác định quan hệ. Mối quan hệ giữa
các quốc gia dần phát triển theo hướng đa phương, đa cực, coi trọng hợp tác
và hịa bình chung. Mọi quốc gia đều đang tiến hành cải cách, xóa bỏ các tư
tưởng lạc hậu để phù hợp với tình hình chung.
* Về an ninh.
Nhìn chung có thể thấy khu vực châu Á - Thái Bình Dương là khu vực
an ninh khơng chắc chắn. Đây là khu vực có nhiều nguy cơ an ninh tiềm ẩn,
có nhiều điểm nóng về an ninh, đồng thời còn tồn tại sự nghi kị truyền thống

giữa nhiều quốc gia. Một trong những nguy cơ rất lớn đe dọa an ninh khu vực
6

Ngân hàng Thế giới, Thống kê của Ngân hàng Thế giới năm 2019.


8
châu Á - Thái Bình Dương chính là vấn đề tranh chấp lãnh thổ đặc biệt là
tranh chấp lãnh thổ trên biển, như Nhật và Trung Quốc tranh chấp đảo Điếu
Ngư (Senkaku); Trung Quốc, Việt Nam, Philippines tranh chấp khu vực Biển
Đơng. Ngồi ra do các quốc gia hầu hết đều nằm ven bờ biển hoặc trên các
quần đảo nên các vấn đề về môi trường như thiên tai, biến đổi khí hậu, nước
biển dâng, ơ nhiễm mơi trường có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến khu
vực châu Á - Thái Bình Dương. Ngồi ra có thể kể đến điểm nóng an ninh tại
bán đảo Triều Tiên với quan hệ căng thẳng giữa hai miền Nam Bắc và nguy
cơ vũ khí hạt nhân tại Bắc Triều Tiên. Ngồi ra an ninh khu vực châu Á - Thái
Bình Dương cịn tồn tại một vấn đề nữa là do sự thiếu đồn kết, tin tưởng nên
ở chưa thể có một cơ chế an ninh thống nhất cho toàn khu vực. Hiện tại ở khu
vực châu Á - Thái Bình Dương chủ yếu chỉ có các diễn đàn an ninh khu vực
hoặc một số cơ chế song phương.
1.2 Khái quát về nước Mỹ.
Mỹ hay Hoa Kỳ (tên chính thức: Hợp chủng quốc Hoa Kỳ) là một quốc
gia có diện tích 9,83 triệu km2, nằm phần lớn ở phía Tây bán cầu, có biên giới
giáp với Canada ở phía Bắc và Mexico ở phía Nam, phía đơng giáp Đại Tây
Dương cịn phía Bắc giáp Thái Bình Dương. Lãnh thổ Mỹ bao gồm 50 tiểu
bang và 1 đặc khu liên bang.
Mỹ có dân số hơn 331 triệu người đứng thứ 3 thế giới về quy mơ dân
số. Mỹ khơng có sắc tộc chính thống hay đại diện mà hoàn toàn là quốc gia
của người nhập cư, đây là quốc gia đa dạng chủng tộc và văn hóa nhất trên thế
giới, do kết quả của những cuộc di dân đến từ nhiều quốc gia khác nhau trên

toàn cầu.
Mỹ được thành lập ban đầu với 13 thuộc địa của Đế quốc Anh nằm dọc
theo bờ biển Đại Tây Dương. Mỹ đưa ra tuyên ngôn độc lập và tách ra khỏi


9
khối thuộc địa Anh năm 1776 và được công nhận là một quốc gia độc lập sau
khi Anh và Mỹ ký Hiệp ước Paris năm 1783. Ban đầu Mỹ được thành lập với
13 tiểu bang. Sau khi giành được độc lập Mỹ bắt đầu công cuộc mở rộng lãnh
thổ và dần dần thành lập các tiểu bang mới. Đến cuối thế kỉ XIX Mỹ mở rộng
tầm ảnh hưởng và trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới từ đó đến nay. Sau
thắng lợi ở Chiến tranh thế giới thứ hai và cuộc Chiến tranh lạnh, địa vị của
Mỹ được nâng cao và trở thành siêu cường số một thế giới.
Về kinh tế: Nền kinh Mỹ đứng đầu thế giới với tổng giá trị GDP 21,440
tỷ USD, chiếm 23.6% tổng GDP toàn thế giới nhưng dân số Mỹ chỉ chiếm
4.3%. Mỹ cũng có mức tăng trưởng GDP cao ở mức 2.1% trong năm 2019.
Giá trị đồng USD hầu như không bị sụt giảm nhờ việc đồng USD luôn chiếm
tỷ trọng cao trong lượng dự trữ tiền tệ toàn cầu. Mỹ cũng sở hữu rất nhiều tập
đoàn đa quốc gia lớn, bằng chứng là có 8 doanh nghiệp Mỹ nằm trong top 10
thương hiệu hàng đầu của tạp chí Forbes năm 2019.
Về chính trị: Mỹ là một nước cộng hịa liên bang, trong đó Tổng thống,
Quốc hội và Tồ án cùng nắm giữ và chia sẻ quyền lực của chính quyền liên
bang theo Hiến pháp. Chính trị tại Hoa Kỳ hoạt động dưới một hệ thống
lưỡng đảng gần như suốt chiều dài lịch sử Hoa Kỳ, chịu sự chi phối của hai
đảng lớn là Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa.
Về quân sự: Mỹ là nước có sức mạnh quân sự lớn nhất thế giới. Với
khả năng khoa học công nghệ ưu tú của mình Mỹ ln đi đầu trong vấn đề
nghiên cứu, chế tạo và sử dụng các loại vũ khí, chế tài qn sự tân tiến. Mỹ
đóng góp 732 tỉ USD cho cho chi tiêu quân sự trong năm 2019, tăng 5,3%.
Riêng Mỹ chiếm 39% chi tiêu quốc phòng tồn cầu trong năm 2019. Mỹ cũng

có một mạng lưới căn cứ quân sự ở nước ngoài nhiều hơn bất cứ nước nào,


10
bất cứ lực lượng nào trong lịch sử nhân loại, với khoảng 800 căn cứ quân sự
trên khắp thế giới, là các khu vực đồn trú của xấp xỉ 230 nghìn binh sĩ.
Chương II: VAI TRỊ CỦA MỸ TRONG QHQT Ở KHU VỰC CHÂU Á
- THÁI BÌNH DƯƠNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
Kể từ khi trật tự thế giới hai cực sụp đổ, với vai trò siêu cường số một
thế giới Mỹ khơng ngừng tìm cách gia tăng sức ảnh hưởng trên phạm vi toàn
cầu để thực hiện âm mưu bá chủ thế giới. Châu Á - Thái Bình Dương là khu
vực theo Mỹ có nhiều cái “nhất” như: nền kinh tế phát triển sôi động nhất, tập
trung nhiều của cải nhất và có lực lượng quân sự dày đặc nhất. Và với một
khu vực tiềm năng như vậy thì chắc chắn Mỹ sẽ càng chú trọng việc đảm bảo
lợi ích của mình ở khu vực này hơn. Từ Chiến lược “xoay trục về châu
Á-Thái Bình Dương” thời tổng thống B.Obama đến chiến lược “Ấn Độ
Dương-Thái Bình Dương tự do và rộng mở” dưới thời Tổng thống D.Trump,
và hiện tại là các chính sách của tổng thống J.Biden chưa bao giờ Mỹ bỏ bê
việc khẳng định vai trị của mình trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Tuy dựa trên mục tiêu chính là lợi ích quốc gia nhưng những hành động của
Mỹ cũng đem lại rất nhiều lợi ích cho khu vực và đóng một vai trị vơ cùng
quan trọng trong quan hệ quốc tế ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Có
thể nói Mỹ đảm nhiệm vai trò anh cả, dẫn dắt và quyết định cấu trúc quyền
lực tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
2.1 Vai trị của Mỹ trong quan hệ kinh tế quốc tế ở khu vực châu Á –
Thái Bình Dương.
2.1.1 Mỹ có vai trị là đối tác kinh tế quan trọng, không thể thiếu của khu
vực châu Á - Thái Bình Dương.
Mỹ có thị trường lớn nhất thế giới với nhiều lĩnh vực như dịch vụ, tài
chính, tiêu dùng, lao động. Mức chi tiêu của hộ gia đình Mỹ là cao nhất trên



11
thế giới, chiếm hơn ¼ chi tiêu hộ gia đình trên toàn cầu. Và để tăng cường
phát triển kinh tế thì mọi quốc gia khu vực đều khơng thể bỏ qua hoặc xem
nhẹ hợp tác kinh tế với Mỹ. Mỹ với sức mạnh vượt trội về kinh tế, chính trị,
quân sự có thể nói là một đối tác quan trọng của mọi quốc gia, khu vực trên
thế giới và khu vực châu Á - Thái Bình Dương cũng khơng ngoại lệ. Giữa Mỹ
và các nước châu Á - Thái Bình Dương có quan hệ mang tính phụ thuộc và bổ
sung cho nhau. Mỹ là một trong những nước quan trọng trong hợp tác, đầu tư,
cung cấp kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý cho các nước châu Á - Thái Bình
Dương, nhưng châu Á - Thái Bình Dương cũng có tiềm năng thị trường to lớn
và ưu thế phát triển lâu dài sau này. Kim ngạch thương mại mỗi năm giữa khu
vực châu Á - Thái Bình Dương và Mỹ đã vượt 1.000 tỷ USD.
Với vai trò là hai nền kinh tế hàng đầu thế giới tuy quan hệ giữa Mỹ và
Trung Quốc không quá tốt đẹp nhưng cả hai vẫn là đối tác kinh tế quan trọng
của nhau, vẫn cùng chia sẻ các lợi ích chung. Mỹ và Trung Quốc đã kỷ niệm
40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao. Kể từ 40 năm trước, hai nước đã chứng
kiến các hợp tác kinh tế ngày càng sâu đậm. Mỹ và Trung Quốc hợp tác trên
nhiều vấn đề toàn cầu và trao đổi thương mại cũng như hợp tác đầu tư song
phương đều tăng mạnh trong thập kỷ vừa qua. Mỹ là đối tác thương mại lớn
thứ ba của Trung Quốc (sau ASEAN và Liên minh châu Âu). Theo Tổng cục
Hải quan Trung Quốc, kim ngạch thương mại song phương với Mỹ tính đến
cuối năm 2020 đạt 586,7 tỷ USD, tăng 8,3% so với năm 2019. Các nhà đầu tư
Mỹ nắm giữ 1.200 tỷ USD cổ phiếu và trái phiếu của các cơng ty Trung Quốc
tính đến cuối năm 2020, ngược lại các khoản đầu tư của Trung Quốc vào
chứng khoán Mỹ tính đến cùng thời điểm là 2.100 tỷ USD.
Với các nước Đông Nam Á, Mỹ đã sớm nhận ra tiềm năng phát triển và
vai trò của các nước ASEAN trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, từ đó



12
đưa ra các chiến lược hợp tác ưu đãi - nhất là về kinh tế, để gia tăng sự hợp
tác và kéo gần quan hệ giữa hai bên. Mỹ là nước đầu tiên ngồi ASEAN có
đại sứ và phái bộ ngoại giao tại ASEAN. Các nền kinh tế Mỹ và Đông Nam Á
bổ sung nhiều cho nhau, tạo ra những lợi ích rộng rãi cho cả hai bên. Đối với
Đơng Nam Á, Mỹ là một nguồn cung quan trọng các mặt hàng máy móc điện
tử, máy bay và nơng sản. Mỹ cũng mang lại cho Đông Nam Á đào tạo kỹ
thuật và giáo dục quan trọng. Các doanh nghiệp Mỹ đã tăng gấp đôi đầu tư
trực tiếp, đồng thời thương mại giữa ASEAN và Mỹ đã tăng gấp khoảng 3 lần
kể từ những năm 1990.
Với các nước đồng minh thân thiết như Nhật Bản và Hàn Quốc, quan
hệ hợp tác quân sự gắn bó lâu dài giữa Mỹ và các nước đồng minh đã kéo
theo sự hợp tác giữa hai bên trên nhiều lĩnh vực và nổi bật trong số đó là hợp
tác kinh tế. Mỹ là nước chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng kim ngạch xuất
khẩu của Nhật Bản năm 2019, với 134 tỷ USD chiếm 19,9%. Kim ngạch song
phương Hàn - Mỹ đã tăng từ 100,8 tỷ USD năm 2011 lên 154,9 tỷ USD năm
2020. Mỹ là thị trường vô cùng quan trọng trong xuất khẩu ô tô và phụ tùng ô
tô của Nhật Bản và Hàn Quốc. Ngoại trưởng Antony Blinken nhấn mạnh:
“Mối quan hệ kinh tế giữa Mỹ và Nhật Bản là một trong những mối quan hệ
bền chặt nhất trên thế giới”. Tuy trong quá khứ đã có một số giai đoạn quan
hệ giữa Mỹ và các nước đồng minh có dấu hiệu rạn nứt khi Mỹ cố gắng giảm
thâm hụt thương mại với Nhật Bản và Hàn Quốc nhưng các bên đã chấp nhận
nhượng bộ để tiếp tục duy trì hợp tác.
2.1.2 Mỹ là người dẫn đầu, thúc đẩy sự phát triển và hợp tác kinh tế trong
khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương nằm trong chiến lược toàn cầu của
Mỹ, Mỹ đã sớm quan tâm đến tiềm năng của khu vực châu Á - Thái Bình



13
Dương và ra sức thực hiện những kế hoạch mà Mỹ đặt ra để duy trì và tăng
cường vị thế của Mỹ trong khu vực này. Nhận thấy xu hướng hợp tác tồn cầu
hóa và mức độ liên kết kinh tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương ngày càng
trở nên chặt chẽ hơn, Mỹ đã lựa các biện pháp mang tính mềm mỏng và từ tốn
để xây dựng vị trí của mình trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Mỹ
muốn nắm vai trị lãnh đạo ở châu Á - Thái Bình Dương và củng cố sự hợp
tác với các nước trong khu vực. Với mục tiêu tại khu vực là: Ổn định, tự do
lưu thông, phát triển kinh tế, Mỹ tích cực thực thi chính sách tăng cường quan
hệ với các nước; thúc đẩy kinh tế thị trường tự do ở khu vực châu Á - Thái
Bình Dương.
Mỹ đã tận dụng tiềm lực tài chính và cơng nghệ rất mạnh của mình để
đóng vai trị “ơng lớn” tài trợ nhân lực, vật lực cho sự phát triển kinh tế của
nhiều quốc gia trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, từ đó tăng cường
quan hệ kinh tế và sự hiện diện tại khu vực. Chiến lược Ấn Độ Dương-Thái
Bình Dương của tổng thống Donald Trump là một ví dụ về sách lược này của
Mỹ. Tháng 11/2017, tại Hội nghị thượng đỉnh doanh nghiệp Diễn đàn hợp tác
kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Tổng thống Mỹ Donald Trump đã
đưa ra khái niệm “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và cởi mở”, đồng
thời cho biết sẽ ủng hộ Ngân hàng thế giới (WB) và Ngân hàng phát triển
châu Á (ADB) đầu tư vào cơ sở hạ tầng có chất lượng cao của khu vực Ấn Độ
Dương-Thái Bình Dương và khuyến khích nguồn vốn tư nhân tăng cường đầu
tư, là lựa chọn thay thế cho đầu tư mang tính chính phủ của các nước trong
khu vực. Năm 2017, tại Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
(APEC), Tổng thống Mỹ Donald Trump đã đề cập ý tưởng xây dựng khu vực
Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở. Ngoài thương mại, Mỹ
đứng đầu về đầu tư trong khu vực. Năm 2018, Mỹ rót hơn 1 nghìn tỷ USD
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào khu vực, đứng đầu thế giới về FDI



14
vào khu vực(1) (năm 2019, FDI của Mỹ vào Việt Nam là khoảng 1,5 tỷ USD,
Philippines là 6 tỷ USD, Thái Lan 15 tỷ USD, Singapore hơn 260 tỷ USD).
Ngoài ra, Mỹ cung cấp khoản hỗ trợ trị giá trên 1,8 tỷ USD cho khu vực trong
năm 2018.
Mỹ đã tiến hành can dự đầy đủ vào các thể chế khu vực, trong đó có
các thể chế ASEAN, APEC và đóng vai trị tích cực trong việc xây dựng
chương trình nghị sự. Mỹ cũng đã mở cơ quan đại diện bên cạnh ASEAN tại
Jakarta. Bên cạnh việc cam kết củng cố APEC như là cơ chế hợp tác kinh tế
quan trọng nhất tại châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ cũng nỗ lực sáng tạo và
khởi động một số diễn đàn “tiểu đa phương” như Sáng kiến hạ nguồn Mê
kông (LMI) và Diễn đàn các quốc đảo Thái Bình Dương để thúc đẩy sự hợp
tác giữa các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Một ví dụ điển hình cho vai trò thúc đẩy hợp tác kinh tế của Mỹ là
trong việc xây dựng Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương. Khởi đầu,
năm 2002 Hiệp định Đối tác Kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương
(Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement) có 4 nước tham
gia là Brunei, Chile, New Zealand, Singapore, tuy nhiên từ năm 2002 đến
2008 Hiệp định P4 vẫn không thu hút được sự quan tâm của các nền kinh tế
trong khu vực. Ngày 22 tháng 9 năm 2008, Mỹ tuyên bố tham gia vào P4
nhưng đề nghị không phải trong khuôn khổ Hiệp định P4 cũ, mà các bên sẽ
đàm phán một Hiệp định hoàn toàn mới, gọi là Hiệp định Đối tác xuyên Thái
Bình Dương (TPP). Ngay sau đó, các nước Australia, Peru, Việt Nam,
Malaysia, Mexico, Canada và Nhật Bản cũng tuyên bố tham gia TPP. Có thể
nói việc Mỹ tham gia TPP có vai trị rất quan trọng trong việc phát triển và
hoàn thiện Hiệp định này. Tuy năm 2017 trong nhiệm kỳ của tổng thống
Donald Trump, Mỹ đã rút khỏi Hiệp định TPP, nhưng sau đó các nước cịn lại


15

đã thảo luận và đạt được bước tiến đột phá và đưa ra Hiệp định Đối tác Toàn
diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) với thành viên là 11 nước
cịn lại. Và nếu trong nhiệm kì của tổng thống Joe Biden nếu Mỹ có thái độ
tích cực đối với hợp tác khu vực trong toàn bộ khu vực châu Á - Thái Bình
Dương, thì viễn cảnh sáp nhập RCEP (Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện
Khu vực) và CPTPP có thể sẽ diễn ra và tạo ra hiệp định thương mại tự do lớn
nhất trên thế giới.
2.2 Vai trị của Mỹ trong quan hệ chính trị, an ninh quốc tế ở khu vực
châu Á – Thái Bình Dương.
2.2.1 Mỹ có vai trị chủ chốt, chi phối tình hình an ninh, trật tự khu vực
châu Á - Thái Bình Dương.
Châu Á - Thái Bình Dương là khu vực có mơi trường an ninh - chính trị
rất phức tạp. Khu vực này có nhiều quốc gia đa dạng về chính trị với những
lợi ích và quan niệm khác nhau. Đây cũng là khu vực có sự hiện diện của
nhiều cường quốc trên thế giới với sự tập trung lợi ích ngày càng tăng và khả
năng đua tranh quyền lực quyết liệt. Khơng những thế, trong khu vực cịn tồn
tại và tiềm ẩn nhiều cạnh tranh, mâu thuẫn phức tạp cả về chính trị và an
ninh. Mặc dù cấu trúc kinh tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương khá ổn định
với sự liên kết chặt chẽ thì cấu trúc an ninh trật tự khu vực lại rất lỏng lẻo
khiến việc giải quyết các mâu thuẫn phát sinh khá khó khăn. Trong tình hình
đó Mỹ đã tận dụng ưu thế về sức mạnh quân sự và mối quan hệ hợp tác an
ninh với các đồng minh như Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, Philippines để
chủ động can thiệp và duy trì an ninh trật tự trong khu vực châu Á - Thái Bình
Dương. Mỹ thực hiện chính sách an ninh gồm 3 thành phần: liên minh quân
sự; duy trì sự hiện diện của lực lượng vũ trang Mỹ và thiết lập cơ cấu an ninh
mới ở khu vực.


16
Mỹ xây dựng mạng lưới đồng minh theo mơ hình “Trục và nan hoa”

(Mỹ là “trục” còn các đồng minh là “nan hoa”) với các nước Nhật Bản, Hàn
Quốc, Australia, Philippines và Thái Lan, đồng thời thiết lập hệ thống không
liên minh, nhưng hợp tác rất chặt chẽ về an ninh với Đài Loan, Xin-ga-po và
cả In-đô-nê-xi-a. Mỹ vẫn tiếp tục phát triển cấu trúc Trục và nan hoa bằng
cách vừa củng cố quan hệ giữa Mỹ và các nước đồng minh, vừa tăng cường
quan hệ giữa các nước đồng minh với nhau hoặc mở rộng quan hệ giữa các
nước đồng minh với các đối tác phù hợp trong khu vực để tạo nên một mạng
lưới an ninh rộng lớn xoay xung quanh “trục” Mỹ. Từ đó đảm bảo sự hiện
diện và duy trì vị trí lãnh đạo chi phối của Mỹ tại khu vực châu Á - Thái Bình
Dương. Hiện nay, Mỹ là quốc gia có sức mạnh quân sự hàng đầu thế giới, với
mạng lưới căn cứ quân sự ở nước ngoài nhiều hơn bất cứ nước nào, bất cứ lực
lượng nào trong lịch sử nhân loại. Theo đó, Washington đang vận hành
khoảng 800 căn cứ quân sự trên khắp thế giới, là các khu vực đồn trú của xấp
xỉ 230 nghìn binh sĩ. Ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ duy trì hơn
154 nghìn binh sĩ, trong đó bao gồm 50 nghìn binh sĩ tại 109 căn cứ ở Nhật
Bản, 28 nghìn binh sĩ làm nhiệm vụ tại 85 căn cứ ở Hàn Quốc.7
Trật tự an ninh hiện nay ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương phụ
thuộc khá nhiều vào hệ thống an ninh song phương Mỹ - Nhật. Ban đầu liên
minh này được lập ra để đảm bảo an ninh cho sự khôi phục của Nhật Bản, đến
năm 1997 phương châm chỉ đạo mới được hai nước kí kết đã làm thay đổi
tính chất của liên minh quân sự Mỹ - Nhật. Hai nước cho rằng việc tăng
cường hợp tác an ninh Mỹ - Nhật trong thế kỉ XXI có tầm quan trọng đối với
an ninh và phát triển kinh tế khu vực chứ không chỉ phục vụ riêng lẻ quốc gia
nào. Phạm vi của lực lượng phòng vệ Nhật được mở rộng, mục tiêu của quan

7

Bạch Dương (2021), “Hệ thống căn cứ quân sự toàn cầu của Mỹ”, báo Thời nay. Truy cập ngày 5/6/2021 từ
/>


17
hệ hợp tác chuyển đổi từ phòng vệ để đảm bảo ổn định và ngăn chặn sang
tăng cường dính líu vào các vấn đề khu vực để đảm bảo an ninh trật tự.
Mỹ cũng tích cực tham gia và ủng hộ các diễn đàn, cấu trúc an ninh
khu vực như Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng Ngoại
giao ASEAN (AMM), Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS) (với tư cách là quan
sát viên), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng
(ADMM+), Diễn đàn Biển ASEAN Mở rộng (EAMF), Hội nghị Thượng
đỉnh An ninh châu Á (Shangri-La Dialogue), Đàm phán sáu bên về phi hạt
nhân hóa bán đảo Triều Tiên,… gần như tất cả mọi tổ chức, hội nghị, diễn đàn
an ninh trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương đều có sự tham gia hoặc
theo dõi của Mỹ.
Thực tế chứng minh trong hơn nửa thế kỷ qua, Mỹ và các nước đồng
minh của Mỹ đã góp phần bảo đảm hịa bình và an ninh khu vực, định hình
mơi trường tăng trưởng kinh tế; thúc đẩy sự hiện diện, tăng cường sự lãnh đạo
khu vực của Mỹ tại những thời điểm xuất hiện các thách thức an ninh truyền
thống và phi truyền thống.
Hai vấn đề mà Mỹ cho rằng là những nguy cơ mâu thuẫn lớn nhất ở
khu vực châu Á - Thái Bình Dương là vấn đề hạt nhân tại bán đảo Triều Tiên
và sự bành trướng của Trung Quốc trên khu vực Biển Nhật Bản và Biển
Đơng.
Mỗi khi Triều Tiên có các dấu hiệu của việc tái khởi động việc nghiên
cứu vũ khí hạt nhân, thì Mỹ ln là nước đầu tiên lên tiếng gây sức ép với
Triều Tiên bằng các cuộc tập trận hoặc các biện pháp trừng phạt kinh tế, đồng
thời kêu gọi các bên đồng minh ra tăng sức ép bằng cách cô lập ngoại giao và
sẵn sàng đưa ra một phương án quân sự nếu những biện pháp ngoại giao liên
quan đến tình hình Triều Tiên thất bại. Và sau rất nhiều cố gắng của quốc tế


18

cũng như Mỹ thì vấn đề hạt nhân tại bán đảo Triều Tiên trải qua hơn 20 năm
thương lượng cũng đã có một số dấu hiệu tích cực với hai cuộc Hội nghị
Thượng đỉnh Mỹ-Triều trong năm 2019. Tuy trong Hội nghĩ vẫn chưa thể đi
đến một thỏa thuận chung giữa hai bên nhưng đây là một dấu hiệu đáng mừng
khi hai bên sẵn sàng ngồi xuống để đàm phán.
Việc duy trì tự do hàng hải ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói
chung và khu vực Biển Đơng và biển Hoa Đơng nói riêng có ý nghĩa rất quan
trọng đối với vấn đề kinh tế, thương mại và an ninh chính trị Mỹ, vì vậy việc
Trung Quốc tiếp tục gia tăng sự hiện diện quân sự ở Biển Đơng và biển Hoa
Đơng có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của Mỹ trong khu vực châu
Á - Thái Bình Dương. Do đó Mỹ rất chủ động trong việc ngăn chặn các hành
vi của Trung Quốc trong khu vực Biển Đông và biển Hoa Đông, từ việc trực
tiếp lên án các hành vi của Trung Quốc, lôi kéo các bên liên quan ủng hộ lập
trường của Mỹ về tự do hàng hải, đến các biện pháp mạnh như tăng cường
tuần tra bằng chiến hạm, máy bay ở các khu vực Trung Quốc chiếm đóng trái
phép, xây dựng thêm các căn cứ quân sự quy mô nhỏ hơn, phịng thủ tốt hơn
ở các vị trí chiến lược, triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa và tổ hợp tên lửa
phịng khơng tiên tiến và các hệ thống hỏa lực tiến công tầm xa ở các căn cứ
quân sự trên đất liền và trên biển. Ngồi ra Mỹ cịn hợp tác với quân đội các
nước đồng minh, đối tác trong việc trao đổi, chia sẻ thơng tin tình báo, thực
hiện các hoạt động giám sát, tuần tra phối hợp trên không, trên biển; tổ chức
các cuộc tập trận chung nhằm nâng cao khả năng tác chiến liên hợp ứng phó
với tình huống bất ngờ.
Ngồi những vấn đề an ninh truyền thống Mỹ cũng chú trọng giải quyết
các vấn đề an ninh phi truyền thống như thiên tai, dịch bệnh, mơi trường,
khủng bố,…Điển hình như trong tình hình dịch bệnh hiện nay, Mỹ là một


19
trong những nước đi đầu trong việc viện trợ vaccine cho các quốc gia. Nước

Mỹ dưới thời ông Biden cam kết sẽ sẽ viện trợ cho các nước khoảng 80 triệu
liều vaccine ngừa COVID-19 và đóng góp 4 tỉ USD cho Covax đồng thời ủng
hộ từ bỏ bản quyền vaccine. Mỹ cũng đã trực tiếp viện trợ hàng trăm triệu
USD để hỗ trợ nhân đạo và y tế khẩn cấp cho các nước chống dịch
COVID-19. Hàng nghìn máy tạo khí ôxy, lượng lớn thuốc men và thiết bị y tế
thiết yếu đang được vận chuyển bằng máy bay từ Mỹ đến Ấn Độ gần như
hàng ngày, tổng viện trợ COVID-19 từ Mỹ dành cho Ấn Độ sẽ lên tới gần 500
triệu USD.
2.2.2 Mỹ là đối trọng giúp cân bằng ảnh hưởng của các nước lớn trong khu
vực châu Á - Thái Bình Dương.
Cấu trúc an ninh – chính trị của khu vực châu Á - Thái Bình Dương
vẫn đang trong giai đoạn hình thành, với nhiều diễn biến phức tạp. Với sự
tăng trưởng vượt bậc của các nước lớn trong khu vực châu Á - Thái Bình
Dương rất có thể trong tương lai sẽ có một quốc gia thay thế vị trí dẫn đầu của
Mỹ trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Và Trung Quốc với những tiềm
năng kinh tế, chính trị, quân sự chắc chắn đã sẵn sàng ứng cử cho vị trí này.
Nhiều quốc gia châu Á từ lâu xem Mỹ và các nước phát triển khác như
đối tác kinh tế chủ chốt của mình. Nhưng giờ đây, họ đang nắm bắt các cơ hội
mà sự phát triển nhanh chóng của Trung Quốc tạo ra. Thương mại và du lịch
với Trung Quốc lớn mạnh, các chuỗi cung ứng liên kết chặt chẽ. Trong vòng
vài thập niên, Trung Quốc từ chỗ khơng có ảnh hưởng nhiều về kinh tế với
phần còn lại của châu Á đã trở thành nền kinh tế lớn nhất và đối tác kinh tế
lớn nhất của khu vực. Sự ảnh hưởng của nước này trong các vấn đề khu vực
vì thế ngày càng tăng. Tuy nhiên việc nhận được lợi ích từ sự phát triển của
Trung Quốc cũng đi kèm nhiều nguy cơ, khi mà Trung Quốc đang có dấu hiệu


20
thực hiện các mưu đồ chèn ép các nước nhỏ để mở rộng quyền kiểm sốt của
mình ở các khu vực trọng yếu. Trung Quốc tăng cường tranh chấp lãnh thổ

với nhiều nước như Ấn Độ, Nhật Bản, Việt Nam, Philippines, Triều Tiên,
Nepal, Nga,…
Đặc biệt Trung Quốc rất quan tâm đến khu vực Biển Đông. Trung Quốc
đưa ra bản đồ với đường 9 đoạn hay còn gọi là đường lưỡi bị bao phủ phần
lớn Biển Đơng, xâm hại hải phận của nhiều quốc gia và khẳng định đó là lãnh
hải của Trung Quốc. Trung Quốc cũng thực hiện hàng loạt hành động gây hấn
trên khu vực Biển Đông như xây dựng các căn cứ trái phép, tự ý thành lập các
quận đảo trên các đảo không thuộc chủ quyền Trung Quốc, đâm chìm tàu cá
Việt Nam, Philippines ở khu vực hải phận của hai nước này,…
Việc vị thế của Trung Quốc ngày càng gia tăng ở khu vực châu Á Thái Bình Dương đã gây ảnh hưởng khơng nhỏ tới lợi ích của Mỹ tại khu vực
này. Hành động của Trung Quốc đã làm ảnh hưởng mục tiêu chiến lược của
Mỹ ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương là ổn định khu vực và cân bằng lực
lượng đảm bảo khơng có một bá chủ mới tại khu vực; duy trì tự do lưu thơng
hàng hải; đảm bảo quyền lợi của Mỹ tại khu vực. Trong một bài phát biểu
khơng chính thức tại Trung Quốc năm 2019, Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo
cho biết, "Mỹ phản đối bất kỳ nỗ lực nào của các quốc gia lớn hơn để biến các
đảo và quần đảo trên Thái Bình Dương thành chỗ đứng riêng của Trung Quốc
cho sự thống trị của khu vực".8 Mỹ đã coi việc cạnh tranh với Trung Quốc
trên trường quốc tế trở thành ưu tiên chính sách đối ngoại hàng đầu, để đảm
bảo ưu thế của Mỹ trên trường quốc tế, trước một Trung Quốc đang trỗi dậy.

8

An Chi (2019), “Mỹ - Trung và ván cờ trên khu vực Thái Bình Dương”, Tạp chí tài chính online, truy cập
ngày 05/06/2021 từ
/>

21
Trong ba đời tổng thống George W.Bush, Barack Obama và Donald
Trump đều coi Trung Quốc là đối thủ số một tại khu vực châu Á - Thái Bình

Dương và liên tục đưa ra các chính sách để hạn chế mức ảnh hưởng của
Trung Quốc và tái khẳng định vị thế đứng đầu của Mỹ trong khu vực. Chính
quyền Bush đã sử dụng những từ như "kiềm chế", "cân bằng" để mơ tả chính
sách của họ đối với Trung Quốc, đồng thời cáo buộc Trung Quốc không thực
hiện các cam kết nhân quyền và tạo ra những căng thẳng ở châu Á vì tăng
cường sự hiện diện quân sự. Mỹ và Trung Quốc tiếp tục cạnh tranh cho vị trí
lãnh đạo kinh tế trong khu vực, khi ông Obama thúc đẩy Hiệp định Đối tác
xuyên Thái Bình Dương (TPP), trong khi Bắc Kinh đối trọng bằng Ngân hàng
Đầu tư Cơ sở hạ tầng châu Á và kế hoạch "một vành đai, một con đường".
Trong nhiệm kì của mình ơng Trump đã đưa ra chiến lược Ấn Độ Dương –
Thái Bình Dương nhằm đối phó với tác động tồn diện của sáng kiến “Vành
đai và Con đường”, chiếm lấy ưu thế trong cuộc cạnh tranh chiến lược với
Trung Quốc. Và hiện nay, tổng thống Joe Biden cũng đã thể hiện những dấu
hiệu rõ ràng trong việc cạnh tranh với Trung Quốc, khi đưa ra một kế hoạch
chi tiêu mới trị giá 1,8 nghìn tỷ USD mà ơng cho là cần thiết để cạnh tranh
với Trung Quốc, ngay sau 100 ngày cầm quyền đầu tiên của ông.
Vấn đề cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc gây tổn hại không nhỏ cho
cả Mỹ, Trung Quốc và các quốc gia khác có liên quan, tuy nhiên đó lại là một
cơ hội tốt cho sự phát triển trật tự đa phương ở khu vực châu Á - Thái Bình
Dương. Khi hai ơng lớn là Mỹ và Trung Quốc kiềm hãm sức ảnh hưởng lẫn
nhau sẽ tạo điều kiện cho các quốc gia trung lập, nhỏ yếu hơn có điều kiện
phát triển lực lượng riêng và xây dựng liên kết an ninh chính trị với nhau, từ
đó gia tăng sức ảnh hưởng trong khu vực.


22
Là quốc gia có mối quan hệ liên minh chiến lược với Mỹ và đã từng ký
kết Hiệp ước hòa bình và hữu nghị với Trung Quốc, đứng trước cuộc cạnh
tranh chiến lược toàn diện Mỹ - Trung, Nhật Bản đang tìm ra những cơ hội
riêng để nâng cao vị thế của họ trong khu vực cũng như trên thế giới nhằm tạo

nên một cực đóng vai trị giữ ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực Ấn Độ
Dương - Thái Bình Dương. Nhật Bản thi hành chính sách “hướng Nam” tăng
cường quan hệ với các nước Đông Nam Á với ưu tiên “cải thiện môi trường
an ninh khu vực châu Á - Thái Bình Dương” và “đóng vai trị lãnh đạo trong
việc giải quyết tranh chấp”. Ngồi ra còn nới lỏng các quy định về quyền hạn
của Lực lượng phòng vệ Nhật Bản, cho phép thực hiện quyền “phòng vệ tập
thể”, triển khai quân đội để đối phó với cuộc tấn cơng nhằm vào một nước
“bạn bè gần gũi” của Nhật Bản, dưới một số điều kiện nhất định cho thấy
đóng góp tích cực” của Nhật Bản đối với hịa bình, an ninh và ổn định trong
khu vực.
ASEAN với vị trí chiến lược quan trọng và tiềm năng phát triển mạnh
mẽ cũng được dự đoán sẽ trở thành một trung tâm trong trong cấu trúc an
ninh khu vực châu Á - Thái Bình Dương. ASEAN đã tận dụng cơ hội để xác
lập vai trò trung tâm tại khu vực thơng qua việc giữ vị trí lãnh đạo ở Đơng Á,
dẫn dắt việc hình thành và vận động của các cơ chế trong khu vực; tạo diễn
đàn trao đổi, hợp tác của các nước trong khu vực; là đầu mối kết nối chính
trong cấu trúc khu vực giữa tất cả các bên. Với quyết tâm kiến tạo một cấu
trúc an ninh mới do ASEAN làm trung tâm, khu vực này đã đi đầu trong việc
xây dựng hàng loạt các cơ chế hợp tác an ninh đa phương xoanh quanh
ASEAN như Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) - diễn đàn khu vực đầu tiên và
quan trọng nhất ở châu Á - Thái Bình Dương, Hội nghị Bộ trưởng Quốc
phịng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+), Hội nghị ASEAN với các đối
tác (ASEAN+),…Tuy nhiên việc ASEAN hướng tới xây dựng một cộng đồng


×