Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Kết quả nghiên cứu hồ sơ số 17 dân sự chuyên sâu 1 Nguyễn Thị Hẩn, Lê Văn Bẩn, Loan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.99 KB, 19 trang )

DÂN SỰ CHUYÊN SÂU 1

BÀI THU HOẠCH HỒ SƠ SỐ 17: TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN
NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ YÊU CẦU HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN
QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

I.

NỘI DUNG VỤ VIỆC................................................................................................2
1. Trình bày của nguyên đơn........................................................................................2
2. Ý kiến của bị đơn:....................................................................................................6
3. Trình bày của người làm chứng................................................................................8
4. Chứng cứ trong hồ sơ.............................................................................................11
5. Tiến trình tố tụng....................................................................................................15

II. VỀ TỐ TỤNG...........................................................................................................17
1. Quan hệ pháp luật tranh chấp.................................................................................17
2. Thủ tục tiền tố tụng................................................................................................18
3. Thẩm quyền của Tòa án.........................................................................................18
4. Tư cách đương sự...................................................................................................19
5. Thời hiệu khởi kiện................................................................................................19
III.

VỀ NỘI DUNG......................................................................................................19

1. Các vấn đề pháp lý mấu chốt:................................................................................19
2. Đánh giá hiệu lực của việc chuyển nhượng QSDĐ ngày 2/6/1986........................20
3. Điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất................................................20


I.



NỘI DUNG VỤ VIỆC

Ngày 16/9/2016, bà Nguyễn Thị Hẩn nộp đơn khởi kiện ông Lê Văn Bẩn, bà
Nguyễn Thị Kim Loan đến Tòa án nhân dân huyện Cần Đước yêu cầu Tịa án giải
quyết:
(i)

buộc vợ chồng ơng Bẩn, bà Loan trả lại 1000 m2 đất thổ thuộc thửa 2647, tờ
bản đồ số 3, tọa lạc tại ấp bà Thoại, xã Tân Lân, huyện Cần Đước cho bà
Hẩn;

(ii)

hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện Cần Đước cấp cho
bà Nguyễn Thị Kim Loan số BP 519134 ngày 25/6/2013 thửa số 2647, tờ
bản đồ số 3, diện tích 919 m2.

1. Trình bày của nguyên đơn
Theo ĐƠN KHỞI KIỆN ngày 16/9/2016 bà Hẩn trình bày như sau:
Bà Hẩn trước đây được nhà nước cấp Bằng khen người có cơng với cách mạng.
Khoảng năm 1965, bà Hẩn được chính quyền cách mạng xã Tân Lập cấp diện tích
đất ruộng khoảng 9000 m2.
Khoảng năm 1976 nhà nước đào kênh ngang qua thửa ruộng của bà Hẩn làm mất
một phần đất và cắt thửa ruộng của bà Hẩn ra làm 2 phần: một phần 12 sào, và một
phần khoảng 4000 m2. Phần 12 sào bà Hẩn đã bán cho bà Châu Thị Trưa, phần
4000 m2 bà Hẩn đã lên thổ 1.000 m2 để cất nhà ở nay thuộc thửa 2647, phần còn lại
khoảng 3000 m2 thì bà Hẩn cấy lúa nay là thửa 2468, cùng tờ bản đồ số 3. Bà Hẩn
chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Vào năm 1986, bà Hẩn có sang nhượng cho vợ chồng ơng Lê Văn Mi, bà Châu Thị

Sam 25 sào ruộng ở sát mé sông của thửa 2648 giá 03 chỉ vàng 24K, phần đất cịn
lại và ngơi thổ của bà Hẩn thì bà Hẩn để cho vợ chồng Dì Bảy Trắng ở nhờ, còn bà
Hẩn dời nhà về ở trên đất của cha mẹ cách đó 2km.
Sau đó khoảng năm 1989 thì bà Sam có ý muốn mua phần đất cịn lại của bà Hẩn
nên kêu bà Hẩn nói dì Bảy Trắng dời nhà đi nhưng đến khoảng năm 1991 dì Bảy
Trắng kiếm đất được mới dời nhà đi thì bà Sam không mua.
Vào năm 1994 bà Sam lấn đất của bà Hẩn cất một chòi lá, bà Hẩn thấy nên yêu cầu
tháo dỡ thì bà Sam đã dỡ nhà dẹp.
Năm 1998 bà Sam đăng ký làm giấy đất nên bà Hẩn có ký tên cho con bà là Lê
Văn Bẩn đăng ký đứng tên giấy chứng nhận QSD đất bìa đỏ.


Sau đó năm 2008 con bà Hẩn chết, bà Hẩn đau buồn quá nên không để ý đến đất
đai, đến cuối năm 2014 bà Hẩn làm ở thành phố về thì phát hiện ơng Bẩn đã ban
ngơi nền của bà Hẩn 1.000 m2 xuống thành ruộng cấy lúa và đào vuông nuôi tôm.
Bà Hẩn làm đơn thưa gởi trưởng ấp nhưng trưởng ấp mời ơng Bẩn khơng tới nên
để đó, sau đó nói đất bồi khơng giải quyết, sau cùng trả lời khơng giải quyết mà nói
bà Hẩn bán đất cho người ta có sổ đỏ rồi.
Quá bức xúc, bà Hẩn làm đơn gởi UBND xã Tân Lân nên mới được UBND xã hịa
giải và cơng bố cho bà Hẩn biết đất của bà Hẩn hiện nay Bà Nguyễn Thị Kim Loan
vợ ông Bẩn đã đứng tên và được UBND huyện Cần Đước cấp giấy chứng nhận
QSD đất là: Giấy CNQSD đất số BP 519134 ngày 25/6/2013, thửa số 2647, TBĐ
số 3, diện tích 669 m2 và Giấy CNQSD đất so BP 519133, ngày 25/6/2013, thửa
số 2648, TBĐ số 3, diện tích 2.917 m2, đất lúa.
UBND xã căn cứ năm 1986 đất là của tập đồn bà Hẩn chưa có QSD đất nên
không công nhận đất của bà Hẩn mà bà Loan có giấy chứng nhận QSD đất nên
cơng nhận QSD đất cho bà Loan.
Bà Hẩn khơng đồng ý vì đất này do Cách mạng cấp cho bà Hẩn hiện nay còn rất
nhiều người biết, bà Hẩn chỉ bán cho cha mẹ ơng Bẩn có 25 sào đất ruộng mà
khơng có bán ngơi thổ mà ơng Bẩn khai với UB xã nói bà Hẩn bán hết ln cái gị

là khơng đúng. Mặc dù năm 1986 đất vào tập đoàn nhưng ruộng của bà Hẩn ít nên
bà Hẩn vẫn sử dụng mà khơng đưa vào tập đồn, do đó bà Hẩn mới bán đất cho vợ
chồng ơng Mi được.
Bà Hẩn vì nhà nghèo, con đông nên phải đi làm ăn ở thành phố, đi đi, về về cứ nghĩ
đất của mình bà Sam khơng mua thì cịn đó, khơng ngờ khi vợ chồng ơng Mi chết
rồi thì vợ chồng ơng Bẩn bà Loan lại chiếm đoạt đất của bà Hẩn và đăng ký cấp
giấy chứng nhận nhận QSD đất mà bà Hẩn không hay biết.
Tại ĐƠN KHỞI KIỆN ngày 11/11/2016 (BL 38) bà Hẩn yêu cầu Tòa án giải quyết:
1. Buộc Vợ chồng ông Lê Văn Bẩn, bà Nguyễn Thị Kim Loan phải trả lại cho bà
Hẩn l.000 m2 đất thổ thuộc thửa 2647, TBĐ số 3 tọa lạc tại ấp Bà Thoại, xã Tân
Lân, huyện cần Đước.
2. Hủy hợp đồng chuyển nhượng QSD đất từ ông Lê Văn Bẩn chuyển cho bà
Nguyễn Thị Kim Loan thửa 2647 và thửa số 2648, TBĐ số 3 vào năm 2013.
3. Hủy giấy chứng nhận QSD đất của UBND huyện cần Đước cấp cho bà Nguyễn
Thị Kim Loan số BP 519134 ngày 25/6/2013, thửa số 2647, TBĐ số 3, diện tích 669
m2 và Giấy CNQSD đất số BP 519133, ngày 25/6/2013, thửa số 2648, TBĐ số 3,
diện tích 2.917m2, đất lúa.
Theo BIÊN BẢN LẤY LỜI KHAI ngày 06/7/2017, bà Hẩn trình bày:


1. Bà Hẩn khởi kiện theo Đơn khởi kiện ngày 16/9/2016 với nội dung yêu cầu ông
Bẩn, bà Loan trả lại 1000 m2 đất nhưng sau khi đo đạc diện tích cụ thể bao nhiêu
như trong bản vẽ thì bà Hẩn sẽ yêu cầu bà Loan, ông Bẩn trả lại cho bà Hẩn diện
tích trên.
2. Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của UBND huyện Cần Đước cấp cho
bà Nguyễn Thị Kim Loan đối với thửa 2647 và 2648, căn cứ khởi kiện theo Tờ
giao kèo ruộng đất sang nhượng ngày 06/02/1986. Theo đó bà Hẩn chuyển nhượng
cho ơng Mi là cha ruột của ông Lê Văn Bẩn. Nhưng theo nội dung thỏa thuận thì bà
Hẩn khơng bán 10 sào (tương đương 1.000 m2). Vì vậy nên bà Hẩn mới khởi kiện.
Bà Hẩn chưa đứng tên trên GCN đối với phần đất tranh chấp.

Tờ giao kèo ruộng đất sang nhượng ngày 06/02/1986 là do bà Hẩn tự viết và ký
tên. Lý do Giấy chuyển nhượng do bà Hẩn tự viết tự ký tên bên bán và bên mua là
vì chỉ viết để làm tin nên bà Hẩn tự viết.
Trong “Tờ giao kèo ruộng đất sang nhượng” ngày 06/02/1986 chữ viết và chữ ký
của ông My là do tự viết và tự ký tên.
Trong thời gian chuyển nhượng từ năm 1986 bà Hẩn không khiếu nại hay tranh
chấp, canh tác trên diện tích đất tranh chấp vì khi năm 2008 con bà Hẩn chết bà
Hẩn buồn nên lên TP. HCM làm ăn nên bà Hẩn không biết ông Bẩn đã ban diện
tích của bà Hẩn thành ruộng. Từ năm 1986 bà không canh tác.
Theo ĐƠN ngày 12/12/2016 của bà Hẩn:
Lúc 1965 bà Hẩn tham gia cách mạng, lúc đó có tham gia mới được chia ruộng đất
để làm, đất cách mạng chia khơng có giấy tờ gì hết, ơng Trương Công Dự là người
cách mạng chia cho bà Hẩn không có giấy tự do làm, là ơng Trương Cơng Dự thốt
ly gia đình làm việc đêm 1971 Bình Định ơng mới nghỉ, thì ruộng bà Hẩn khơng
giấy tờ gì hết cho đến 1986 có dơ tập đồn, vì gia đình bà Hẩn con đơng nghèo q
thì bà Hẩn khơng có dơ thì ruộng bà Hẩn cịn của bà Hẩn, bà Hẩn nghèo khổ quá bà
Hẩn mới bán ruộng cho ông Lê Văn Mi và bà Châu Thị Sam 2,500 m2 bằng giấy
tay đất thổ của bà Hẩn khơng có bán cho ông Lê Văn Mi và bà Châu Thị Sam, đến
1998 tồn bộ anh em kêu ai có ruộng để làm sổ đỏ hết thì bà Châu Thị Sam lên nhà
bà Hẩn kêu bà Hẩn đăng ký sổ đỏ cho bà Châu Thị Sam thì bà Hẩn đồng ý, bà Hẩn
đi cùng bà Sam xuống tới chồ thì bà Sam nói bà Hẩn cơ Sáu nói con để cho anh
Sáu đứng sổ đỏ bà Hẩn mới hỏi lại bà Sam anh Sáu nào con khơng biết thì cơ mua
con bán đất cho cơ rồi thì cơ để cho con cơ đứng củng được chớ gì cơ nói thì ngày
tháng đó bà Hẩn đứng ra đăng ký sổ đỏ cho ông Lê Văn Bẩn đứng chứ không phải
bà Nguyễn Thị Kim Loan đứng sổ đỏ đâu, bà Hẩn yêu cầu chính quyền địa chính
xã Tân Lân trích lục bản đồ sổ đỏ cho bà Nguyễn Thị Kim Loan đứng, bà Nguyễn
Thị Hẩn bà Hẩn khơng đồng ý theo lời tịa án Cần Đước và tòa án tỉnh Long An
phải thu hồi sổ đỏ bà Nguyễn Thị Kim Loan và ông Lê Văn Bẩn.



Theo BIÊN BẢN LẤY LỜI KHAI bà Hẩn ngày 08/09/2017
Nay bà Hẩn xác định bà Hẩn khởi kiện với hai yêu cầu như sau:
- Buộc vợ chồng ông Lê Văn Bẩn, bà Nguyễn Thị Kim Loan phải trả lại cho bà
Hẩn 1.147,3m2 đất một phần thuộc thửa 2647, thửa 2648 TBĐ số 3 tọa lạc tại ấp
Bà Thoại, xã Tân Lân.
- Hủy giấy chứng nhận QSD đất do UBND huyện cần Đước cấp cho bà Nguyễn
Thị Kim Loan số BP 519134, số 519133 ngày 15/6/2013.
Nguồn gốc đất là của bà Hẩn được cách mạng giao cho bà Hẩn quản lý sử dụng.
Đến năm 1986 thì bà Hẩn có bán cho ông Lê Văn Mi với giá 03 chỉ vàng 24K có
làm giấy tờ là “Tờ giao kèo ruộng đất sang nhượng” ngày 06/02/1986. Nội dung
của “Tờ giao kèo ruộng đất sang nhượng” ngày 06/02/1986 là do bà Hẩn tự viết và
tự ký tên. Vì ơng Mi nói bà Hẩn tự ký phần chữ ký của ơng Mi vì chúng bà Hẩn chỉ
ký để làm tin.
Đất ruộng bên gia đình ơng Bẩn quản lý sử dụng. Còn cái gò là phần đất tranh chấp
là của gia đình bà Hẩn quản lý và bà Hẩn có cho bà Trắng quản lý sử dụng từ năm
1984 đến năm 1999. Từ năm 1999 trả đất thì ơng Bẩn ban đất của bà Hẩn ra thành
ruộng, sau khi con bà Hẩn chết bà Hẩn đau buồn lên thành phố sinh sống nên ông
Bẩn quản lý từ đó đến nay.
Bà khơng tranh chấp, đứng tên diện tích đất trên, Bà Hẩn có nói với chính quyền
địa phương là kê khai cho bà Hẩn 10 sào đất (khoảng 1.000m2) đất tranh chấp này
nhưng xã không làm. Đến khi bà Loan đứng tên thì bà Hẩn mới biết là đất trên đã
thuộc về bà Loan.
“Tờ giao kèo ruộng đất sang nhượng” ngày 06/02/1986 Tất cả đều viết từ năm
1986. Riêng chữ “Bà thị Trắng” viết khoảng năm 2000. Cịn số điện thoại viết thêm
khi nào bà Hẩn khơng biết.
Tại BIÊN BẢN HỊA GIẢI ngày 08/09/2017, bà Hẩn có 02 yêu cầu khởi kiện:
-

Buộc vợ chồng ông Lê Văn Bẩn, bà Nguyễn Thị Kim Loan phải trả lại cho bà Hẩn
1.147,3m2 đất một phần thuộc thửa 2647, thửa 2648 TBĐ số 3 tọa lạc tại ấp Bà

Thoại, xã Tân Lân.

-

Hủy giấy chứng nhận QSD đất do UBND huyện cần Đước cấp cho bà Nguyễn Thị
Kim Loan số BP 519134, số 519133 ngày 15/6/2013 .

2. Ý kiến của bị đơn:
Theo BẢN TỰ KHAI NGÀY 03/03/2017 của ông Lê Văn Bẩn (BL 57):


Vào ngày 20/03/1986, mẹ ông Bẩn là bà Văn Thị Kham có mua miếng đất trồng
lúa của bà Nguyễn Thị Hẩn cùng ấp bà Thoại, thửa đất số 2647 + 2648 diện tích
669 m2 đất ở 2917 m2 đất trồng lúa sử dụng cho đến nay. Thời gian trước mẹ ông
Bẩn đứng tên chủ quyền sử dụng đất năm 1998, mẹ ông Bẩn chuyển quyền sử dụng
đất lại cho con dâu là bà Nguyễn Thị Kim Loan sử dụng cho đến nay.
Tại BIÊN BẢN LẤY LỜI KHAI NGÀY 06/03/2017 (BL 77), ơng Bẩn trình bày:
Nguồn gốc đất của thửa 2647, 2648 tờ bản đồ số 3 xã Tân Lân, huyện Cần Đước do
cha tôi là ông Lê Văn Mi và mẹ tôi Văn Thị Kham nhận chuyển nhượng từ bà
Nguyễn Thị Hẩn vào năm 1986, cha mẹ tôi mua lại đất trọn thửa 2647, 2648 với
giá khoảng 03 chỉ vàng 24K.
Khi mua có làm giấy tay nhưng do thời gian nên sau khi ba mẹ tôi mất, tờ giấy
sang nhượng cũng khơng cịn.
Năm 1998 do tơi khơng có ở nhà nên ba mẹ tôi giao cho vợ tôi là bà Kim Loan, đi
kê khai đăng ký quyền sử dụng đất đối với 02 thửa 2647, 2648 tờ bản đồ số 3.
Đến 25/6/2013 thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng mới.
Tôi không đồng ý với yêu cầu trả lại đất thổ thuộc thửa 2647 tờ bản đồ số 3. Ba mẹ
tơi đã mua lại có trả tiền và làm giấy tờ. Đến nay cũng đã được cấp giấy chứng
nhận.
Việc bà Hẩn yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng giữa ông và bà Kim Loan, tôi

và vợ không có hợp đồng chuyển nhượng. Thửa 2647, 2648 là do ba mẹ tơi mua
sau đó đưa cho vợ tơi đi đăng ký quyền sử dụng đất mà khơng có làm bất kỳ hợp
đồng nào. Nên bà Hẩn yêu cầu hủy hợp đồng tôi không đồng ý, không đồng ý hủy
giấy chứng nhận quyền sử dụng 2 thửa đất 2647, 2648.
Theo BẢN TỰ KHAI NỘI DUNG VỤ VIỆC NGÀY 17/07/2017 CỦA ÔNG LÊ
VĂN BẨN:
Mảnh đất này cha tôi mua hồi 1986, cha tôi làm được 12 năm tới đợt nhà nước cho
làm giấy. Cha tôi sang lại cho vợ tôi đứng chủ nguyền miếng đất hồi năm 1998 tới
nay, vợ chồng tôi canh tác đến nay là mấy chục năm rồi mà không ai tranh chấp mà
nay thưa kiện tôi trả lại đất là sao.
Tơi khơng đồng ý gì hết.
Cùng ngày, bà Nguyễn Thị Kim Loan, con trai, con dâu cũng khai như trên.
Tại BIÊN BẢN LẤY LỜI KHAI bà Nguyễn Thị Kim Loan ngày 08/09/2017 (BL
127):


Tôi không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà Hẩn. Nguồn gốc đất là của ba tôi
tên Lê Văn Mi và mẹ là Văn Thị Kham mua từ bà Hẩn năm 1986 với giá là 03 chỉ
vàng. Đến năm 1998, ba mẹ tơi cho tơi diện tích trên nên tơi được đứng tên tồn bộ
hai thửa 2647, 2648 Tờ bản đồ số 3 tọa lạc tại ấp Bà Thoai, xã Tân Lân.
Tôi không đồng ý như bà Hẩn trình bày trong phần đất tranh chấp có Gị bà Trắng
ở, phần này của bà Hẩn, mà đó là cái đê bà Trắng bà khổ quá nên chúng tôi cho bà
Trắng làm cái chòi lá nhỏ để bà Trắng ở. Chứ khơng như bà Hẩn trình bày. Khi bà
Trắng có tiền bà mua đất kế bên nên trả lại đất cho vợ chồng tôi.
Tôi không đồng ý Tờ giao kèo ruộng đất sang nhượng ngày 06/02/1986. Thứ nhất
là do bà Hẩn tự viết, tự ký tên ngoài ra những chữ ký sau này làm chứng là không
đúng. Sao khi ba mẹ tơi cịn sống khơng tranh chấp sau khi ba mẹ tôi chết lại tranh
chấp trong thời gian 30 năm sau khi chuyển nhượng.
Đất tranh chấp trên do gia đình tôi quản lý sử dụng nên được cấp GCNQSDĐ cho
tôi, bà Hẩn từ khi bán cho đến nay khơng có quản lý như lời trình bày của bà Hẩn.

Hai giấy CNQSDĐ tơi đang quản lý, sử dụng khơng có thế chấp cho ai, cũng
không tặng cho ai.
Những người làm chứng hồn tồn khơng biết việc chuyển nhượng. Sau này họ
mới biết và chỉ do bên bà Hẩn trình bày.
Tại BIÊN BẢN HỊA GIẢI ngày 08/09/2017:
Tơi thừa nhận ba mẹ tơi là ông Lê Văn Mi và bà Châu Thị Sam có nhận chuyển
nhượng của bà Nguyễn Thị Hấn từ năm 1986, việc chuyển nhượng khơng có làm
giấy tờ gì.
Đến năm 1998, tôi được UND huyện cần Đước cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất lần đầu cho tôi tại thửa 2647, thửa 2648 TBĐ số 3 tọa lạc tại ắp Bà Thoại,
xã Tân Lân.
Đến ngày 25/6/2013, tôi được cấp lại Giấy chứng nhận mới cho đến nay.
Việc mua bán đã được thực hiện các bên đã giao đất và gia đình tơi sử dụng canh
tác từ năm 1986 tới nay đã hơn 30 năm. Việc chuyển nhượng do các bên thỏa thuận
là tồn bộ diện tích như thực tế hiện nay, lời trình bày của ơng Hẩn u cầu địi lại
1.147,3 m2 đất một phần thuộc thửa 2647, thửa 2648 TBĐ số 3 tọa lạc tại ấp Bà
Thoai, xã Tân Lân là khơng có căn cứ. Nếu như lời trình bày của bà Hẩn cho rằng
có chừa lại cái gị là khoảng 1000 m2 thì khơng đúng.
Nay trước u cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Hẩn, tôi không đồng ý.


Bị đơn ơng Lê Văn Bẩn trình bày: Tơi là chồng của bà Nguyễn Thị Kim Loan. Tơi
thống nhất tồn bộ lời trình bày của bà Loan, tơi khơng bổ sung gì thêm.
3. Trình bày của người làm chứng
Theo GIẤY XÁC NHẬN CỦA ƠNG ĐÀO VĂN ĐƠNG (BL 22):
Nay tơi làm đơn này xác nhận cho Bà Nguyễn Thị Hẩn có bán 2.500m2 đất ruộng
cho ơng Lê Văn Mi và bà Châu Thị Sam cùng ngụ ại ấp Bà Thoại, xã Tân Lân, cần
Đước, Long An.đăng ký giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 26 tháng 02
năm 1998 tại nhà tôi.
Nay tôi làm đơn này xác nhận cho bà Nguyễn Thị Hẩn cùng đăng ký với bà Châu

Thị Sam, bà Sam nói với bà Hẩn để cho anh Sáu con đứng tên sổ đỏ là ông Lê Văn
Bẩn chứ không phải để cho con dâu đứng tên là bà Nguyễn Thị Kim Loan đâu,
ngày đăng ký khơng có ông Lê Văn Bẩn và bà Nguyễn Thị Kim Loan.
Theo GIẤY XÁC NHẬN ngày 10/07/2017 của ông Đào Văn Đông (BL 98):
Nay tôi làm đơn này xác nhận cho bà Nguyễn Thị Hẩn có bán 2.500m2 đất ruộng
cho ơng Lê Văn Mi và bà Châu Thị Sam. Lúc đó bà Hẩn bán cho ông Mi và bà
Sam 25 sào đất khơng có đo đạt cùng cư ngụ tại ấp Bà Thoại - Tân Lân - cần Đước
- Long An.
Lúc đó tôi là nhân viên của đội thuế cùng đội thuế xã Tân Lân, Ban địa chính xã
Tân Lân cùng với hai cán bộ của Bộ mượn nhà tôi làm điểm để đăng ký giấy
Chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 20 tháng 02 năm 1998.
Nay tôi làm giấy này xác nhận cho bà Nguyễn Thị Hẩn cùng đăng ký với bà Châu
Thị Sam, bà Sam nói với bà Hẩn để cho con trai bà đứng tên sổ đỏ là ông Lê Văn
Bẩn chứ không có tên bà Nguyễn Thị Kim Loan.
Lúc đó đăng ký chỉ có bà Hẩn và bà Sam ngồi ra khơng người nào khác.
Theo BIÊN BẢN XÁC MINH ngày 06/09/2017, người trình bày ơng Đào Văn Đông
(BL 123)
Lập biên bản xác minh về việc: Làm chứng trong việc chuyển nhượng giữa bà
Nguyễn Thị Hẩn chuyển nhượng cho ơng Lê Văn Mi và bà Châu Thị Sam.
Ơng Đào Văn Đơng trình bày: Tơi khơng có quan hệ họ hàng gì với bà Nguyễn Thị
Hẩn và ơng Lê Văn Bẩn. Vào khoảng năm 1998 thì địa phương có kế hoạch đăng
ký kê khai đất thì tơi là nhân viên của đội thuế cùng làm thủ tục để bà Loan ơng
Bẩn kê khai đứng tên GCNQSDĐ. Cịn diện tích cụ thể bao nhiêu tôi không nhớ,
không biết. Việc chuyển nhượng đất giữa bà Hẩn với ông Bẩn, Loan (ông Mi bà
Sam) tôi không biết.


Tôi chỉ làm chứng giống như giấy xác nhận ngày 10/7/2017. Tơi xác định rõ là
diện tích, cách chuyển nhượng trên hồn tồn khơng biết. Tơi chỉ làm chứng bà
Sam với bà Hẩn lên đăng ký kê khai tại nhà tôi.

Theo GIẤY XÁC NHẬN ngày 11/07/2017 của ông Võ Văn Thành (BL 100):
Ngôi đất thổ của bà Hẩn sát lộ rộng lớn ranh đất cạnh căn mợ hai ở dì Ba cho tơi
với mẹ ở trước giờ. Tơi biết Dì Ba bán ruộng cho ông Lê Văn Mi và bà Châu Thị
Sam vào năm 1986. Tôi và mẹ tôi vẫn cịn ở gần ngơi đất thổ của dì Ba Hẩn cho
đến năm 1999 tơi mới rời nhà đi thì mẹ tôi cùng tôi rời đi trả ngôi thổ lại. Tôi
không cịn sử dụng đất nữa. Năm 2001 tơi thấy ơng Bẩn và ông Mi và bà Châu Thị
Sam cất một ngơi nhà lá nhỏ ơng Mi bà Sam ở thì dì Ba xuống nói thì ơng Bẩn tháo
gỡ đi cho tới bỏ trống.
Tơi thấy dì Ba cũng tới lui ngồi thăm miếng thổ đó.
Theo ĐƠN TRÌNH BÀY ngày 17/10/2016 của bà Lê Thị Ơi, sinh năm 1937 (BL 34)
thì:
Tơi là người cùng xóm với bà Nguyễn Thị Hẩn, chồng tơi là ơng Trương Cơng Dự
thốt ly gia đình đi cách mạng kháng chiến cứu nước vào khoảng năm 1965 chồng
tôi là trưởng ban kinh tài của xã Tân Lân đã thực hiện theo chủ trương của cách
mạng cấp đất cho những người tham gia cách mạng nhưng nghèo khơng có đất sản
xuất trong đó có bà Nguyễn Thị Hẩn được cấp 9 công đất.
Do tôi và bà Hẩn cùng tham gia cách mạng nuôi dân cán bộ, đấu tranh biểu tình
nên tơi biết rõ.
Đây là tất cả sự việc mà tơi biết, tơi làm đơn này kính gởi Tịa án nhân dân huyện
cần Đước yêu cầu xem xét cho bà Nguyễn Thị Hẩn.
Theo ĐƠN TRÌNH BÀY ngày 17/10/2016 của ơng Nguyễn Văn Tuấn, sinh năm 1914
(BL 35) thì:
Tơi là người ở cùng xóm với bà Nguyễn Thị Hẩn, vào năm 1986 khi bà Hẩn bán
ruộng cho vợ chồng ông Lê Văn Mi, bà Châu Thị Sam có mời tơi và bà Bạch Thị
Kiếm (Bạch Thị Anh) làm chứng cho việc sang nhượng đất của hai bên. Tơi biết bà
Hẩn có bán cho vợ chồng ông Mi, bà Sam 23 sào ruộng sát mé sông ở ấp Bà Thoại,
xã Tân Lân với giá 03 chỉ vàng 24K, chớ khơng có bán cái gị vì tơi thấy cái gị bà
Hẩn đang cho gia đình bà Bảy Trắng ở nhờ.
về nguồn gốc phần đất này tôi biết bà Hẩn được cách mạng cấp vào năm 1965,
người cấp là ông Trương Công Dự chồng của bà Lê Thị ơi. Ơng Dự lúc đó là

trưởng ban kinh tài của xã Tân Lân đã thực hiện theo chủ trương của cách mạng


cấp đất cho những người tham giạ cách mạng nhưng nghèo khơng có đất sản xuất,
trong đó có bà Nguyễn Thị Hẩn được cấp 9 công đất.
Đây là tất cả sự việc mà tơi biết, tơi làm đơn này kính gửi Toà án nhân dân huyện
Cần Đước yêu cầu xem xét cho bà Nguyễn Thị Hẩn.
Theo ĐƠN TRÌNH BÀY ngày 17/10/2016 của bà Bạch Thị Kiểm (Bạch Thị Anh),
sinh năm 1952 (BL 36) thì:
Tơi là người ở cùng xóm với bà Nguyễn Thị Hẩn vào năm 1986 khi bà Hẩn bán
ruộng cho vợ chồng ông Lê Văn Mi, bà Châu Thị Sam có mời tơi và ơng Nguyễn
Văn Tuấn làm chứng cho việc sang nhượng đất của hai bên. Tôi biết bà Hẩn có bán
cho vợ chồng ơng Mi, bà Sam 25 sào ruộng sát mé sông ở ấp Bà Thoại, xã Tân Lân
với giá 03 chỉ vàng chớ không có bán cái gị vì thơi thấy cái gị bà Hẩn đang cho
gia đình bà Bày Trắng ở nhờ.
Đây là tất cả sự việc mà tôi biết, tôi làm đơn này kính gửi Tồ án nhân dân huyện
cần Đước u cầu xem xét cho bà Nguyễn Thị Hẩn để tránh làm oan cho người
ngay.
Theo ĐƠN TRÌNH BÀY ngày 17/10/2016 của bà Nguyễn Thị Thẩm (Bảy Trắng),
sinh năm 1941 (BL 37) thì:
Tơi là người cùng xóm với bà Nguyễn Thị Hẩn, do hồn cảnh gia đình tơi nghèo
khó khăn khơng có chỗ ở nên vào năm 1983 tơi có xin và được bà Hẩn cho gia
đình tơi cất nhà ở nhờ trên cái gị của bà diện tích khoảng 1 cơng đất, tôi đã ở trồng
trọt và chăn nuôi trên cái gị đó. Đến năm 1986 tơi biết bà Hẩn có sang nhượng lại
cho vợ chồng ông Lê Văn Mi, bà Châu Thị Sam 25 sào ruộng ở sát mé sông giá 03
chỉ vàng 24k, bà Hẩn khơng có bán cái gị bà Hẩn đang cho tơi ở nhờ.
Tơi biết khoảng năm 1989 thì bà Sam có ý muốn mua phần đất cịn lại là cái gị của
tơi đang ở nên bà Hẩn kêu tôi dọn nhà đi để trả đất cho bà Hẩn bán. Đến năm 1994
tôi kiếm đất được mời rời nhà đi nhưng lúc đó bà Sam khơng mua cái gị của Hẩn
nữa.

Cái gị này hiện nay tơi thấy con của ông Mi, bà Sam và vợ chồng Lê Văn Bẩn,
Nguyễn Thị Kim Loan đã san xuống thành ruộng cấy lúa.
Tôi là người được bà Hẩn cho ở nhờ trên cái gị diện tích 1000m2 này nên tơi biết
rõ và làm đơn này kính gửi Tịa án nhân dân huyện cần Đước yêu cầu xem xét cho
bà Nguyễn Thị Hẩn để tránh làm oan cho người ngay.
Theo BIÊN BẢN LẤY LỜI KHAI ngày 23/8/2017 của bà Nguyễn Thị Thấm :


Bà Thấm khơng có quan hệ gì với bà Hẩn. Tôi không biết nguồn gốc một phần
thửa 2647, 2648 như thế nào, trước đây tơi có về ở nhờ phần đất của bà Hẩn ở cạnh
bờ đê nhưng tôi không nhớ năm nào, sau đó tơi mua phần đất kề bên cất nhà nên
tôi trả lại bà Hẩn, hiện nay tôi chỉ biết bà Loan đang sử dụng phần đất này.
Tơi chỉ có nghe nói có việc mua bán đất giữa bà Hẩn và gia đình ơng Bẩn, như thế
nào tôi không biết.
4. Chứng cứ trong hồ sơ
-

Theo GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT mà bà Hẩn nộp cho Tịa
án (BL 3) thì giấy chứng nhận được cấp cho bà Nguyễn Thị Kim Loan, thửa đất
2647 diện tích 919 m2 đất T và thửa đất 2648 diện tích 2967 m2 đất lúa.

-

Theo GIẤY CHỨNG NHẬN CẤP CHO BÀ NGUYỄN THỊ HẨN ngày
26/12/1998 (BL 7) thì bà Hẩn được quyền sử dụng 8127 m2 đất tại Tân Lân, Cần
Đước, Long An: thửa 2608 tờ bản đồ số 3, diện tích 3554 m2, mục đích sử dụng
lúa; thửa 2707 tờ bản đồ số 3 diện tích 958 m2, mục đích sử dụng T; Thửa 2775,
diện tích 550 m2, mục đích sử dụng: Lúa; Thửa đất số 46, tờ bản đồ số 6 diện tích
3065 m2, mục đích sử dụng: Lúa.


-

Theo TỜ GIAO KÈO RUỘNG ĐẤT SANG NHƯỢNG NGÀY 6/2/1986 (BL
21):
“Hôm nay, ngày 6 tháng 2 năm 1986 tôi cùng chồng ông Lê Văn Lộc
Bà Nguyễn Thị Hẩn và con Lê Văn Hùng đồng ý sang nhượng cho ông Lê Văn
Mi bà Châu Thị Sam 25 sào đất ở mé sông trong đó tơi cịn đất với gị là 10 sào
từ chỗ bờ mé anh Ba Sam chạy ngược qua đường giáp ranh bà mợ hai ở có gị
cho dì Bảy Trắng anh Năm Tình ở của bà Nguyễn Thị Hẩn
Sang nhượng 25 sào là 3 chỉ vàng 24
Bà Châu Thị Sam chồng đủ số vàng có người chứng ơng Nguyễn Văn Tuấn
Có người chứng Bạch Thị Anh

Ơng bà Lê Văn Mi đồng ý sau khi tôi sang nhượng 25 đất
Con ông bà có tranh chấp thì tơi đo từ mé sơng tơi đo vơ đủ 25 của bà ơng thì
thơi ơng bà Lê Văn Mi đồng ý tơi mới bán.
Dì Bảy Trắng có ở một cái gị của chị Ba Hẩn
Bà Thị Trắng (0908832441)”

-

Theo BIÊN BẢN XÉT CẤP GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
NĂM 1997 (BL 23) , sau khi xét đơn đăng ký quyền sử dụng đất của … tổ chức và


các cá nhân. Căn cứ vào nguồn gốc sử sử dụng đất, tình hình sử dụng đất của từng
tổ chức cá nhân trên. Căn cứ luật đất đai và các văn bản pháp quy có liên quan. Hội
đồng đã nhất trí 157 cá nhân đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
(chi tiết ghi trong danh sách kèm theo).
-


Theo TỜ TRÌNH V/V PHÊ DUYỆT GIẤY CHỨNG NHẬN QSDĐ NGÀY 12/
…/1998 thì:
“- Căn cứ luật đất đai nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa ban hành qui định
201.QĐ/ĐKTK ngày 14/07/89 của Tổng Cục QLRĐ chủ trương, kế hoạch triển
khai cấp giấy chứng nhận QSDĐ, thực hiện - chủ trương, triển khai cấp giấy
chứng nhận QSDĐ của ƯBND Huyện - cần Đước.
UBND xã Tân Lân đã tổ chức đo đạc lập bản đồ địa chính tổ chức kê khai đăng
ký sử dụng đất, lập sổ địa chính, đồng thời chỉ đạo hội đồng xét cấp giấy chứng
nhận QSDĐ xã thực hiện đầy đủ các thủ tục xét cấp giấy chứng nhận như thông
tư hướng dẫn - số 302 TT/RĐ-ĐKTK ngày 28/10/1989 của Tổng cụ quản lý cụ
thể:
- Đã tổ chức xét đơn đăng ký sử dụng đất của 156 cá nhân sử dụng đất.
- Đã tổ chức công khai hồ sơ và kết quả xét cấp giấy CNQSDĐ để trưng cầu ý
kiến của nhân dân trong xã từ ngày.....đến ngày.... tháng.......năm..........
- Đã tổ chức thẩm tra, xác minh trường họp có đơn - thư khiéu nại, góp ý cùa
nhân dân.
Kết quả đến nay đã xét được: 157 cá nhân Đủ điều kiện để cấp giấy chứng nhận
QSDĐ”

-

Theo “TỜ TRÌNH V/V PHÊ DUYỆT CẤP GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ
DỤNG RUỘNG ĐẤT” ngày 12/2/1998 (BL 26), UBND xã Tân Lân có tờ trình số
01 gởi UBND huyện Cần Đước đề nghị được phê duyệt để cấp giấy chứng nhận
cho 156 cá nhân sử dụng đất tại xã Tân Lân.
Cơ quan Quản lý đất đai (Phịng địa chính) đã tiến hành kiểm tra và đánh giá về
các mặt. Nay trình Chủ tịch UBND huyện cần Đước như sau:
1. Xã Tân Lân có tổng diện tích tự nhiên được chia ra:
2. Tình hình về điều kiện để cấp giấy chứng nhận của xã

3. Quá trình tổ chức thực hiện của xã
4. Hồ sơ cấp giấy CNQSDĐ đã lập


5. Những ý kiến của các cơ quan có liên quan
6. Kết luận và đề nghị”.
-

Tại BIÊN BẢN HÒA GIẢI TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT NGÀY
08/9/2016 (BL 27):
Ý kiến của Nguyên đơn và Bị đơn:
- Nguyên đơn trình bày:
Đúng với nội dung đơn đã thông qua. Bán đất cho ông Lê Văn Mi và bà Châu
Thị Sam năm 1986 và có làm giấy tay.
- Bị đơn trình bày:
Bán hết phần đất, có phần đất gị khơng biết. Quyển sử dụng đất cấp năm 1998
do bà Nguyễn Thị Kim Loan đứng tên.
Kết luận:
- Đ/c Nguyễn Nhựt Luân kết luận:
Qua xác minh và những giấy tờ bà Hẩn cung cấp là không đủ cơ sở pháp lý.
Năm 1986 đất là của tập đồn chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên
không công nhận đất của bà Nguyễn Thị Hẩn
Công nhận QSDĐ của bà Nguyễn Thị Kim Loan do UBND huyện cần Đước
cấp QSDĐ sổ BI 519134 ngày 25/6/2013
TS: 2647; TBĐ: 3; DT: 669; LĐ: ONT QSDĐ số BI 519133 ngày 25/6/20Ỉ3,
TS: 2648, TBĐ: 3; DT: 2917m2; LĐ: Chuyên trồng lúa nước.

-

BIÊN LAI bà Hẩn nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng 06/10/2017 (BL 29).


-

BẰNG KHEN “đã góp sức, góp công vào cuộc Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”
ngày 23/01/2006 do Thủ tướng Phan Văn Khải tặng bà Hẩn.

-

Theo tờ TRÍCH LỤC BẢN ĐỒ ĐỊA CHÍNH NĂM 2013:
Chủ sử dụng: Nguyễn Thị Kim Loan Thửa số 2647 (pcl). Tờ bản đồ: 03. Diện
tích: 669 m2. Mục đích sử dụng: Đất ở tại nông thôn (ONT) Thửa số: 2648
(pcl). Tờ bản đồ: 03. Diện tích: 2917m2. Mục đích sử dụng: Đất chuyên trồng
lúa nước (LUC)
Địa chỉ thửa đất: Xã Tân Lân , Huyện cần Đước, Tỉnh Long An.

-

Theo QUYẾT ĐỊNH của Ủy ban nhân dân huyện Cần Đước “V/v cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất” ngày 26/02/1998 (BL 68):


- Căn cứ quyết định số 201/QĐ.ĐKTK ngày 14/7/1989 của Tổng cục QLRĐ
ban hành qui dịnh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Căn cứ tờ trình số 01 ngày 10/1/1998 của UBND xã Tân Lân và đề nghị của
Hội dồng xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất xã Tân Lân.
- Căn cứ tờ trình số 04 của cơ quan quản lý đất đai (phịng Địa Chính huyện
Cần Đước).
Quyết định:
Điều 1: Nay cấp giấy chứng nhận quyền sử đụng đất cho 156 cá nhân có tên
trong danh sách kèm theo với diện tích là ….”

-

Theo CƠNG VĂN SỐ 403/UBND-TD NGÀY 20/6/2017 của UBND huyện Cần
Đước V/v cung cấp chứng cứ:
Ngày 26/02/1998, ủy ban nhân dân huyện Cần Đước cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số vào sổ 01773 cho bà Nguyễn Thị Kim Loan, thửa đất số
2647 và 2648 cùng tờ bản đồ số 03, xã Tân Lân (đính kèm).
Đến ngày 25/6/2013, ủy ban nhân dân huyện Cần Đước cấp đổi Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
cho bà Nguyễn Thị Kim Loan: Giấy chứng nhận số BP 519133, thửa 2648 và
Giấy chứng nhận số BP 519134, thửa 2647 (đính kèm).
Việc ủy ban nhân dân huyện cần Đước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
và cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sờ hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất cho bà Nguyễn Thị Kim Loan là đúng theo quy định của
pháp luật.

-

Theo CHỨNG THƯ THẨM ĐỊNH GIÁ ngày 11/09/2017 thì thửa 2647:
143.169.300 đồng, thửa 2648: 214.105.800 đồng. Tổng cộng 357.275.100 đồng.

-

Theo MẢNH TRÍCH ĐO ĐỊA CHÍNH số 2017 (BL 122):
Thửa đất số 2647, diện tích hiện trạng 243,9 m2, diện tích trên GCN 669 m2
Thửa đất số 2648, diện tích hiện trạng 903,4 m2, diện tích 2967 m2.
Tổng cộng hiện trạng 1147,3 m2, theo giấy chứng nhận 3638 m2.

5. Tiến trình tố tụng
Ngày 11/11/2016, TAND huyện Cần Đước có Phiếu chuyển hồ sơ vụ án, theo đó: Tồ

án nhân dân huyện Cần Đước chuyển tồn bộ hồ sơ đơn khởi kiện cùng lài liệu kèm
theo của bà Nguyền Thị Hẩn đến Tòa án nhân dân tỉnh Long An giải quyết theo thẩm
quyền và thông báo cho bà Nguyễn Thị Hẩn biết.


Ngày 21/11/2016, TAND tỉnh Long An có Thơng báo u cầu sửa đổi, bổ sung đơn
khởi kiện, yêu cầu bà Hẩn sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện, cụ thể:
-

Văn bản tạm tính giá trị 1000 m2 đất thuộc thửa 2647 và một phần thửa 2648,
tờ bản đồ số 3 tại ấp Bà Thoại, xã Tân Lân, huyện Cần Đước.

-

Cung cấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ông Lê Văn Bẩn cho
bà Nguyễn Thị Kim Loan thửa 2647 và thửa 2648, tờ bản đồ số 3.

Ngày 05/12/2016, bà Hẩn có Văn bản tạm tính giá trị tài sản tranh chấp, theo đó bà
Hẩn tranh chấp 1000 m2 đất có giá 120.000.000 đồng.
Ngày 15/12/2016, TAND tỉnh Long An ra Thơng báo nộp tiền tạm ứng án phí
3.000.000 đồng.
Ngày 15/12/2016, bà Hẩn nộp tạm ứng 3.000.000 đồng.
Ngày 19/12/2016, TAND tỉnh Long An Thông báo về việc thụ lý vụ án “Tranh chấp
quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Ngày 21/02/2017, TAND tỉnh Long An Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ và hịa giải vào ngày 06/03/2017.
Ngày 06/03/2017, ơng Lê Văn Bẩn giao cho Tịa án các giấy chứng nhận:
1. Giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa 2647 (669 m2) tờ bản đồ 3 xã Tân Lân,
huyện Cần Đước cấp cho bà Nguyễn Thị Kim Loan ngày 25/6/2013;

2. Giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa 2648 (2917 m2) tờ bản đồ 3 xã Tân Lân,
huyện Cần Đước cấp cho bà Nguyễn Thị Kim Loan ngày 25/6/2013;
3. Giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa 2647 (919 m2), 2648 (2648 m2) tờ bản
đồ 3 xã Tân Lân, huyện Cần Đước cấp cho bà Nguyễn Thị Kim Loan ngày
26/02/1998.
Ngày 06/03/2017, TAND tỉnh Long An lập Biên bản làm việc về việc bà Hẩn yêu cầu
xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá đối với thửa 2647 và 2648.
Ngày 07/06/2017, TAND tỉnh Long An có Cơng văn số 238/TA-DS gửi UBND huyện
Cần Đước yêu cầu cung cấp tài liệu chứng cứ trong vụ án dân sự thụ lý số
144/2016/TLST-DS ngày 15/12/2016 về "Tranh chấp quyền sừ dụng đất và yêu cầu
hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất" giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hẩn và bị
đơn ông Lê Văn Bẩn, bà Nguyễn Thị Kim Loan.


Ngày 08/06/2017, TAND tỉnh Long An ra Quyết định xem xét, thẩm định tại chỗ (có
đo đạc) đối với khu đất tranh chấp.
Cùng ngày 08/06/2017, TAND tỉnh Long An ra Quyết định định giá tài sản đang tranh
chấp.
Ngày 08/09/2017, TAND tỉnh Long An lập Biên bản về kiểm tra việc giao nộp, tiếp
cận, công khai chứng cứ.
Ngày 08/09/2017, TAND tỉnh Long An lập Biên bản hòa giải: Sau khi hòa giải, các
đương sự vẫn giữ nguyên ý kiến Tòa án tun bố hịa giải khơng thành. Tịa án sẽ giải
quyết theo quy định của pháp luật.
Ngày 08/09/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã có Quyết định đưa vụ án ra xét xử
vào ngày 25/9/2017.
II.

VỀ TỐ TỤNG
1. Quan hệ pháp luật tranh chấp


Xét yêu cầu của bà Nguyễn Thị Hẩn về việc địi ơng Lê Văn Bẩn, và Nguyễn
Thị Kim Loan trả lại đất trên cơ sở Tờ giao kèo ruộng đất sang nhượng ngày
06/02/1986. Bà Hẩn cho rằng bà có tổng cộng 4000 m2 đất do chính quyền cách
mạng chia. Theo Tờ giao kèo ruộng đất sang nhượng ngày 06/02/1986 thì bà Hẩn bán
cho cha mẹ ơng Bẩn 25 sào ruộng, không bán 1000 m2 đất thổ nhưng gia đình ơng
Bẩn đã tự ý kê khai với Nhà nước là bà Hẩn đã bán toàn bộ đất cho gia đình ơng Bẩn
và đã được cấp giấy chứng nhận.
Xét trình bày của ơng Bẩn, bà Loan về việc cha mẹ ơng Bẩn có nhận chuyển
nhượng tồn bộ đất của bà Hẩn bao gồm diện tích 669 m2 đất ở 2917 m2 đất trồng
lúa và đã cho vợ chồng ông Bẩn, bà Loan đã quản lý, sử dụng ổn định từ năm 1986
đến nay. Ơng Hẩn, bà Loan khơng đồng ý với yêu cầu trả lại đất cũng như yêu cầu
hủy giấy chứng nhận của bà Hẩn.
Như vậy nguyên đơn và bị đơn đang có tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất năm 1986, liên quan đến việc bà Hẩn đã bán toàn bộ hay một phần
đất cho cha mẹ ơng Bẩn. Từ đó có thể xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ
án này là “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
2. Thủ tục tiền tố tụng
Quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án là “Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất”. Căn cứ quy định tại Điều 202 Luật đất đai; điểm b
Khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và Điều 3 Nghị quyết 04/2017/NQHĐTP (hướng dẫn một số quy định tại Khoản 1 và Khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng
dân sự 2015 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án) thì đối với
loại tranh chấp về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất khơng u cầu thủ tục
hịa giải tranh chấp trước khi khởi kiện.


3. Thẩm quyền của Tòa án
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là loại tranh chấp về
hợp đồng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại Khoản 3
Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
Ngoài ra, yêu cầu về hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong vụ án này là

yêu cầu hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan có thẩm quyền xâm phạm
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tịa án có nhiệm vụ
giải quyết, căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật tố tụng hành chính 2015,
mục 1 phần I Văn bản giải đáp số 02/GĐ-TAND tối cao ngày 19/9/2016 và tại mục 7
phần IV Công văn số 89/TAND tối cao-PC ngày 30/6/2020.
Về thẩm quyền theo cấp Tòa án, căn cứ quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 35
Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì tranh chấp về hợp đồng dân sự khơng có yếu tố nước
ngồi thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện. Tuy nhiên, trong
vụ án này cịn một u cầu khác đó là “hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”, căn
cứ theo quy định tại Khoản 4 Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì thẩm quyền
của cấp Tịa án giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp có xem xét việc hủy quyết
định cá biệt quy định được xác định theo quy định tương ứng của theo Luật tố tụng
hành chính về thẩm quyền của Tịa án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
Căn cứ theo quy định tại Khoản 4 Điều 32 Luật tố tụng hành chính 2015, Tịa
án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết khiếu kiện quyết định hành chính của
Ủy ban nhân dân cấp huyện trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tịa án. Quyết
định hành chính có liên quan trong vụ án này là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
do UBND huyện Cần Đước, tỉnh Long An cấp.
Như vậy, Tịa án có thẩm quyền giải quyết vụ án này là Tòa án nhân dân huyện
Cần Đước, tỉnh Long An.
4. Tư cách đương sự
Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị Hẩn, sinh năm 1948; địa chỉ: Ấp Bà Thoại, xã
Tân Lân, huyện cần Đước, tỉnh Long An (căn cứ theo Khoản 2 Điều 68 Bộ luật tố tụng
dân sự 2015).
Bị đơn: ông Lê Văn Bẩn, sinh năm 1960 và bà Nguyễn Thị Kim Loan, sinh
năm 1957; cùng địa chỉ: Ấp Bà Thoại, xã Tân Lân, huyện cần Đước, tỉnh Long An
(căn cứ theo Khoản 2 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự 2015).
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (căn cứ khoản 4 Điều 68, khoản 3
Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự 2015) :
1. UBND huyện Cần Đước, tỉnh Long An: là cơ quan cấp giấy chứng nhận cho bà

Kim Loan, cần tham gia giải quyết vụ án với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan để giải quyết yêu cầu hủy giấy chứng nhận.


2. UBND xã Tân Lân: là cơ quan lập hồ sơ đề nghị UBND huyện Cần Đước, tỉnh
Long An, cần đưa UBND xã Tân Lân vào tham gia giải quyết vụ án nhằm xác định
việc cấp giấy chứng nhận cho bà Loan có được thực hiện đúng theo trình tự, thủ tục
luật định hay khơng.
3. Ngồi ra, nếu bà Hẩn có chồng, con mà trước đây có tham gia quản lý, sử dụng
đất thì cần đưa những người này tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan.
5. Thời hiệu khởi kiện
Tranh chấp về hợp đồng dân sự có thời hiệu khởi kiện là 03 năm, kể từ ngày
người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm
phạm.
Theo trình bày của bà Hẩn tại Đơn khởi kiện:
“Sau đó năm 2008 con tơi chết, tơi đau buồn quá nên không để ý đến đất đai,
đến cuối năm 2014 tơi làm ở thành phố về thì phát hiện ông Bẩn đã ban ngôi nền của
tôi 1.000 m2 xuống thành ruộng cấy lúa và đào vuông nuôi tôm”.
Như vậy, đến năm 2014 bà Hẩn mới biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị
xâm phạm. Bà Hẩn khởi kiện ngày 16/9/2016 là còn trong thời hạn khởi kiện 03 năm.
III. VỀ NỘI DUNG
1. Các vấn đề pháp lý mấu chốt:
(1) Nguồn gốc 9000 m2 đất? Giấy tờ? Giá trị các tài liệu BL 30-37, 47 –
Đánh giá giá trị pháp lý lời khai của người làm chứng
Chủ trương chia đất cho người có cơng CM của UBND 1965?
(2) Giá trị pháp lý của tờ giao kèo ruộng đất sang nhượng – BL 21
2. Đánh giá hiệu lực của việc chuyển nhượng QSDĐ ngày 2/6/1986
Theo Mục 2.2 Phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004:
“2.2. Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

được xác lập từ ngày 01/7/1980 (ngày Chính phủ ban hành Quyết định số 201/CP)
đến trước ngày 15/10/1993 (ngày Luật Đất đai năm 1993 có hiệu lực)
Pháp luật thời kỳ này nghiêm cấm việc mua, bán phát canh thu tô chuyển
nhượng đất đai dưới mọi hình thức; do đó, khi có tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, Toà án giải quyết như sau:
a) Về nguyên tắc chung hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đai được
xác lập trong thời điểm từ ngày 01/7/1980 đến trước ngày 15/10/1993 là hợp đồng trái
pháp luật; do đó, nếu có tranh chấp mà hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
chưa được thực hiện thì Tồ án hủy hợp đồng vì hợp đồng bị vô hiệu. Việc giải quyết


hậu quả của hợp đồng vô hiệu được thực hiện theo hướng dẫn tại tiểu mục 2.3 mục 2
này.
b) Nếu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được thực hiện thì Tồ
án cơng nhận hợp đồng trong các trường hợp sau đây:
b.1) Bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được Ủy ban nhân dân
cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp
luật về đất đai;
b.2) Trường hợp đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng
bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã hoàn tất thủ tục xin cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất tại Ủy ban nhân dân có thẩm quyền, Ủy ban nhân dân đã cho
phép việc chuyển nhượng;
b.3) Bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã xây nhà ở, cơng trình kiến
trúc, trồng cây lâu năm, đầu tư sản xuất, kinh doanh không vi phạm quy định về quy
hoạch và bên chuyển nhượng cũng không phản đối khi bên nhận chuyển quyền sử
dụng đất xây nhà ở, cơng trình kiến trúc, trồng cây lâu năm, đầu tư sản xuất, kinh
doanh trên đất đó”.
3. Điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
-


Luật đất đai 1993

-

Nghị định 64-CP ngày 27/9/1993 về việc ban hành quy định về giao đất nơng
nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định vào mục đích sản xuất nơng
nghiệp.

-

Cơng văn số 1427 ngày 13/10/1995 của Tổng cục địa chính hướng dẫn về cấp
GCN QSDĐ

-

Thông tư liên tịch số 1990/2001/TT-TCĐC ngày 30/11/2001 hướng dẫn đăng
ký đất đai, lập hồ sơ địa chính và cấp GCNQSDĐ.



×