Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

SKKN Áp dụng phương pháp dạy học tích cực để rèn luyện kĩ năng thực hành phép nhân cho học sinh lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.41 KB, 29 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1.Lời giới thiệu
Từ thực tiễn dạy học tiểu học nói chung và thực tiễn dạy học ở trường
Tiểu học nói riêng, nghiên cứu tìm ra những biện pháp hay để sử dụng vào
việc giảng dạy môn toán lớp 3. Đặc biệt là kĩ năng thực hành phép nhân.
Qua đề tài này, tôi muốn tìm ra những giải pháp cần thiết góp một phần
vào việc nâng cao chất lượng dạy học môn toán lớp 3. Thông qua các biện
pháp phát huy tính chủ động trong dạy học toán lớp 3 để hoàn thiện dần
phương pháp dạy học theo hướng đổi mới phát huy tính tích cực của học sinh
ở Tiểu học.
Nghiên cứu những dạng bài toán cơ bản của đề tài đặc biệt đi sâu dạng
bài xây dựng và hình thành phép nhân hướng dẫn học sinh chủ động tìm kiến
thức mới giúp học sinh được trải nghiệm thực tế, đồng thời xây dựng tốt mối
quan hệ hai chiều giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với học sinh. Đề
xuất một một số biện pháp phát huy tính cực của học sinh trong dạy toán lớp
3.
Do đó, mục đích giúp học sinh có những kiến thức, kĩ năng,... Đặc biệt là
kiến thức, kĩ năng học và vận dụng toán học có vị trí rất quan trọng đối với
cuộc sống thực tế của các em. Đó cũng là công cụ cần thiết để các em học tốt
các môn học khác.
Khả năng giáo dục nhiều mặt của môn Toán rất to lớn, nó có khả năng
phát triển tư duy lôgic, phát triển trí tuệ. Nó có vai trò to lớn trong việc rèn
luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết
vấn đề có suy luận, có khoa học toàn diện, chính xác, có nhiều tác dụng phát
triển trí thông minh, tư duy độc lập sáng tạo, linh hoạt... góp phần giáo dục ý
trí nhẫn nại, ý trí vượt khó khăn.

1



Từ vị trí và nhiệm vụ vô cùng quan trọng của môn Toán ,vấn đề đặt ra
cho mỗi người giáo viên là làm thế nào để giờ dạy - học Toán có hiệu quả cao,
học sinh được phát triển tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc chiếm
lĩnh kiến thức toán học. Giáo viên phải có phương pháp dạy học như thế nào
để tổ chức các hoạt động tự trải nghiệm, khám phá, phát hiện kiến thức, thực
hành và vận dụng bài học vào thực tế cuộc sống cho học sinh Tiểu học?
Theo tôi, các phương pháp dạy học bao giờ cũng phải xuất phát từ vị
trí, mục đích và nhiệm vụ, mục tiêu giáo dục của môn Toán ở bài học nói
chung và trong giờ dạy toán lớp 3 nói riêng. Nó không phải là cách thức
truyền thụ kiến thức toán học, rèn kỹ năng giải toán mà nó là phương tiện
tinh vi để tổ chức hoạt động nhận thức tích cực, độc lập và giáo dục phong
cách làm việc một cách khoa học, hiệu quả cho học sinh, nghĩa là dạy "Cách
học". Mặt khác, sản phẩm của giáo dục khác với sản phẩm của người thợ
may, thợ mộc... sản phẩm của giáo dục là đào tạo ra những con người biết
sáng tạo. Vì vậy việc lựa chọn, sử dụng ưu thế của từng PPDH sao cho phù
hợp với mục tiêu, nội dung ở từng loại bài học, ở từng lớp học, ở từng giai
đoạn dạy học nhằm phát huy tối đa tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học
sinh phải là một "Nghệ thuật". Trong giảng dạy, mỗi giáo viên đều có cách
thức, biện pháp riêng của mình. Song đều phải đạt mục đích chung là tổ chức
các hoạt động dạy học đạt hiệu quả.
Xuất phát từ quan điểm chương trình mới cần thực hành, vận dụng
thực tế nhiều nên nội dung chương trình hiện tại thường tinh giảm, tập
trung vào các kiến thức kỹ năng cơ bản, bám sát thực tế, tích hợp được nhiều
mặt giáo dục. Nhằm phát huy những ưu điểm, kịp thời khắc phục những hạn
chế, để giúp học sinh lĩnh hội được đầy đủ các kiến thức từ những phương
pháp dạy học.

2



Qua thực tế giảng dạy, bản thân tôi luôn suy nghĩ phải làm gì, làm như thế
nào để học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức môn Toán một cách nhẹ nhàng, biến
đổi những nội dung trừu tượng thành dấu hiệu trực quan để giúp các em dễ
hình dung hơn kiến thức cơ bản của bài học, giảm tải quá trình lĩnh hội liến
thức, nội dung bài học không chỉ các em nghe qua lời giảng của giáo viên mà
còn được tận mắt nhìn, tận tay làm. Chính vì vậy, trong quá trình dạy học, tôi
đã đi sâu vào tìm hiểu và rút ra được “ ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
TÍCH CỰC ĐỂ RÈN LUYỆN KĨ NĂNG THỰC HÀNH PHÉP NHÂN CHO HỌC
SINH LỚP 3’’
2.Tên sáng kiến.
“ Áp dụng phương pháp dạy học tích cực để rèn luyện kĩ năng thực
hành phép nhân cho học sinh lớp 3’’
3.Tác giả sáng kiến.
- Họ và tên: Nguyễn Thị Thùy Linh
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường Tiểu học Chấn Hưng
- Số điện thoại: 0974634297
- Email:
4.Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
-Họ và tên: Nguyễn Thị Thùy Linh
-Chức vụ: Giáo viên
-Địa chỉ: Trường Tiểu học Chấn Hưng – Chấn Hưng – Vĩnh Tường – Vĩnh Phúc
5.Lĩnh vực áp dụng sáng kiến.
5.1. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
Lĩnh vực có thể áp dụng sáng kiến tất cả các khối lớp 3 học phép nhân.
Trong đó, vấn đề mà sáng kiến giải quyết là đề ra những biện pháp nhằm
nâng cao kĩ năng thực hành phép nhân cho học sinh lớp 3.
5.2. Vấn đề mà sáng kiến giải quyết
-Tìm hiểu nội dung, chương trình và những phương pháp đúng để giảng
dạy toán phép nhân được hiệu quả.
3



-Tìm hiểu những kĩ năng cơ bản cần trang bị để phục vụ việc học phép
nhân hiệu quả cho học sinh lớp 3.
- Khảo sát và hướng dẫn giải cụ thể một số bài toán, một số dạng toán ở
lớp 3 về phép nhân. Từ đó đúc rút kinh nghiệm đề xuất một số ý kiến góp phần
nâng cao chất lượng dạy học và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu môn toán
6.Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử.
Sáng kiến bắt đầu được áp dụng từ tháng 10 năm 2018
7.Mô tả bản chất của sáng kiến
7.1.Cơ sở khoa học
Môn toán là một trong những môn học có vị trí quan trọng ở bậc Tiểu
học. Trong những năm gần đây, xu thế chung của thế giới là đổi mới phương
pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học
sinh trong quá trình dạy học. Một trong những bộ phận cấu thành chương
trình toán Tiểu học mang ý nghĩa chuẩn bị cho việc học môn hình học ở các
cấp học trên, đồng thời giúp học sinh những hiểu biết cần thiết khi tiếp xúc
với những “tình huống toán học” trong cuộc sống hàng ngày. Phương pháp
giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học
sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương
pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn kỹ năng vận dụng kiến thức
vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho
học sinh”. Tính tích cực trong học tập liên quan mật thiết với động cơ học tập
và được biểu hiện ở việc học sinh tự tìm tòi, chiếm lĩnh kiến thức mới có vai
trò quan trọng trong việc quá trình hình thành và phát triển tư duy toán học
của học sinh bởi lẽ quá trình tự tìm tòi khám phá sẽ giúp học sinh rèn luyện
tính chủ động sáng tạo trong học toán, học sinh sẽ hiểu sâu hơn, nhớ lâu hơn
kiến thức nếu như chính mình tìm ra kiến thức đó hoặc góp phần cùng các
bạn tìm tòi, khám phá xây dựng kiến thức. Trong quá trình tìm tòi, khám phá,
học sinh tự đánh giá kiến thức của mình, khi gặp khó khăn chưa giải quyết

được vấn đề học sinh tự đo được thiếu sót về mặt kiến thức tư duy, và tự rút
được kinh nghiệm khi tranh luận với bạn. Học sinh cũng tự đánh giá được
mình so với các bạn để tự điều chỉnh.

4


Như vậy đổi mới phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm tạo
điều kiện để cá thể hóa dạy học và khuyến khích học sinh phát hiện vấn đề
đồng thời phát triển năng lực, sở trường của từng học sinh trở thành người
lao động chủ động, sáng tạo.
7.2.Cơ sở lý luận
Thực hiện chủ trương đường lối đúng đắn của Đảng đầu tư cho giáo dục
là đầu tư cho con người bởi vì: “giáo dục đào tạo phải thực sự trở thành quốc
sách hàng đầu, hoàn thành tốt việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn lực cho con
người, cho công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước...”. Bộ giáo dục và đào tạo
đã và đang triển khai đổi mới chương trình giáo dục các cấp học, bậc học nói
chung và Tiểu học nói riêng.
Chương trình Tiểu học mới là kế thừa phát triển của chương trình cải
cách giáo dục cung cấp kiến thức, kỹ năng có hệ thống từ đơn giản đến phức
tạp, thể hiện tính thống nhất, tính hiện đại được soạn thảo theo các tiêu chí
sau:
+ Đảm bảo mục tiêu giáo dục.
+ Đảm bảo tính khoa học, tính sư phạm.
+ Đảm bảo tính thống nhất.
+ Đáp ứng yêu cầu phát triển của từng đối tượng học sinh.
+ Đảm bảo tính khả thi và hội nhập trong khu vực và quốc tế.
Chương trình sách giáo khoa thay đổi thì việc đổi mới phương pháp dạy
học là nhu cầu tất yếu của giáo dục - việc đổi mới phương pháp dạy học chỉ
thực sự có hiệu quả khi đổi mới đồng bộ về nội dung - phương pháp dạy học

cách đánh giá. Phương pháp dạy học chỉ thực sự có hiệu quả và phát huy tác
dụng trên cơ sở có được thiết bị dạy học cần thiết và sử dụng nó có hiệu quả.
Chính vì chương trình Tiểu học thay đởi địi hỏi phải đởi mới phương
pháp giáo dục và đánh giá kết quả học tập cụ thể, chương trình Tiểu học là kế
hoạch hành động gồm 4 thành tố:
+ Mục tiêu cần hướng tới.
+ Các năng lực cần phát triển ở học sinh.
5


+ Phương pháp và phương tiện dạy học.
+ Cách đánh giá kết quả học tập của học sinh.
Mặc dù lộ trình định hướng đổi mới phương pháp dạy học phát huy
tính tích cực của học sinh đã triển khai được một thời gian dài và những ưu
thế của nó là điều không thể phủ nhận song chưa ai dám khẳng định rằng ở
mọi nhà trường đã thực hiện một cách hoàn hảo các tiêu chí của dạy học hiện
đại. Một bộ phận không ít giáo viên vẫn chần chừ với phương pháp mới và
thiếu sự quyết liệt trong quá trình thực hiện đổi mới. Việc dạy chay trong một
số giờ vẫn xảy ra bởi một số giáo viên không mặn mà với bộ đồ dùng trong
dạy học, tâm lý sợ cháy giáo án, thiếu thời gian của tiết học. Mặt khác sử dụng
bộ đồ dùng bao giờ cũng mất nhiều thời gian bởi thao tác lấy ra cất vào của
học sinh.
Trước thực tế đó, bản thân tôi đã dành một thời gian đáng kể đầu tư
cho việc đổi mới phương pháp, đặc biệt là đối với môn toán, sau nhiều lần thử
nghiệm, với mong muốn nâng cao chất lượng dạy học môn toán bằng con
đường cải tiến và đổi mới phương pháp dạy học sao cho mỗi học sinh thực sự
được tham gia học toán với những hoạt động nhẹ nhàng tự nhiên mang lại
hứng thú và say mê học tập cho học sinh, bước đầu tôi đã tìm được một số
giải pháp hữu hiệu giúp học sinh tiếp cận nhanh với phương pháp dạy học
hiện đại. Chính vì vậy tôi đã đi sâu vào tìm hiểu ““ ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP

DẠY HỌC TÍCH CỰC ĐỂ RÈN LUYỆN KĨ NĂNG THỰC HÀNH PHÉP NHÂN
CHO HỌC SINH LỚP 3’’
7.3.Sự cần thiết phải áp dụng giải pháp sáng kiến
Từ xưa đến nay, môn Toán vốn luôn được coi là "môn đất đá , khô
khan". Nhưng trên thực tế, môn Toán lại rất gần gũi, gắn bó với con người và
khi học Toán các em thường thụ động tiếp thu kiến thức có được và áp dụng
một cách máy móc. Nhiều em không chủ động tích cực trong khi học thậm chí
còn sợ, chán học môn Toán. Chất lượng môn Toán chưa cao, nhiều em chưa
thành thạo cộng, trừ, nhân, chia.

6


Phương pháp dạy còn chưa thu hút được các em học sinh, cuốn các em
vào bài , nhiều khi tạo nên sự nhàm chán. Vì vậy cần tìm ra các biện pháp
khắc phục các tình trạng trên, tăng tính tích cực chủ động của học sinh và đổi
mới phương pháp dạy học sao cho hấp dẫn học sinh.
7.4:Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Chương trình toán lớp 3 là một bộ phận của chương trình toán tiểu học
và là sự tiếp tục của chương trình toán lớp một. Chương trình này kế thừa và
phát triển những thành tựu lớp hai (cũ) ở nước ta, thực hiện những đổi mới
về cấu trúc nội dung để tăng cường và ứng dụng kiến thức mới, chú trọng
phát triển toàn diện, chủ động, sáng tạo cho học sinh thích ứng với xã hội hiện
đại và công nghiệp hóa.
Từ mục tiêu cơ bản của môn học: dạy toán tức là giúp học sinh có kiến
thức cơ bản ban đầu về số học các số tự nhiên, các đại lượng thông dụng; một
số yếu tố hình học và thống kê đơn giản. Hình thành các kỹ năng thực hành,
đo lường, giải bài toán có nhiều ứng dụng thiết thực trong đời sống. Góp phần
bước đầu phát triển tư duy, khả năng suy luận hợp lý, bước đầu hình thành
phương pháp tự học và làm việc có kế hoạch khoa học, chủ động, linh hoạt,

sáng tạo cho học sinh.
7.4.1.Thuận lợi:
- Bản thân có nhiều năm dạy lớp 3 nên trong quá trình dạy học đã đúc rút
được một số kinh nghiệm hữu ích trong dạy toán 3.
-Tất cả học sinh trong lớp đều là học sinh trong xã nên có điều kiện thuận
lợi đi lại, giáo viên thuận tiện trao đổi với phụ huynh về việc giáo dục học sinh.
-Cơ sở vật chất nhà trường phục vụ cho việc học tập đầy đủ.
7.4.2.Khó khăn:
-Có nhiều học sinh có hoàn cảnh khó khăn. Đa số phụ huynh học sinh đi làm
ăn xa nên việc kèm cặp con ở nhà cịn nhiều hạn chế.
-Trình độ học sinh trong lớp khơng đồng đều nên gặp nhiều khó khăn trong
việc kèm các em học tập đặc biệt là trong môn toán.
7.4.3.Thực trạng học sinh lớp 3 hiện nay.
7


Học sinh lớp 3 là những học sinh đang ở độ tuổi học mà chơi, chơi mà học.
Để cuốn hút được các em trong những giờ học toán, để những tiết học toán
không khô cứng mà nhẹ nhàng tình cảm thì phải đổi mới phương pháp dạy
học. Do đó đổi mới sách giáo khoa Toán 3 địi hỏi phải đởi mới phương pháp
dạy học sao cho phù hợp. Nhiều tiết dạy vẫn chỉ mang nặng tính hình thức, do
đó hiệu quả giờ dạy chưa cao. Hơn nữa, trong lớp học có nhiều đối tượng học
sinh, mức độ tiếp thu khác nhau, sự quan tâm của cha mẹ đến việc học tập của
các em khác nhau. Đây cũng là một điều bất cập mà đòi hỏi người giáo viên
phải có phương pháp sao cho phù hợp.
Học sinh lớp 3 mới từ lớp 2 lên trình độ tư duy, vốn hiểu biết kiến thức
cơ bản ở lớp 2 chưa chắc chắn, vẫn tồn tại thói quen học vẹt, ghi nhớ máy
móc. Trong cùng một lứa tuổi, khả năng và sự phát triển trí tuệ của các em
không giống nhau, hứng thú và nhu cầu, động cơ học tập …cũng khác nhau.
7.5:Một số biện pháp trong việc sử dụng phương pháp dạy học

nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy toán
7.5.1:Mục tiêu của biện pháp
Qua thực tế giảng dạy nhằm đưa ra một số biện pháp hữu hiệu trong
việc sử dụng phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy toán,
giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách chủ động sáng tạo và đạt kết quả
cao nhất, đáp ứng theo yêu cầu của giáo dục - đào tạo hiện nay. Nhất là trong
kĩ năng thực hành phép nhân.
7.5.2:Các phương pháp dạy học theo hướng tích cực
7.5.2.1: Phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong việc
hình thành tri thức mới.
Muốn học sinh tiếp thu tri thức mới cần có sự hướng dẫn của giáo viên
bằng một hệ thống câu hỏi phù hợp. Giáo viên tổ chức các hoạt động dạy học
bằng cách gợi mở, hướng dẫn, dẫn dắt để học sinh dần tự tìm ra tri thức mới
(chuyển giao ý đồ sư phạm của thầy thành nhiệm vụ học tập của trò). Trong
quá trình dạy học cần biết phối hợp các phương pháp dạy học khác để đạt
kết quả cao.

8


Đối với tiết học mới, tôi nghiên cứu kỹ để xác định nội dung bài. Khác với
phương pháp cũ (nêu kiến thức), phần bài mới trong các tiết dạy tôi thường
đi từ tình huống có vấn đề để học sinh hoạt động và tự phát hiện ra kiến thức
mới theo sự hướng dẫn của giáo viên và sự trợ giúp của các đồ dùng học tập
hay phương tiện dạy học.
a)Giúp học sinh tự phát hiện và tự giải quyết nhiệm vụ bài học (Tự
chiếm lĩnh kiến thức mới)
Sau khi học sinh tìm được kết quả của phép nhân giáo viên hướng dẫn
cho học sinh ghi nhớ các công thức vừa hấp dẫn vừa khích lệ được học sinh
thi đua học tập như: che lấp hoặc xóa từng phần rồi toàn bộ công thức và tổ

chức cho học sinh lặp lại (nói, viết…) các công thức đã học để khẳng định học
sinh đã tự chiếm lĩnh kiến thức mới và cách giải quyết các vấn đề gần gũi với
đời sống.
VD. Hình thành khái niệm phép nhân:
* Cách hình thành:
“ Chuyển tổng các số hạng bằng nhau thành phép nhân”
+ Giới thiệu hình ảnh trực quan.
+ Chuyển tổng các số hạng bằng nhau thành phép nhân.
+ Tính kết quả của phép nhân bằng cách tính tổng.
Tôi dùng một bài toán cụ thể giới thiệu phép tính mới dựa trên phép
cộng như sau:
* Bài tốn: “Lan lấy một lần 2 chấm trịn, và lấy tất cả 3 lần. Hỏi Lan lấy
tất cả bao nhiêu chấm tròn?”
- Yêu cầu học sinh thực hành lần 1 lấy 2 chấm tròn, lần 2 lấy tiếp 2 chấm
tròn, lần 3 lấy 2 chấm tròn.
- Song song cho học sinh thao tác lấy chấm tròn theo bài toán để học sinh
dễ hình dung. Tôi gắn lần lượt chấm tròn lên bảng theo hình và giúp học sinh
nhận biết:

● ●

● ●

● ●
9


+ Muốn biết Lan lấy bao nhiêu chấm tròn em thực hiện phép tính gì?
(phép cộng: 2 + 2 + 2)
+ Em có nhận xét gì về các số hạng của tổng này ?

(Các số hạng đều bằng nhau ).
+ Có mấy số hạng ?
(3 số hạng).
+Như vậy 2 được lấy mấy lần?
(2 được lấy 3 lần)
* Yêu cầu học sinh nhẩm kết quả tổng: 2 + 2 + 2= 6
* Với phép cộng các số hạng bằng nhau như vậy ta có thể chuyển nhanh
thành phép nhân như sau: Từ 2 + 2 + 2 Ta có thể viết 2 x 3= 6
* Viết: 2 x 3 = 6
* Đọc: Hai nhân ba bằng sáu. Dấu “x” gọi là dấu nhân.
Tôi cho học sinh nhận xét để nhận biết rằng: “phép cộng các số hạng
bằng nhau có thể chuyển thành phép nhân. Hay phép nhân được hình thành
trên phép cộng các số hạng bằng nhau”.
b)Xác định vai trò tác dụng của đồ dùng dạy - học Toán.
Sách giáo khoa Toán 3 được biên soạn cải tiến theo tinh thần đổi mới,
làm rõ quá trình hình thành kiến thức, có tác dụng định hướng về cách dạy
cho giáo viên; sách giáo khoa mới in màu đẹp, nhiều hình vẽ, trình bày khoa
học nên có sức hấp dẫn, các em học sinh thích thú và tiện lợi khi sử dụng. Sách
giáo khoa trình bày theo hướng mở, không thông báo tường minh kiến thức
tạo cơ hội để học sinh suy nghĩ, tìm tòi, hệ thống bài tập đa dạng phát huy
được khả năng sáng tạo của học sinh. Như vậy sách giáo khoa Toán 3 mới có
ý nghĩa như một đồ dùng dạy - học quan trong của học sinh, giáo viên biết sử
dụng, hướng dẫn và khai thác dụng của sách giáo khoa Toán 3 trong giảng
dạy sẽ đem lại hiệu quả cao.

10


Bộ đồ dùng dạy - học Toán 3 là một tiến bộ lớn của thiết bị dạy học. Sử
dụng đồ dùng học toán học sinh được hoạt động bằng tay với các vật thật để

hình thành các số, xác định tỉ số, tính giờ hơn - giờ kém, tập ghép hình, tập
cân nặng, đo độ dài, hình thành các phép tính với số có bốn chữ số, năm chữ
số trong phạm vi 100 000 nghìn một cách nhẹ nhàng. Các đồ dùng đó giúp cho
khả năng thực hành của học sinh trong giờ học Toán tăng lên rõ rệt. Nhờ có
bộ đồ dùng học Toán 3 học sinh tiếp nhận kiến thức qua hoạt động bằng tay.
Đồ dùng dạy - học Toán 3 rất quan trọng và nó là cơ sở vật chất của đổi mới
phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học.
Bảng con là đồ dùng dạy học truyền thống, vẫn còn nguyên giá trị trong
việc dạy - học nói chung và ở lớp 3 nói riêng. Nhờ có bảng con học sinh được
thực hiện kỹ năng viết, giáo viên có thể kiểm tra việc nắm bài của học sinh, kỹ
năng viết, kỹ năng tính của học sinh. Sử dụng bảng con thay đổi trạng thái
làm việc của học sinh. Khích lệ sự cố gắng của mỗi học sinh, tạo ra không khí
học tập sôi nổi trong học Toán. Vai trò của bảng con sẽ giảm dần ở lớp trên và
nhường chỗ cho tư duy trừu tượng.

( Hình ảnh học sinh làm toán bằng bảng con)
Vở bài tập là một sáng kiến tốt trong những năm gần đây. Vở bài tập có
tác dụng củng cố kiến thức, rèn luyện kỹ năng bài học ngay tại trên lớp khá
tiện lợi. Vở bài tập giúp cá nhân hóa quá trình dạy - học cho mỗi học sinh thực
hành theo kỹ năng và tốc độ riêng của mỗi người. Tuy nhiên nếu lạm dụng vở
bài tập sẽ ảnh hưởng đến kỹ năng viết và trình bày của học sinh.

11


Đồ dùng minh họa của giáo viên trong đổi mới phương pháp dạy học
khơng cịn vị trí quan trọng như trước nữa, các tranh vẽ không hơn hẳn các
hình vẽ trong sách giáo khoa.
Bảng phụ cũng chỉ là phóng to các biểu, bảng bài tập trong sách giáo
khoa. Tuy nhiên các bảng cài, hoặc diễn tả “động” được quá trình hình thành

kiến thức thì vẫn có tác dụng tích cực trong việc dạy toán vì nó tạo ra được
tình huống, tạo ra vấn đề để học sinh phải động não, suy nghĩ.
Một điều quan trọng trong đổi mới phương pháp dạy học là dạy toán 3
phải phù hợp với trình độ phát triển tâm lý của trẻ trên 8 tuổi. Hiện nay các
em đều đã thân quen với môi trường tập thể, nhiều em đã tự đọc sách giáo
khoa và trao đổi với bạn bè về nội dung kiến thức. Kiến thức sách giáo khoa
khá quen thuộc đối với một số em, chính vì vậy dạy toán càng khó hơn đòi hỏi
giáo viên phải có phương pháp phù hợp để học sinh không cảm thấy nhàm
chán, không bị cảm giác học lại kiến thức. Ngược lại, ở các lớp điều kiện cịn
khó khăn học sinh có trình độ khơng đờng đều thì giáo viên phải có những ví
dụ thực tiễn gần gũi với các em để học sinh hiểu rõ các biểu tượng ban đầu,
giáo viên phải hình thành vững chắc kiến thức cơ bản cho các em củng cố,
khắc sâu phát triển kiến thức mới cho phù hợp với các đối tượng học sinh, tổ
chức làm sao để tất cả học sinh trong lớp đều phải được làm việc đặc biệt
quan tâm đến học sinh yếu, học sinh khuyết tật.
Không có đồ dùng dạy học nào là vạn năng có thể thay thế được các đồ
dùng dạy học nêu trên. Chỉ có sử dụng hợp lý, đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối
tượng và kết hợp với thao tác khéo léo trong các tình huống dạy học thì chắc
chắn sẽ đem lại hiệu quả của giờ dạy - học toán tốt hơn.
Tuy nhiên ở mỗi bài dạy giáo viên phải xây dựng được mục tiêu của bài,
chuẩn bị đồ dùng hợp lý, hướng dẫn học sinh sử dụng thành thạo, thường
xun. Nếu phịng thiết bị của trường chưa có đờ phục vụ cho nội dung bài thì
giáo viên phải khắc phục tự làm đồ dùng để giờ dạy được sinh động hơn, học
sinh tiếp thu bài thoải mái, nhẹ nhàng và đạt hiệu quả cao.
Ví dụ:Dạy dạng bài hình thành bảng nhân hoặc bảng chia.
- Dùng nhóm mẫu vật cùng loại để xây dựng bảng nhân (hoặc bảng
chia).
12



- Dùng tranh minh họa tở chức trị chơi nhằm củng cố kiến thức vừa
học.
- Dùng bộ đồ dùng Toán thực hành + bảng con để giải quyết các bài tập
luyện tập.
- Phóng tranh minh họa - viết phép tính thích hợp.
- Ngoài ra kết hợp tở chức trị chơi Toán học phù hợp với nội dung từng
bài.
- Ví dụ “ Dạy bài: Bảng nhân 9 ”.
+ Giáo viên gắn 1 thanh 9 chấm tròn để học sinh có khái niệm ban đầu về
9 được lấy 1 lần.
+ Giáo viên gắn 2 thanh 9 chấm tròn để học sinh hình thành khái niệm 9
được lấy 2 lần ( 9 x 2= 18 ) hay 9 + 9 = 18
+ Học sinh quan sát - viết vào bảng con.
( Tương tự với 3 thanh 9 chấm tròn )
+ Dùng tranh minh họa để điền số vào ô trống (dựa theo số lượng đờ vật
trong mỗi nhóm).
+ Tở chức trị chơi “Đoán số” để củng cố bảng nhân 9.
- Ở lớp 3 (học kỳ I): học sinh tiếp tục học các bảng nhân, bảng chia 6, 7, 8,
9. Lúc này các em đã có kinh nghiệm sử dụng đồ dùng học tập (các miếng bìa
với số chấm trịn như nhau), đã quen và thành thạo với cách xây dựng phép nhân
từ những miếng bìa đó. Hơn nữa, lên lớp 3 trình độ nhận thức của học sinh phát
triển hơn trước (khi học lớp 2) nên khi hướng dẫn học sinh lập các bảng nhân
hoặc bảng chia giáo viên vẫn yêu cầu học sinh sử dụng các đồ dùng học tập
nhưng ở một mức độ nhất định, phải tăng dần mức độ khái quát để kích thích trí
tưởng tượng, phát triển tư duy cho học sinh. Chẳng hạn:
Giáo sinh thao tác trên tấm bìa với các chấm trịn để lập 3, 4 phép tính trong
bảng viên khơng cùng học sinh lập các phép tính như ở lớp 2 mà chỉ nêu lệnh để
học, các phép tính cịn lại học sinh phải tự lập dựa vào phép đếm thêm hoặc dựa
vào các bảng nhân đã học. Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh tự lập Bảng nhân 6,
giáo viên yêu cầu học sinh sử dụng các tấm bìa, mỗi tấm bìa có 6 chấm trịn để

lập các phép tính:
13


6x 1 = 6; 6 x 2 = 12; 6 x 3 = 18
Sau đó cho học sinh nhận xét để từ 6 x 2 = 12 suy ra được 6 x 3 = 18. Cụ thể
là: Với 3 tấm bìa. Học sinh nêu: “6 được lấy 3 lần, ta có 6 x 3”. Mặt khác cũng
từ 3 tấm bìa này ta thấy 6 x 3 chính là 6 x 2 + 6. Vậy 6 x 3 = 6 x 2 + 6 = 18
Bằng cách như vậy, học sinh có thể khơng dùng tấm bìa mà vẫn tự tìm được
kết quả của phép tính: 6 x 4 = 6 x 3 + 6 = 24; 6 x 5 = 6 x 4 + 6,…
Hoặc dựa trên bảng nhân đã học: 6 x 4 = 4 x 6 = 24; 6 x 5 = 5 x 6,…
Như vậy, giáo viên cần lưu ý sử dụng đồ dùng trực quan hợp lý, đúng lúc
để không chỉ giúp học sinh nắm được kiến thức mà còn phát triển tư duy.
7.5.2.2 Phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong phát hiện
vấn đề dựa trên việc thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức mới với kiến
thức đã học
*Hướng dẫn thành lập bảng nhân 3
Yêu cầu dựa vào bài“ Chuyển tổng các số hạng bằng nhau thành phép
nhân để xây dựng bảng nhân 3
+Yêu cầu học sinh sử dụng bộ đồ dùng
+Lần 1 lấy 3 chấm tròn
+Gắn 1 tấm bìa có 3 chấm tròn lên bảng và hỏi:
Có mấy chấm tròn? (3 chấm tròn)
3 chấm tròn được lấy mấy lần?( 3 được lấy một lần)
3 được lấy 1 lần nên ta lập được phép nhân như thế nào? ( 3 x 1 = 3)
(GVghi lên bảng phép nhân này).
+Lần 2: Yêu cầu học sinh lấy 3 chấm trịn rời lại lấy 3 chấm tròn
Cho học sinh tự đếm số chấm tròn và thành lập phép nhân
Gọi vài em nêu trước lớp
-GV gắn tiếp 2 tầm bìa lên bảng và hỏi:

+ Có hai tấm bìa, mỗi tấm có 3 chấm tròn, vậy 3 chấm tròn được lấy mấy
lần?( 3 chấm tròn được lấy hai lần)
+Vậy 3 được lấy mấy lần?( 3 được lấy hai lần)
14


+Hãy lập phép tính tương ứng với 3 được lấy 2 lần.(3 x 2)
+3 nhân 2 bằng mấy?
- Viết lên bảng phép nhân: 3 x 2 = 6
Đặt kiến thức mới trong mối quan hệ với kiến thức đã học. Nếu thực hiện
phương pháp dạy học bài mới như vậy không những tạo điều kiện ôn tập,
củng cố kiến thức đã học, giúp học sinh chủ động phát hiện, chiếm lĩnh kiến
thức mới. Tìm ra những nội dung còn tiềm ẩn trong từng bài học mà góp
phần rèn luyện cách diễn đạt thông tin bằng lời, bằng ký hiệu, phát triển các
năng lực tư duy của học sinh.
7.5.2.3 Phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong việc
dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ kết hợp với vấn đáp, giảng giải để phát
huy tính chủ động, hợp tác của học sinh.
Đối với loại bài học này việc hình thành tri thức mới cho học sinh cần có
sự kiểm nghiệm kết quả qua nhiều học sinh khác nhau, cần có sự phát hiện,
đóng góp trí tuệ của tập thể học sinh như đo đạc, thu thập các số liệu thống
kê…
Ví dụ ; Dạy dạng bài “Phép nhân, phép chia các số có bốn( năm)
chữ số cho số có một chữ số ”.


Ví dụ : Dạy bài “ Nhân số có bốn chữ số cho số có một chữ số”.

+ Bước 1: Hướng dẫn học sinh thao tác trên bảng phụ.
+ Bước 2: Hướng dẫn kỹ thuật làm tính nhân.

Cụ thể: 1427 x 3 =?
-Học sinh viết số 1427 vào bảng con.
=> Nhận biết: số 1427 là số có bốn chữ số, gồm các hàng: nghìn, trăm,
chục, đơn vị.
- Học sinh viết số 3 vào bảng con.
=> Nhận biết: 3 là số có một chữ số, thuộc hàng đơn vị.
- Kĩ thuật làm tính.
+Đặt tính:
15


Viết 1427 rồi viết 3 cho đơn vị thẳng cột với đơn vị.( 3 thẳng với 7)
+Tính: Từ trái sang phải.
3 nhân 7 bằng 21, viết 1 nhớ 2.
3 nhân 2 bằng 6, thêm 2 bằng 8, viết 8.
3 nhân 4 bằng 12, viết 2 nhớ 1.
3 nhân 1 bằng 3, thêm 1 bằng 4, viết 4.
Vậy: 1427 x 3 = 4281
- Dùng bảng con để luyện tập thực hành phép nhân ( Bài tập 1,2)
-Hướng dẫn học sinh cách tính nhẩm bằng bảng phụ ( Bài tập 4).
- Dùng tranh minh họa tở chức trị chơi nhằm củng cố kiến thức vừa học.
- Phóng tranh minh họa - viết phép tính thích hợp.
Với những loại bài này học sinh được thực hành, được trực tiếp đo sẽ có
khả năng ghi nhớ sâu những kiến thức mà mình vừa chiếm lĩnh được.
7.5.2.4 Phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong luyện
tập thực hành
Tương ứng với các tiết học giúp học sinh tự tìm ra kiến thức mới,
thường bao giờ cũng có tiết luyện tập thực hành. Ở các tiết thực hành, học
sinh phải vận dụng kiến thức đã được học để giải quyết các bài tập có liên
quan

Ví dụ : Trị chơi có tên là “ Đồn kết”.
- Mục đích: Rèn luyện kỹ năng tính nhẩm nhanh:
Thời gian chơi: 6- 7 phút
- Cách chơi: Giáo viên hô: “Đoàn kết, đoàn kết”
Giáo viên hô: “Kết 2 x 3” Hoặc “ 3x3”, “ 4x2”....Học sinh phải nhẩm nhanh
được kết quả và kết thành nhóm theo yêu cầu.
16


-Luật chơi: bạn nào nhẩm nhanh kết đúng thì được tuyên dương, bạn
nào chậm hoặc nhẩm sai kết sai thì phải chấp nhận bị phạt tùy theo yêu cầu
của các bạn.
Trị chơi này tơi thường áp dụng vào những bài luyện tập củng cố cách
tính nhẩm cho học sinh. Nhiều bạn lúc mới áp dụng thường xuyên nhẩm sai ,
nhưng sau đó vài lần chơi các bạn ấy đã rút ra được kinh nghiệm chơi tốt hơn
không nhẩm sai nữa vì vậy qua chơi mà các bạn ý đã tiến bộ rồi đấy.
Khi chơi tạo không khí vô cùng vui vẻ hồi hộp chờ cô giáo đưa ra câu hỏi.
Giúp các em có khả năng nhạy bén hơn nhanh hơn và còn gần gũi nhau hơn
yêu quý nhau hơn sau khi cùng vui chơi. Biết được bạn nào còn yếu kém chỗ
nào để kèm cặp bạn cùng tiến bộ. Giúp các em mạnh dạn tự tin hơn đặc biệt
có tác dụng tốt với các bạn nhút nhát. Các em đã mạnh dạn lên và chủ động
hòa nhập cùng các bạn tham gia chơi nhiệt tình.
Qua thực tế dạy bài này, lúc đầu tôi tưởng các em không nói được, sau
khi gợi ý, hướng dẫn thì kết quả không ngờ từ 2 em ngập ngừng nói lúc đầu,
các em thi đua giơ tay và có nhiều em nói rất tốt. Vì vậy, trong bất kỳ bài học
nào, giáo viên cần phát huy tính sáng tạo của mỗi em, tạo cho các em sự phấn
khởi, say mê học tập. Một số em khả năng tiếp thu của cịn chậm và nhanh
qn. Tơi đã chú ý luyện tập các em thường xuyên bằng nhiều dạng bài tập
phù hợp, kết hợp với sự kiên trì cuối cùng của các em cũng đó nắm được cách
hình thành phép nhân, cách lập bảng nhân và vận dụng và làm được các bài

tập song ở những bài đầu mức độ cịn chậm. Tơi tiếp tục theo dõi và giúp đỡ
các em ở những bài sau nên mức độ thực hiện của các em là đúng và nhanh.
Qua thực tế điểm kiểm tra chất lượng môn toán cuối học kì 1lớp 3B đầu
năm 2019-2020 như sau:
Tổng số
học

Điểm 1 - 4

Điểm 5 - 6

0

2

Điểm 7 - 8

Điểm 9 - 10

sinh
35

%

5,7 %

17

14


40 %

29

82,9 %


7.5.3 Giải pháp đã thực hiện
7.5.3.1: Đối với học sinh
- Mỗi học sinh đều phải có sách giáo khoa, vở, dụng cụ học tập đầy đủ.
- Chủ yếu là xây dựng phương pháp học tập và phong cách học kết hợp
tự rèn luyện và hình thành mạng lưới học nhóm, tổ, học ở bất kỳ nơi nào, dù ở
nhà hay ở trường cũng luôn phải nghiêm túc và tập trung trong khi học tập.
- Tập cho học sinh thói quen luôn cẩn thận, không bỏ qua dù một bài tập
nhỏ hay một nội dung ngắn gọn.
- Từ kiến thức toán đã học phải rèn luyện kỹ năng thực nghiệm, tư duy,
sáng tạo.
- Chuẩn bị cho một tiết học xây dựng khái niệm hay thực hành, từng đối
tượng học sinh phải được được giao nhiệm vụ cụ thể. Hội đồng tự quản của
lớp giúp giáo viên kiểm tra đôn đốc sự chuẩn bị của mọi thành viên của lớp
để báo cáo sự chuẩn bị với cô giáo.
- Chú ý quan tâm đến từng học sinh, không để học sinh đứng ngoài lề bài
giảng
7.5.3.2 Đối với giáo viên
Để một tiết học đạt hiệu quả người giáo viên cần phải thực hiện tố
những công việc sau:
-Xác định nội dung yêu cầu kiến thức kỹ năng, năng lực, phẩm chất cần
cung cấp truyền đạt và rèn luyện cho học sinh.
-Nắm bắt được trình độ, khả năng từng đối tượng học sinh để có những
yêu cầu đặt ra cho phù hợp.

-Nghiên cứu nội dung bài soạn, bám sát chuẩn kỹ năng và hướng dẫn
điều chỉnh nội dung dạy học; nghiên cứu sách tham khảo toán đối với học sinh
lớp3 để đưa ra phương pháp dạy học hữu hiệu nhằm phát huy tính tích cực
của học sinh.

18


-Đồ dùng dạy học cũng lưu ý sao cho phù hợp với tâm sinh lý của từng
đói tượng học sinh .Từ ngữ, ngôn ngữ phải trong sáng, rõ ràng, dễ hiểu. Bài
soạn phải thay đổi linh hoạt các phương pháp dạy học để phát huy tính tích
cực chủ động học tập của học sinh, kích thích mỗi học sinh đều phải tham gia
xây dựng bài ngay tại lớp và có nội dung thực nghiệm, phát minh cái mới
tránh hiện tượng thụ động của học sinh.
-Kiểm tra bài cũ là việc làm vô cùng cần thiết cần thực hiện thường
xuyên, dù thời gian thế nào cũng phải kiểm tra để nắm mức độ hiểu bài của
học sinh củng cố kiến thức cũ, điều chỉnh lệch (nếu có)
-Khâu luyện tập thực hành là nhiệm vụ hàng đầu trong môn Toán. Người
giáo viên cần phải hướng dẫn gợi ý để các em có điều kiện thực hành và thực
nghiệm sáng kiến cái mới. Tăng cường các trò chơi toán học mặt khác hết sức
coi trọng công việc học nhóm, học ở nhà của học sinh, khai thác tốt sự hỗ trợ
của bạn bè, người giáo viên cần biết nối dài cánh tay của mình thông qua việc
học sinh giúp nhau tự học.
-Phối hợp tốt với gia đình học sinh để rèn luyện và kịp thời quan tâm đến
học sinh giúp các đi đúng hướng (không lệch chuẩn).
-Tích cực vận dụng phương tiện dạy học hiện đại vào giảng dạy môn
toán để gây hứng thú trong học tập cho các em.
7.6 Lợi ích mang lại từ việc áp dụng các biện pháp
Qua một thời gian giảng dạy và thực nghiệm, tôi tiến hành khảo sát lần 2 để
đánh giá kết quả học tập và sự chuyển biến của học sinh. Tôi nhận thấy chất

lượng đã được nâng lên rõ rệt. Học sinh đã hiểu và nắm rõ cách làm bài toán,
hầu hết các em rất hứng thú khi học tốn. Chính vì vậy mà kết quả đã được nâng
lên rõ rệt qua đợt Kiểm tra định kì lần 3. Kết quả như sau:

Lớp

Điểm 9-10

Điểm 5-6

Dưới 5

SÜ sè
SL

3A

Điểm 7-8

35

13

%
37,1
%

SL

%


15 42,9%

19

SL

%

SL

%

7

20%

0

0%


3Blớp đối
chứng

35

11

31,4

%

14

20

40%

8

22,9
%

2

5,7
%


Qua so sánh kết quả 2 lần Kiểm tra định kỳ, ta thấy số em học sinh dưới 5
điểm không còn. Số em đạt điểm 9-10, điểm 7-8 tăng vượt bậc. Không những
học sinh nắm được kiến thức bài học mà còn nhớ rất lâu những kiến thức của bài
học đó. Chất lượng học sinh của lớp 3A đã vươn lên trước lớp 3B. Các em đã
khắc phục được những hạn chế như ở phần thực trạng đã nêu. Hầu hết học sinh
đều u thích và có hứng thú khi học tốn nhất là giải tốn có lời văn. Đặc biệt
là những học sinh học yếu mơn tốn nay các em đã rất cố gắng vươn lên. Các
em được rèn khả năng nhanh nhẹn, khéo léo và tạo cho các em mạnh dạn, tự tin
hơn.

8. Những thông tin cần được bảo mật.

Không có
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
9.1 Đối với học sinh
- Mỗi học sinh đều phải có sách giáo khoa, vở, dụng cụ học tập đầy đủ.
- Chủ yếu là xây dựng phương pháp học tập và phong cách học kết hợp
tự rèn luyện và hình thành mạng lưới học nhóm, tổ, học ở bất kỳ nơi nào, dù ở
nhà hay ở trường cũng luôn phải nghiêm túc và tập trung trong khi học tập.
- Tập cho học sinh thói quen luôn cẩn thận, không bỏ qua dù một bài tập
nhỏ hay một nội dung ngắn gọn.
- Từ kiến thức toán đã học phải rèn luyện kỹ năng thực nghiệm, tư duy,
sáng tạo.
- Chuẩn bị cho một tiết học xây dựng khái niệm hay thực hành, từng đối
tượng học sinh phải được được giao nhiệm vụ cụ thể. Hội đồng tự quản của
lớp giúp giáo viên kiểm tra đôn đốc sự chuẩn bị của mọi thành viên của lớp
để báo cáo sự chuẩn bị với cô giáo.
-Chú ý quan tâm đến từng học sinh, không để học sinh ở ngoài lề bài
giảng.
9.2. Đối với giáo viên
21


Để một tiết học đạt hiệu quả người giáo viên cần phải thực hiện tố
những công việc sau:
-Xác định nội dung yêu cầu kiến thức kỹ năng, năng lực, phẩm chất cần
cung cấp truyền đạt và rèn luyện cho học sinh.
-Nắm bắt được trình độ, khả năng từng đối tượng học sinh để có những
yêu cầu đặt ra cho phù hợp.
-Nghiên cứu nội dung bài soạn, bám sát chuẩn kỹ năng và hướng dẫn
điều chỉnh nội dung dạy học; nghiên cứu sách tham khảo toán đối với học sinh
lớp 3 để đưa ra phương pháp dạy học hữu hiệu nhằm phát huy tính tích cực

của học sinh
-Đồ dùng dạy học cũng lưu ý sao cho phù hợp với tâm sinh lý của từng
đói tượng học sinh .Từ ngữ, ngôn ngữ phải trong sáng, rõ ràng, dễ hiểu. Bài
soạn phải thay đổi linh hoạt các phương pháp dạy học để phát huy tính tích
cực chủ động học tập của học sinh, kích thích mỗi học sinh đều phải tham gia
xây dựng bài ngay tại lớp và có nội dung thực nghiệm, phát minh cái mới
tránh hiện tượng thụ động của học sinh.
-Kiểm tra bài cũ là việc làm vô cùng cần thiết cần thực hiện thường
xuyên, dù thời gian thế nào cũng phải kiểm tra để nắm mức độ hiểu bài của
học sinh củng cố kiến thức cũ, điều chỉnh lệch (nếu có)
-Khâu luyện tập thực hành là nhiệm vụ hàng đầu trong môn Toán. Người
giáo viên cần phải hướng dẫn gợi ý để các em có điều kiện thực hành và thực
nghiệm sáng kiến cái mới. Tăng cường các trò chơi toán học mặt khác hết sức
coi trọng công việc học nhóm, học ở nhà của học sinh, khai thác tốt sự hỗ trợ
của bạn bè, người giáo viên cần biết nối dài cánh tay của mình thông qua việc
học sinh giúp nhau tự học.
9.3. Về phía phụ huynh học sinh.
- Phối hợp tốt với gia đình học sinh để rèn luyện và kịp thời quan tâm đến
học sinh giúp các em đi đúng hướng (không lệch chuẩn).
-Phụ huynh cần quan tâm hơn nữa đến việc học tập ở nhà của các em,
luôn đôn đốc việc hoàn thành bài tập về nhà .
9.4. Về phía nhà trường và cán bộ quản lý
22


- Tạo mọi điều kiện về cơ sở vật chất phịng học , đờ dùng dạy học cho
giáo viên và học sinh giảng dạy và học tập
- Tăng cường dự giờ thăm lớp để xem sự tiến bộ của các em học sinh
- Tăng cường các buổi sinh hoạt chuyên môn về môn toán để các thầy
cô cùng góp ý chia sẻ cách dạy hay.

-Tích cực vận dụng phương tiện dạy học hiện đại vào giảng dạy môn
toán để gây hứng thú trong học tập cho các em.
10. Đánh giá lợi ích thu được của sáng kiến
10.1. Đánh giá kết quả do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả
Sáng kiến kinh nghiệm “ Áp dụng phương pháp dạy học tích cực để rèn
luyện kĩ năng thực hành phép nhân cho học sinh lớp 3’’ phù hợp với lý luận về
giáo dục, phù hợp với chủ trương, chính sách hiện hành về giáo dục và đào tạo
của Nhà nước. Sáng kiến kinh nghiệm này đã được áp dụng thử nghiệm trong
điều kiện cụ thể tại trường Tiểu học Chấn Hưng và mang lại lợi ích thiết thực.
Ngồi ra Sáng kiến kinh nghiệm này cịn có khả năng áp dụng cho tất cả các
trường Tiểu học.
- Trong thời gian công tác tại trường TH Chấn Hưng tôi đã điều tra nghiên
cứu và thử áp dụng thực tế đã được các đồng nghiệp trong trường đồng tình ủng
hộ. Kết quả cho thấy HS ngoan hơn, tự giác chủ động, mạnh dạn hơn, đã thể
hiện được cách xử lý rác thải khá phù hợp.
- Nhờ thực hiện tốt việc dạy và học mơn tốn cho học sinh, chất lượng
học tập của học sinh sẽ được nâng lên rõ rệt về mọi mặt, học sinh chiếm lĩnh
được kiến thức một cách chủ động. Kết quả học tập của học sinh ngày một nâng
cao.
-Giáo viên, nhà trường, ban đại diện cha mẹ học sinh sẽ có được những
giải pháp tốt hơn trong việc giáo dục, đặc biệt là rèn tính kỷ luật cao cho học
sinh.

23


- Kết thúc năm học 2018- 2019, 100% học sinh lớp do tơi chủ nhiệm hồn
thành chương trình lớp học. Nhiều em hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ học
tập, rèn luyện và được nhà trường khen thưởng.Ở trường học sinh được giáo
viên tạo mọi điều kiện khuyến khích khơi dậy tính tị mị, phát triển trí tưởng

tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin, chủ động học tập. Các em có khả năng tự
phục vụ, tự quản tốt, có các kĩ năng cần thiết phục vụ bản thân.
- Sau sáng kiến kinh nghiệm này tôi dự định sẽ tiếp tục nghiên cứu để
thiết kế thêm hình thức và tìm thêm biện pháp dạy học tích cực để rèn luyện kĩ
năng thực hành phép nhân cho học sinh lớp 3
Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy: Khi hướng dẫn học sinh giải các bài
tốn có liên quan đến phép nhân thường thì những học sinh yếu rất lúng túng khi
tìm ra kết quả. Một số học sinh giỏi có thể tự tính được bài tốn nhưng đơi khi
các em vẫn còn nhầm lẫn giữa cái này với cái kia do các em chỉ làm theo cách
hiểu của mình chứ chưa được trực quan cụ thể. Trước những khó khăn đó của
học sinh, tơi dã kiên trì hướng dẫn các em học thuộc lòng bảng nhân . Khi học,
các em rất hứng thú, chủ động, tích cực. Các em nỗ lực thi đua xem ai thuộc
nhanh nhất. Chính vì thế mà các em rất phấn khởi mỗi khi học đến tiết Tốn,
khơng khí lớp học sơi nổi hẳn lên. Những học sinh chưa hoàn thành nay đã cố
gắng vươn lên. Chất lượng dạy học mơn Tốn được nâng lên một cách rõ rệt, thể
hiện qua đợt khảo sát ở giữa kỳ 2. Khơng cịn học sinh chưa hồn thành, tơi tin
rằng từ nay đến hết năm học, tôi sẽ giúp em đó có gắng hơn, tiến bộ hơn để hồn
thành chương trình Tiểu học.
10.2. Đánh giá kết quả do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của trường
Tiểu học:
Sáng kiến kinh nghiệm này sau khi áp dụng được Ban giám hiệu, Hội
đồng sư phạm trường Tiểu học Chấn Hưng đánh giá cao ở các tiêu chí sau:
- Được áp dụng với học sinh khối 3 trong nhà trường, áp dụng rộng rãi
đối với các khối lớp khác và học sinh cùng khối ở các trường tiểu học khác
trong toàn Huyện, toàn ngành.
- Sáng kiến mang lại hiệu quả cao về tính giáo dục theo hướng phát triển
năng lực học sinh.
- Sáng kiến đã phát huy được tính tích cực, sáng tạo, chủ động của học sinh
trong học tập và trong cuộc sống
24



11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp
dụng sáng kiến lần đầu

TT

Tên tổ chức, cá
nhân

Địa chỉ

Phạm vi, lĩnh vực
áp dụng sáng kiến
“Áp

dụng

phương

pháp dạy học tích cực
1

Vũ Thị Thu Phương

Trường TH Chấn Hưng để rèn luyện kĩ năng
thực hành phép nhân
cho học sinh lớp 3”
“Áp


dụng

phương

pháp dạy học tích cực
2

Nguyễn Văn Thảo

Trường TH Chấn Hưng để rèn luyện kĩ năng
thực hành phép nhân
cho học sinh lớp 3”
“Áp

dụng

phương

pháp dạy học tích cực
3

Nguyễn Thị Nhung

Trường TH Chấn Hưng để rèn luyện kĩ năng
thực hành phép nhân
cho học sinh lớp 3”
“Áp

dụng


phương

pháp dạy học tích cực
4

Nguyễn Thị Huệ

Trường TH Chấn Hưng để rèn luyện kĩ năng
thực hành phép nhân
cho học sinh lớp 3”

25


×