TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
KHOA LUẬT
TIỂU LUẬN
TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài: Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức theo quan niệm
duy vật biện chứng. Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận chung và
liên hệ với thực tiễn đổi mới ở nước ta hiện nay
Họ và tên sinh viên:
Mã số sinh viên:
Lớp:
Khoa:
Thành phố Hồ Chí Minh – Tháng 02/2022
2
Mục lục
3
PHẦN MỞ ĐẦU
Mục tiêu cách mạng lớn lao nhất và quan trọng nhất của Đảng và Nhà nước ta
hiện nay là tiến lên chủ nghĩa xã hội, vì chỉ có thực hiện được mục tiêu quan trọng
này thì chúng ta mới có thể xây dựng được một nước Việt Nam mà theo Chủ tịch Hồ
Chí Minh là: ‘dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Cũng chỉ
khi xây dựng chủ nghĩa xã hội thành cơng thì chúng ta mới có thể làm thỏa mãn mong
muốn khơng chỉ của Người mà của tất cả nhân dân Việt Nam là: “Làm sao cho dân ta
ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành,..”. Vậy chúng ta phải làm thế nào
để đạt được mục tiêu đó? Theo thực tế hiện nay, với con đường đi lên xã hội chủ
nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, đại hội Đảng lần thứ VI đã khẳng định: Chủ
nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh chính là nền tẳng tư tưởng, là kim chỉ
nam cho hoạt động của Đảng. Tức là, chúng ta phải sử dụng quan điểm, lập trường và
các phương pháp của chủ nghĩa Mác- Lênin để rút ra những kinh nghiệm của Đảng ta,
phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta để có thể xác định được
đường lối, chính sách của Cách mạng xã hội sao cho phù hợp nhất với tình hình nước
ta.
Với tư cách là một sinh viên đại học, đồng thời là một công dân của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, em muốn cùng mọi người tìm hiểu kĩ hơn về Triết
học Mác- Lênin phần chủ nghĩa duy vật biện chứng giữa vật chất và ý thức.
Cụ thể hơn là đề tài “Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức theo quan
niệm duy vật biện chứng. Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận chung và liên hệ với
thực tiễn đổi mới ở nước ta hiện nay.” Em cũng muốn góp một phần cơng sức nhỏ của
mình vào sự nghiệp cách mạng lớn lao của toàn Đảng, toàn dân. Đó là, mọi sách lược,
chiễn lược cách mạng chúng ta đưa ra phải xuất phát từ thực tế khách quan, phát huy
được tính năng động chủ quan và đồng thời chống chủ quan duy ý chí. Điều này sẽ
được lý giải rõ hơn trong phần nội dung của đề tài.
4
Do thời gian và kiến thức bản thân còn hạn chế cho nên bài viết của em sẽ
không thể tránh khỏi thiếu sót, em kính mong sự góp ý của thầy giáo cùng toàn thể
bạn đọc.
Em xin chân thành cảm ơn !
5
PHẦN NỘI DUNG
I. LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ DUY VẬT BIỆN
CHỨNG VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT
CHẤT VÀ Ý THỨC.
Đây là vấn đề cơ bản, cốt lỗi để phân biệt các trường phái triết học. Trong mối
quan hệ này, Triết học Mác- Lênin đã khẳng định: Mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức là mối quan hệ biện chứng mà trong đó vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất
là nguồn gốc của ý thức và quyết định ý thức nhưng không thụ động mà có thể tác
động trở lại vật chất qua hoạt động của con người.
1. Vật chất và các hình thức tồn tại của nó
1.1. Định nghĩa phạm trù vật chất:
a. Quan niệm của chủ nghĩa duy vật trước Mác về vật chất:
Trước Mác, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau
về vật chất, trong đó có một số quan niệm điển hình sau:
Định nghĩa đầu tiên về vật chất cho rằng vật chất là một vật thể cụ thể, hữu
hình nhất định. Điều này xuất phát từ nhận thức trực quan sinh động, cảm tính. Các
nhà triết học cổ Hy Lạp tin rằng mọi sự vật, hiện tượng và quá trình của thế giới đều
bắt nguồn từ một nguyên thể đầu tiên rõ rệt, nói cách khác là quan điểm nhất nguyên
thể. Chẳng hạn, Talet cho rằng vật chất là nước, nước là yếu tố đầu tiên, là bản nguyên
của mọi sự vật xuất hiện trong thế giới này. Ông tin rằng mọi sự vật đều sinh ra từ
nước, biến đổi không ngừng và khi chết đi lại phân hủy thành nước, chỉ có nước là tồn
tại mãi mãi.
Một số nhà triết học Trung Quốc cổ đại lại tin theo thuyết ngũ hành, còn gọi là
quan điểm đa nguyên thể. Thuyết này cho rằng năm yếu tố Kim, Mộc, Thủy, Hỏa,
6
Thổ là khởi nguyên, cấu thành nên mọi vật; và mọi sự biến đổi của tự nhiên đều là do
sự kết hợp khác nhau của những yếu tố vật chất đầu tiên này. Tuy chưa đầy đủ nhưng
so với học thuyết nhất nguyên thì đây là một bước tiến lớn trong quá trình nhận thức
về vật chất bởi vì cơ sở hình thành của mọi vật là một số tương đối rộng lớn.
Bước tiến quan trọng nhất của sự phát triển về phạm trù vật chất là định nghĩa
về vật chất của hai nhà triết học Hy Lạp cổ là Lờxíp (khoảng 500- 440 TCN) và
Đêmơcrít (khoảng 427- 374 TCN). Hai ông đã định nghĩa nguyên tử là căn nguyên
của mọi vật. Theo họ, nguyên tử là những hạt nhỏ nhất, không thể phân chia, không
khác nhau về chất, tồn tại vĩnh viễn và sự phong phú của chúng về hình dạng, tư thế,
trật tự sắp xếp quy định tính mn vẻ của vạn vật. Theo thuyết ngun tử thì vật chất
theo nghĩa bao quát nhất, chung nhất không đồng nghĩa với những vật thể mà con
người có thể cảm nhận được một cách trực tiếp, mà là một lớp các phần tử hữu hình
nằm sâu trong mỗi sự vật. Quan niệm này là một bước tiến lớn tỏng quá trình tìm
kiếm một định nghĩa đúng đắn về vật chất mà cịn có ý nghĩa như một dự báo khoa
học tài tình của con người về cấu trúc của thế giới vật chất nói chung.
Bắt đầu từ thời kì Phục Hưng (thế kỉ XV), phương Tây đã có sự bứt phá so với
phương Đông ở chỗ khoa học thực nghiệm ra đời, đặc biệt là sự phát triển mạnh của
cơ học, công nghiệp. Đến thế kỉ XVII- XVIII, chủ nghĩa duy vật mang hình thức chủ
nghĩa duy vật siêu hình, máy móc. Thuyết nguyên tử vẫn được các nhà triết học và
khoa học tự nhiên thời kì đó như Galilê, Bêcơn, Niutơn,… tiếp tục nghiên cứu và
khẳng định trên lập trường khoa học. Đặc biệt, nhừng thành công vang dội của Niutơn
trong vật lý học cổ điển (nghiên cứu cấu tạo và các thuộc tính của các vật thể vật chất
vĩ mơ tính từ ngun tử trở lên) và việc khoa học vật lý thực nghiệm chứng minh
được sự tồn tại thực sự của nguyên tử càng làm cho quan niệm trên được củng cố
thêm. Tuy nhiên, thuyết nguyên tử vẫn cịn một số hạn chế là đã khơng đưa ra được
những khái quát triết học đúng đắn về vật chất. Các nhà triết học thời kỳ này thường
đồng nhất vật chất với khối lượng, coi những định luật cơ học như những chân lý
7
khơng thể thêm bớt và giải thích mọi hiện tượng của thế giới theo chuẩn mực thuần
túy của cơ học. Cũng có một số nhà triết học thời kì này như Đềcáctơ, Cantơ,… cố
gắng vạch ra những sai lầm của thuyết nguyên tử nhưng vẫn không thể làm thay đổi
căn bản cái nhìn cơ học về thế giới.
Năm 1895, Rơnghen phát hiện ra tia X. Năm 1896, Béccơren phát hiện ra hiện
tượng phóng xạ của nguyên tố Urani. Năm 1901, Kaufman đã chứng minh được khối
lượng của điện tử không phải là bất biến mà thay đổi theo vận tốc vận động của
nguyên tử. Năm 1902, nhà nữ vật lý học Marie Curie cùng chồng Pie Curie đã khám
phá ra chất phóng xạ mạnh là Pơlơni và Radium. Những phát hiện vĩ đại đó đã chứng
tỏ nguyên tử vẫn có thể bị phân chia, chuyển hóa. Năm 1905, thuyết Tương đối hẹp
và 1906 thuyết Tương đối rộng của A. Einstein đã chứng minh: không gian, thời gian,
khối lượng luôn biến đổi cùng với sự vận động của vật chất. Thế giưới vật chất khơng
có và khơng thể có những vật thể khơng có kết cấu, tức là khơng thể có đơn vị cuối
cùng, tuyệt đối đơn giản và bất biến thể để đặc trưng cho vật chất. Thế giới ấy còn
nhiều điều kỳ diệu mà con người đã và đang tiếp tục khám phá: sự chuyển hóa giữa
hạt và trường, song và hạt, hạt và phản hạt, hụt khối lượng,.v.v.. Điều này đã khẳng
định dự đốn của Ph.Ăngghen: “Khơng thể coi nguyên tử là phần tử nhỏ nhất của vật
chất đã biết”, và của V.I.Lênin: “Điện tử cũng vô cùng tận như ngun tử, tự nhiên là
vơ tận” là hồn toàn đúng đắn.
b. Định nghĩa về vật chất của V.I.Lênin:
Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” của
mình, Lênin đã đưa ra một phương pháp mới để định nghĩa vật chất và phát triển lý
luận phản ánh duy vật và lý luận:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác. Được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.”
8
Định nghĩa này của V.I.Lênin bao hàm các nội dung sau đây:
Một là, vật chất, với tư cách là một phạm trù triết học thì nó là một sự trừu
tượng. Vì vậy, “chúng ta khơng biết, vì chưa có ai nhìn được và cảm thấy vật chất với
tính cách là vật chất…bằng con đường cảm tính nào khác”. (C.Mác và P.Ăngghen:
tồn tập, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 1994, tr.726). Sự trừu tượng này chỉ các
đặc tính chung nhất, bản chất nhất mà mọi sự vật, hiện tượng cụ thể nào của vật chất
cũng có, đó là đặc tính tồn tại khách quan và độc lập với ý thức của lồi người. Đặc
tính này là tiêu chuẩn cơ bản duy nhất để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì khơng phải
là vật chất. Vật chất ln có hai khía cạnh phân biệt nhau nhưng lại gắn bó với nhau,
đó là tính trừu tượng và tính cụ thể. Chủ nghĩa duy vật Mácxít cũng khơng bao giờ
quy vật chất thành “những viên gạch nhỏ của lâu đài thế giới” có tính bất biến mà
ln ln hiểu vật chất là thực tại khách quan tồn tại độc lập với ý thức và được ý
thức con người phản ánh lại.
Hai là, thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác và tồn
tại không lê thuôc vào cảm giác. Với nôi dung này, V.I.LêNin làm rõ mối quan hê
̣giữa thực tại khách quan và cảm giác rằng thực tại khách quan (tức là vâṭ chất) là cái
có trước ý thức, không phụ thuôc vào ý thức, đôc lập với ý thức, còn cảm giác (tức ý
thức) của con người là cái có sau vâṭ chất, phụ thc vào vâṭ chất. Vât chất là nôi
dung, là nguồn gốc khách quan của tri thức, là nguyên nhân phát sinh ra ý thức, khơng
có cái bị phản ánh là vâṭ chất sẽ khơng có cái phản ánh là ý thức. –
Ba là, thực tại khách quan được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại phản
ánh. Với nôi dung này, V.I.LêNin chứng minh vâṭ chất tồn tại khách quan, nhưng
khơng phải tồn tại mơt cách vơ hình thần bí mà tồn tại môt cách hiện thực dưới dạng
các sự vâṭ, hiên tượng cụ thể, mà con người bằng cá giác quan có thể trực tiếp hoăc
gián tiếp nhân
9
biết được. Nghĩa là, ngoài dấu hiêu tồn tại khách quan, vâṭ chất cịn có mơt dấu
hiêu quan trọng khác là tính có thể nhân thức được.
Vì vâỵ, về ngun tắc, khơng có đối tượng nào khơng thể nhân biết, chỉ có
những đối tượng chưa nhân thức được mà thơi. Là kết quả của sự khái quát những
thành tựu khoa học mới và hoạt đông thực tiễn của con người, định nghĩa vâṭ chất của
V.I.LêNin đã giải đáp môt cách đúng đắn, sâu sắc cả hai măṭ nôi dung vấn đề cơ bản
của triết học. Vì vâỵ , ngồi ý nghĩa thế giới quan khoa học trên đây, định nghĩa vâṭ
chất của V.I.LêNin cịn có ý nghĩa phương pháp ln chung đối với chúng ta trong
nhân thức và hoạt đông thực tiễn.
Vì vâṭ chất có trước, tồn tại khách quan khơng phụ thc vào ý thức, ý thức có
sau, vâṭ chất quyết định ý thức, cho nên trong nhân thức và hoạt đông thực tiễn “Phải
luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành đông theo quy luât khách quan”
(Đảng Công Sản Viêṭ Nam :Văn Kiên Đại Hôi Đại Biểu Toàn Quốc Lần Thứ VI,
NXB Sự Thâṭ, Hà Nôị , 1987, tr.30), phải xuất phát từ điều kiên vâṭ chất khách quan
đã và đang có làm cơ sở cho mọi hành đơng của mình, khơng được lấy ý muốn,
nguyên vọng chủ quan làm điểm xuất phát. Yêu cầu khi đề ra mục tiêu, nhiệm vụ và
các biện pháp thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu cho địa phương mình, đơn vị mình, ngành
mình, phải nắm chắc tình hình thực tế khách quan thì mới nêu ra mục đích, chủ
trương đúng và sẽ đi đến thắng lợi trong hoạt đông thực tiễn.
Ngược lại, cần chống thái đô ̣ chủ quan, duy ý chí, nóng vơị , bất chấp quy lṭ
khách quan, không đếm xỉa đến điều kiên vâṭ chất khách quan, tùy tiên phiến diên, lấy
ý muốn, nguyên vọng, cảm tính làm xuất phát điểm cho chủ trương, chính sách, hâu
quả là đường lối không hiên thực, không tưởng và tất yếu sẽ đi đến thất bại trong hoạt
đông thực tiễn.
10
1.2. Các hình thức tồn tại của vâṭ chất:
Chủ nghĩa duy vâṭ biên chứng cho rằng vâṭ chất tồn tại bằng vân động và vận
động của vật chất diễn ra trong khơng gian và thời gian. Vì vậy, vận động khơng gian
và thời gian là các hình thức tồn tại của vâṭ chất. 2.1. Vân đông: Quan điểm của chủ
nghĩa duy vâṭ biên chứng cũng như sự phát triển của khoa học hiên đại đã chứng minh
rằng: không thể hiểu vân đông chỉ theo nghĩa cơ học, tức là sự chuyển dịch vị trí của
vâṭ thể trong khơng gian, mà phải hiểu vân đông theo nghĩa chung nhất là mọi sự
biến đổi nói chung. Tư tưởng ấy đã được Ph.Ăngghen khái quát như sau: “Vân đông,
hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là môt phương thức tồn tại của vât chất, là
một thuộc tính cố hữu của vật chất thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình
diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy.” (C.Mác và
Ph.Ăngghen: Tồn Tâp, NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nôị , 1994, tr 519).
2. Nguồn gốc và bản chất của ý thức
2.1. Nguồn gốc ý thức:
a. Nguồn gốc tự nhiên:
Trước Mác, nhiều nhà duy vâṭ tuy không thừa nhân tính chất siêu tự nhiên của
ý thức, song khi đó khoa học chưa phát triển nên cũng đã không giải thích đúng
nguồn gốc và bản chất của ý thức. Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên,
nhất là sinh lý học thần kinh, chủ nghĩa duy vâṭ biên chứng khẳng định rằng: ý thức là
mơt thc tính của vâṭ chất nhưng không phải của mọi dạng vâṭ chất mà chỉ là thc
tính của mơt dạng vâṭ chất sống có tổ chức cao là bơ não con người. Bơ não người là
cơ quan vâṭ chất của ý thức còn ý thức là chức năng của bô ̣ não. Hoạt đông ý thức
của con người diễn ra trên sở hoạt đông sinh lý thần kinh của bô ̣ não, khi não bộ bị
tổn thương thì hoạt đơng
11
ý thức sẽ khơng bình thường hoăc bị rối loạn. Vì vâỵ , khơng thể tách rời ý thức
ra khỏi hoạt đông của não bộ. Ý thức không thể diễn ra khi tách rời hoạt đông sinh lý
thần kinh của bơ ̣ não con người.
Tuy nhiên, nếu chỉ có bơ ̣ óc khơng thơi mà khơng có sự tác đơng của thế giới
bên ngồi để bơ ̣ óc phản ánh lại tác đơng đó thì cũng khơng thể có ý thức.
Phản ánh là thc tính này được biểu hiên
tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vâṭ chất, thuôc ra trong sự liên hê,̣ tác
đông qua lại giữa các đối tượng vâṭ chất với nhau, phản ánh là sự tái tạo những đăc
điểm của môt hê ̣thống vât chất này ở hê ̣thống vâṭ chất khác trong quá trình tác đông
qua lại của chúng.
Kết quả của sự phản ánh phụ thuôc vào cả hai vâṭ – vâṭ tác đông và vâṭ nhân tác
đơng. Đồng thời q trình phản ánh bao hàm q trình thơng tin. Nói cách khác, vâṭ
nhân tác đông bao giờ cũng mang thông tin của vâṭ tác đông. Đây là điều hết sức quan
trọng để làm sáng tỏ nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiên thực, ý thức bắt nguồn từ
thc tính này của vật chất - phát triển thành. Ý thức ra đời là kết quả phát triển lâu
dài của thc tính phản ánh của vâṭ chất, nơi dung của nó là thơng tin về thế giới bên
ngoài, về vâṭ được phản ánh. Ý thức phản ánh thế giới bên ngoài vào trong não bộ con
người. Bô ̣ não người là cơ quan phản ánh song chỉ có riêng bơ ̣ não thơi thì chưa thể
có ý thức. Khơng có sự tác đơng của thế giới bên ngồi lên các giác quan và qua đó
đến não bộ thì hoạt đơng ý thức khơng thể xảy ra. Như vâỵ , bô ̣ não người cùng với
thế giới bên ngồi tác đơng lên não, đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
b. Nguồn gốc xã hôị:
12
Để cho ý thức ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên là quan trọng không
thể thiếu được, song vẫn chưa đủ điều kiên quyết định cho sự ra đời của ý thức. Cùng
với q trình hình thành bơ ̣ não của người nhờ lao đông, ngôn ngữ và những quan hê
̣xã hôị , ý thức là sản phẩm của sự phát triển xã hơị , nó phụ thc và xã hơị, và mang
tính chất xã hơị .
Q trình hình thành ý thức khơng phải là q trình con người thu nhân thụ
đơng. Nhờ có lao đơng, con người tác đông vào các đối tượng hiên thực, bắt chúng
phải bơ lơ ̣ những thc tính, những kết cấu, những quy luâṭ vân đông thành những
hiên tượng nhất định và các hiên tượng này tác đông vào bô não con người. Ý thức
được hình thành khơng phải chủ yếu là do tác đông thuần túy, tự nhiên của thế giới
khách quan vào bô ̣ não con người, mà chủ yếu là do hoạt đông của con người cải tạo
thế giới khách quan làm biến đổi thế giới đó. Q trình hình thành ý thức là kết quả
của các hoạt đơng chủ đông của con người. Không phải bỗng nhiên thế giới khách
quan tác đơng vào bơ ̣ óc người để con người có ý thức mà trái lại, con người có ý
thức chính vì con người chủ
đơng tác đơng vào thế giới thông qua hoạt đông thực tiễn để cải tạo thế giới,
con người chỉ có ý thức do có tác đơng vào thế giới. Nói cách khác, ý thức chỉ được
hình thành thơng qua hoạt đơng thực tiễn của con người. Nhờ sự tác đông vào thế giới
mà con người khám phá ra những bí mâṭ của thế giới, ngày càng làm phong phú và
sâu sắc ý thức của mình về thế giới.
Ngơn ngữ, do nhu cầu của lao đơng và nhờ vào lao đơng mà ý thức.
Khơng có hê ̣thống tín hiêu này thì ý thức khơng thể tồn tại và thể hiên được.
Ngôn ngữ, theo C. Mác, là cái vỏ vâṭ chất của tư duy, là hiên thực trực tiếp của
tư tưởng. Khơng có ngơn ngữ, con người khơng thể có ý thức. Như vâỵ , nguồn gốc
trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là lao đông
và thực tiễn xã hôị . Ý thức là sự phản ánh hiên thực khách quan vào trong bơ ̣ óc
13
người thông qua lao đông, ngôn ngữ và các quan hê ̣xã hôị. Ý thức là sản phẩm xã hôị
, là môt hiên tượng xã hôị .
2.2. Bản chất của ý thức
Tuy nhiên, ý thức không phải là bản sao giản đơn, thụ đơng máy móc của sự
vâṭ. Ý thức là của con người, mà con người là môt thực thể xã hôi năng đông sáng
tạo. Ý thức phản ảnh thế giới khách quan trong quá trình con người tác đơng cải tạo
thế giới. Do đó, ý thức con người là sự phản ảnh có tính năng
đơng, sáng tạo. Ý thức là sự phản ảnh sáng tạo lại hiên thực, theo nhu cầu thực
tiển xã hơị , vì vây ý thức “chẳng qua chỉ là vât chất được đem chuyển vào trong đầu
óc con người, và được cải biến đi ở trong đó” (C. Mác và Ph. Ăngghen: Tồn tâp,
NXB. CTQG, HN, 1993, Trang 35). Nói cách khác, ý thức là hình ảnh chủ quan của
thế giới khách quan.
Ý thức là sự phản ánh hiên thực khách quan vào bô ̣ óc con người, song đây là
sự phản ảnh đăc biêṭ -phản ảnh trong quá trình con người, cải tạo thế giới. Quá trình ý
thức là quá trình thống nhất của 3 măṭ sau đây:
Môt là sự trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi này
mang tính chất hai chiều, có định hướng và chọn lọc các thông tin cần thiết .
Hai là mơ hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần.
Thực chất đây là quá trình “sáng tạo lại” hiên tượng của ý thức , theo nghĩa mã
hóa các đối tượng vâṭ chất thành các ý thức tinh thần phi vâṭ chất .
Ba là, chuyển mơ hình từ tư duy ra hiên thực khách quan, tức quá trình hiên
thực hóa tư tưởng, thơng qua hoạt đơng thực tiển biến cái quan niêm thành cái thực
tại, biến các ý tưởng phi vâṭ chất trong tư duy thành các dạng vâṭ chất ngoài hiên thực.
Trong giai đoạn này con người lựa chọn những phương pháp, phương tiên, công cụ để
tác đông vào hiên thực khách quan nhằm thực hiên mục đích của mình. Điều đó càng
nói lên tính năng đông sáng tạo của ý thức.
14
Tính sáng tạo của ý thức khơng có nghĩa là ý thức tạo ra vâṭ chất. Sáng tạo của
ý thức là sáng tạo của sự phản ánh, theo quy luâṭ và trong khuôn khổ của sự phản ánh,
mà kết quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần. Sự sáng tạo của ý thức không
đối lâp, loại trừ, tách rời sự phản ánh mà ngược lại thống nhất với phản ánh, trên cơ
sở phản ánh. Phản ánh và sáng tạo là hai măṭ thuôc̣ bản chất của ý thức. Ý thức trong
bất cứ trường hợp nào - cũng là sự phản ánh và chính thực tiễn xã hơi sáng tạo của
não bộ của con người tạo ra sự phản ánh phức tạp, năng đông,
3. Mối quan hệ biện chứng duy vật giữa vật chất và ý
thức
Mối quan hệ vật chất và ý thức được coi là “vấn đề cơ bản của mọi triết học,
đặc biệt là triết học hiện đại” (C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tâp, NXB. CTQG, HN,
1995, Trang 403). Tùy theo lập trường về thế giới quan khác nhau mà khi giải quyết
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức có hình thành các đường lối khác nhau. Tuy
nhiên, nắm vững phép biện chứng duy vật và luôn theo sát kịp thời khái quát những
thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên, các nhà kinh điển của chủ nghĩa MácLênin đã nêu lên những quan điểm khoa học, khái quát đúng đắn về mặt triết học hai
lĩnh vực lớn nhất của thế giới là vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa chúng.
Theo quan điểm của triết học Mác- Lênin: vật chất và ý thức có mối quan hệ
biện chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại
vật chất.
3.1.Vật chất quyết định ý thức:
Vai trò quyết định của vật chất tới ý thức được thể hiện:
Một là, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
Con người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra, cho nên theo lẽ tự nhiên thì ý thứcmột thuộc tính của con người- cũng là do giới tự nhiên sinh ra. Các thành tựu của
15
khoa học tự nhiên đã chứng minh rằng, giới tự nhiên có trước con người và vật chất là
cái có trước, ý thức là cái có sau. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là
nguồn gốc của ý thức. Ý thức con người tồn tại dựa vào vật chất- bộ não con ngườitrong quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Sự vận động của vật chất là yếu tố
quyết định sự ra đời của vật chất có tư duy là não bộ.
Hai là, vật chất quyết định nội dung của của ý thức.
Ý thức dưới bất kì hình thức nào cũng đều phản ánh hiện thực khách quan. Ý
thức và nội dung của nó chẳng qua là kết quả của sự phản ánh của hiện thực khách
quan vào đầu óc con người. Sự hát triển của hoạt động thực tiễn cả về bề rộng và
chiều sâu là động lực mạnh mẽ quyết định tính phong phú và độ sâu sắc của tư duy và
ý thức của con người.
Ba là, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Khác với chủ nghĩa duy vật cũ, xem xét thế giới vật chất là những sự vật, hiện
tượng cảm tính, chủ nghĩa duy vật biện chứng xem xét thế giới vật chất là thế giới con
người với các hoạt động thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt động vật chất có tính cải
biến thế giới của con người- là cơ sở để hình thành, phát triển ý thức.
Bốn là, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
Con người- sinh vật có tính xã hội ngày càng phát triển thì dĩ nhiên, ý thứcmột hình thức phản ánh não bộ cũng phát triển về nội dung và hình thức phản ánh của
nó. Xã hội ngày càng văn minh, khoa học ngày càng phát triển thì ý thức cũng phát
triển theo. Biểu hiện thực tế nhất đó chính là sự ảnh hưởng của kinh tế chính trị, đời
sống vật chất đối với đời sống văn hóa, tinh thần của con người. Sự phát triển của
kinh tế quy định sự phát triển của văn hóa, đời sống vật chất thay đổi thì sớm muộn
đời sống tinh thần cũng thay đổi theo.
16
3.2. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất:
Thứ nhất, tuy ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào trong bộ não con
người nhưng ý thức cũng có “đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng.
Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thơng qua hoạt động thực
tiễn của con người, cịn tự bản thân ý thức thì khơng thể biến đổi được hiện thực. Con
người dựa trên tri thức về thế giới vật chất để phát minh, đề ra các phương hướng,
biện pháp để thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã xác định.
Thứ ba, ý thức có thể chỉ đạo hoạt động của con người, quyết định hoạt động
của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại. Khi phản ánh đúng hiện thực, nó
có thể giúp hình thành nên những lý luận, định hướng đúng đắn, góp phần khia thác
tiềm năng con người, từ đó sức mạnh vật chất sẽ được tang lên gấp bội. Ngược lại, ý
thức có thể tác động tiêu cực khi nó phản ánh sai lệch hiện thực.
Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trị của ý thức ngày càng lớn. Nhất là
trong bối cảnh tồn cầu hóa, hiện đại hóa hiện tại thì vai trị của tri thức khia học, tư
tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn lại càng vơ cùng quan trọng.
II. Ý NGHĨA CỦA PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ VẬN DỤNG
MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC VÀO THỰC TIỄN
ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
1. Ý nghĩa phương pháp luận
Thông qua hoạt động thực tiễn của con người, ý thức có thể cải biến được tự
nhiên, thâm nhập vào sự vật, hiện thực hố những mục đích mà nó đề ra cho hoạt
động của mình. Điều này bắt nguồn từ chính tính phản ánh sáng tạo và tính xã hội của
ý thức và chính nhờ tính chất đó mà chỉ có con người có ý thức mới có khả năng cải
biến và thống trị tự nhiên, biến tự nhiên xa lạ, hoang dã, thành tự nhiên trù phú, sinh
động, tự nhiên của con người. Như vậy, tính tương đối trong sự đối lập giữa vật chất
17
và ý thức thể hiện ở tính độc lập tương đối, tính năng động của ý thức. Mặt khác, đời
sống con người là sự thống nhất không thể tách rời giữa đời sống vật chất và đời sống
tinh thần trong đó những nhu cầu tinh thần ngày càng phong phú và đa dạng và những
nhu cầu vật chất cũng bị tinh thần hố. Khẳng định tính tương đối của sự đối lập giữa
vật chất và ý thức khơng có ý nghĩa là khẳng định rằng cả hai nhân tố có vai trò như
nhau trong đời sống và hoạt động của con người. Trái lại, triết học Mác-Lênin khẳng
định rằng, trong hoạt động của con người, những nhân tố vật chất và ý thức có tác
động qua lại, song sự tác động đó diễn ra trên cơ sở tính thứ nhất của nhân tố vật chất
so với tính thứ hai của nhân tố ý thức.
Tuy nhiên, trong hoạt động của con người, những nhu cầu vật chất xét đến cùng
bao giờ cũng giữ vai trò quyết định, chi phối và quy định hoạt động của con người vì
nhân tố vật chất quy định khả năng các nhân tố tinh thần có thể tham gia vào hoạt
động của con người, tạo điều kiện cho nhân tố tinh thần hoặc nhân tố tinh thần khác
biến thành hiện thực và qua đó quy định mục đích chủ trương biện pháp mà con người
đề ra cho hoạt động của mình bằng cách chọn lọc, sửa chữa bổ sung, cụ thể hố mục
đích, chủ trương, biện pháp đó. Hoạt động nhận thức của con người bao giờ cũng
hướng đến mục tiêu để biến tự nhiên nhằm thoả mãn nhu cầu cuộc sống, hơn nữa,
cuộc sống tinh thần của con người xét đến cùng bị chi phối và phụ thuộc vào việc
thoả mãn nhu cầu vật chất và vào những điều kiện vật chất hiện có. Khẳng định vai
trò cơ sở, quyết định trực tiếp của nhân tố vật chất, triết học Mác- Lênin không coi
nhẹ vai trị của nhân tố tinh thần, của tính năng động chủ quan. Nhân tố ý thức có tác
dụng trở lại quan trọng đối với nhân tố vật chất. Hơn nữa, trong hoạt động của mình
con người khơng thể để cho thế giới khách quan, quy luật khách quan chi phối mà chủ
động hướng nó đi theo con đường có lợi của mình, ý thức con người khơng thể tạo ra
các đối tượng vật chất, cũng không thể thay đổi quy luật vận động của nó. Do đó,
trong q trình hoạt động của mình, con người phải tuân theo quy luật khách quan và
18
chỉ có thể đề ra những mục đích, chủ trương trong phạm vi hồn cảnh vật chất cho
phép.
Vì vật chất quyết định ý thức nên trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải tôn
trọng khách quan, nhận thức và hoạt động theo đúng quy luật khách quan.
Vì ý thức tác động trở lại vật chất nên cần phát huy tính năng động chủ quan,
đặc biệt phát huy vai trò của tri thức, khoa học, chú ý giáo dục và nâng cao nhận thức
cho con người.
Chống quan điểm duy ý chí, tuyệt đối hóa vai trị của ý thức mà hạ thấp, đánh
giá khơng đúng vai trị của các điều kiện vật chất. Đó là hành động lấy ý chí áp đặt
thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực. Bệnh chủ quan duy ý chí là do sự yếu kém
về trình độ nhận thức nói chung và sự hạn chế trong q trình áp dungjlis luận vào
thực tiễn nói riêng. Đó là “sự mù quáng chủ quan”, là sai lầm tự phát dẫn đến rơi vào
chủ nghĩa duy tâm một cách không tự giác. Chúng ta cũng không nên tuyệt đối hóa
vai trị của vật chất trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Nghĩa là chống lại “chủ
nghĩa khách quan” thái độ thụ động trông chờ ỷ lại vào điều kiện vật chất.
Đảm bảo tính thống nhất biện chứng giữa tính khách quan và chủ quan trong
hoạt động của con người cũng là một yếu tố quan trọng trong quá trình nhận thức.
2. Sự vận dụng trong thực tiễn đổi mới ở nước ta hiện
nay.
Chủ nghĩa Mác- Lênin là nền tảng tư tưởng để Đảng Cộng sản Việt Nam vận
dụng, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử mà Đảng và nhân dân ta đạt được qua
hơn 30 năm đổi mới thể hiện sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo của Đảng; đồng thời,
19
cũng góp phần bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin trong điều kiện
mới.
C.Mác, Ph.Ăngghen đã có đóng góp lớn trong việc cung cấp những luận cứ
thuyết phục để biến chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành chủ nghĩa xã hội khoa
học. Với chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã cung cấp cho giai cấp công nhân “vũ khí” lý luận, chỉ rõ vị thế và vai
trị của họ trong sự phát triển của lịch sử. Trong tồn bộ lý luận của mình, đặc biệt là
trong bộ “Tư bản”, các ơng đã phân tích, chứng minh rất rõ rằng, hình thái kinh tế - xã
hội tư bản chủ nghĩa sẽ không thể trụ vững trước những mâu thuẫn cố hữu, nội tại,
gắn liền với nó và theo quy luật khách quan, tất yếu nó sẽ bị thay thế bởi hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Trong lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học, các
ông cũng chỉ ra con đường dẫn dắt giai cấp cơng nhân đấu tranh giải phóng thốt khỏi
sự nơ dịch và bóc lột tư bản chủ nghĩa và tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản. Chính vì vậy, mà sau này, khơng phải ngẫu nhiên, V.I.Lênin đặc biệt
nhấn mạnh rằng: Điều quan trọng nhất trong học thuyết Mác là việc làm sáng tỏ vai
trị lịch sử tồn thế giới của giai cấp vơ sản với tư cách là người xây dựng, kiến tạo xã
hội mới.
Những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen V.I.Lênin đã được Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng ta vận dụng đúng đắn, sáng tạo vào thực tế cách mạng Việt Nam. Đặc
biệt, trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã nhận thức rõ luận điểm có tính phương pháp
luận hết sức sâu sắc của V.I. Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa “tính phổ biến” và
“tính đặc thù” của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội: “Tất cả các dân tộc đều sẽ đi
lên chủ nghĩa xã hội, đó là điều khơng thể tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc đều
tiến tới chủ nghĩa xã hội không phải một cách hoàn toàn giống nhau; mỗi dân tộc sẽ
đưa đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân chủ, vào
loại này hay loại khác của chun chính vơ sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của
việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các mặt khác nhau của đời sống xã hội”.
20
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác- Lênin cho phù hợp với điều kiện mới của Việt Nam, từ đó đã đúc kết những
luận điểm lý luận phù hợp với mơ hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Đó là những
luận điểm lý luận về mục tiêu và đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam, về
con đường lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.
Trong bước chuyển đổi từ “Chính sách cộng sản thời chiến” sang “Chính sách
kinh tế mới” vào mùa xuân năm 1921, V.I.Lênin đã tự phê phán về những sai lầm
nghiêm trọng khi coi thường quy luật khách quan và yêu cầu cần thay đổi căn bản
những quan niệm, tư duy trước đây về chủ nghĩa xã hội. Lĩnh hội tinh thần đó, Đại
hội đại biểu tồn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) đã tạo ra bước ngoặt
trong đổi mới tư duy về con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Phương châm
“Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, xuất phát từ thực tiễn,
tôn trọng quy luật khách quan là khởi nguồn cho những sáng tạo của Đảng khi xác
định mô hình và bước đi trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại
hội thừa nhận sự tồn tại khách quan của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong
buổi đầu thời kỳ quá độ. Những quan điểm đổi mới về tư duy kinh tế nêu trên Hội
nghị Trung ương 6 khóa VI (3-1989) khẳng định và bổ sung với những bước tiến mới.
Từ kinh nghiệm của 5 năm đổi mới, Đại hội VII của Đảng (6-1991) đã thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh
đã xác định sáu đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
So với sáu đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà “Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (năm 1991) đã nêu ra, Đại hội X đã
bổ sung hai đặc trưng là xây dựng “xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ,
văn minh” và “có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI của Đảng (tháng 1-2011) tiếp tục bổ sung và phát
21
triển “Cương lĩnh” cho phù hợp với thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta, trong đó có những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
“Cương lĩnh” năm 1991 đã vạch ra bảy phương hướng cơ bản của quá trình xây
dựng xã hội mới theo những đặc trưng được xác định. Sau 20 năm thực
hiện “Cương lĩnh” năm 1991, từ việc tổng kết thực tiễn công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội, “Cương lĩnh” (bổ sung, phát triển năm 2011) đã bổ sung, phát triển
nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, thể hiện ở tám phương hướng cơ bản
nhằm thực hiện thành công mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng
được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội và kiến trúc thượng tầng về
chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để đưa Việt Nam trở thành một nước
xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Ðảng (tháng 1-2016) tiếp tục khẳng
định và phân tích sâu sắc hơn tám đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
cho phù hợp hơn với thực tiễn, bối cảnh mới. Đại hội XII rút ra ba kết luận quan
trọng: 1- Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi
mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; 2- Những thành tựu đó khẳng định
đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; 3- Những thành tựu đó khẳng định
con đường lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu
thế phát triển của lịch sử.
Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, Đảng ta đã nhận thức lại, thấm
nhuần quan điểm thực tiễn, lịch sử - cụ thể và phát triển nhằm khắc phục những cách
hiểu, cách nghĩ, cách làm giản đơn, siêu hình, giáo điều, duy ý chí, trái quy luật khách
quan về thời kỳ trước đổi mới, theo đúng tinh thần của V.I.Lênin. Đổi mới, do đó,
khơng phải là xa rời hay từ bỏ chủ nghĩa Mác- Lênin, phủ nhận chủ nghĩa xã hội khoa
học mà trái lại, là sự nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn, là sự phát triển sáng tạo hơn
nữa bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lênin, của chủ nghĩa xã hội
22
khoa học để tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội một cách có căn cứ khoa học và
thực tiễn.
Tư tưởng của V.I.Lênin về Chính sách kinh tế mới là cơ sở nền tảng để Đảng ta
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa- sự phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác- Lênin vào thực tiễn Việt Nam trong bối cảnh mới. V.I.Lênin đã bổ
sung, cụ thể hóa lý luận Mác về thời kỳ quá độ bằng thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội, tập trung phân tích về quá độ trong kinh tế.
V.I. Lênin đã chỉ ra năm thành phần kinh tế nước Nga đương thời, đồng thời
chủ trương thực hiện “những bước quá độ nhỏ”, bắc những “chiếc cầu nhỏ” để đi lên
chủ nghĩa xã hội. Trong “Chính sách kinh tế mới”, cơ chế thị trường được sử dụng để
kích thích sản xuất, kêu gọi đầu tư tư bản dưới sự định hướng, kiểm soát của Nhà
nước; lợi ích của các chủ thể được quan tâm đã có tác dụng phục hồi lực lượng sản
xuất nhanh chóng, thúc đẩy kinh tế phát triển, đời sống của công nhân, nơng dân được
cải thiện. Nhờ có chính sách này mà đến cuối năm 1925, về cơ bản, Liên Xô đã hồn
thành việc khơi phục nền kinh tế quốc dân.
Theo tinh thần Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin, Đại hội VI đã đề ra đường
lối đổi mới, trong đó có đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nhằm tạo ra động lực thúc đẩy
các đơn vị kinh tế và quần chúng lao động hăng hái phát triển sản xuất, nâng cao năng
suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên, phải 15 năm sau, khái niệm “kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” mới chính thức được xác định từ Đại hội IX
của Đảng (năm 2001). Đến Đại hội XII (năm 2016),
Đảng Cộng sản Việt Nam đã có bước phát triển tư duy rất rõ nét về kinh tế thị
trường khi xác định đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Đại hội XII xác định, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị
trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn
23
phát triển của đất nước, là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự
quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Như vậy, từ sự thúc bách của cuộc sống, từ nghiên cứu kinh nghiệm của các
nước trong quá trình đổi mới cũng như nghiên cứu kế thừa tư tưởng các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác- Lênin, Đảng ta đã thực hiện đổi mới, sáng tạo thừa nhận kinh tế
nhiều thành phần, chấp nhận cơ chế thị trường và khẳng định nó khơng đối lập với
chủ nghĩa xã hội, thực hiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Chính V.I.Lênin cũng đã từng nhấn mạnh: “Chúng ta khơng hình dung một thứ
chủ nghĩa xã hội nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở tất cả những bài học
mà nền văn minh lớn của chủ nghĩa tư bản đã thu được”.
Các nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin cũng được Đảng ta vận dụng, phát
triển vào xây dựng, củng cố liên minh giai cấp và đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy
sức mạnh của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong giai đoạn lãnh đạo Cách mạng Tháng Mười, V.I.Lênin đã vận dụng sáng
tạo những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về liên minh giai cấp vào thực tiễn
cách mạng nước Nga và xây dựng được liên minh giai cấp cơng- nơng bền vững, góp
phần to lớn vào thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười và sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Đặc biệt, V.I.Lênin còn nhiều lần nhấn mạnh tới vai trị của trí thức và
khẳng định, muốn thu hút họ vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội thì cần phải
“đảm bảo cho các người trí thức những điều kiện lao động tốt nhất”.
Tư tưởng của V.I.Lênin được Đảng ta nghiên cứu thấu đáo, rút ra những kinh
nghiệm quý báu để xây dựng liên minh giai cấp, tầng lớp ở nước ta trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là từ khi khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. “Cương lĩnh” năm 1991 rất coi trọng việc thực
hiện liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do
24
giai cấp công nhân lãnh đạo với ý nghĩa là nền tảng chính trị- xã hội của Nhà nước
của dân, do dân, vì dân, là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 2001)
khơng chỉ tiếp tục khẳng định tính tất yếu của liên minh cơng- nơng- trí thức trong sự
nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, mà còn đặc biệt coi
trọng vấn đề này, coi đây là động lực quan trọng trong quá trình đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội chỉ rõ: “Động lực chủ yếu để phát triển đất
nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa cơng nhân với nơng dân và trí
thức do Đảng lãnh đạo”.
Kế thừa và phát triển tinh thần đó trong bối cảnh mới, các Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X, XI và XII đều tiếp tục khẳng định vai trị, tính tất yếu của
liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức đối với việc củng cố
khối đại đồn kết toàn dân tộc và đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, có bổ sung những quan điểm, định hướng và giải pháp mới.
Tư tưởng của V.I.Lênin về Đảng Cộng sản kiểu mới đã được vận dụng sáng tạo,
đem lại những thành tựu trong xây dựng và củng cố vai trò Đảng Cộng sản cầm
quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội ở Việt Nam- nhân tố quan trọng hàng đầu bảo
đảm cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đi đến thắng lợi.
Khi Đảng Cộng sản trở thành đảng cầm quyền thì năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng phụ thuộc rất nhiều vào kỷ luật đảng và phẩm chất tiền phong của
đảng viên. Tháng 5-1920, trong tác phẩm “Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào
cộng sản”, V.I.Lênin viết: “Những người Bơnsêvích sẽ khơng giữ được chính quyền,
tơi khơng nói được tới hai năm rưỡi, mà ngay cả đến hai tháng rưỡi cũng không được
nữa, nếu đảng ta khơng có kỷ luật hết sức nghiêm minh, kỷ luật sắt thật sự”. Theo
ơng, có ba kẻ thù chính mà người cộng sản của đảng cầm quyền phải kiên quyết đấu
tranh là “tính kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa; nạn mù chữ, sự ngu dốt, cản trở việc giáo
25
dục chính trị và nạn hối lộ, tham nhũng”. Thấm nhuần sâu sắc những tư tưởng này của
V.I.Lênin, kể từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn đặc biệt coi trọng công tác xây
dựng Đảng. Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị về xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Đó là cơ sở, tiền đề vững chắc bảo đảm cho Đảng ln trong sạch, vững mạnh, hồn
thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Gần 35 năm qua, nhất là trong 10 năm gần đây, nhận thức về công tác xây dựng
Đảng có nhiều đổi mới. Đảng ta nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn vị trí
của cơng tác xây dựng Đảng. Đảng ta luôn khẳng định xây dựng Đảng là nhiệm vụ
then chốt, là vấn đề sống còn đối với sự nghiệp cách mạng.
Nhận thức của Đảng ta về công tác xây dựng Đảng ngày càng đầy đủ, khách
quan và khoa học; thể hiện sự vận dụng sáng tạo những nguyên tắc của chủ nghĩa
Mác- Lênin về xây dựng Đảng- đội tiền phong của giai cấp công nhân- phù hợp với
thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đảng ta đã thực hiện lời di huấn của V.I.Lênin là phải
dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng và các đồn thể chính trị- xã hội; đó phải là
những tổ chức bộ máy phục vụ chính trị chứ chính trị khơng phục vụ bộ máy. Theo
V.I.Lênin, chính trị được đề cập ở đây chính là cuộc sống của nhân dân, lợi ích của
nhân dân, là số phận của hàng triệu triệu con người.
Trở thành đảng cầm quyền, lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội,
Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng bổ sung, phát triển lý luận chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân, tăng cường phát huy và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa
để phát triển đất nước trong điều kiện mới, sớm đưa Việt Nam sánh vai các cường
quốc năm châu như tâm nguyện của Bác Hồ.
Nhìn tổng thể, sau 33 năm đổi mới, 28 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, nhất là
10 năm gần đây, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử,
tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong thời