1
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Hình 1: Mô hình ABC hai chiều 11
Hình 2: Chi phí từ sổ cái đến chi phí theo hoạt đông 14
Hình 3: Cơ cấu chi phí 23
Hình 4: Bảng phân bổ chi phí 28
Hình 5: Các thước đo sự thực hiện trong trung tâm hoạt động hoàn thiện sản phẩm
35
2
LỜI MỞ ĐẦU
Kế toán là một bộ phận cấu thành trong hệ thống công cụ quản lí kinh tế, tài
chính, có vai trò tích cực trong việc quản lí điều hành và kiểm soát các hoạt động
kinh tế tài chính, tổ chức thông tin hữu ích trong các quyết định kinh tế. Vì vậy, kế
toán không chỉ có vai trò quan trọng đối với hoạt động tài chính nhà nước mà còn
với tài chính doanh nghiệp của mọi thành phần kinh tế. Một trong những bộ phận
quan trọng của kế toán là kế toán chi phí - giá thành. Nó được tách ra từ kế toán quản
trị và kế toán tài chính nhằm đảm bảo nhu cầu thông tin chi phí trong hoạt động sản
xuấtt kinh doanh, bao gồm cung cấp thông tin nhanh cho kế toán quản trị phục vụ cho
các quyết định quản trị trong nội bộ doanh nghiệp và cung cấp thông tin chi phí sản
xuất cho việc tổng hợp công bố công khai cho tình hình tài sản, giá vốn, lợi nhuận
cho các đối tác bên ngoài. Tuỳ theo điều kiện cụ thể và nhu cầu thông tin ở mỗi
doanh nghiệp mà giai đoạn tập hợp chi phi sẽ được tiến hành theo những phương
pháp khác nhau, ứng dụng những kĩ thuật phân tích khác nhau.
Ngày nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật và môi
trường kinh tế, các doanh nghiệp đang phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng tăng
trên thị trường. Để thành công trong môi trường này, họ phải thích ứng nhanh và tạo
ra những sản phẩm với chi phi thấp và có chất lượng cao. Đồng thời với sự phát triển
3
đó, kế toán chi phi- giá thành cũng tiến triển không ngừng từ phương pháp truyền
thống đến các phương pháp hiện đại như: phương pháp chi phí mục tiêu, phương
pháp tính chi phí- giá thành theo hoạt động...
Trong các phương pháp đó, phương pháp hạch toán chi phí và giá thành theo
hoat động (Activity Based Cost) là phương pháp tập hợp và phân bổ chi phí vào giá
thành sản phẩm dựa trên mối quan hệ nhân quả giữa chi phí - hoạt động - sản phẩm.
Đây là phương pháp cung cấp thông tin giá thành chính xác và hợp lý, chức năng của
kế toán quản trị được thực hiện một cách thống nhất và có hiệu quả trong điều kiện
thị trường luôn biến động, nâng cao lợi thế cạnh tranh và hiệu quả công tác quản lý
doanh nghiệp.
Chính vì vậy, bài nghiên cứu khoa học của chúng tôi có đề tài: "Hạch toán chi
phí và tính giá thành theo hoạt động - thực trạng và giải pháp vận dụng trong các
doanh nghiệp Việt Nam" để góp phần giúp các nhà quản trị tiếp cận với các phương
pháp tính chi phi mới. Từ đó, có thể định hướng vận dụng cho phù hợp nhất với
doanh nghiệp của mình. Bài nghiên cứu của chúng tôi gồm 3 phần:
Chương I. Cơ sở lí luận của hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành
theo hoạt động.
Chương II. Kinh nghiệm vận dụng phương pháp hạch toán chi phi theo hoạt
động của một số nước trên thế giới
Chương III. Phương hướng và giải pháp vận dụng mô hình hạch toán chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo ABC trong các doanh nghiệp Việt Nam
4
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HẠCH TOÁN CHÍ PHÍ SẢN
XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH THEO HOẠT ĐỘNG.
I. KHÁI NIỆM CHI PHÍ VÀ YÊU CẦU QUẢN LÍ CHI PHÍ:
1. Khái niệm chi phí:
1.1. Khái niệm:
Thuật ngữ chi phí có từ thời trung cổ (từ thế kỉ V sau công nguyên) từ đó cho đến
nay người ta vẫn quan niêm chi phí như là những hao phí phải bỏ ra để đổi lấy sự thu
về.
Hiện tại cũng có nhiều khái niệm khác nhau về chi phí.
Xét dưới góc độ kế toán, theo chuẩn mực kế toán Việt Nam – Chuẩn mực số 01
“Chuẩn mực chung”: Chi phí là tổng giá trị các khoản làm giảm lợi ích kinh tế trong
kì kế toán dưới hình thức các khoản tiền chi ra, các khoản khấu trừ tài sản hoặc phát
sinh các khoản nợ dẫn đến làm giảm vốn chủ sở hữu, không bao gồm khoản phân
phối cho các cổ đông hoặc chủ sở hữu.
Theo quan điểm của các trường đại học khối kinh tế: chi phí của doanh nghiệp
được hiểu là toàn bộ các hao phí về lao động sống, lao động vật hoá và các chi phi
cần thiết khác mà doanh nghiệp phải chi ra trong quá trình hoạt động kinh doanh,
biểu hiện bằng tiền và tính cho 1 thời kì nhất định.
Các khái niệm trên đây tuy có khác nhau về cách diễn đạt, về mức độ khái quát
nhưng đều thể hiện bản chất của chi phí là nhữmg hao phí phải bỏ ra để đổi lấy sự thu
về, có thể thu về dưới dạng vật chất, có thể định lượng được, hoặc dưới dạng tinh
thần hay dịch vụ được phục vụ.
1.2 Phân loại chi phí
Có rất nhiều cách phân loại chi phí ở đây chúng tôi chỉ nêu hai cách thức phân chia
phổ biến
* Phân theo chức năng hoạt động:
5
- Chi phí sản xuất là toàn bộ chi phí phát sinh tại phân xưởng (bộ phận) sản xuất có
liên quan đến việc chế tạo sản phẩm trong một kì nhất định. Chi phí sản xuất bao gồm
3 khoản mục chi phí sau dây:
+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
+ Chi phí lao động trực tiếp
+ Chi phí sản xuất chung
- Chi phí ngoài sản xuất là những khoản chi phí của doanh nghiệp phải chi để thực
hiện việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, cung cấp dịch vụ và chi cho bộ máy quản lí
doanh nghiệp. Chi phí ngoài sản xuất được chia làm 2 loại:
+ Chi phí bán hàng
+ Chi phí quản lí doanh nghiêp
- Chi phí thời kì và chí phí sản phẩm:
+ Chi phí thời kì bao gồm những khoản chi phí phát sinh trong kì hạch toán, là
những chi phí trực tiếp làm giảm lợi tức trong kì.
+ Chi phí sản phẩm bao gồm các chi phí gắn liền với các sản phẩm được sản
xuất ra hoặc mua vào để bán lại.
* Phân theo cách ứng xử của phí
- Biến phí (variable costs) là những khoản mục chi phí có quan hệ tỷ lệ thuận với
biến động về mức độ hoạt đông. Xét về tính chất tác động, biến phí chia làm 2 loại:
+ Biến phí tỷ lệ (true variable costs) là những khoản chi phí có quan hệ tỷ lệ
thuân trực tiếp với biến động của mức độ hoạt động căn cứ như chi phí nguyên vật
liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp...
+ Biến phí cấp bậc (step variable costs) là những khoản chi phí chỉ thay đổi khi
mức độ hoạt động thay đổi nhiều và rõ ràng như chi phí lao động gián tiếp, chi phí
bảo trì...
6
- Định phí (fixed costs) là những khoản chi phí không biến đổi khi mức độ hoạt động
thay đổi.
- Chi phí hỗn hợp (mixed cots) là chi phí mà bản thân nó bao gồm cả các yếu tố biến
phí lẫn định phí.
2. Yêu cầu quản lí chi phí
Một doanh nghiệp không thể tồn tại nếu thiếu công tác quản trị doanh nghiệp.
Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu điều hành và quản lí một cách có hiệu quả trong hoạt
động kinh doanh, công tác quản trị doanh nghiệp đòi hỏi một lượng thông tin rất lớn
từ kế toán quản trị. Một trong những thông tin quan trọng đối với các nhà quản lí
doanh nghiệp là các thông tin về chi phí, vì mỗi khi chi phí tăng thêm sẽ có ảnh
hưởng trực tiếp đến lợi nhuận. Nhu cầu thông tin chi phí, đặc bịêt là thông tin chi phí
sản xuất luôn gia tăng về tốc độ, tính linh hoạt, chính xác để phục vụ các quyết định
kinh tế, liên quan đến giá trị thành phẩm, giá vốn, giá bán, lợi nhuận, hoàn thiện định
mức chi phí của các nhà quản trị trong doanh nghiệp. Công tác tính phí không chỉ là
một bộ phận của kế toán quản trị mà còn là cơ sở cho việc thực hiện các chức năng
khác. Do vậy, các nhà quản lí cần kiểm soát chặt chẽ chi phí của doanh nghiệp để có
những thông tin về chi phí đầy đủ, chính xác và được cập nhật. Ngày nay với những
tiến bộ kỹ thuật, phương thức quản lý sản xuất kinh doanh, sự toàn cầu hoá kinh tế,
mở rộng phạm vi cạnh tranh thì sự tăng nhanh nhu cầu, tính tốc độ, tính linh hoạt,
tính chính xác của thông tin chi phí ngày càng đặt ra bức thiết hơn trong điều hành
doanh nghiệp. Đây cũng chính là mục tiêu kế toán chi phí, là tiền đề để tách kế toán
chi phí thành bộ phận, chuyên ngành kế toán riêng trong hệ thống kế toán của doanh
ngiệp sản xuất nhằm đáp ứng tốt hơn các mục tiêu sau:
- Cung cấp thông tin chi phí, giá thành để phục vụ cho việc xác định giá thành
phẩm tồn kho, giá vốn, giá bán, lợi nhuận của các quyết định quản trị sản xuất,
định hướng kinh doanh, thương lượng với khách hàng, điều chỉnh tình hình sản
xuất theo thị trường.
7
- Cung cấp thông tin chi phí và giá thành sản phẩm để phục vụ tốt hơn quá trình
kiểm soát chi phí đảm bảo tính tiết kiệm, hiệu quả và gia tăng năng lực cạnh
tranh.
- Cung cấp thông tin chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, phục vụ tốt hơn cho
việc xây dựng hoàn thiện hệ thống định mức chi phí.
II. HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH THEO
PHƯƠNG PHÁP TRUYỀN THỐNG
1. Các phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành truyền
thống.
1.1. Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành theo chi phí thực tế
Kế toán chi phí sản xuất thực tế, nghĩa là các yếu tố đầu vào của chi phí sản
xuất phải tính và hạch toán ngay từ đầu theo chi phí phát sinh thực tế.
Trong hệ thống kế toán hiện hành của chúng ta hiện nay chú trọng phần lớn
là kế toán chi phí sản xuất thực tế và cuối kỳ mới tính được giá thành sản phẩm.
Các doanh nghiệp SX nước ta thường lập giá thành định mức đơn vị sản phẩm
ứng với một mức sản xuất nhất định, không linh hoạt theo nhiều mức độ sản xuất
khác nhau. Điều này gây khó khăn cho nhà doanh nghiệp trong việc định ra giá
bán cạnh tranh, giá bỏ thầu … tại một thời điểm bất kỳ trong kinh doanh.
Việc tập hợp chi phí, phương pháp này cũng tập hợp theo các khoản mục, gồm
có chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất
chung.
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp hầu như có
thể tính ngay được do các chứng từ nội bộ công ty cung cấp, như các phiếu yêu cầu
nguyên vật liệu, lệnh sản xuất, phiếu thời gian ...
- Quá trình tập hợp, tính toán chi phí sản xuất chung thực tế thông thường
cuối kỳ (cuối tháng) mới xác định được. Chi phí sản xuất chung phụ thuộc chủ yếu
vào các chứng từ bên ngoài như hóa đơn tiền điện, nước, điện thoại, chất đốt, …
8
các hóa đơn này đến cuối kỳ các nhà cung cấp mới tính và báo cho doanh nghiệp
hoặc có thể đầu kỳ sau mới gửi cho doanh nghiệp.
Để tính nhanh giá thành sản phẩm, nhân viên kế toán cần phải có thông tin
chính xác 3 khoản mục chi phí, trong đó chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí
nhân công trực tiếp dễ dàng xác định, còn chi phí sản xuất chung thì khó khăn hơn,
thường công ty phải ước tính chi phí sản xuất chung, do đó việc tính toán chi phí
có thể không phản ánh đúng mức độ phát sinh.
1.2. Hạch toán CPSX theo chi phí thực tế kết hợp với chi phí dự toán
Kế toán chi phí sản xuất theo chi phí thực tế kết hợp với chi phí SX chung dự
toán, nghĩa là hai yếu tố đầu vào nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công
trực tiếp phải tính và hạch toán ngay từ đầu theo chi phí phát sinh thực tế, còn chi
phí sản xuất chung được ước tính phân bổ theo tiêu thức cố định để tính giá thành
sản phẩm kịp thời, cuối kỳ điều chỉnh lại khi tập hợp đầy đủ chi phí sản xuất chung
thực tế.
Ưu điểm của cách tính này là cung cấp nhanh giá thành đơn vị sản phẩm ứng
với nhiều mức độ sản xuất khác nhau tương đối gần đúng với giá thành thực tế tại
bất kỳ thời điểm nào mà không cần đợi đến cuối kỳ, giúp nhà doanh nghiệp có
quyết định kịp thời trong kinh doanh. Nếu có thông tin này thì doanh nghiệp sẽ có
khả năng định một giá cạnh tranh để được hợp đồng và tăng thị phần trong thị
trường. Ngoài ra, trong lĩnh vực sản xuất máy móc thiết bị hạng nặng hoặc trang bị
quốc phòng, có rất nhiều công việc hoặc hợp đồng mà doanh nghiệp chỉ dành được
bằng cách đấu thầu. Doanh nghiệp cần có giá thầu hợp lý đủ sức cạnh tranh với các
doanh nghiệp khác, đồng thời mang lại lợi nhuận hợp lý cho doanh nghiệp.
1.3. Hạch toán chi phí và tính giá thành theo định mức
Là phương pháp dựa vào việc phân tích giá thành sản phẩm qua các kỳ để ước
lượng giá thành sản phẩm trong kỳ. Chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công trực
tiếp được tính dựa trên sản lượng ước tính và định mức chi phí đơn vị, chi phí sản
9
xuất chung được ước tính và phân bổ theo tiêu thức cố định. Phương pháp này giúp
cho doanh nghiệp chủ động trong cách tính giá thành, định giá bán sản phẩm
nhanh chóng kịp thời, nhưng cách tính này độ chính xác thấp do thị trường thường
xuyên biến động và giá nguyên vật liệu thay đổi liên tục...
2. Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp truyền thống
Nhìn chung các phương pháp truyền thống có các ưu nhược điểm sau:
Ưu điểm:
- Đơn giản nên tương đối dễ sử dụng.
- Chi phí quản lý thấp.
Nhược điểm:
- Việc phân bổ chi phí sản xuất chung theo tiêu thức cố định như vậy không chính
xác vì chi phí chung bao gồm nhiều khoản mục có bản chất khác nhau, có vai trò và
tham gia với mức độ khác nhau vào quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
VD: Chi phí khấu hao máy móc, chi phí khởi động dây truyền sản xuất, chi phí
nghiên cứu phát triển sản phẩm không tỷ lệ thuận với chi phí nhân công trực tiếp.
Do đó áp dụng một tiêu thức phân bổ cố định cho toàn bộ chi phí chung khiến
cho giá thành thực tế của sản phẩm bị phản ánh sai lệch.
- Trong phương pháp kế toán chi phí truyền thống khái niệm giá thành sản
phẩm chỉ được hiêủ theo nghĩa hẹp là “giá thành sản xuất”, các chi phí gián tiếp như
chi phí quản lý, chi phí bán hàng không được tính vào giá thành sản phẩm. Nhưng
trên thực tế các doanh nghiệp khi tính “giá thành toàn bộ” có phân bổ chi phí quản lý
và chi phí bán hàng vào giá thành sản phẩm. Tuy nhiên tiêu thức phân bổ thường dựa
trên sản lượng tiêu thụ, tức là cũng không phù hợp như phân tích ở trên. Ngoài ra
trong các phân tích có sử dụng thông tin về giá thành sản phẩm thì các doanh nghiệp
thường sử dụng giá thành sản xuất chứ không sử dụng giá thành toàn bộ.
10
III. HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH THEO HOẠT
ĐỘNG
1. Bản chất của hạch toán chi phí theo hoạt động
Khái niệm ABC (Activity-Based Costing) là phương pháp đo lường chi phí của từng
đối tượng tính phí và sự thực hiện các hoạt động dựa trên mối quan hệ nhân quả giữa
chi phí - hoạt động - đối tượng tính phí.
Một số khái niệm liên quan:
- Hoạt động (Activity): Là một sự kiện hoặc một nghiệp vụ gây ra sự phát sinh chi
phí trong doanh nghiệp. Quá trình sản xuất sản phẩm và cung ứng dịch vụ của doanh
nghiệp thực chất là sự hợp thành một cách có hệ thống, có tổ chức của nhiều hoạt
động khác nhau.
- Nguồn phát sinh chi phí hay kích tố chi phí (Cost driver): Là một nhân tố, một
khía cạnh của hoạt động có thể định lượng được và gây ra sự phát sinh chi phí. Một
hoạt động có thể được xem xét theo nhiều khía cạnh khác nhau nhưng chỉ những khía
cạnh nào gây ra sự phát sinh chi phí và có thể định lượng được mới có thể được coi là
nguồn phát sinh chi phí. Có thể một hoạt động có nhiều kích tố chi phí ta sẽ chọn lấy
một kích tố chi phí điển hình nhất để làm tiêu thức phân bổ chi phí hoạt động đó đến
từng đối tượng tính phí.
Quản điểm ABC cho rằng:
Doanh nghiệp là một chuỗi các hoạt động liên tục được kết nỗi với nhau nhằm thực
hiện các công việc, nhiệm vụ, mục tiêu xác định.
Các hoạt động tiêu dùng nguồn lực.
Đối tượng tính phí tiêu dùng các hoạt động.
2. Mô hình hạch toán chi phí theo hoạt động (ABC)
Nhiều người thực hành ABC cho rằng ABC có thể tận dụng các cơ chế tiêu
chuẩn tương tự như cách tiếp cận ghi kép vào sổ cái tổng hợp. Thực tế, ABC đòi
hỏi một mức độ chiến lược, khả năng phân tích và cách suy nghĩ theo hệ thống để
11
có thể thực hiện hiệu quả. Thiết kế hệ thống thay đổi tuỳ theo từng ngành, loại hình
kinh doanh, theo đặc điểm kinh doanh của mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế. Chi
phí được xem xét trong mô hình ABC có thể chỉ là chi phí sản xuất chung hoặc có
thể mở rộng thêm cả các chi phí ngoài sản xuất và chi phí lao động trực tiếp( chi
phí nguyên vật liêu trực tiếp thường không được đem vào xem xét trong ABC vì
chi phí này có thể tập hợp trực tiếp đến từng sản phẩm và kế toán tài chính có thể
theo dõi nó một cách đơn giản)
Robin Cooper, Robert Kaplan và H. Thomas Johnson là những người đầu tiên đưa ra
phương pháp ABC. Phương pháp này đã ra đời từ cuối thế kỉ 19 nhưng phải đến
những năm 1980 cùng với sự phát triển của máy tính cá nhân và mối quan tâm đặc
biệt đối với chi phí gián tiếp mới mang đến một loạt các bài nghiên cứu và thử
nghiệm. Ban đầu ABC chỉ dùng để tính phí về sau người ta còn sử dụng mô hình
ABC để quản lý hoạt động.
Dưới đây nhóm nghiên cứu khoa học xin trình bày mô hình ABC đầy đủ với cả hai
chức năng tính phí và quản lý hoạt động.
NGUỒN LỰC
HOẠT ĐỘNG
Tiêu thức nguồn lực
Tiêu thức
hoạt động
CHỈ TIÊU ĐO LƯỜNG HOẠT ĐỘNG
TIÊU THỨC CHI PHÍ
12
ĐỐI TƯỢNG
TÍNH PHÍ
Hình 1: Mô hình ABC hai chiều
Chiều dọc: Là cách tiếp cận mô hình ABC theo quan điểm tính phí.
Bước 1: Phân bổ chi phí từ nguồn lực đến hoạt động dựa trên các tiêu thức phân
bổ thích hợp gọi là tiêu thức nguồn lực.
Tiêu thức nguồn lực là chỉ tiêu phản ánh số lượng và khối lượng nguồn lực được
tiêu dùng bởi một hoạt động cụ thể.
Ví dụ : tỉ lệ diện tích nhà xưởng dùng để xác định phần chi phí khấu hao nhà xưởng
cho các hoạt động diễn ra trong cùng nhà xưởng đó.
Bước 2: Phân bổ chi phí từ hoạt động đến đối tượng tính phí dựa trên các tiêu
thức thích hợp gọi là tiêu thức hoạt động.
Tiêu thức hoạt động là chỉ tiêu đo lường tần số và cường độ các yêu cầu cầu mà
đối tượng tính phí đặt lên các hoạt động.
Ví dụ: số lượng các đơn đặt hàng (đo lường sự tiêu dùng các hoạt động tiếp nhận và
xử lý đơn đặt hàng) là tiêu thức hoạt động dùng để phân bổ chi phí của hoạt động tiếp
nhận và xử lý đơn đặt hàng đến từng khách hàng.
Chiều ngang: Là cách tiếp cận mô hình ABC theo quan điểm quản lý hoạt động.
Theo quan điểm này hoạt động là một trung tâm công việc động. Muốn quản lý được
hoạt động trước tiên phải xác định được nhân tố khiến hoạt động tiêu dùng nguồn lực,
ta gọi là tiêu thức chi phí, để từ đó có các biện pháp tác động vào các tiêu thức đó
làm giảm chi phí cho các hoạt động. Trong và sau mỗi nỗ lực thực hiện hoạt động
người ta lại đo lường kết quả bằng các chỉ tiêu đo lường hoạt động . Khi có các thông
tin đầy đủ chính xác về hoạt động , tiêu thức chi phí, chỉ tiêu đo lường hoạt động sẽ
13
giúp các nhà quản trị đưa ra các quyết định đúng đắn cắt giảm chi phí và nâng cao
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
3. So sánh phương pháp ABC với phương pháp truyền thống
Khác với phương pháp truyền thống, phương pháp ABC tập hợp toàn bộ chi phí
gián tiếp trong quá trình sản xuất được tập hợp trên các tài khoản chi phí chung của
kế toán tài chính, sau đó phân bổ các chi phí theo hoạt động này vào từng sản phẩm,
dịch vụ tạo ra hoạt động đó theo các tiêu thức phân bổ thích hợp như: số giờ máy hoạt
dộng, số giờ công lao động trực tiếp… Khoản chi phí gián tiếp này được phân bổ vào
giá thành sản xuất cùng với chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực
tiếp. Các chi phí khác như: chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp được coi
như chi phí thời kỳ không phân bổ cho sản phẩm hoặc được phân bổ cho sản phẩm
theo thời gian lao động của công nhân trực tiếp hoặc chi phí nhân công trực tiếp. Nếu
phân bổ ta sẽ có chỉ tiêu giá thành toàn bộ.
Tóm lại về cơ bản phương pháp ABC khác với phương pháp truyền thống ở hai
điểm:
Thứ nhất, giá thành sản phẩm theo ABC bao gồm toàn bộ các chi phí phát sinh
trong kỳ, kể cả các chi phí gián tiếp như chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh
nghiệp.
Thứ hai, phương pháp ABC phân bổ chi phí phát sinh vào giá thành mỗi sản
phẩm dựa trên mức chi phí thực tế cho mỗi hoạt động và mức độ đóng góp của mỗi
hoạt động vào quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Mô hình chi phí truyền thống chỉ tập trung vào lãi gộp của doanh nghiệp nên chỉ
tính phí cho các đầu ra cơ bản của doanh nghiệp là sản phẩm, dịch vụ. Nguồn lực
được phân bổ trực tiếp đến các sản phẩm thông qua các tiêu thức đơn lẻ và thường
không có mối quan hệ nhân quả trực tiếp. Ngược lại ABC lại cho ta tìm hiểu bản chất
của quá trình phân bổ chi phí này. Vì thế ABC đã đặt trọng tâm vào theo dõi các hoạt
động diễn ra trong doanh nghiệp.
14
Phương pháp ABC cung cấp thông tin giá thành chính xác và hợp lý hơn so với
phương pháp kế toán chi phí truyền thống.
Như trình bày ở trên, do tỷ trọng chi phí gián tiếp ngày càng lớn, việc không
phân bổ các chi phí này vào giá thành sản phẩm có thể dẫn tới những ngộ nhận về
mức lợi tức sản phẩm và do đó sai lầm trong ra quyết định kinh doanh. Ví dụ, một sản
phẩm mới có thể có giá thành công xưởng nhỏ hơn các sản phẩm hiện tại, nhưng đòi
hỏi một khoản chi phí marketing lớn để đưa ra thị trường. Nếu chỉ căn cứ vào giá
thành công xưởng thì có thể thấy sản xuất sản phẩm đó sẽ mang lại lợi nhuận cao
hơn, nhưng nếu phân bổ đủ cả chi phí marketing tăng thêm thì có thể sản phẩm đó sẽ
bị lỗ.
Cùng với việc phân bổ toàn bộ các chi phí vào giá thành sản phẩm, phương pháp
ABC sử dụng một hệ thống các tiêu thức phân bổ được xây dựng trên cơ sở phân tích
chi tiết mối quan hệ nhân quả giữa chi phí phát sinh cho từng hoạt động và mức độ
tham gia của từng hoạt động vào quá trình sản xuất và kinh doanh sản phẩm, thay vì
chỉ sử dụng một tiêu thức phân bổ (ví dụ chi phí nhân công trực tiếp) như phương
pháp truyền thống. Các tiêu thức phân bổ do đó phản ánh chính xác hơn mức độ tiêu
hao nguồn lực thực tế của từng sản phẩm. Theo đó, ABC sẽ giúp các nhà quản lý
tránh được những quyết định sai lầm do sử dụng thông tin không chính xác về giá
thành.
Sổ Cái ABC
Bộ phận A Bộ phận A
Lương nhân công $710 Thực hiện đơn đặt hàng $152
Khấu hao thiết bị $100 Thực hiện đơn đặt hàng đặc biệt $204
Chi phí đi lại $40 Tiêu Cải tiến quá trình $59
Nguyên vật liệu $50 thức Nghiên cứu công suất $83
Thuê nhà xưởng $30 Thiết kế dịch vụ $181
Phân Đào tạo nhân viên
$93
Bổ Quản lý bộ phận $158
15
Tổng $930 Tổng $930
Sử dụng cái gì? Sử dụng như thế nào?
Hình 2: Chi phí từ sổ cái đến chi phí theo hoạt động
4. Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp ABC
4.1. Ưu điểm của phương pháp ABC
a, Trước hết phương pháp ABC cung cấp thông tin giá thành chính xác và hợp
lý hơn so với phương pháp kế toán chi phí truyền thống.
Theo phương pháp ABC, giá thành sản phẩm không chỉ bao gồm chi phí sản
xuất mà là toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh, bao gồm cả các chi phí gián tiếp như
chi phí bán hàng, chi phí quản lý. Như trình bày ở trên, do tỷ trọng chi phí gián tiếp
ngày càng lớn, việc không phân bổ các chi phí này vào giá thành sản phẩm có thể dẫn
tới những ngộ nhận về mức lợi tức sản phẩm và do đó sai lầm trong ra quyết định
kinh doanh. Ví dụ, một sản phẩm mới có thể có giá thành công xưởng nhỏ hơn các
sản phẩm hiện tại, nhưng đòi hỏi một khoản chi phí marketing lớn để đưa ra thị
trường. Nếu chỉ căn cứ vào giá thành công xưởng thì có thể thấy sản xuất sản phẩm
đó sẽ mang lại lợi nhuận cao hơn, nhưng nếu phân bổ đủ cả chi phí marketing tăng
thêm thì có thể sản phẩm đó sẽ bị lỗ.
Cùng với việc phân bổ toàn bộ các chi phí vào giá thành sản phẩm, phương
pháp ABC sử dụng một hệ thống các tiêu thức phân bổ được xây dựng trên cơ sở
phân tích chi tiết mối quan hệ nhân quả giữa chi phí phát sinh cho từng hoạt động và
mức độ tham gia của từng hoạt động vào quá trình sản xuất và kinh doanh sản phẩm,
thay vì chỉ sử dụng một tiêu thức phân bổ (ví dụ chi phí nhân công trực tiếp) như
phương pháp truyền thống. Các tiêu thức phân bổ do đó phản ánh chính xác hơn mức
độ tiêu hao nguồn lực thực tế của từng sản phẩm. Theo đó, ABC sẽ giúp các nhà quản
lý tránh được những quyết định sai lầm do sử dụng thông tin không chính xác về giá
16
thành như trình bày ở trên
b, Bên cạnh việc cung cấp thông tin chính xác về giá thành ABC còn giúp các
nhà quản lý kiểm soát các hoạt động.
- ABC cung cấp thông tin hữu ích giúp các nhà quản lý cắt giảm chi phí kinh
doanh.
Để xây dựng được hệ thống các tiêu thức phân bổ chi phí, yêu cầu đầu tiên là
phải xác định được toàn bộ các hoạt động diễn ra trong doanh nghiệp trong một chu
kỳ sản xuất kinh doanh. Bước thứ hai, doanh nghiệp cần xác định mức chi phí cho
mỗi hoạt động trong từng kỳ. Cuối cùng, mức đóng góp của từng hoạt động vào từng
sản phẩm được xác định. Với những thông tin chi tiết như vậy, các nhà quản lý có thể
dễ dàng phân loại các hoạt động trong doanh nghiệp theo các nhóm: các hoạt động có
mức đóng góp cao vào giá trị sản phẩm (high value adding activities), các hoạt động
có mức đóng góp thấp (low value adding activities), và các hoạt động không đóng
góp, thậm chí là nhân tố cản trở quả trình sản xuất kinh doanh (non-value adding
activities/constraints). Trên cơ sở hiểu rõ tầm quan trọng của các hoạt động, nhà quản
lý có thể đưa ra các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp bằng
cách loại bỏ những hoạt động không có đóng góp vào giá trị sản phẩm, tổ chức lại các
hoạt động có mức đóng góp thấp nhằm nâng cao hơn mức đóng góp của các hoạt
động này. Ngay đối với các hoạt động có mức đóng góp cao, ABC cũng cung cấp
thông tin về quá trình phát sinh chi phí, nguyên nhân phát sinh chi phí cho các hoạt
động, qua đó tạo cơ hội cắt giảm chi phí kinh doanh. Cần lưu ý việc cắt giảm chi phí
kinh doanh ở đây được xét trên phạm vi tổng thể. Tức là nhà quản lý có thể tăng chí
phí cho một hoạt động cụ thể nào đó nhằm nâng cao mức đóng góp của hoạt động đó
vào quá trình sản xuất kinh doanh, qua đó giảm giá thành sản phẩm.
Ngày nay, trong một nền kinh tế thị trường phát triển, một xu hướng khá phổ
biến là việc các doanh nghiệp không còn tự mình thực hiện toàn bộ các hoạt động sản
17
xuất kinh doanh nữa mà chỉ tập trung vào một số khâu có hiệu quả nhất. Các công
đoạn khác sẽ được thuê ngoài (outsource). Ví dụ, năm 2005 hãng sản xuất máy bay
Airbus công bố outsource 70% các công đoạn trong quá trình sản xuất máy bay. Để
ra quyết định outsource, các doanh nghiệp cần có các thông tin chi tiết về toàn bộ các
hoạt động của mình, chi phí cho từng hoạt động, vai trò của từng hoạt động trong
toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở đó các nhà quản lý có thể xác định
được các hoạt động nào không thể thuê ngoài vì lý do bảo mật công nghệ hoặc vì đó
là các hoạt động có tính chất sống còn nên doanh nghiệp phải luôn chủ động kiểm
soát, các hoạt động doanh nghiệp có lợi thế so sánh nên tự thực hiện sẽ hiệu quả hơn
thuê ngoài, và các hoạt động thuê ngoài sẽ hiệu quả hơn. Có thể thấy rằng phương
pháp ABC cung cấp toàn bộ các thông tin này với mức độ tin cậy cao hơn nhiều so
với phương pháp truyền thống.
- Giúp các nhà quản lý trong việc nâng cao giá trị doanh nghiệp
Một ưu điểm nữa của phương pháp ABC so với phương pháp truyền thống là
trong khi phương pháp truyền thống chỉ cung cấp thông tin về mức chi phí thì phương
pháp ABC còn cung cấp thông tin về quá trình và nguyên nhân phát sinh chi phí. Việc
hiểu rõ quá trình và nguyên nhân phát sinh chi phí không chỉ giúp tìm ra biện pháp
thích hợp để cắt giảm chi phí mà còn giúp cho nhà quản lý có thể xây dựng được một
cơ chế đánh giá và khuyến khích nhân viên phù hợp, góp phần quan trọng nâng cao
hiệu suất làm việc của nhân viên, qua đó cải thiện hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Cụ thể, các thông tin do ABC cung cấp cho phép nhà quản lý có thể
thấy rõ mối liên hệ giữa ba yếu tố: chi phí phát sinh - mức độ hoạt động - mức độ
đóng góp vào sản phẩm. Việc hiểu rõ mối liên hệ này sẽ làm thay đổi tư duy quản lý
từ chỗ tìm cách cắt giảm chi phí sang nâng cao giá trị doanh nghiệp. Theo đó, một sự
tăng chi phí sẽ không phải là không tốt nếu như lợi ích tăng thêm (incremental
benefit) cao hơn chi phí tăng thêm (incremental cost), và do đó tạo ra giá trị tăng
thêm (incremental value). Theo phương pháp kế toán truyền thống, mối liên hệ này là
18
không rõ ràng, theo đó các doanh nghiệp có xu hướng xây dựng cơ chế khuyến khích
gắn với việc giảm chi phí, gián tiếp hạn chế các cơ hội làm tăng giá trị doanh nghiệp
do nhân viên chỉ trú trọng tiết kiệm chi phí thay vì tìm cách tạo ra giá trị gia tăng.
Việc áp dụng phương pháp ABC sẽ cho phép doanh nghiệp có thể xây dựng một cơ
chế đánh giá và khuyến khích nhân viên dựa trên mức độ tạo ra giá trị gia tăng thay vì
dựa trên chí phí, qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động chung của doanh nghiệp.
- Cuối cùng, việc áp dụng phương pháp ABC còn góp phần hỗ trợ hoạt động
marketing trong việc xác định cơ cấu sản phẩm cũng như chính sách giá.
Đặc biệt trong trường hợp doanh nghiệp có nhiều mặt hàng thì việc đàm phán
với khách hàng hay xử lý đơn hàng một cách nhanh chóng đòi hỏi phải có thông tin
chi tiết về giá thành cũng như cơ cấu chi phí của từng sản phẩm, qua đó có thể xác
định các mức giá tối ưu cho các đơn hàng khác nhau với cơ cấu sản phẩm khác nhau.
Nắm được các thông tin chi tiết và chính xác về chi phí cho các sản phẩm còn giúp
doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc cải tiến (customization) sản phẩm của mình
nhằm tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường bằng cách đưa thêm vào sản phẩm
những giá trị gia tăng trong điều kiện chi phí còn cho phép. Đồng thời, doanh nghiệp
cũng có thể chủ động xây dựng chiến lược marketing để định hướng nhu cầu khách
hàng vào các mặt hàng có lợi nhuận cao, thay thế cho các mặt hàng mà doanh nghiệp
không có lợi thế.
VD: Về việc sử dụng ABC để giảm chi phí
Phương pháp truyền thống
Lương $100
Thiết bị $80
Dụng cụ $20
Chi phí sx chung $45
Tổng $245
19
ABC:
Lau cửa $40 -> sơn cửa $75 -> kiểm tra cửa $75 -> vận chuyển cửa đến dây
chuyền $55 => Tổng $245
ABC không làm giảm hay thay đổi giá thành so với các phương pháp truyền
thống. Nó chỉ cung cấp thông tin về sự tiêu thụ tài nguyên/chi phí sx thật sụ xảy ra.
Theo ví dụ trên, nếu bạn muốn giảm chi phí, với phương pháp truyền thống bạn
không có đủ thông tin để quyết định thay đổi chi phí nào. Tuy nhiên nếu dùng ABC,
bạn có thể nhận ra rằng nếu kết hợp công đoạn sơn cửa và kiểm tra cửa, bạn có thể
giảm được chi phí.
4.2. Một số nhược điểm của phương pháp ABC
Tuy nhiên, mô hình ABC vẫn còn một số hạn chế nhất định. Mặc dù việc quy nạp
CPSXC cho các sản phẩm về cơ bản là dựa vào mối quan hệ khách quan giữa các
hoạt động và từng loại sản phẩm, dịch vụ nhưng về mặt kỹ thuật, trong nhiều trường
hợp, do mối quan hệ đó là không rõ ràng, kế toán vẫn phải lựa chọn các tiêu chuẩn
phân bổ một cách chủ quan.
Hơn nữa, việc vận dụng mô hình ABC đòi hỏi phương pháp tổ chức sản xuất
của doanh nghiệp cũng phải đạt tới trình độ quản lý theo hoạt động. Đặc biệt, điểm
hạn chế nhất của việc áp dụng mô hình này là khối lượng công việc kế toán rất lớn và
khá phức tạp.
Phương pháp ABC phức tạp và tất nhiên là tốn kém hơn các phương pháp
truyền thống, vì vậy không phải bất cứ công ty nào cũng đủ điều kiện áp dụng.
Tuy nhiên, ABC sẽ là xu hướng tất yếu đối với quản trị bởi:
- Năng lực cạnh tranh dựa trên chi phí giảm thiểu đòi hỏi phải có những số liệu
chính xác hơn về chi phí, tránh tình trạng lợi nhuận giả tạo.
- Sự đa dạng hoá ngày một tăng của các sản phẩm và dịch vụ cùng với độ phức
tạp của các phân đoạn thị trường. Vì thế, việc tiêu dùng các nguồn lực cũng sẽ thay
20
đổi theo các sản phẩm và dịch vụ.
- Chu kỳ sống của sản phẩm trở nên ngắn hơn do tốc độ phát triển của công
nghệ làm công ty không đủ thời gian điều chỉnh giá cả và chi phí.
- Xác định đúng chi phí là một phần quan trọng của việc ra quyết định kinh
doanh. Thiếu nó, sự chuẩn xác của quyết định sẽ giảm thiểu.
- Cách mạng trong công nghệ máy tính đã làm giảm được chi phí về tiền bạc
lẫn thời gian cho việc phát triển và vận hành hệ thống xác lập chi phí có khả năng
truy nguyên nhiều hoạt động.
5. Điều kiện vận dụng mô hình ABC
Mô hình ABC vận dụng thích hợp trong các doanh nghiệp có các điều kiện sau:
• Sản phẩm được sản xuất có sự đa dạng về chủng loại, mẫu mã, phức tạp về kỹ
thuật. Quy trình chế tạo sản phẩm đòi hỏi phải có sự kết hợp nhiều giai đoạn
công nghệ, nhiều hoạt động,
• Chi phí sản xuất chung chiếm một tỷ trọng khá lớn trong tổng chi phí sản xuất
và ngày càng có xu hướng tăng lên.
• Tính không chính xác của mô hình mà doanh nghiệp đang áp dụng khá lớn làm
cho thông tin được cung cấp ít có tác dụng đối với các quản trị trong việc ra
quyết định.
• Môi trường cạnh tranh gay gắt
CHƯƠNG II. KINH NGHIỆM VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP
HẠCH TOÁN CHI PHÍ VÀ GIÁ THÀNH THEO HOẠT ĐỘNG
CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
I. THỰC TRẠNG VẬN DỤNG MÔ HÌNH ABC TRÊN THẾ GIỚI
Hiện nay ABC được áp dụng rất phổ biến trên thế giới đặc biệt là Mỹ, Anh ,
Australia..
21
Sau đây chúng tôi sẽ đưa ra một số mô hình ABC cụ thể được áp vào các doanh
nghiệp.
1. Mô hình ABC tại công ty Elgin Sweeper của Bắc Mỹ
Từ những năm cuối của thập kỷ 80, công ty Elgin Sweeper của Bắc Mỹ đã áp
dụng ABC như sau:
- Bước đầu tiên là nghiên cứu các hoạt động tạo phí, lập danh sách các đơn vị
tính phí có thể, cho mỗi hoạt động. Các đơn vị tính phí của Elgin bao gồm: tiền công
lao động ($), giờ lao động, số lượng hàng gửi đi, số lượng thành phẩm, số đơn đặt
hàng, doanh thu, ngày làm việc, thông báo thay đổi kỹ thuật, thời gian lao động kỹ
thuật,... Các chi phí thay đổi với từng đơn vị tính phí được nhận dạng và tính toán.
- Tiếp theo, Elgin thiết lập báo cáo về dây truyền sản xuất cho phép đánh giá
hiệu quả của các quyết định phân bổ nguồn lực. Kết quả của việc áp dụng hệ thống
xác lập chi phí là sự tham gia của các giám đốc sản xuất vào việc nhận dạng kích tố
chi phí và sự xoá bỏ các hoạt động không tạo ra giá trị gia tăng.
2. Mô hình ABC tại công ty Mason & Cox ở Australia
Mason & Cox là tập đoàn sản xuất sản phẩm đúc lớn nhất ở Australia, sản
xuất sản phẩm chủ yếu của nó là các sản phẩm đúc kim loại cho các ngành công
nghiệp như khai khoáng, tinh chế đường sản xuất xi măng. Công ty có hai dòng sản
phẩm chính là sản phẩm sản xuất hàng loạt và sản xuất theo yêu cầu của khách hàng.
Khái quát quá trình sản xuất ở Mason & Cox.
Bước 1. Thiết kế mẫu sản phẩm.
Bước 2. Làm các khuôn đúc dựa theo mẫu.
Bước 3. Nấu chảy kim loại và đổ vào khuôn đúc.
Bước 4. Lấy sản phẩm đúc ra khỏi khuôn và chuyển đến bộ phận hoàn thiện sản
phẩm.
Bước 5. Tại bộ phận hoàn thiện sản phẩm, sản phẩm đúc được làm nhẵn bằng
máy chuyên dụng.
22
Khó khăn mà Mason & Cox gặp phải đối với hệ thống tính phí của mình.
Công ty này áp dụng phương pháp tính chi phí và giá thành truyền thống: chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp thì được tính thẳng cho sản phẩm, chi phí sản xuất chung
được phân bổ theo số giờ lao động. Một số nhà quản lý của công ty cho rằng phương
pháp này không còn phù hợp với công ty nữa.
Xem xét hai sản phẩm đúc mà công ty đang sản xuất. "Hensley tooth" là một
trong những loại sản phẩm bán chạy nhất của công ty, được sản xuất theo lô, mỗi lô
có 250 sản phẩm, hàng năm công ty tiêu thụ được khoảng 25000 sản phẩm. Một loại
sản phẩm khác là "Custom Cast tooth" (sản phẩm đúc sản xuất theo yêu cầu khách
hàng) được làm riêng cho công ty Mount Ise. Công ty này đặt hàng theo lô, mỗi lô 50
sản phẩm, 10 lô một năm. Theo mô hình tính phí hiện tại của công ty thì giá thành
của cả hai sản phẩm đúc này đều là 35,54$. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp của hai
loại sản phẩm đều là 12$, chi phí nhân công trực tiếp giống nhau, chi phí sản xuất
chung được phân bổ theo số giờ công lao động nên cả hai đều chịu chi phí sản xuất
chung bằng nhau.
Các nhà quản lý đều cho rằng giá thành hai sản phẩm này khác nhau. Cả hai sản
phẩm đòi hỏi những dịch vụ chung như thiết kế mẫu, lắp đặt máy móc nhưng cũng
nhiều dịch vụ được dùng cho từng lô sản phẩm riêng. Sản phẩm "Custom Cast tooth"
sản xuất ít lô hơn, yêu cầu về chất lượng và độ phức tạp cao hơn vì thế các nhà quản
lý cho rằng chi phí sản xuất chung tính cho mỗi sản phẩm này phải cao hơn "Hensley
tooth".
Các nhà quản lý đã khẳng định phương pháp tính phí truyền thống đang đánh giá
cao giá thành của các dòng sản phẩm tiêu thụ phổ biến với số lượng sản xuất lớn và
đánh giá thấp giá thành của các dòng sản phẩm tiêu thụ ít và số lượng sản xuất ít.
Giá thành sản phẩn xác định không chính xác đã làm cho việc định giá bán sản
phẩm không được chính xác. Để cạnh tranh trên thị trường thì công ty đã quyết định
giảm giá sản phẩm chủ đạo, và định giá cao hơn đối với sản phẩm cá biệt. Tuy nhiên
23
công ty vẫn không đạt được lợi nhuận mục tiêu. Việc giảm giá sản phẩm có sản lượng
tiêu thụ lớn làm tăng số lượng hàng bán nhưng vẫn làm giảm tổng giá trị doanh thu,
những sản phẩm chủ đạo này chính là nguồn doanh thu chính của công ty. Giá bán
cao hơn đối với các sản phẩm riêng biệt theo yêu cầu khách hàng cũng không bù trừ
được sự sụt giảm doanh thu của dòng sản phẩm chủ đạo.
Hệ thống tính phí truyền thống này đã được áp dụng từ những năm 1920 và có
chút ít thay đổi trong khi đó hoạt động kinh doanh của công ty đã có những thay đổi
vượt bậc. Công ty được thành lập năm 1917 trong khi đó công ty chỉ có một vài loại
sản phẩm. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là chi phí chủ yếu chiếm đến 50%. Chi
phí nhân công chiếm 40%. Chi phí sản xuất chung chiếm 10%. Qua thời gian chiến
lược của công ty đã có nhiều thay đổi, các dòng sản phẩm của công ty ngày càng
phong phú cả về kích thước lẫn độ phức tạp, chất lượng và sự hài lòng của khách
hàng cũng ra tăng. Cấu trúc chi phí của doanh nghiệp đã có sự thay đổi. Chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp vẫn chiếm 50%. Chi phí nhân công chỉ còn chiếm 22%. Chi
phí sản xuất chung chiếm 28%. Định phí chung chiếm tỷ trọng lớn hơn những chi phí
này không liên quan đến số lượng sản phẩm.
Chi phí
NVL trực
tiếp
50%
Chi phí
NVL trực
tiếp
50%
Chi phí
biến đổi
Chi phí LD
trực tiếp
40%
Chi phí LD
trực tiếp
22%
Chi phí
biến
đổi
Chi phí sxc
28%
Chi phí
cố định
Chi phí sxc
10%
Chi phí
cố định
24
Năm 1920 Năm 1990
Hình 3: Cơ cấu chi phí
Hệ thống tính chi phí truyền thống của công ty thì sử dụng tiêu thức số giờ
công lao động trực tiếp để phân bổ chi phí sản xuất chung, thời gian lao động tiêu
dùng trên một sản phẩm càng nhiều thì chi phí chung càng lớn. Nhưng việc phân tích
quá trình sản xuất của công ty chỉ ra rằng không phải lúc nào điều này cũng đúng, ví
dụ chi phí tổ chức lắp đặt máy móc cho từng lô hàng sản xuất không liên quan đến số
lượng sản phẩm trong lô hàng. Chi phí thuê nhà xưởng mỗi tháng không liên quan
đến số lượng sản phẩm. Hệ thống tính phí lỗi thời đã làm sai lệch giá thành sản phẩm
đã gây tổn thất cho công ty. Do cấu trúc chi phí thay đổi công ty bắt đầu quan tâm đến
cả chi phí ngoài sản xuất, chi phí không liên quan trực tiếp đến sản phẩm nhưng nó đã
góp phần tạo thêm giá trị sản phẩm, ví dụ như chi phi các dịch vụ kèm theo sản phẩm.
Qua thời gian các chi phí ngoài doanh nghiệp (chi phí trước và sau sản xuất)nhiều
trong số chúng có liên quan đến từng sản phẩm với mức độ chi phi khác nhau như chi
phí thiết kế sản phẩm và phát triển sản phẩm.
Trước những hạn chế của mô hình tinh phí truyền thống công ty đã tiến hành
nghiên cứu để tìm ra một mô hình thích hợp hơn. Họ đã thấy rằng mô hình ABC có
thể khắc phục được những khó khăn của họ. Họ đã thiết lập một đội nghiên cứu dự án
ABC. Qua qua trình nghiên cứu họ đã thấy là có rất nhiều cách tiếp cận phương pháp
ABC, các mô hình ABC khác nhau do quan điểm sử dụng để tính phí, quản lý hoạt
động hay cả hai, khác nhau còn do đối tượng xác định phí , loại chi phí được xác
định, khac nhau ở cách chi tiết các nguồn lực, các hoạt động. Thiết kế mô hình ABC
thích hợp với từng mục đích và nhu cầu sử dụng.
Họ xác định vấn đề chính công ty gặp phải là sự sai lệch nghiêm trọng trong
giá thành tính toán so với giá thành thực tế. Để giải quyết vấn đề này họ đưa ra 3 mô
hình ABC để xem xét
25
- Mô hình 1: mô hình ABC đơn giản , mô hình chỉ sử dụng để phân bổ chi phí
sx chung
- Mô hình 2: dùng để phân bổ tất cả các chi phí gián tiếp liên quan đến sản
phẩm( bao gồm cả chi phí ngoài sản xuất
- Mô hình 3: mô hình ABC thông minh dùng để phân bổ tất cả các chi phí trừ
chi phí NVL trực tiếp tức là gồm cả chi phí nhân công. Mô hình này không chỉ dùng
để tính phí mà còn để quản lý các hoạt động
Sau khi xem xét giữa chi phí và lợi ích thu được họ đã quyết định sử dụng mô
hình 3.
MÔ HÌNH ABC TẠI MASCON & COX
2.1. Mô hình ABC với mục đích tính giá thành cho sản phẩm
Bước 1: Đo lường chi phí cho các hoạt động tức là phân bổ chi phí các nguồn
lực đến các hoạt động.
Để đơn giản hóa quá trình này họ đã sử dụng các trung tâm hoạt động nghĩa là
chi phí sẽ được phân bổ đến các trung tâm hoạt động sau đó đến các hoạt động.
Có bốn dạng Hoạt động chính là:
+ "Hoạt động ở mức độ lô" (batch level activities): là những hoạt động được
thực hiện liên quan đến từng lô sản phẩm. Ví dụ hoạt động "xây dựng chương trình
sản xuất", "lắp đặt lò xử lý hơi".
+ "Hoạt động ở mức độ đơn vị sản phẩm" (unit level activities): là những hoạt
động được tiến hành liên quan đến từng đơn vị sản phẩm. Ví dụ như hoạt động "kiểm
tra khuôn đúc", "kiểm tra sản phẩm đúc".
+ "Hoạt động ở mức độ dòng sản phẩm" (product level activities) là những hoạt
động được tiến hành liên quan đến từng loại sản phẩm. Ví dụ: hoạt động "thiết kế
mẫu".
+ "Hoạt động ở mức độ duy trì doanh nghiệp" (facylity level activities) là những
hoạt động để điều hành doanh nghiệp. Là những hoạt động tạo môi trường cho sản