Sở giáo dục & đào tạo Lao Cai
Trờng THPT số 2 Bát Xát
_________________
_________________
P DNG PPDH TCH CC NHM GIP HC SINH
PHT HUY TNH SNG TO TRONG GI C HIU
TC PHM VN HC CHNG TRèNH NG VN 12
Mụn: Ng vn
Tờn tỏc gi: Dng Qunh Hng
Giỏo viờn mụn: Ng vn
Chc v: T trng chuyờn mụn
Ti liu kốm theo: khụng
Năm học 2011 - 2012
Trang
1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………… . 1
2. Mục đích nghiên cứu……………………………………………… .2
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu. ……………………………… 2
4. Giả thiết khoa học…………………………………………………… 2
5. Nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………………… 3
6. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………. .3
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
A. Cơ sở của đề tài …………………………………………………4
I/ Cơ sở lí luận 4
II/ Cơ sở thực tiễn… ………….4
B. Kết quả nghiên cứu thực tiễn……………………………………… 5
I/ Vài nét về khách thể nghiên cứu………………………… ………… 5
II/ Thực nghiệm sư phạm……………………………………………… 5
1. Mục đích thực nghiệm……………………………………………… 5
2. Biện pháp cụ thể…………………………………………………… 5
3. Minh họa đọc – hiểu tác phẩm……………………………………….13
III/ Kết quả thực hiện………………………………………………… 17
Danh mục tài liệu tham khảo 19
PHẦN I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1/ Lí do chọn đề tài.
Từ nhiều năm nay, việc dạy học môn Ngữ văn được thực hiện theo
phương pháp truyền thống thiên về lí thuyết, thầy cô giáo soạn bài giảng,
truyền thụ đến học sinh, học sinh tiếp thu thụ động kiến thức ấy, ghi nhớ và
vận dụng vào bài kiểm tra. Cứ như thế thành một chu kì khép kín. Phương
pháp dạy học này có những ưu điểm riêng không thể phủ nhận được là đã đạt
những kết quả đáng kể trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi. Tuy nhiên trong
môi trường giáo dục ngày nay phương pháp truyền thống ấy cũng bộc lộ
không ít nhược điểm như: Học sinh thụ động, chỉ biết tiếp nhận một chiều chứ
không tự nghiên cứu, tìm hiểu. Như thế, hậu quả khó tránh khỏi là học sinh
dần dần mất đi năng lực tư duy, tự cảm thụ tác phẩm mà chỉ chấp nhận và sao
chép lại cảm thụ của thầy cô; Giáo viên chỉ thuyết giảng, thỉnh thoảng lại đặt
vào câu hỏi chiếu lệ sẽ không thể nắm bắt được hiệu quả tiếp thu cũng như
quan điểm, thái độ của học sinh. Cảm nhận văn học mang tính chủ quan của
giáo viên không có sự phản hồi từ học sinh sẽ dễ trở thành khiên cưỡng áp đặt;
Giờ đọc văn vì không có sự tương tác qua lại giữa thầy và trò nên dần trở nên
buồn tẻ, nặng nề không hứng thú.
Trước thực trạng ấy, có thể thấy đổi mới phương pháp dạy học là việc
làm cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng đối với việc vực dậy môn Ngữ văn vốn
đang mất dần sức hút đối với học sinh.
Trong những năm qua, ngành giáo dục đã có nhiều cải cách quan trọng
từ giáo dục ở bậc tiểu học cho đến đào tạo đại học và sau đại học. Riêng ở phổ
thông, sự đổi mới thể hiện trên nhiều phương diện, rõ nhất là về chương trình,
sách giáo khoa và đặc biệt là phương pháp dạy học.
Mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông là
thay đổi lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo “phương pháp dạy
học tích cực” nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động,
sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kỹ năng
vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong học tập và thực
tiễn, tạo niềm tin, niềm vui hứng thú trong học tập.
Từ mục đích của đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, tôi xin trao
đổi kinh nghiệm của bản thân về việc áp dụng phương pháp dạy học tích cực
nhằm giúp học sinh phát huy tính sáng tạo trong giờ đọc - hiểu tác phẩm văn
học ở chương trình Ngữ văn 12.
2/ Mục đích nghiên cứu :
Mục đích nghiên cứu đề tài này là góp phần rèn luyện tính sáng tạo cho
các em học sinh. Đồng thời giúp các em tiếp cận tri thức một cách hiệu quả
nhất.
3/ Khách thể và đối tượng nghiên cứu.
+ Khách thể: Học sinh lớp 12A1 Trường THPT số 2 Bát Xát.
+ Đối tượng nghiên cứu: Áp dụng phương pháp dạy học tích cực nhằm
giúp học sinh phát huy tính sáng tạo trong giờ đọc - hiểu tác phẩm văn học ở
chương trình ngữ văn 12.
4/ Giả thiết khoa học.
Một thực tế cho thấy, chất lượng giáo dục ở các trường THPT hiện nay
chưa đáp ứng mục tiêu đào tạo. Do khả năng nhận thức của cha mẹ học sinh
còn hạn chế, chưa chú trọng đến việc học hành của con cái, nên chưa có ý thức
nhắc nhở, động viên con em mình đến trường, chưa làm cho con em mình thấy
được giá trị của việc học; do các thầy cô giáo áp dụng các phương pháp dạy
học chưa phù hợp, chưa tạo ra được sức hút để học sinh đến trường. Nếu có sự
phối kết hợp tốt giữa gia đình và nhà trường, nếu các thầy cô giáo thực hiện tốt
việc đổi mới PPDH theo hướng tích cực thì chất lượng dạy - học sẽ được nâng
cao lên rõ rệt. Đặc biệt là trường THPT số 2 Bát Xát.
5/ Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Đáp ứng yêu cầu của việc thực hiện đổi mới chương trình SGK và
phương pháp dạy học.
- Thường xuyên áp dụng các phương pháp dạy học tích cực trong các
giờ đọc - hiểu tác phẩm văn học nhằm phát huy tính sáng tạo của học sinh.
- Thực hiện biện pháp tác động nhằm cải tạo thực trạng để nâng cao
chất lượng dạy và học.
6/ Phương pháp nghiên cứu.
Để nghiên cứu đề tài này tôi sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên
cứu sau:
- Các phương pháp nghiên cứu lí thuyết: Đọc sách và tài liệu tham khảo
có liên quan đến đề tài, để khái quát những vấn đề, làm cơ sở cho vệc nghiên
cứu thực tiễn.
- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Phương pháp quan sát sư phạm: Quan sát theo dõi học sinh hoạt động
trong tất cả các giờ đọc - hiểu tác phẩm văn học.
+ Phương pháp An két: Xây dựng một hệ thống câu hỏi ghi trên phiếu bài
tập, tìm hiểu mức độ nhận thức, biểu hiện, nguyên nhân của các em để có
những biện pháp khắc phục.
+ Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Thực nghiệm những biện pháp
nhằm rèn luyện tính chủ động, sáng tạo cho học sinh trong thời gian một học
kì và so sánh kết quả thực nghiệm với kết quả thực trạng ban đầu chưa thực
nghiệm, để đánh giá kết quả của thực nghiệm có thành công hay không.
+ Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động: Phương pháp này sử dụng
trong mỗi tiết học thông qua kết quả của việc áp dụng PPDH tích cực.
+ Phương pháp trò truyện: Trong quá trình dạy học tôi thường xuyên trò
truyện gần gũi với học sinh, trong giờ học hay ngoài giờ học, nhằm tạo cho
học sinh tính tự tin, bạo dạn. Để thăm dò mức độ biểu hiện của từng học sinh,
từ đó lập kế hoạch hướng dẫn rèn luyện cho phù hợp với từng đối tượng học
sinh.
PHẦN II
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
A- CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI.
I. Cơ sở lý luận:
1. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã phân tích và
nhận định sâu sắc thực trạng phương pháp giảng dạy ở nước ta thời gian qua
còn chậm đổi mới, chưa phát huy được khả năng sáng tạo của người học và
yêu cầu đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền
thụ một chiều, rèn luyện thành lối tư duy sáng tạo ở người học.
2. Luật giáo dục của nước CHXHCNVN trong điều 4 (yêu cầu về nội
dung phương pháp giáo dục) cũng chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phải phát
huy tính tích cực tự giác, chủ động, tư duy, sáng tạo ở người học, bồi dưỡng
năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên” (Luật Giáo dục - trang
9 - 1998)
II. Cơ sở thực tiễn:
1. Trong bộ môn văn học ở trường phổ thông trung học nhiều năm nay
thực tế đã có nhiều đổi mới đáng kể nhưng vẫn còn có hiện tượng học sinh học
theo kiểu cũ: đọc thuộc, sao chép, nói lại ý sách vở thầy cô mà không hoặc ít
có sự sáng tạo khi tiếp xúc tác phẩm văn chương.
2. Hiện tượng ít tập trung suy nghĩ, ít tìm tòi ở học sinh phải được khắc
phục dần qua những giờ dạy của giáo viên ở trên lớp và cách học của học sinh.
3. Thị trường sách hiện nay: Sách in ấn nhiều, giảng giải cụ thể tác
phẩm, học sinh mua về chép lại một cách máy móc mà không suy nghĩ, sáng
tạo do đó dẫn đến tình trạng mù kiến thức.
4. Khi tiếp xúc với tác phẩm văn học, học sinh chỉ hiểu theo một chiều,
ít chịu khó phát hiện, vốn từ ngữ nghèo, diễn đạt kém. Vì vậy, không đạt hiệu
quả cao khi cảm nhận tác phẩm văn chương.
B- KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN
I/ Vài nét khách thể nghiên cứu.
Trường THPT số 2 Bát Xát là một trường vùng cao mới được thành lập,
điều kiện thiết yếu để phục vụ cho dạy của giáo viên và học của học sinh còn
nhiều thiếu thốn. Đây lại là nơi tập trung đại đa số đồng bào dân tộc thiểu số
có trình độ dân trí thấp với nếp sống lạc hậu từ bao đời nay. Điều này đã ảnh
hưởng không nhỏ tới việc dạy học của giáo viên và việc học tập của học sinh,
nhất là trong điều kiện kinh tế và việc đổi mới nội dung và phương pháp dạy
học hiện nay. Tuy nhiên, bằng sự nỗ lực và lòng yêu nghề, chúng tôi đã dồn
tâm huyết của mình vào công việc mà ngành đã giao cho với mong muốn làm
cho các em học sinh vùng cao có vốn sống và vốn kiến thức nhất định, để các
em vững bước vào cuộc sống sau này. Để làm được điều đó thì phải phát huy
được tính chủ động, sáng tạo của các em, tạo điều kiện để các em được hoạt
động, từ đó tạo sự ham muốn được đến lớp mà biện pháp hữu hiệu nhất là phải
đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực. Vì thế, GV cần phải linh
hoạt hơn trong quá trình thực hiện đổi mới bằng các biện pháp khác nhau.
II/ Thực nghiệm sư phạm.
1. Mục đích thực nghiệm:
Như ta đã biết, dạy học là một hoạt động có tính nghệ thuật cao đòi hỏi
người thầy phải biết lựa chọn sao cho phù hợp với đối tượng học và với thực
tiễn trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy, trong quá trình giảng dạy trong
nhà trường việc áp dụng phương pháp dạy học tích cực sẽ gặp rất nhiều khó
khăn. Nhưng với trách nhiệm của một người thầy, tôi đã mạnh dạn áp dụng
PPDH tích cực vào trong dạy học với đối tượng là học sinh lớp 12A1 trường
THPT số 2 Bát Xát. Mục đích của việc áp dụng thực nghiệm này là: Rèn luyện
tính chủ động, sáng tạo cho các em học sinh, đồng thời giúp các em tiếp cận
tri thức một cách nhanh nhất.
2. Biện pháp cụ thể:
Như ta đã biết tiếp nhận văn học là một hoạt động nhằm chiếm lĩnh giá
trị tư tưởng, giá trị thẩm mĩ của tác phẩm văn học. Thông qua quá trình đầu
tiên là tiếp xúc, cảm thụ văn bản ngôn từ đến việc cảm nhận, hiểu ra chân giá
trị của hình tượng nghệ thuật và cảm hứng của nhà văn, tài năng diễn tả của
nhà văn để làm nên tác phẩm đó. Và cuối cùng là quá trình kết thúc sự tiếp
nhận ở người đọc qua việc hiểu, rung cảm, có được những rung cảm, những ấn
tượng và chịu ảnh hưởng của tác phẩm, của hình tượng nghệ thuật trong đời
sống cá nhân.
Quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học đã giúp cho con người có được
những thói quen, những tình cảm lành mạnh, những suy ngẫm để tự rèn luyện,
tự điều chỉnh bản thân bởi vì chức năng tiếp nhận văn học không chỉ đơn
thuần là quá trình người đọc tiếp xúc với tác phẩm văn học mà nó còn diễn ra
quá trình nhận thức ở họ khi người đọc và người học có ý thức cao về những
vấn đề trong tác phẩm văn học. Quá trình học văn ở trường THPT đối với lứa
tuổi học sinh chính là quá trình thầy cô giúp các em tiếp xúc tác phẩm, hiểu ra
cái đúng, cái hay của nó và bằng tài năng của mình người thầy phải cảm thụ,
cảm nhận một cách toàn diện để sau đó từng bước đưa HS bước vào tác phẩm
mà phân tích, cảm thụ và hiểu tác phẩm một cách đầy đủ, đúng đắn.
Trong cảm nhận tác phẩm văn học, người đọc phải dùng liên tưởng,
tưởng tượng để hình dung, để hiểu ý đồ, quan niệm nghệ thuật, tư tưởng nhà
văn trong tác phẩm, bởi vì nhà văn đã dùng liên tưởng, tưởng tượng làm
phương tiện, cách thức, thủ pháp nghệ thuật để sáng tác tác phẩm văn học.
Quá trình tiếp xúc, tiếp thu một giờ giảng văn trên lớp của học sinh phải nhờ
ào tài năng, kĩ năng của người thầy qua các thao tác đọc, phân tích, bình giảng,
nhận xét để bằng các giác quan, học sinh có thể hiểu tác phẩm qua hệ thống
ngôn ngữ, hình tượng, các thủ pháp nghệ thuật trong tác phẩm. Sự dẫn dắt của
người thầy rất quan trọng, vì thế thầy muốn dẫn dắt học sinh bước vào khám
phá tác phẩm thì trước hết phải hiểu tác phẩm, thâm nhập vào tác phẩm một
cách tự nhiên, thoải mái và có khả năng phân tích, đánh giá tác phẩm và qua
sự cảm thụ của mình hướng cho học sinh cảm thụ cái hay, chỗ độc đáo của tác
phẩm để từ đó từng bước hiểu ra vấn đề nhà văn đặt ra và giải quyết trong tác
phẩm.
Đề cập đến bản chất của giờ giảng văn, GS Đặng Thai Mai cho rằng:
“giảng văn trước hết là theo dõi trong nếp áng văn tất cả cái tinh vi về tư
tưởng, cái độc đáo về nghệ thuật của một tác giả. Hiểu như vậy giảng văn
trước hết là chỉ ra sự thống nhất giữa hình thức và nội dung, giữa kĩ thuật và
tư tưởng trong một tác phẩm văn chương”( Giảng văn Chinh phụ ngâm -
Đặng Thai Mai - ĐHSPI HN; 1992). Vậy thì muốn chỉ ra sự thống nhất ấy
trong tác phẩm rõ ràng lao động của giáo viên dạy văn vừa phải có tính nghệ
thuật vừa phải có tính sư phạm. Mà tính nghệ thuật của giờ giảng văn tất nhiên
lại phải phụ thuộc vào tài năng của giáo viên và trình độ, khả năng của học
sinh. Như trên đã nói, tiếp xúc với tác phẩm văn chương, học sinh cần có sự
liên tưởng, tưởng tượng phong phú, rõ ràng mới có thể cảm nhận được cái hay
của tác phẩm, cái tài của tác giả. Việc đó theo tôi hoàn toàn phụ thuộc vào khả
năng tiếp thu của học sinh qua tài năng dẫn dắt của giáo viên. Vậy thì việc đầu
tiên theo tôi người thầy dạy văn cần phải làm đó là phải bằng mọi cách tác
động vào tư duy sáng tạo của học sinh trong quá trình tiếp nhận tác phẩm văn
học. Sự tác động ấy có thể bằng nhiều hình thức khác nhau. Có thể đó là giọng
đọc thiết tha diễn cảm khi phân tích tác phẩm trữ tình, giọng đọc hài hước dí
dỏm khi tiếp cận tác phẩm trào phúng, giọng đọc đanh thép mạnh mẽ khi thể
hiện thái độ căm thù, giọng đọc nhẹ nhàng ấm áp khi diễn tả tình cảm yêu
thương hoặc có thể đó còn là một hệ thống câu hỏi phù hợp, đúng lúc gõ vào
trí tuệ học sinh, bắt học sinh phải suy nghĩ, phải căng thẳng chút ít để phán
đoán mở hướng hiểu, cách khai thác vấn đề.
Qua một số năm giảng dạy bộ môn văn ở trường THPT, tôi thấy rằng để
có được một giờ giảng văn trọn vẹn quả thật là khó bởi vì đó là cả một nghệ
thuật. Giờ giảng văn đòi hỏi học sinh phải liên tưởng, tưởng tượng mới có sự
sáng tạo trong phát hiện tìm tòi trong khi đó thời gian rất eo hẹp. Đã thế lớp
học có ít nhất hơn 30 học sinh, thầy chỉ có một mà trò thì quá nhiều, sự liên
tưởng, tưởng tượng không đồng đều ở học sinh. Tất cả chừng ấy yếu tố cũng
đủ để chúng ta hiểu rằng khó có thể cầu toàn đối với một giờ giảng văn. Tuy
nhiên nói như vậy không có nghĩa là chúng ta hoàn toàn không thể có được
những giờ dạy, bài giảng thành công. Với những gì đã làm, đã học tập ở đồng
nghiệp và tiếp xúc với các khoá học sinh, tôi thấy rằng chúng ta có thể giúp
cho học sinh có điều kiện rèn luyện tư duy sáng tạo khi tiếp xúc với tác phẩm
văn chương qua một số vấn đề, một số thao tác sau đây:
1. Trong giờ giảng văn, trước khi giảng giáo viên có thể dùng lời kể
hoặc lời dẫn kết hợp với một số hình ảnh, đoạn phim, bài hát, câu thơ minh
hoạ để tạo tâm thế thoải mái, giúp học sinh có điều kiện thâm nhập được vào
tác phẩm, vào bài dạy một cách hứng thú. Có thể ứng dụng công nghệ thông
tin trong phần giới thiệu về tác giả, tác phẩm, giọng đọc của tác giả, hoặc nghệ
sĩ, một vài hình ảnh minh hoạ hoặc các tài liệu quý hiếm giúp học sinh hiểu
sâu thêm tác phẩm.
Ví dụ:
- Giảng bài “ Ai đã dặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc
Tường, ta có thể dẫn dắt học sinh bằng lời giới thiệu, lời dẫn về con sông
Hương của Huế ở vẻ đẹp tự nhiên, văn hoá, lịch sử; hoặc cho học sinh nghe
đoạn nhạc “Dòng sông ai đã đặt tên?” kết hợp trình chiếu một số hình ảnh về
sông Hương, xứ Huế và hỏi cảm nhận của học sinh về dòng Hương.
- Giảng bài “ Sóng ” của Xuân Quỳnh, ta có thể bắt đầu bằng một đoạn
bài hát về biển, một bài thơ có cùng chủ đề hoặc một trò chơi từ đó gợi dẫn về
vấn đề cơ bản cần tìm hiểu trong tác phẩm.
- Giảng bài “Đàn ghi ta của Lor – ca” có thể cho học sinh khởi động
bằng cách nghe bài hát Cây đàn ghi ta của Lor – ca để tạo tâm thế và để học
sinh cảm nhận được phần nào về Lor – ca. Phần tìm hiểu về hình tượng Lor -
ca có thể trình chiếu một vài hình ảnh biểu tượng cho văn hóa Tây Ban Nha để
học sinh hiểu rõ hơn những hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng, siêu thực
trong bài. Ví dụ: hình ảnh đàn ghi ta, hình ảnh đấu sĩ và bò tót, hình ảnh áo
choàng đỏ gắt, hình ảnh hoa li - la, thiếu nữ di gan…
2. Trong giảng văn, giọng đọc của giáo viên như trên đã nói là rất quan
trọng. Với giọng đọc của mình, giáo viên có thể đã và đang truyền thụ được
cái hồn của tác phẩm cho học sinh. Qua giọng đọc của thầy, học sinh đã có thể
thấy mở ra trong tâm trạng, trong cảm xúc và tư duy những gì cần lĩnh hội.
Đọc đúng, đọc diễn cảm đòi hỏi sự luyện tập công phu của người thầy. Nhiều
đoạn thơ, đoạn văn thầy không cần giảng, bình mà chỉ đọc đã có thể mở ra cho
trò bao nhiêu điều thú vị. Tuy nhiên không chỉ có thầy đọc mà thầy phải có
trách nhiệm tập luyện cho học sinh thói quen đọc đúng, đọc diễn cảm văn bản
bởi vì đầu chính là khâu đầu tiên giúp học sinh cảm nhận tác phẩm văn
chương bằng chính giọng đọc của mình để cảm thụ đúng tác phẩm, cảm thụ
cái hay của tác phẩm thông qua sự ngân vang của nó trong cảm xúc, là yếu tố
quan trọng cho học sinh đến được và dần hiểu tác phẩm văn chương. Một giờ
giảng văn mà cả thầy lẫn trò đều có giọng đọc tốt sẽ truyền được cảm xúc của
mình từ tác phẩm cho học sinh trong lớp.
3. Giáo viên cần xây dựng một hệ thống câu hỏi phù hợp và sử dụng có
hiệu quả. Việc xây dựng hệ thống câu hỏi trong giờ Đọc văn là hết sức cần
thiết. Nó sẽ giúp học sinh tích cực, chủ động tiếp thu, làm chủ kiến thức.
Thậm chí, bằng hệ thống câu hỏi có chất lượng, người thầy có thể khơi gợi sự
sáng tạo của các em, làm cho giờ dạy trở nên hấp dẫn và có hiệu quả hơn rất
nhiều.
* Để giúp các em phát huy tính sáng tạo của mình, trong giờ đọc – hiểu
tác phẩm, giáo viên nên xây dựng, sử dụng hệ thống câu hỏi sáng tạo. Đây là
loại câu hỏi yêu cầu học sinh phải vận dụng suy nghĩ độc lập, kết hợp với khả
năng tư duy chặt chẽ, trên nền tảng kiến thức đã có để tìm tòi, phát hiện ra cái
mới. Loại câu hỏi này mang đặc trưng của một giờ hướng dẫn học sinh cảm
thụ tác phẩm văn chương. Nó đáp ứng đúng đặc thù của bộ môn và phân môn,
tạo cảm hứng cho cả người dạy lẫn người học. Có thể phân ra nhiều kiểu nhỏ
của dạng câu hỏi sáng tạo:
+ Câu hỏi phân tích: Kiểu câu hỏi phân tích yêu cầu học sinh bám sát
các yếu tố của tác phẩm, đi sâu tìm hiểu giá trị nghệ thuật và giá trị nội dung
của tác phẩm.
Ví dụ: Phân tích hình ảnh người lính Tây Tiến được tác giả tập trung
khắc họa ở đoạn thứ ba trong bài thơ Tây Tiến?
+ Câu hỏi dẫn dắt gợi mở: Đây sẽ là câu hỏi mang lại nhiều hiệu quả và
thể hiện rất rõ khả năng sư phạm của người thầy. Từ những chi tiết cụ thể
trong tác phẩm, người thầy sẽ hướng dẫn học sinh huy động khả năng liên
tưởng, tưởng tượng của mình để tự học sinh sẽ phát hiện ra những điều mới
mẻ, khơi gợi ở học sinh sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú từ những gì đã
có trong văn bản.
Ví dụ: Khi tìm hiểu bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh, để chỉ ra được kết
cấu nghệ thuật của bài thơ và thấy được sự tương đồng giữa “sóng” với tâm
hồn người phụ nữ đang yêu, có thể đặt câu hỏi : Giữa sóng và em trong bài
thơ có mối quan hệ như thế nào? Em có nhận xét gì về nghệ thuật kết cấu của
bài thơ? Người phụ nữ đang yêu tìm thấy sự tương đồng giữa các trạng thái
của tâm hồn mình với những con sóng. Hãy chỉ ra sự tương đồng đó.
+ Câu hỏi nêu vấn đề: Đi-xtec-vec nói rằng: “Người giáo viên bình
thường mang chân lí đến cho học trò. Người giáo viên giỏi biết dạy học trò đi
tìm chân lí”. Mà trong thực tế, chân lí nhiều khi ẩn sau những nghịch lí. Ở mỗi
tác phẩm văn chương, đều có những vấn đề, những mâu thuẫn được đặt ra.
Giáo viên giỏi sẽ nắm bắt hoặc tìm cách tạo ra những tình huống có vấn đề để
học sinh chủ động giải quyết.
Ví dụ: Nghệ sĩ Phùng đã chụp bức ảnh con thuyền trên biển sớm mờ
sương từ một cự li rất gần. Hãy lí giải vì sao Nguyễn Minh Châu lại đặt tên
cho tác phẩm của mình là “Chiếc thuyền ngoài xa” ?
*Để phát huy được tính sáng tạo của học sinh, khi xây dựng và sử dụng
hệ thống câu hỏi cần chú ý một số nguyên tắc sau:
- Cần khuyến khích được sự tham gia của tất cả các học sinh trong lớp:
Trình độ học sinh trong một lớp học không thể đồng đều. Tâm lí chung của
người dạy là hay chú ý đến những học sinh thông minh, hăng hái. Và câu hỏi
cũng thường hướng về những em vốn được coi là sáng dạ trong lớp. Như vậy,
những học sinh trung bình hoặc yếu kém thường không có cơ hội để trình bày
ý kiến. Muốn tránh tình trạng này, giáo viên nên chuẩn bị nhiều dạng câu hỏi,
có dễ, có khó. Những câu hỏi khó, nếu cần phải có cả câu hỏi gợi ý để khơi
mở cho học sinh con đường đến với chân lí.
- Không nên yêu cầu học sinh trả lời hoàn toàn theo ý mình: Tác phẩm
văn chương vốn đa thanh đa nghĩa. Với mỗi thời đại, mỗi dân tộc, thậm chí
với mỗi người đọc trong những hoàn cảnh khác nhau, nó lại mang những nét
nghĩa không hoàn toàn trùng lặp. Giáo viên cũng là một kiểu người đọc, có thể
là người đọc lớn tuổi, có kinh nghiệm sống, sự trải nghiệm nhiều hơn so với
người đọc - học sinh. Nhưng cần chú ý một điều, cách hiểu của người thầy về
văn bản văn học không phải là cách hiểu duy nhất đúng. Vậy cần tránh hiện
tượng người dạy cố gắng lái học sinh theo suy nghĩ của mình một cách gò ép,
khiên cưỡng. Điều này vừa phản giáo dục vừa không phù hợp với con đường
tiếp cận cái hay cái đẹp của văn chương phải bằng những rung động thẩm mĩ.
- Biết phân loại các câu trả lời: Đây là những tình huống sư phạm, yêu
cầu giáo viên phải có cách ứng xử hợp lí, khéo léo. Với những câu trả lời hoàn
toàn đúng, hãy khích lệ học sinh bằng một lời khen đúng mức. Các em sẽ cảm
thấy tự tin, thậm chí thấy mình đã thành công. Với những câu trả lời sai, cần
nhạy bén tìm ra nguyên nhân khiến học sinh nhầm lẫn. Nên tiếp tục có định
hướng để các em tìm ra câu trả lời đúng. Cũng cần hết sức quan tâm đến
những câu trả lời ngoài dự đoán.Trong một lớp học, giữa những học sinh bình
thường có thể có những em xuất sắc, năng lực cảm thụ vượt trội. Những học
sinh này có thể đưa ra những câu trả lời bất ngờ, thông minh, ngoài tầm dự
đoán của giáo viên, thậm chí còn gợi mở một hướng khái thác mới cho bài
học. Người thầy không chỉ dạy mà còn học được nhiều điều từ những học sinh
như thế. Trong trường hợp này, cần khuyến khích, khen ngợi, tạo cơ hội cho
các em được phát triển năng lực của mình.
4. Trong giờ giảng văn, để rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh, giáo
viên còn phải cố gắng tập cho học sinh có thói quen rèn luyện và thao tác
những thói quen cần thiết khi chuẩn bị ở nhà và khi học giờ giảng văn ở lớp.
Theo tôi đó có thể là những thói quen sau:
- Thói quen đọc tác phẩm cẩn thận, kỹ càng, đọc đúng đọc, diễn cảm để
tự cảm nhận tác phẩm, đồng thời với việc đọc có suy nghĩ là thói quen gạch
chân và ghi lại những đoạn hay của tác phẩm.
- Thói quen đọc thuộc tác phẩm, ghi nhớ, suy ngẫm tác phẩm, những
câu đoạn mà mình tâm đắc nhất.
- Thói quen liên tưởng, liên hệ với những vấn đề, những tác phẩm khác
có liên quan đến những giá trị cơ bản trong tác phẩm đang học.
- Thói quen lật đi lật lại những vấn đề quan trọng khi cảm nhận phân
tích tác phẩm.
- Thói quen cảm nhận tác phẩm theo nhiều chiều, nhiều khía cạnh
không máy móc thụ động; phải tập trung suy nghĩ, phát hiện những điều mới
lạ ở tác phẩm khi cảm nhận nó qua sự dẫn dắt gợi ý của thầy cô, có nghĩa là
phải có sự cảm nhận của riêng mình.
- Phải biết và có thói quen cảm nhận tác phẩm theo đặc trưng thể loại,
đặc trưng thi pháp.
5. Rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh ở giờ giảng văn không chỉ
dừng lại ở những thao tác trên mà nó còn đòi hỏi ở cả thầy lẫn trò một cách
học, cách dạy hợp lý, khoa học, linh hoạt, không phải bài nào cũng giảng và
liên tưởng theo một cách, không phải tác giả tác phẩm nào cũng một dạng lời
bình mà phải tùy thuộc vào hoàn cảnh, tác phẩm cụ thể để hướng dẫn học sinh
cách cảm thụ, cách phát hiện. Về phía học sinh, theo tôi nếu cầu toàn 100%
học sinh đều cảm thụ tốt tác phẩm văn học bằng tư duy của các em thì khó mà
đạt được. Vì vậy phải tùy đối tượng, tùy năng lực cảm thụ văn học của từng
đối tượng mà hướng dẫn chỉ đạo các em phát hiện sáng tạo phù hợp.
6. Để giúp học sinh có được sự sáng tạo trong giờ giảng văn, giáo viên
nên hướng dẫn cho học sinh đi theo con đường thi pháp học bởi vì thi pháp
học sẽ giúp học sinh hiểu đúng, nhanh chóng phát hiện ra những điểm sáng
thẩm mỹ ở tác phẩm. Muốn vậy, người thầy phải nắm và vận dụng linh hoạt,
vững vàng lý luận thi pháp trong quá trình giảng văn.
Ví dụ: - Với thơ, nên đi từ mạch cảm hứng, cảm xúc của nhân vật trữ
tình hoặc hình tượng trữ tình trong tác phẩm ( Chẳng hạn khi tìm hiểu bài thơ
“ Sóng” của Xuân Quỳnh ta có thể phân tích hình tượng sóng và hình tượng
em; Khi tìm hiểu bài thơ “Đất Nước ” của nguyễn Khoa Điềm ta phân tích
theo mạch trữ tình- chính luận của nhân vật trữ tình trong bài thơ).
- Với văn xuôi, có tác phẩm giảng bằng thi pháp nhân vật, có tác phẩm
giảng bằng thi pháp cốt truyện, tình tiết ( Chẳng hạn khi tìm hiểu tác phẩm “
Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài thì phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật;
khi tìm hiểu tác phẩm “ Ai đã đặt tên cho dòng sông” hoặc “Người lái đò
sông Đà” thì phân tích tác phẩm theo đăc trưng thể loại bút kí, tuỳ bút).
7. Để phát huy sự sáng tạo, tích cực chủ động của học sinh, giáo viên
cần tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, đồng thời vận dụng các
phương pháp, kĩ thuật dạy học mới vào giờ đọc văn, như phương pháp thảo
luận nhóm, giao dự án, kết hợp kĩ thuật khăn trải bàn, mảnh ghép,…v v
3. Minh hoạ đọc - hiểu tác phẩm:
Để tiến hành thực nghệm các vấn đề đã nêu ra, tôi xin chọn một bài học
cụ thể để minh hoạ. Nhưng do thời gian và điều kiện cho nên tôi chỉ tóm tắt
ngắn gọn tiết học với mục tiêu tập trung vào việc áp dụng PPDH tích cực.
Tiết 19,20: Tây Tiến
- Quang Dũng -
I/ Mục tiêu bài học:
1.Kiến thức: Cảm nhận được vẻ đẹp riêng của thiên nhiên miền Tây và hình
ảnh người lính Tây Tiến trong bài thơ; Nắm được những đặc sắc nghệ thuật:
bút pháp lãng mạn, những sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu…
2.Kĩ năng: Rèn kĩ năng phân tích thơ, cảm thụ tác phẩm.
3.Tư tưởng: Giáo dục lòng yêu tn, đất nước; sự trân trọng với những cống
hiến của người lính năm xưa.
II/ Những KNS cơ bản:
1.Giao tiếp: Trình bày, trao đổi về mạch cảm xúc của bài thơ, về giai điệu,
hình tượng người lính Tây Tiến trong bài thơ.
2.Tư duy sáng tạo: phân tích, so sánh, bình luận về vẻ đẹp của bài thơ, về sự
thể hiện hình tượng người lính của bài thơ so với thơ ca CM cùng thời đại.
3.Tự nhận thức về tinh thần yêu nước , ý chí vượt khó của người lính TT, qua
đó tự rút ra bài học cho bản thân.
III/ Chuẩn bị:
GV: SGK, giáo án, tư liệu, hình ảnh minh họa, máy chiếu.
HS : Chuẩn bị bài theo câu hỏi đọc - hiểu.
IV/ Các bước lên lớp:
1. Ổn định tổ chức.
2. Kiểm tra đầu giờ.
3. Tiến trình tổ chức các hoạt động dạy học.
HĐ1: Khởi động
GV cho HS nghe đoạn đầu trong bài hát “Đoàn Vệ quốc quân”: Đoàn vệ
quốc quân một lần ra đi. Toàn thắng vinh quang ghi ngày trở về. Ra đi, ra đi
bảo tồn sông núi. Ra đi, ra đi thà chết chớ lui…
Những lời ca đó cho đến nay vẫn còn âm vang mãi trong lòng người
đọc…
HĐ2: Tìm hiểu chung
1. Tác giả: …
2. Đơn vị Tây Tiến: …
HĐ3: Đọc văn bản:
1.Đọc và giải thích từ khó.
2.Hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ:…
3. Bố cục:…
4. Chủ đề:…
HĐ4: Đọc - hiểu văn bản:
*HS lần lượt được tìm hiểu các nội dung:
1. Khung cảnh thiên nhiên miền Tây và những cuộc hành quân gian khổ của
đoàn quân TT:
2.Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân và cảnh sông nước miền Tây thơ
mộng:
a.Những kỉ niệm đẹp trong đêm liên hoan văn nghệ:
*Ở nội dung này, GV chiếu cho HS xem cảnh đêm liên hoan văn nghệ của bộ
đội có sự tham gia của NDTB (minh họa 1) và ra câu hỏi để HS trả lời:
H. Xem hình ảnh vừa trình chiếu và đọc những câu thơ của QD em hình dung
ntn về đêm liên hoan văn nghệ?
HS trả lời, GV nhận xét và chốt các ý chính:
- Đêm liên hoan hội đuốc hoa: tưng bừng, sôi nổi.
+ Ánh sáng lung linh của đuốc.
+ Âm thanh réo rắt của tiếng khèn.
+ Con người duyên dáng, tình tứ.
- Cảnh tượng đó khiến cho tâm hồn người lính ngây ngất, rạo rực.
Thể hiện tình quân dân thắm thiết.
b.Cảnh sông nước miền Tây thơ mộng:
GV trình chiếu hình ảnh sông nước miền Tây (minh họa 2) và ra câu hỏi:
H. Em hình dung ntn về cảnh sông nước miền Tây qua hình ảnh minh họa và
những câu thơ này?
HS trả lời, GV nhận xét và chốt các ý chính:
- Không gian, thời gian: dòng sông trong một buổi chiều sương .
- Cảnh vật: Sông nước, bến bờ lặng tờ, hoang dại như thời tiền sử.
- Con người: Nổi bật lên hình ảnh, dáng điệu mềm mại, uyển chuyển
của cô gái trên chiếc thuyền độc mộc.
- Những bông hoa rừng “đong đưa” làm duyên bên dòng nước lũ.
Gợi cho người đọc một cảm giác mênh mang, mờ ảo về một cảnh
đẹp hoang dã, nên thơ mang đậm hồn xứ sở .
3.Hình ảnh người lính Tây Tiến:
GV trình chiếu hình ảnh người lính, ra câu hỏi để học sinh thảo luận nhóm
bàn. (Tìm hiểu nội dung + tích hợp giáo dục kĩ năng sống).
H. Hình ảnh người lính TT hiện lên trong bài thơ như thế nào (bề ngoài, dáng
vẻ, p/c…)? Qua sự phân tích em đánh giá như thế nào về hình tượng này, liên
hệ về tác dụng giáo dục đối với thế hệ trẻ ngày nay?
HS thảo luận bàn (3P) trả lời câu hỏi theo sự gợi dẫn của giáo viên, kết hợp
liên hệ về tác dụng giáo dục. GV chốt các ý chính:
*Hình ảnh những người lính TT được hiện lên với một vẻ đẹp đậm chất bi
tráng:
- Bề ngoài: không mọc tóc, xanh màu lá không gợi sự tiều tuỵ mà gợi
nên dáng vẻ oai hùng, dũng mãnh.
- Điều kiện sống, chiến đấu hết sức gian khổ: “áo bào thay chiếu…”
- Vẻ đẹp tâm hồn:
+ Họ là những chàng trai hào hoa, lãng mạn,lạc quan, yêu đời.
“Mắt trừng….kiều thơm”
+ Có lí tưởng cao đẹp, quyết tâm xả thân vì tổ quốc.
"Rải rác biên cương…
…độc hành"
Tiểu kết: Với bút pháp lãng mạn , hiện thực và giọng điệu trang trọng; với sự
kết hợp hài hoà giữa cái bi và cái hùng, tác giả QD đã xây dựng thành công
bức tượng đài nghệ thuật về người lính Tây Tiến với vẻ đẹp lãng mạn, đậm
chất bi tráng
4.Lời thề gắn bó của người lính TT:
HĐ5: Kết thúc đọc hiểu:
HĐ6: Củng cố - hướng dẫn học bài:
III. Kết quả thực hiện:
Trong học kì I, năm học 2011 - 2012, tôi đã áp dụng các giải pháp trên
trong một số bài giảng văn ở lớp 12ª1 để không ngừng góp phần rèn luyện,
khơi gợi khả năng sáng tạo ở các em học sinh. Thực tế qua các giờ dạy tôi thấy
HS đã kích thích được khả năng học tập sáng tạo, tích cực, chủ động, say mê
tìm hiểu kiến thức mới một cách có hiệu quả. Giờ học sôi nổi, hấp dẫn và có
hiệu quả hơn.
Bảng số liệu.
Kết quả
Trước thực nghiệm Sau thực nghiệm
Số lượng % Số lượng %
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
00
15
14
03
00
46,9%
43,8%
9,3%
01
19
10
02
3,1%
59,4%
31,3%
6,2%
Qua bảng số liệu trên, ta có thể thấy sau thực nghiệm chất lượng học tập
của học sinh được nâng lên rõ rệt. Cụ thể số học sinh khá giỏi tăng, học sinh
trung bình, yếu giảm đáng kể. Điều đó cho thấy đề tài bước đầu mang tính khả
thi.
PHẦN BA: KẾT LUẬN
Góp phần khơi gợi và rèn luyện sự sáng tạo cho học sinh trong giờ đọc
- hiểu là công việc thường xuyên và cần thiết ở tất cả các môn học. Tuy nhiên
ở bộ môn văn các đặc thù của nó vẫn là sự sáng tạo dựa trên sự đồng cảm, sự
cảm nhận của người học qua người dạy văn và văn bản ngôn từ trong tác
phẩm. Sự sáng tạo trong văn chương không hề có sự giống nhau bởi sự liên
tưởng, tưởng tượng ở mỗi người khác nhau, tuy vậy vẫn có chỗ giống nhau
trong tiếp nhận tác phẩm văn học giữa các đối tượng: tác giả - người dạy -
người học. Theo tôi để có sự gặp nhau ấy, cả người dạy và người học phải có
một trường liên tưởng, một sự tưởng tượng phong phú, linh hoạt để từ đó
người dạy có thể đưa người học vào tác phẩm bằng hệ thống các câu hỏi,
bằng lời bình, cách đọc, lời phân tích và người học tiếp nhận tác phẩm bằng
quá trình tích luỹ từ ngữ, vốn hiểu biết và khả năng cảm nhận được tác phẩm
văn chương để lĩnh hội từ người dạy những gì tâm đắc nhất, đồng thời mở
rộng tầm hiểu biết, suy nghĩ trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Học sinh nhớ nhiều, học
nhiều là điều đáng khuyến khích nhưng đó quyết không phải là điều chủ yếu.
Điều chủ yếu là dạy học sinh cách suy nghĩ sáng tạo. Chúng ta phải xem lại
cách giảng dạy văn trong trường phổ thông của chúng ta, không nên dạy như
cũ bởi vì dạy như cũ thì không những việc dạy văn không hay mà việc đào tạo
con người cũng không có kết quả. Vì vậy dứt khoát chúng ta phải có cách dạy
khác, phải dạy cho học sinh biết suy nghĩ, suy nghĩ bằng trí óc của mình và
diễn tả suy nghĩ đó theo cách của mình thế nào cho tốt nhất”. Thiết nghĩ dạy
học sinh biết suy nghĩ sáng tạo trong giờ đọc văn là điều cần thiết. Tôi mong
rằng đề tài của tôi sẽ góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy, đáp ứng nhu cầu
đổi mới của giáo dục nước nhà. Song đó mới chỉ là ý kiến chủ quan của riêng
cá nhân tôi. Vì thế, rất mong được sự đóng góp ý kiến của các đồng chí đồng
nghiệp để đề tài được hoàn chỉnh.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Rèn luyện tư duy sáng tạo trong giảng dạy văn chương.
( Nguyễn Trọng Hoàn - NXBGD 2001)
2. Đổi mới giảng dạy văn trong nhà trường.
( ĐHSP Huế - 2002)
3. Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THPT môn Ngữ văn.
( Nguyễn Hải Châu – NXBGD 2007)
4. Kĩ năng đọc – hiểu văn bản Ngữ văn 12.
(Nguyễn Kim Phong – NXBGD 2009)
5. Ngữ văn 12 ( sách giáo viên chỉnh lý hợp nhất năm 2008- NXBGD)
6/ Tài liệu bồi dưỡng đổi mới nội dung và phương pháp dạy học qua các đợt
bồi dưỡng hè./.
HÕt
Cảnh đêm liên hoan văn nghệ (Minh họa 1)
Cảnh sông nước mây trời Tây Bắc thơ mộng (Minh họa 2)
“Ngêi ®i Ch©u Méc chiÒu s¬ng Êy.
Cã thÊy hån lau nÎo bÕn bê”
“Cã nhí d¸ng ngêi d¸ng ngêi trªn ®éc mé
c
Tr«i dßng níc lò hoa ®ong ®a”.