Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm ngữ văn 8, đề tài dạy học phát triển phẩm chất năng lực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1004.09 KB, 42 trang )

1
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lí do chọn đề tài
Định hướng đổi mới quan niệm dạy học hiện nay là: Dạy cách học và học
cách học. Đúng như Luật Giáo dục đã ghi: Phương pháp giáo dục phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc
điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui,
hứng thú học tập cho học sinh.
Từ yêu cầu đó, giáo dục phổ thơng nước ta đang thực hiện bước chuyển từ
chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học. Từ
chỗ quan tâm tới việc học sinh học được gì đến việc học sinh vận dụng được gì qua
quá trình học tập. Từ chỗ học sinh tiếp thu thụ động những kiến thức quy định sẵn
sang tự lực, tích cực lĩnh hội kiến thức. Để thực hiện được điều đó, phải thành
cơng trong việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối truyền thụ một chiều sang
dạy cách học tích cực nhằm giúp học sinh chủ động, tự lực lĩnh hội tri thức, vận
dụng tri thức, rèn luyện kĩ năng để rồi từ đó hình thành năng lực và phẩm chất.
Đồng thời phải chuyển cách đánh giá kết quả giáo dục từ nặng về kiểm tra trí nhớ
sang kiểm tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề thực tiễn,
coi trọng kiểm tra đánh giá kết quả học tập với kiểm tra, đánh giá trong q trình
học tập để có tác động kịp thời nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động dạy học
và giáo dục. Việc đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng
lực học sinh cần diễn ra đồng bộ ở tất cả các bộ môn trong nhà trường đặc biệt với
bộ môn Ngữ Văn sẽ thực sự phát huy hết vai trò trong việc giúp học sinh hình
thành được các phẩm chất và năng lực.
Năm học 2020 – 2021 được xem là năm học đặc biệt của học
sinh cả nước. Trong bối cảnh dịch bệnh diễn biến phức tạp, để đảm bảo một
môi trường học tập an tồn, Bộ GD&ĐT đã ban hành cơng văn 3280/BGDĐTGDTrH - 2020 về hướng dẫn điều chỉnh nội dung dạy học THCS, THPT năm học
2020 - 2021. Theo công văn này, ở môn Ngữ văn, mỗi khối lớp đều có hướng dẫn
tích hợp một chủ đề trong một học kì. Trong chương trình Ngữ văn 8 có hai chủ đề
tích hợp:


Học kì I có một chủ đề bao gồm các bài học:
- Tôi đi học của Thanh Tịnh
- Trong lịng mẹ (trích Những ngày thơ ấu) của Ngun Hồng
- Tính thống nhất về chủ đề của văn bản


2
- Bố cục của văn bản

Học kì II có một chủ đề tích hợp bao gồm:
- Nhớ rừng của Thế Lữ
- Ơng đồ của Vũ Đình Liên
- Câu nghi vấn

Bên cạnh công văn 3280/BGDĐT-GDTrH - 2020 về hướng dẫn điều chỉnh
nội dung dạy học THCS, THPT năm học 2020 – 2021, Bộ GD&ĐT cũng ban
hành Thông tư 26/2020/TT- BGDĐT về việc sửa đổi, bổ sung một số
điều của quy chế đánh giá, xếp loại học sinh trung học cơ sở và học sinh trung
học phổ thông. Tại điều 8, khoản 1 của thơng tư có quy định: Đối với kiểm tra,
đánh giá định kì; trong mỗi học kì, một mơn học có một điểm kiểm tra đánh giá
giữa kì và một điểm kiểm tra đánh giá cuối học kì. Dựa vào hai văn bản
này, giáo viên phải xây dựng kế hoạch chương trình dạy học
phù hợp với đơn vị mình, có thể chủ động sắp xếp thời lượng
dạy học. Khi số tiết một số bài học và số tiết kiểm tra giảm thì
giáo viên hồn tồn chủ động trong việc bố trí, sắp xếp thời
gian cho các tiết học. Có thể tăng số tiết cho các bài học mà
giáo viên cho là quan trọng và có thể thực hiện đầy đủ các hoạt
động dạy học theo định hướng phát triển năng lực.
Lâu nay trên thực tế, đối với dạy học chủ đề môn Văn học, mặc dù các bài
học được gom lại thành một chủ đề nhưng khi dạy, giữa các bài học trong chủ đề

dường như khơng có sự liên kết với nhau, dạy học chủ đề vẫn nặng về truyền
thụ kiến thức và bị giới hạn trong số tiết được quy định từ các bài học cộng lại.
Việc tích hợp kiến thức các mơn học khác cũng chưa được chú trọng. Và đặc
biệt là phần vận dụng, thực hành kĩ năng chưa được thực hiện, hoặc thực hiện
chưa hiệu quả.
Bộ Giáo dục đã có những thay đổi để điều chỉnh chương trình dạy học. Tuy
nhiên Bộ, ngành lại chưa có hướng dẫn để dạy học chủ đề được tích hợp như thế
nào. Đặc biệt là lại dạy học chủ đề trong xu hướng đổi mới dạy và học hiện nay.
Nếu khơng có những đổi mới từ phía giáo viên thì dạy học chủ đề lại đi theo lối
mịn trước đây.
Shê- khốp cho rằng: Nếu nhà văn khơng có một lối đi riêng của mình thì
người đó chẳng bao giờ là nhà văn. Quá trình sáng tác văn chương đề cao cá
tính sáng tạo thì q trình giảng dạy văn việc sáng tạo, đổi mới cũng luôn phải
được chú trọng. Trong lộ trình đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục và đào tạo,
có thể nói rằng giáo viên là yếu tố quyết định hàng đầu trong việc thực hiện đổi
mới phương pháp giảng dạy. Với tiêu chí đó, tơi ln muốn thay đổi mình,


3
muốn tạo ra những luồng gió mới trong các tiết học Ngữ văn để tạo hứng thú
cho học sinh. Vì những lí do trên nên tơi đã thực hiện sáng kiến kinh nghiệm:
Dạy học chủ đề Ngữ văn 8 theo định hướng phát triển năng lực.
II. Tính mới và đóng góp mới của vấn đề nghiên cứu
Ngay từ khi tiếp nhận các công văn mới của Bộ giáo dục ở đầu năm học, bản
thân tôi đã bắt tay ngay vào việc xây dựng kế hoạch dạy học chủ đề và thực hiện.
Những tiết học đầu tiên của năm học mới chính là những tiết học về chủ đề Học
kì I. Chính vì vậy, đề tài nghiên cứu là những trải nghiệm hoàn toàn mới mẻ để
đáp ứng yêu cầu đổi mới cũng như chỉ đạo và hướng dẫn của Bộ Giáo dục năm
học 2020 – 2021.
Vận dụng sáng kiến dạy học chủ đề Ngữ văn 8 theo định hướng phát triển

năng lực góp phần phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh, làm cho người
học thấy được vai trị trung tâm của mình trong việc tiếp nhận tri thức, người học
phải tự khám phá kiến thức, vận dụng sáng tạo. Qua đó học sinh sẽ dần dần hình
thành tư duy logic, bộc lộ những năng lực tiềm ẩn. Việc thực hiện đề tài sẽ giúp
học sinh có hứng thú hơn với việc tìm hiểu và say mê hơn với mơn học này. Đồng
thời giáo viên có cơ sở khoa học để vận dụng những tình huống có vấn đề thông
qua đề tài, học sinh sẽ được củng cố thêm hiểu biết có kĩ năng sống phù hợp để
thích ứng với hoàn cảnh trong tâm thế chủ động. Ngoài ra đây cũng là nguồn tư
liệu cho đồng nghiệp tham khảo trong q trình giảng dạy.

Nhóm tiếp tục với:

GIÁO ÁN NGỮ VĂN THCS

1.CHUẨN BỊ CHO THAO GIẢNG, HỘI THI
NHÓM CHUẨN BỊ CHO CÁC BẠN GỒM:
· MỘT BẢN POWERPOINT HIỆN ĐẠI (có thể chỉnh sửa theo yêu cầu)
· MỘT BẢN WORD CHI TIẾT THỰC HIỆN POWERPOINT
· MỘT BẢN CÁCH TRÌNH BÀY BẢNG
· GỌI ĐIỆN THOẠI TRAO ĐỔI VỀ CÁCH THỰC HIỆN, LỜI BÌNH, LỜI CHUYỂN, CÁC
THAO TÁC TRÊN LỚP.
2.HỖ TRỢ CÙNG VIẾT SKKN - BÁO CÁO GVG – LÊN PAPOI THEO Ý TƯỞNG
CỦA CÁC BẠN.
3.GHÉP - BỔ SUNG GIÁO ÁN ĐÚNG VỚI PPCT CỦA TRƯỜNG CÁC BẠNHÔM SAU CHỈ MỞ MÁY LÀ IN.
LIÊN HỆ: ZALO 0976208198


4

PHẦN II. NỘI DUNG

I. Cơ sở khoa học
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1 Khái niệm năng lực
Từ điển tiếng Việt do Hồng Phê chủ biên (NXB Đà Nẵng - 1998) có giải
thích: Năng lực là: Khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực
hiện một hoạt động nào đó. Phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con người khả
năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao.
Trong tài liệu tập huấn việc dạy học và kiểm tra, đánh giá theo định hướng
phát triển năng lực của học sinh do Bộ giáo dục và Đào tạo phát hành năm 2014 thì
năng lực được quan niệm là sự kết hợp một cách linh hoạt và có tổ chức kiến thức,
kỹ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân,… nhằm đáp ứng hiệu quả
một yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh nhất định. Năng lực thể hiện
sự vận dụng tổng hợp nhiều yếu tố được thể hiện thông qua các hoạt động của cá
nhân nhằm thực hiện một loại cơng việc nào đó. Năng lực bao gồm các yếu tố cơ
bản mà mọi người lao động, mọi cơng dân đều cần phải có, đó là các năng lực
chung, cốt lõi. Định hướng chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) đã xác định
một số năng lực cốt lõi mà học sinh Việt Nam cần phải có để đáp ứng với tình hình
thực tế cuộc sống đang phát triển và hịa nhập với mơi trường quốc tế.
Năng lực làm chủ và
phát triển bản thân
Năng lực tự học

Năng lực xã hội

Năng lực cơng cụ

Năng lực giao tiếp Năng lực tính toán

Năng lực giải quyết vấn đề Năng lực hợp tác


Năng lực sử dụng ngôn ngữ


5
Năng lực sáng tạo

Năng lực ứng dụng CNTT

Năng lực quản lí bản thân
1.1.2. Chương trình giáo dục định hướng năng lực
Chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực nay còn gọi là dạy học
định hướng kết quả đầu ra được bàn đến nhiều từ những năm 90 của thế kỷ 20 và
ngày nay đã trở thành xu hướng giáo dục quốc tế. Giáo dục định hướng phát triển
năng lực nhằm mục tiêu phát triển năng lực người học.
Giáo dục định hướng năng lực nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy
học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng
năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho
con người năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp.
Chương trình này nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách chủ thể của quá
trình nhận thức.
Khác với chương trình định hướng nội dung, chương trình dạy học định
hướng phát triển năng lực tập trung vào việc mô tả chất lượng đầu ra, có thể coi là
“sản phẩm cuối cùng” của quá trình dạy học. Việc quản lý chất lượng dạy học
chuyển từ việc điều khiển “đầu vào” sang điều khiển “đầu ra”, tức là kết quả học
tập của học sinh.
Bảng so sánh một số đặc trưng cơ bản của chương trình định hướng nội dung
và chương trình định hướng phát triển năng lực sẽ cho chúng ta thấy ưu điểm của
chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực:
Chương trình


Chương trình

định hướng nội dung

định hướng phát triển năng lực

Mục tiêu dạy học được mô tả
Mục tiêu không chi tiết và không nhất
giáo dục thiết phải quan sát, đánh giá
được.

Kết quả học tập cần đạt được mô tả
chi tiết và có thể quan sát, đánh giá
được; thể hiện được mức độ tiến bộ
của học sinh một cách liên tục.

Việc lựa chọn nội dung dựa
vào các khoa học chuyên môn,
Nội dung khơng gắn với các tình huống
giáo dục thực tiễn. Nội dung được quy
định chi tiết trong chương
trình.

Lựa chọn những nội dung nhằm đạt
được kết quả đầu ra đã quy định, gắn
với các tình huống thực tiễn. Chương
trình chỉ quy định những nội dung
chính, khơng quy định chi tiết.

Phương


Giáo viên là người truyền thụ - Giáo viên chủ yếu là người tổ chức,


6
hỗ trợ học sinh tự lực và tích cực lĩnh
hội tri thức. Chú trọng sự phát triển
tri thức, là trung tâm của quá khả năng giải quyết vấn đề, khả năng
pháp dạy trình dạy học. Học sinh tiếp giao tiếp…
học
thu thụ động những tri thức - Chú trọng sử dụng các quan điểm,
được quy định sẵn.
phương pháp và kỹ thuật dạy học tích
cực; các phương pháp dạy học thí
nghiệm, thực hành.
Tổ chức hình thức học tập đa dạng;
chú ý các hoạt động xã hội, ngoại
Hình
Chủ yếu dạy học lý thuyết trên khóa, nghiên cứu khoa học, trải
thức dạy
lớp học
nghiệm sáng tạo; đẩy mạnh ứng dụng
học
công nghệ thông tin và truyền thơng
trong dạy và học
Đánh giá
kết quả
học tập
của HS


Tiêu chí đánh giá dựa vào năng lực
Tiêu chí đánh giá được xây
đầu ra, có tính đến sự tiến bộ trong
dựng chủ yếu dựa trên sự ghi
quá trình học tập, chú trọng khả năng
nhớ và tái hiện nội dung đã
vận dụng trong các tình huống thực
học.
tiễn.

1.1.3. Các năng lực mà mơn học Ngữ văn hướng đến
* Năng lực giải quyết vấn đề
Trên thực tế, có nhiều quan niệm và định nghĩa khác nhau về năng lực giải
quyết vấn đề (GQVĐ). Tuy nhiên, các ý kiến và quan niệm đều thống nhất cho
rằng GQVĐ là một năng lực chung, thể hiện khả năng của mỗi người trong việc
nhận thức, khám phá được những tình huống có vấn đề trong học tập và cuộc sống
mà khơng có định hướng trước về kết quả, và tìm các giải pháp để giải quyết
những vấn đề đặt ra trong tình huống đó, qua đó thể hiện khả năng tư duy, hợp tác
trong việc lựa chọn và quyết định giải pháp tối ưu.
Với môn học Ngữ văn, năng lực này cũng cần được hướng đến khi triển khai
các nội dung dạy học của bộ mơn, do tính ứng dụng thực tiễn và quy trình hình
thành năng lực có thể gắn với các bối cảnh học tập (tiếp nhận và tạo lập văn bản)
của môn học, khi nảy sinh những tình huống có vấn đề. Với một số nội dung dạy
học trong môn Ngữ văn như: xây dựng kế hoạch cho một hoạt động tập thể, tiếp
nhận một thể loại văn học mới, viết một kiểu loại văn bản, lí giải các hiện tượng
đời sống được thể hiện qua văn bản, thể hiện quan điểm của cá nhân khi đánh giá
các hiện tượng văn học,… quá trình học tập các nội dung trên là quá trình giải


7

quyết vấn đề theo quy trình đã xác định. Quá trình giải quyết vấn đề trong mơn
Ngữ văn có thể được vận dụng trong một tình huống dạy học cụ thể hoặc trong một
chủ đề dạy học.
*Năng lực sáng tạo
Năng lực sáng tạo được hiểu là sự thể hiện khả năng của học sinh trong việc
suy nghĩ và tìm tịi, phát hiện những ý tưởng mới nảy sinh trong học tập và cuộc
sống, từ đó đề xuất được các giải pháp mới một cách thiết thực, hiệu quả để thực
hiện ý tưởng. Trong việc đề xuất và thực hiện ý tưởng, học sinh bộc lộ trí tị mị,
niềm say mê tìm hiểu khám phá.
Việc hình thành và phát triển năng lực sáng tạo cũng là một mục tiêu mà
môn học Ngữ văn hướng tới. Năng lực này được thể hiện trong việc xác định các
tình huống và những ý tưởng, đặc biệt những ý tưởng được gửi gắm trong các văn
bản văn học, trong việc tìm hiểu, xem xét các sự vật, hiện tượng từ những góc nhìn
khác nhau, trong cách trình bày quá trình suy nghĩ và cảm xúc của học sinh trước
một vẻ đẹp, một giá trị của cuộc sống. Năng lực suy nghĩ sáng tạo bộc lộ thái độ
đam mê và khát khao được tìm hiểu của học sinh, khơng suy nghĩ theo lối mịn,
theo cơng thức. Trong các giờ đọc hiểu văn bản, một trong những yêu cầu cao là
học sinh, với tư cách là người đọc, phải trở thành người đồng sáng tạo với tác
phẩm (khi có được những cách cảm nhận riêng, độc đáo về nhân vật, về hình ảnh,
ngơn từ của tác phẩm; có cách trình bày, diễn đạt giàu sắc thái cá nhân trước một
vấn đề,…).
*Năng lực hợp tác
Học hợp tác là hình thức học sinh làm việc cùng nhau trong nhóm nhỏ để
hồn thành cơng việc chung và các thành viên trong nhóm có quan hệ phụ thuộc
lẫn nhau, giúp đỡ nhau để giải quyết các vấn đề khó khăn của nhau. Khi làm việc
cùng nhau, học sinh học cách làm việc chung, cho và nhận sự giúp đỡ, lắng nghe
người khác, hoà giải bất đồng và giải quyết vấn đề theo hướng dân chủ. Đây là
hình thức học tập giúp học sinh ở mọi cấp học phát triển cả về quan hệ xã hội lẫn
thành tích học tập.
Năng lực hợp tác được hiểu là khả năng tương tác của cá nhân với cá nhân

và tập thể trong học tập và cuộc sống. Năng lực hợp tác cho thấy khả năng làm
việc hiệu quả của cá nhân trong mối quan hệ với tập thể, trong mối quan hệ tương
trợ lẫn nhau để cùng hướng tới một mục đích chung. Đây là một năng lực rất cần
thiết trong xã hội hiện đại, khi chúng ta đang sống trong một môi trường, một
không gian rộng mở của quá trình hội nhập.


8
Trong môn học Ngữ văn, năng lực hợp tác thể hiện ở việc học sinh cùng
chia sẻ, phối hợp với nhau trong các hoạt động học tập qua việc thực hiện các
nhiệm vụ học tập diễn ra trong giờ học. Thơng qua các hoạt động nhóm, cặp, học
sinh thể hiện những suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về những vấn đề đặt ra, đồng
thời lắng nghe những ý kiến trao đổi thảo luận của nhóm để tự điều chỉnh cá nhân
mình. Đây là những yếu tố rất quan trọng góp phần hình thành nhân cách của
người học trong bối cảnh mới.
*Năng lực tự quản bản thân
Năng lực này thể hiện ở khả năng của mỗi con người trong việc kiểm soát
cảm xúc, hành vi của bản thân trong các tình huống của cuộc sống, ở việc biết lập
kế hoạch và làm việc theo kế hoạch, ở khả năng nhận ra và tự điều chỉnh hành vi
của cá nhân trong các bối cảnh khác nhau. Khả năng tự quản bản thân giúp mỗi
người ln chủ động và có trách nhiệm đối với những suy nghĩ, việc làm của mình,
sống có kỉ luật, biết tôn trọng người khác và tôn trọng chính bản thân mình.
Cũng như các mơn học khác, mơn Ngữ văn cũng cần hướng đến việc rèn
luyện và phát triển ở học sinh năng lực tự quản bản thân. Trong các bài học, học
sinh cần biết xác định các kế hoạch hành động cho cá nhân và chủ động điều chỉnh
kế hoạch để đạt được mục tiêu đặt ra, nhận biết những tác động của ngoại cảnh đến
việc tiếp thu kiến thức và rèn luyện kĩ năng của cá nhân để khai thác, phát huy
những yếu tố tích cực, hạn chế những yếu tố tiêu cực, từ đó xác định được các
hành vi đúng đắn, cần thiết trong những tình huống của cuộc sống.
*Năng lực giao tiếp tiếng Việt

Giao tiếp là hoạt động trao đổi thông tin giữa người nói và người nghe,
nhằm đạt được một mục đích nào đó. Việc trao đổi thơng tin được thực hiện bằng
nhiều phương tiện, tuy nhiên, phương tiện sử dụng quan trọng nhất trong giao tiếp
là ngôn ngữ. Năng lực giao tiếp do đó được hiểu là khả năng sử dụng các quy tắc
của hệ thống ngôn ngữ để chuyển tải, trao đổi thông tin về các phương diện của đời
sống xã hội, trong từng bối cảnh/ ngữ cảnh cụ thể, nhằm đạt đến một mục đích
nhất định trong việc thiết lập mối quan hệ giữa những con người với nhau trong xã
hội. Năng lực giao tiếp bao gồm các thành tố: sự hiểu biết và khả năng sử dụng
ngôn ngữ, sự hiểu biết về các tri thức của đời sống xã hội, sự vận dụng phù hợp
những hiểu biết trên vào các tình huống phù hợp để đạt được mục đích.
Trong mơn học Ngữ văn, việc hình thành và phát triển cho học sinh năng lực
giao tiếp ngôn ngữ là một mục tiêu quan trọng, cũng là mục tiêu thế mạnh mang
tính đặc thù của mơn học. Thơng qua những bài học về sử dụng tiếng Việt, học
sinh được hiểu về các quy tắc của hệ thống ngôn ngữ và cách sử dụng phù hợp,


9
hiệu quả trong các tình huống giao tiếp cụ thể, học sinh được luyện tập những tình
huống hội thoại theo nghi thức và không nghi thức, các phương châm hội thoại,
từng bước làm chủ tiếng Việt trong các hoạt động giao tiếp.
*Năng lực ngôn ngữ
Năng lực ngôn ngữ thể hiện trước hết ở hoạt động đọc. Ở cấp trung học cơ sở:
học sinh biết vận dụng kiến thức tiếng Việt cùng với những trải nghiệm và khả
năng suy luận của bản thân để hiểu văn bản; biết đọc văn bản theo kiểu, loại; hiểu
được nội dung tường minh và hàm ẩn của văn bản; nhận biết và bước đầu biết phân
tích, đánh giá nội dung và đặc điểm nổi bật về hình thức biểu đạt của văn bản; biết
so sánh văn bản này với văn bản khác, liên hệ với những trải nghiệm cuộc sống
của cá nhân; từ đó có cách nhìn, cách nghĩ và những cảm nhận riêng về cuộc sống,
làm giàu đời sống tinh thần.
Đối với hoạt động viết, Ở cấp trung học cơ sở: học sinh viết được bài văn tự

sự, miêu tả và biểu cảm; bước đầu biết viết bài văn nghị luận, thuyết minh, nhật
dụng; viết đúng quy trình, biết cách tìm tài liệu để đáp ứng yêu cầu viết văn bản;
có hiểu biết về quyền sở hữu trí tuệ và biết cách trích dẫn văn bản, những vấn đề.
Đối với hoạt động nói và nghe, ở cấp trung học cơ sở: học sinh trình bày dễ
hiểu các ý tưởng và cảm xúc; có thái độ tự tin khi nói trước nhiều người; sử dụng
ngơn ngữ, cử chỉ điệu bộ thích hợp khi nói; kể lại được một cách mạch lạc câu
chuyện đã đọc, đã nghe; biết chia sẻ những cảm xúc, thái độ, trải nghiệm, ý tưởng
của mình đối với những vấn đề được nói đến; thảo luận ý kiến về vấn đề đã đọc, đã
nghe; thuyết minh về một đối tượng hay quy trình; biết cách nói thích hợp với mục
đích, đối tượng và ngữ cảnh giao tiếp; biết sử dụng hình ảnh, kí hiệu, biểu đồ,... để
trình bày vấn đề một cách hiệu quả; học sinh thực hành nghe hiểu với thái độ phù
hợp và tóm tắt được nội dung; nhận biết và bước đầu đánh giá được lí lẽ, bằng
chứng mà người nói sử dụng; nhận biết được cảm xúc của người nói; biết cách
phản hồi những gì đã nghe một cách hiệu quả.
Như vậy, năng lực ngôn ngữ là một năng lực tổng hợp trên cơ sở những biểu
hiện của bốn yếu tố đọc, viết, nghe, nói cấu thành. Các yếu tố đó có mối quan hệ
chặt chẽ, thúc đẩy và tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, tạo nên tính tồn diện năng lực
đặc thù của mơn Ngữ văn.
*Năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mi
Năng lực cảm thụ thẩm mĩ thể hiện khả năng của mỗi cá nhân trong việc
nhận ra được các giá trị thẩm mĩ của sự vật, hiện tượng, con người và cuộc sống,


10
thông qua những cảm nhận, rung động trước cái đẹp và cái thiện, từ đó biết hướng
những suy nghĩ, hành vi của mình theo cái đẹp, cái thiện. Như vậy, năng lực cảm
thụ (hay năng lực trí tuệ xúc cảm) thường dùng với hàm nghĩa nói về các chỉ số
cảm xúc của mỗi cá nhân. Chỉ số này mô tả khả năng tự nhận thức để xác định,
đánh giá và điều tiết cảm xúc của chính mỗi người, của người khác, của các nhóm
cảm xúc.

Năng lực cảm thụ thẩm mĩ là năng lực đặc thù của môn học Ngữ văn, gắn
với tư duy hình tượng trong việc tiếp nhận văn bản văn học. Quá trình tiếp xúc với
tác phẩm văn chương là quá trình người đọc bước vào thế giới hình tượng của tác
phẩm và thế giới tâm hồn của tác giả từ chính cánh cửa tâm hồn của mình.
Từ việc tiếp xúc với các văn bản văn học, học sinh sẽ biết rung động trước
cái đẹp, biết sống và hành động vì cái đẹp, nhận ra cái xấu và phê phán những hình
tượng, biểu hiện khơng đẹp trong cuộc sống, biết đam mê và mơ ước cho cuộc
sống tốt đẹp hơn.
Như vậy, quá trình dạy học Ngữ văn đồng thời giúp học sinh hình thành và
phát triển các năng lực đáp ứng với yêu cầu phát triển của xã hội, thông qua việc
rèn luyện và phát triển các kĩ năng đọc, viết, nghe, nói. Trong q trình hướng dẫn
học sinh tiếp xúc với văn bản, mơn Ngữ văn cịn giúp học sinh từng bước hình
thành và nâng cao các năng lực học tập của môn học, cụ thể là năng lực tiếp nhận
văn bản (gồm kĩ năng nghe và đọc) và năng lực tạo lập văn bản (gồm kĩ
năng nói và viết).
1.1.4. Dạy học theo chủ đề
Dạy học theo chủ đề là hình thức tìm tịi những khái niệm, tư tưởng, đơn vị
kiến thức, nội dung bài học, chủ đề,…có sự giao thoa, tương đồng lẫn nhau, dựa
trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập đến trong các môn
học hoặc các hợp phần của mơn học đó (tức là con đường tích hợp những nội dung
từ một số đơn vị, bài học, mơn học có liên hệ với nhau) làm thành nội dung học
trong một chủ đề có ý nghĩa hơn, thực tế hơn, nhờ đó học sinh có thể tự hoạt động
nhiều hơn để tìm ra kiến thức và vận dụng vào thực tiễn.
Dạy học theo chủ đề là sự kết hợp giữa mơ hình dạy học truyền thống và
hiện đại, ở đó giáo viên khơng dạy học chỉ bằng cách truyền thụ (xây dựng) kiến
thức mà chủ yếu là hướng dẫn học sinh tự lực tìm kiếm thơng tin, sử dụng kiến
thức vào giải quyết các nhiệm vụ có ý nghĩa thực tiễn.
Dạy học theo chủ đề là một mơ hình mới cho hoạt động lớp học thay thế cho
lớp học truyền thống (với đặc trưng là những bài học ngắn, cô lập, những hoạt
động lớp học mà giáo viên giữ vai trò trung tâm) bằng việc chú trọng những nội



11
dung học tập có tính tổng qt, liên quan đến nhiều lĩnh vực, với trung tâm tập
trung vào học sinh và nội dung tích hợp với những vấn đề, những thực hành gắn
liền với thực tiễn. Nó cũng khơng chỉ dừng ở mục tiêu “đầu vào” về kiến thức mà
nó còn hướng tới định hướng “đầu ra” tức là khả năng vận dụng kiến thức vào giải
quyết thực tiễn.
Dạy học theo chủ đề ở bậc trung học là sự cố gắng tăng cường tích hợp kiến
thức, làm cho kiến thức có mối liên hệ mạng lưới nhiều chiều; là sự tích hợp vào
nội dung những ứng dụng kĩ thuật và đời sống thơng dụng làm cho nội dung học
có ý nghĩa hơn, hấp dẫn hơn. Một cách hoa mỹ, đó là việc “thổi hơi thở” của cuộc
sống vào những kiến thức cổ điển, nâng cao chất lượng “cuộc sống thật” trong các
bài học.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Trong thực tế giảng dạy của bản thân và việc dự giờ đồng nghiệp, chúng tơi
thấy việc dạy - học các tiết học nói chung, chủ đề nói riêng trong chương trình tại
đơn vị chưa thật phát huy và khơi dậy tối đa các năng lực của học sinh. Điều đó,
thể hiện ở những tồn tại sau:
Dạy học đọc - hiểu chủ yếu vẫn theo hướng truyền thụ một chiều những cảm
nhận của giáo viên về văn bản, chưa hướng tới việc cung cấp cho học sinh cách
đọc, cách tiếp cận, khám phá những vấn đề về nội dung và nghệ thuật của văn bản.
Dạy học chú trọng đến cung cấp nội dung tư tưởng của văn bản văn học, ít chú
trọng đến các phương tiện nghệ thuật. Tóm lại, vẫn là chú trọng dạy kiến thức hơn
là hình thành kỹ năng.
Dạy học tích hợp đã được chú trọng trong những năm học gần đây và cũng
đã đạt được một số kết quả bước đầu. Tuy nhiên, dạy học tích hợp vẫn mang tính
khiên cưỡng, thiếu tự nhiên, tức là giáo viên thường áp đặt những nội dung tích
hợp vào bài học như bảo vệ môi trường, giáo dục kỹ năng sống… một cách lộ liễu.
Chưa phát huy học sinh huy động kiến thức, kỹ năng của nhiều môn học, nhiều

lĩnh vực… để giải quyết các nhiệm vụ học tập. Chủ yếu tích hợp liên mơn, chưa
chú trọng tích hợp các phân mơn… chính vì vậy chưa giúp học sinh hình thành
kiến thức, kỹ năng mới và tất nhiên các năng lực của học sinh chưa được phát
triển.
Việc vận dụng các phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực. Trong những
năm học vừa qua, nhận thức của đội ngũ giáo viên về tính cấp thiết phải đổi mới
phương pháp dạy học đã thay đổi và có nhiều chuyển biến; việc áp dụng những
phương pháp dạy học tích cực đã được thực hiện. Tuy nhiên cách thực hiện, hiệu


12
quả giảng dạy để đạt được mục tiêu của nó là chưa cao, ví dụ như phương pháp
thảo luận nhóm được tổ chức nhưng chủ yếu vẫn dựa vào một vài cá nhân học sinh
tích cực tham gia, các thành viên còn lại còn dựa dẫm, ỉ lại chưa thực sự chủ động.
Mục đích của thảo luận nhóm chưa đạt được.

II. Thực trạng
2.1. Thực trạng dạy của giáo viên
Nhiều giáo viên tâm huyết với bộ môn Ngữ văn cho rằng việc dạy học vẫn
chưa tạo sức hút cho học sinh. Chưa vận dụng có hiệu quả lý luận dạy học vào thực
tiễn bài giảng nên nhiều giờ dạy giáo viên vẫn chưa thực sự giúp học sinh thể hiện
cái riêng trong tiếp nhận kiến thức. Sự phát huy tính tích cực chủ động của học
sinh thực ra vẫn mang tính chất nửa vời. Không phát huy được năng lực tư duy
sáng tạo của các em.
Trong các tiết học, nội dung bài học cũng chỉ dừng lại ở việc truyền thụ những
kiến thức đơn thuần về nội dung và nghệ thuật của các văn bản và các kiến thức
Tập làm văn hoặc tiếng Việt chứ chưa giúp học sinh hình thành được kĩ năng tìm
hiểu một văn bản và khả năng suy luận để tự mình rút ra những bài học thực tiễn
cho bản thân.
Về phương pháp thì phương pháp chủ yếu vẫn là thuyết trình của giáo viên và

sự thụ động ghi chép của học sinh. Chủ thể của giờ học là giáo viên bởi vậy giờ
học thường rất nặng nề và áp lực.
Theo chỉ đạo của ngành, những năm gần đây, các trường học cũng thực hiện
đúng việc xây dựng và dạy học theo chủ đề. Mỗi tổ nhóm chuyên môn đều xây
dựng tối thiểu hai chủ đề trong một năm học. Tổ chức dạy thử nghiệm để dự giờ,
rút kinh nghiệm. Theo tiến trình hoạt động của mơ hình trường học
mới, dạy học chủ đề cũng thực hiện theo 5 bước: khởi động, hình
thành kiến thức, luyện tập, vận dụng và tìm tịi mở rộng. Nhưng
trên thực tế, giáo viên và học sinh mới thực sự thực hiện được ba
hoạt động đầu, hoạt động vận dụng và tìm tịi, mở rộng thì giáo
viên hướng dẫn học sinh thực hiện ở nhà. Sở dĩ như vậy là vì khi
thực hiện các chủ đề số tiết học vẫn không thay đổi. Số tiết chủ
đề là số tiết các bài học trong chủ đề cộng lại. Với việc chú trọng
nội dung kiến thức bài học, giáo viên mới chỉ dừng lại ở việc
truyền thụ kiến thức các bài học liên quan đến chủ đề mà chưa có
những tiết học để tổng kết chủ đề, vận dụng chủ đề, kết nối các
nội dung trong chủ đề lại với nhau.


13
2.2. Thực trạng học của học sinh
Hiện nay, số lượng học sinh u thích mơn Văn ngày càng ít đi, số học sinh
giỏi văn cũng theo đó mà ngày càng ít dần. Đặc biệt, trong những năm gần đây, số
lượng học sinh đăng kí thi các trường đại học, cao đẳng khối C giảm sút đáng kể.
Các kỳ thi tuyển HSG khơng được học sinh hưởng ứng một cách tích cực.
Qua thực tế dạy học, tôi thấy việc học tập của học sinh cũng có nhiều điểm
đáng quan tâm. Có thể nói, nhìn chung nhiều học sinh vẫn ngại học mơn Ngữ văn
vì phải ghi chép nhiều, nghe giảng nhiều và nhiều kiến thức. Hơn nữa, trong quá
trình giảng dạy, giáo viên cũng không để ý tới việc nhận thức của các em mà chỉ
dạy làm sao cho đúng tiến độ, cho hết giờ. Vì vậy, trong các giờ học học sinh tiếp

nhận tri thức một cách hững hờ, ít nhiệt tình. Những năm gần đây, nhiều người
quan tâm đến công tác giáo dục cũng không khỏi lo ngại trước một thực trạng, đó
là tâm lý thờ ơ với việc học Ngữ văn. Trong giờ học văn, học sinh ngồi học thụ
động, chưa phát huy được tính tích cực, chủ động.
Đầu năm tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng về các năng lực được phát huy
trong giờ học ngữ văn ở ba lớp 8 (Phụ lục 1). Theo bảng khảo sat, thì số học sinh
chưa phát huy được các năng lực chiếm tỉ lệ cao: 52%.
Cùng với khảo sát chất lượng về các năng lực được phát huy trong giờ học
Ngữ văn, tôi đã khảo sát học sinh lớp 8 về sự yêu thích đối với học chủ đề Ngữ
văn. Kết quả thu được trước khi thực hiện dạy học chủ đề năm học mới: khơng
thích chiếm 37%, bình thường chiếm 31% và thích là chiếm 32%.
Như vậy, trên thực tế tỉ lệ học sinh khơng thích học chủ đề cao, và không
thấy sự khác biệt khi học chủ đề và học các bài học độc lập. Các năng lực chưa
thực sự được phát huy khi dạy học chủ đề trước đây. Đó là điều mà giáo viên phải
tìm cách để thay đổi.
III. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
3.1. Tìm hiểu, nắm vững mục tiêu bài giảng Ngữ văn theo định hướng phát
triển năng lực
Để xây dựng, thiết kế chủ đề theo định hướng phát triển năng lực, điều đầu
tiên là cần phải nắm vững mục tiêu bài dạy theo định hướng phát triển năng lực.
Trong giáo dục theo định hướng năng lực học sinh, quan trọng là xác định rõ
những năng lực cần có và có thể phát triển trong dạy học. Trong đó gồm năng lực
chung có thể phát triển ở các môn học khác nhau và năng lực riêng.
Theo quan điểm của các nhà sư phạm, cấu trúc chung của năng lực hành
động được mô tả là sự kết hợp của 4 năng lực thành phần sau:


14
Các thành phần cấu trúc của năng lực
- Năng lực chuyên môn (Professional competency)

- Năng lực phương pháp (Methodical competency)
- Năng lực xã hội (Social competency)
- Năng lực cá thể (Induvidual competency)
Từ cấu trúc của khái niệm năng lực cho thấy giáo dục định hướng phát triển
năng lực không chỉ nhằm mục tiêu phát triển năng lực chuyên môn bao gồm tri
thức, kỹ năng chun mơn mà cịn phát triển năng lực phương pháp, năng lực xã
hội và năng lực cá thể. Những năng lực này có mối quan hệ biện chứng không tách
rời nhau. Năng lực hành động được hình thành trên cơ sở có sự kết hợp các năng
lực này.
- Trước hết là nhóm năng lực cốt lõi chung:

Năng lực
tự học
Năng lực giải Năng
quyếtlực sử dụng
ăng
lực
Năng
lực
tự quản
sáng
lực giao

tạo
Năngtiếp
lực hợp Năng
tác lực sử dụng
Năng
ngơn
lực ngữ

tính tốn
vấn đề
CN-TT

Năng
lực
cốt
lõi
Năng
lực
cốt
lõi

Nhóm NL
làm chủ
Nhóm NL quan hệ
và PT
xã hội
bản thân

Nhóm
năng
lực
cơng cụ


Năng lực giao tiếp

15
Nghe đọc


Nói, viết

Đến phát triển cho học sinh những năng lực chuyên biệt:
Tiếp nhận văn bản Tạo lập văn bản

Năng lực đọc hiểu

Năng lực tập làm văn

Bên cạnh những năng lực, bài dạy ngữ văn phải giúp học sinh hình thành
những phẩm chất:
(1) Yêu gia đình, yêu quê hương, đất nước.
(2) Nhân ái khoan dung.
(3) Trung thực, tự trọng, chí cơng vơ tư.
(4) Chăm chỉ, có tinh thần vượt khó.
(5) Có trách nhiệm với bản thân, cộng đồng, đất nước và môi trường tự
nhiên.
Việc xác định những năng lực cần có và năng lực hướng tới cùng những phẩm
chất có thể giáo dục là định hướng quan trọng, khơng thể thiếu của các bài dạy
Ngữ văn nói chung và dạy học chủ đề nói riêng.Từ mục tiêu, người dạy sẽ thiết kế
chủ đề để thực hiện mục tiêu đó.
3.2. Thiết kế chủ đề Ngữ văn 8 theo định hướng phát triển năng lực học
sinh
* Cách xây dựng chủ đề:
Bước 1: Xác định chủ đề.
Xác định nội dung, phạm vi kiến thức muốn đưa vào chủ đề. Nội dung có
thể là sự tích hợp một đơn vị kiến thức trong nhiều bài.



16
Trong chương trình Ngữ văn của từng khối lớp hoặc nhiều khối lớp, trước
đây chúng ta chọn những bài học có mối liên quan chặt chẽ với nhau về mặt nội
dung, ý nghĩa. Từ những nội dung liên quan đó, giáo viên định hình chủ đề sẽ dạy
và soạn thành một giáo án Dạy học theo chủ đề. Như vậy một chủ đề sẽ có từ 2 tiết
trở lên. Thường thì trong mơn Ngữ văn, các chủ đề được gom lại chủ yếu trong
một phân môn: Văn bản, Tập làm văn, Tiếng Việt.
Năm học 2020 – 2021, Bộ giáo dục đã chỉ đạo dạy học theo chủ đề mà Bộ
đã tích hợp. Chủ đề có sự tích hợp giữa các phân môn Văn – Tiếng Việt – Tập làm
Văn.
Bước 2: Căn cứ các chủ đề tích hợp, giáo viên tiến hành xây dựng chủ
đề
Yêu cầu của việc xây dựng chủ đề là: chủ đề xây dựng vừa đúng, đủ, phù
hợp và đảm bảo các yêu cầu về chuẩn kiến thức, kĩ năng trong chương trình chuẩn,
cũng như các năng lực cần xây dựng, kiểm tra. Khi xây dựng chủ đề phải đảm bảo
tính hệ thống, tính logic của chương trình tránh đảo lộn nội dung hay rối loạn tư
duy học sinh, phá vỡ hệ thống kiến thức. Các chủ đề mà Bộ đã xây dựng đáp ứng
các yêu cầu trên. Nhiệm vụ của giáo viên là đặt tên chủ đề, phân bố số tiết và tiến
hành soạn giáo án dạy học theo chủ đề.
Với chủ đề Ngữ văn 8, tôi đã đặt tên cho chủ đề học kì I là: Kí ức tuổi thơ
trong hai văn bản “Tơi đi học” và “Trong lịng mẹ”, Tích hợp tính thống nhất về
chủ đề và bố cục của văn bản. Chủ đề học kì II là: Niềm hồi cổ trong hai văn bản
“Nhớ rừng” và “ơng đồ”, tích hợp câu nghi vấn. Mỗi chủ đề được dạy trong 8 tiết
học vào đầu mỗi học kì.
Bước 3: Tiến hành soạn giáo án theo chủ đề đã xây dựng.
A. Mục tiêu của chủ đề:
1. Năng lực:
-Về kiến thức
-Kĩ năng
-Năng lực cần phát triển

2. Phẩm chất
B. Chuẩn bị của GV và HS
C. Tiến trình hoạt động
Hoạt động 1: Khởi động
=> Giới thiệu chung về chủ đề


17
+ Tên chủ đề
+ Chủ đề gồm mấy tiết ?
+ Bao gồm những bài nào?
+Số tiết và bài học cụ thể
Hoạt động 2: Hình thành kiến thức chủ đề
Hoạt động 3: Tổng kết, luyện tập chủ đề
Hoạt động 4: Vận dụng, nâng cao, hướng dẫn học bài về nhà
(Tuỳ số lượng tiết của chủ đề mà giáo viên soạn nội dung vận dụng nâng cao
ngắn hay dài nhưng nên có những bài tập vận dụng tổng hợp kiến thức chung của
cả chủ đề).
Hoạt động 5: Tìm tịi, mở rộng.
Bước 4: Dựa trên các nhiệm vụ học tập được đưa ra theo kế hoạch, giáo
viên tiến hành thực hiện dự án dạy.
Ở bước này, giáo viên cần bám sát những nhiệm vụ học của học sinh, đề ra
các phương hướng phù hợp khai thác hiệu quả nội dung chủ đề. Tiết dạy học theo
chủ đề thường được tiến hành giống như một tiết học bình thường ngay tại lớp học.
Tuy nhiên, dạy học theo chủ đề thường gắn với các nhiệm vụ học tập và gắn với
giải quyết các vấn đề thực tiễn nên khâu chuẩn bị có thể sẽ phải tiến hành trước tiết
dạy nhiều tuần. Các dự án cần có kế hoạch theo dõi tiến hành thực hiện để có cơ sở
kiểm tra, đánh giá các năng lực học sinh ngay trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
học tập.
Trong khuôn khổ một sáng kiến kinh nghiệm, tôi không thể đăng tải hết giáo

án của một chủ đề bao gồm 8 tiết học. Nên chỉ xin đưa ra giáo án một tiết học
trong chủ đề Ngữ Văn 8 học kì II làm ví dụ minh hoạ cho việc dạy học một tiết học
của chủ đề theo định hướng phát triển năng lực. Trong chủ đề học kì 2 này bao
gồm 8 tiết từ tiết 73 đến tiết 80. Sau tiết giới thiệu chủ đề ở tiết 73 là đến tiết 74 –
Tiết 1 của văn bản Nhớ rừng và là tiết thứ hai của chủ đề:
Ngày soạn: 16/01/2021
Tiết 74
NHỚ RỪNG – THẾ LỮ
A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT
1. Năng lực
*Kiến thức


18
- Hiểu được chiều sâu tư tưởng yêu nước thầm kín của lớp thế hệ tri thức Tây học chán
ghét thực tại, vươn tới cuộc sống tự do.
- Cảm nhận được hình tượng nghệ thuật độc đáo, có nhiều ý nghĩa của bài thơ Nhớ
rừng.
* Ki năng
- Nhận biết được tác phẩm thơ lãng mạn.
- Đọc diễn cảm tác phẩm thơ hiện đại viết theo bút pháp lãng mạn.
- Phân tích được những chi tiết nghệ thuật tiêu biểu trong tác phẩm.
=> Hình thành và phát triển năng lực:
- Các năng lực chung:
+ Năng lực tự học; năng lực giải quyết vấn đề;
+ Năng lực tư duy; năng lực giao tiếp;
+ Năng lực sử dụng CNTT; năng lực hợp tác
- Các năng lực chuyên biệt:
- Năng lực sử dụng ngôn ngữ.
- Năng lực cảm thụ văn học.

2. Phẩm chất
- - GD phẩm chất yêu nước, chăm chỉ, trách nhiệm, trung thực…
* Tích hợp mơi trường: Bảo vệ mơi trường sống của chúa sơn lâm.
B. CHUẨN BỊ
- Giáo viên:
+ Nghiên cứu SGK, SBT, SGV, chuẩn kiến thức kĩ năng, tư liệu tham khảo.
+ Chuẩn bị kế hoạch dạy học, thiết bị, phương tiện dạy học (bảng phụ, máy chiếu)
- Học sinh:
+ Đọc kĩ SGK, tài liệu liên quan.
+ Soạn bài theo hệ thống câu hỏi SGK.
C. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
1. Khởi động:
Thi các nhóm: Kể tên những tác phẩm có các con vật trong chương trình Ngữ văn


19
THCS mà em đã học.
Giáo viên tổng kết, nhận xét => giới thiệu bài:
Mượn hình ảnh lồi vật để giáo dục hoặc truyền tải một thơng điệp nào đó là
cách dùng quen thuộc trong các tác phẩm văn học. Dù là thế giới lồi vật hay đồ
vật thì chung quy lại các tác phẩm vẫn luôn hướng đến những điều liên quan đến
cuộc sống của con người. Thế Lữ cũng chọn cách này, thơng qua hình tượng con
hổ bị giam cầm để để bày tỏ nỗi niềm của mình trong bài thơ "Nhớ rừng". Đây
cũng chính là nội dung tiết học của chúng ta ngày hơm nay.
2. Hình thành kiến thức
Hoạt động của giáo viên
- học sinh

Nội dung cần đạt


I. Đọc – tìm hiểu chung
- Quan sát chú thích SGK.
Giới thiệu những nét
chính về Thế Lữ?
(Yêu cầu học sinh nêu tiểu
sử, sự nghiệp sáng tác
theo SGK kết hợp với
hình ảnh và thơng tin đã
tìm hiểu ngồi SGK).
-Hồn cảnh
''Nhớ rừng''?

sáng

tác

-Gọi HS trình bày và nhận
xét.
-GV trình chiếu và giới
thiệu bổ sung.

Định
hướn
g
PTNL

Phát
triển
1. Tác giả
năng

- Tên thật: Nguyễn Đình Lễ, sau đổi thành lực tự
Nguyễn Thứ Lễ Bút danh: Lê Ta.
học,
2. Tác phẩm
khái
- Đây là bài thơ tiêu biểu của tác giả, tác quát
phẩm góp phần mở đường cho sự thắng vấn
đề
lợi của thơ mới.


20

“Nhớ rừng” là mượn
lời con hổ ở vườn Bách
thú...
Thế Lữ (10 tháng 6 năm 1907 – 3 tháng 6 năm 1989; tên khai sinh là Nguyễn
Đình Lễ (có tài liệu khác ghi tên ông là Nguyễn Thứ Lễ) là nhà thơ, nhà văn, nhà
hoạt động sân khấu người Việt Nam. Thế Lữ nổi danh trên văn đàn vào những năm
1930, với những tác phẩm Thơ mới, đặc biệt là bài Nhớ rừng, cùng những tác
phẩm văn xuôi, tiêu biểu là tập truyện Vàng và máu (1934). Trở thành thành viên
của nhóm Tự Lực văn đồn kể từ khi mới thành lập (1934), ông hầu hết hoạt động
sáng tác văn chương trong thời gian là thành viên của nhóm, đồng thời cũng đảm
nhận vai trị một nhà báo, nhà phê bình, biên tập viên mẫn cán của các tờ
báo Phong hóa và Ngày nay.
Hoạt động của giáo viênhọc sinh

Nội dung cần đạt

- Giáo viên đọc mẫu- Đọc - Đọc - chú thích

chính xác, có giọng điệu
phù hợp với nội dung cảm
xúc của mỗi đoạn thơ:
đoạn thì hào hùng, đoạn
uất ức

Định
hướng
PTNL

Phát
triển
năng
lực
đọc
hiểu,
khái
- Gọi học sinh đọc bài thơ
quát
- Giáo viên kiểm tra việc
vấn
đọc chú thích của học sinh
đề,
nhất là các từ Hán Việt, từ - chú thích: ngạo mạn, oai linh, sơn lâm, giải
cả, ...
cổ.
quyết
-? Xác định thể thơ
vấn đề



21
- Bài thơ có mấy đoạn.? Ý
mỗi đoạn?
-Thể thơ: Tám chữ
- Bố cục:

- Bài thơ có 5 đoạn

+ Đoạn 1 và đoạn 4 cảnh con hổ ở vườn
bách thú
+ Đoạn 2 và đoạn 3 con hổ chốn giang sơn
hùng vĩ
+ Đoạn 5: con hổ khao khát giấc mộng
ngàn.
THẢO LUẬN CẶP ĐÔI
? Một bạn cho rằng tác
giả đã dùng thủ pháp đối
lập để tạo nên hai cảnh
tượng trái ngược nhau,
dựa vào đó chúng ta có
thể tìm ra bố cục bài thơ
một cách dễ dàng? Em có
đồng ý với ý kiến đó
khơng? Vì sao?
- Tổ chức cho HS thảo
luận.
- Tổ chức trao đổi, rút
kinh nghiệm.
- GV tổng hợp ý kiến.

- Đồng ý.
- Tác giả đã dùng thủ pháp đối lập để tạo
nên hai cảnh tượng tương phản giữa cảnh
vườn bách thú, nơi con hổ bị giam cầm
(đoạn 1 và đoạn 4) và cảnh núi non hùng
vĩ xưa nơi con hổ từng ngự trị (đoạn 2 và
đoạn 3). Đó là sự tương phản giữa cảnh
thực tại và cảnh trong dĩ vãng, mộng
tưởng. Và thơng qua đó thể hiện thành

Phát
triển
năng
lực
hợp
tác , tự
quản,
giải
quyết
vấn
đề,
giao
tiếp,
sử
dụng
ngơn
ngữ
TV,
thưởn
g thức

văn
học và
cảm
thụ
thẩm



22
công tâm sự của con hổ: chán ghét thực
tại, khao khát tự do.

Hoạt động của giáo viên
- học sinh

Nội dung cần đạt

HOẠT ĐỘNG NHĨM

Định hướng
PTNL

II. Đọc, tìm hiểu chi tiết

- Giao nhiệm vụ - phiếu
học tập 1.
- Tổ chức cho các nhóm
thảo luận. GV quan sát,
khích lệ HS.
- Tổ chức cho HS báo cáo

kết quả thảo luận qua
phiếu học tập

Phát triển
1, Hình ảnh con hổ ở vườn bách năng lực
giao tiếp, tư
thú
duy khái
- Khổ 1
quát vấn
đề,, khả
năng sử
dụng ngôn
ngữ TV

- Gv tổng hợp ý kiến-kết
luận
Dự kiến sản phẩm của học sinh
Hình ảnh con hổ

Nhận xét

Tâm
trạng

- Gậm một khối căm - Cảm xúc hờn căm kết đọng trong tâm
hờn trong cũi sắt
hồn, đè nặng, nhức nhối, khơng có cách
nào giải thốt.


Tư thế

-Nằm dài trông ngày -Buông xuôi bất lực, tủi cực.
tháng dần qua

Thái độ

- Khinh lũ người kia - Coi thường, khinh ghét
ngạo mạn, ...


23
Hoàn
cảnh

+ Bị nhục nhằn tù hãm

- Nỗi nhục nhã, nỗi bất bình khi sa cơ, lỡ
+ Làm trị lạ mắt, đồ vận.
chơi
+ Chịu ngang bầy - bọn
gấu dở hơi...cặp báo vơ
tư lự,

Nghệ
thuật

Tương phản giữa hình ảnh bên ngồi và nội tâm của con hổ: bên
ngồi bng xi, phó mặc nhưng cảm xúc hờn căm trong lòng
đang trào dâng ngùn ngụt.


Đoạn thơ là hiện trạng và tình cảnh của con hổ . Nó gậm chứ khơng phải ngậm
nghĩa là như tự mình đang gặm nhấm một khối căm hờn. Tình cảm là một khối
căm hờn to lớn, vẹn nguyên, chưa thể tan. Cái tư thế nằm dài thể hiện sự chán
ngán, bất lực của kẻ anh hùng khi đã sa cơ cũng hèn (Nguyễn Du ). Trong tình
cảnh tủi nhục ấy, nó vẫn ý thức được về bản thân, phân biệt mình với con người,
và con vật khác. Những câu thơ mở đầu là tâm trạng bi kịch của vị chúa sơn lâm
khi sa cơ thất thế. Đặt bài thơ vào thời điểm sáng tác (1934) thì nỗi tủi hờn cay
đắng của con hổ cũng đồng điệu với bi kịch của nhân dân ta khi đang sống trong
xiềng xích, nơ lệ.
Tổng kết khổ 1: Diễn tả tâm trạng căm giận, uất ức, ngao ngán, chán ghét cảnh
sống tầm thường, tù túng. Tâm trạng của con hổ cũng như tâm trạng của người dân
mất nước, uất hận, căn hờn, ngao ngán trong cảnh đời tối tăm
Hoạt động của giáo viên
- học sinh

Nội dung cần đạt
Khổ 4

Cách thức: 4 bước
+ Bước 1: Giao nhiệm vụ.
(Thời gian: 5 phút.
Hoạt động theo nhóm bàn.
Nội dung:
Nhóm 1: Dưới con mắt của
chúa sơn lâm cảnh vườn
bách thú hiện lên như thế

Định
hướng

PTNL
Phát
triển
năng
lực
hợp
tác, tự
quản,
giải
quyết
vấn
đề,


24
nào?
Nhóm 2: Nhận xét của em
về cảnh đó?
Nhóm 3: Em có nhận xét gì
về giọng thơ, nhịp thơ?
+ Bước 2: Thực hiện nhiệm
vụ.
+ Bước 3: Trao đổi thảo
luận.
+ Bước 4: Đánh giá chốt
kiến thức
- Dưới con mắt của con hổ
cảnh vườn bách thú là cảnh
tầm thường, giả dối nhân
tạo, tù túng.

- Cảnh vật vườn bách thú
đựơc miêu tả:
GV: - Giải nước đen, giả
suối
- Hoa chăm, cỏ xén..
- Nhận xét của em về cảnh
đó:
HS: Giả dối, tầm thường, vơ
+ Khơng thay đổi, hoa chăm, cỏ xén,
hồn, đơn điệu...
dải nước đen giả suối, mơ gị thấp kém,
GV: Tất cả chỉ là đơn điệu
vừng lá hiền lành khơng bí hiểm.
do bàn tay sửa sang, tỉa tót
của con người nên rất tầm
thường giả dối chứ không ->Cảnh đơn điệu, nhàm tẻ, vô hồn ...
phải là thế giới của tự nhiên không phải là của thế giới tự nhiên to
to lớn, mạnh mẽ, bí hiểm.
lớn, mạnh mẽ, bí hiểm.
(?Cảnh tượng ấy gây nên + Nhịp thơ: Ngắn, dồn dập, từ ngữ liệt
phản ứng nào trong tình kê, giọng thơ giễu cợt ở hai câu đầu.

giao
tiếp,
sử
dụng
ngơn
ngữ
TV,
thưởn

g thức
văn
học và
cảm
thụ
thẩm
mĩ…


25
cảm của con hổ?) Niềm uất Câu tiếp theo như được kéo dài ra.
hận.
-> Cảnh tù túng đáng chán, đáng khinh,
- Giọng thơ, nhịp thơ:...
đáng ghét.
? Từ 2 đoạn thơ trên em
hiểu cảnh tượng vườn bách
thú dưới con mắt của hổ
chính là gì?
GV: Thái độ ngao ngán,
chán ghét cao độ đối với
cảnh vườn bách thú của con => Cảnh vườn bách thú là thực tại xã hội
hổ là thái độ phủ nhận thực đương thời, thái độ của hổ là thái độ của
tại tầm thường, cũng chính người dân đối với xã hội đó.
là thái độ của con người
trong xã hội đương thời. Là
nỗi đau của người dân bị
mất nước, sống trong cảnh
nơ lệ.
Vì vậy bài thơ có tiếng vang

rộng rãi vì nó đã khơi được
tình cảm u nước khát
khao độc lập tự do của
người dân Việt Nam.
3. Luyện tập
Đọc diễn cảm đoạn thơ mà em tâm đắc nhất? Vì sao em thích đoạn thơ đó?
4. Vận dụng:
Đóng vai con hổ tả lại cảnh vườn bách thú và nói lên tâm trạng của hổ khi bị giam
cầm?
5. Tìm tịi, mở rộng:
Chuẩn bị cho tiết học sau: Tìm câu nghi vấn trong bài thơ Nhớ rừng và cho biết
mục đích của các câu nghi vấn đó theo phiếu bài tập sau:
PHIẾU BÀI TẬP
Bài

Câu hỏi

Mục đích


×