TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ - ĐỊA CHẤT
KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
BÀI TIỂU LUẬN
MÔN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TÊN ĐỀ TÀI:
PHÂN TÍCH MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
VIỆT NAM VÀ CHỦ TRƯƠNG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XHCN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI
TÊN SINH VIÊN:
MÃ SỐ SINH VIÊN:
HÀ NỘI
MỤC LỤC
A.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Lý do chọn đề tài
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đất nước ta đã tiến vào con đường xây dựng
Xã hội chủ nghĩa, một xã hội lý tưởng mà mọi người bình đẳng để cùng phát triển
kinh tế, mưu cầu hạnh phúc. Đó là bước ngoặt lớn của cả dân tộc, mở ra một trang
sử chói lọi cho nước Việt Nam sau hơn 80 năm dưới ách thuộc địa. Dù gặp phải
muôn vàn khó khăn, thử thách nhưng dưới đường lối sáng suốt của Đảng, nhân dân
ta đã giành thắng lợi trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ, hồn thành việc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Chúng ta, những
thế hệ đi sau, được hưởng những thành quả đó, phải ln ln tự hào và biết ơn về
những trang sử hào hùng đó.
Từ năm 1975, nước ta lại bước vào một chặng đường mới với những nhiệm vụ
mới. Đó là xây dựng đất nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả
nước. Cùng với phát triển cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, Đảng và Nhà nước cũng hết sức chú trọng đến việc xây
dựng một hệ thống chính trị vững mạnh, thống nhất, xứng tầm với nhiệm vụ của
đất nước.
Đặc biệt, vào năm 1986, tại Đại hội VI, Đảng ta đã xác định tiến hành cơng
cuộc đổi mới tồn diện nhằm đưa đất nước thốt khỏi khủng hoảng trong đó lấy
đổi mới kinh tế làm trọng tâm, bên cạnh đó là đổi mới chính trị nhằm phù hợp với
hồn cảnh và tình hình mới. Đến Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khoá VII (1991), Đảng đã đưa ra khái niệm “Nhà nước pháp quyền XHCN”
nhằm phát huy tính công bằng, công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ
quan Nhà nước.
Từ việc nhận thức được tầm quan trọng của việc tuyên truyền về công cuộc
xây dựng hệ thống chính trị và Nhà nước pháp quyền của Đảng, tơi quyết định lựa
chọn đề tài: “Phân tích mục tiêu, quan điểm xây dựng hệ thống chính trị Việt Nam
và chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Đảng Cộng sản Việt
Nam thời kỳ đổi mới” để trình bày quan điểm của bản thân.
2. Mục đích nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu quá trình hình thành và đổi mới tư duy, quan điểm, chủ
trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới hệ thống chính trị và xây dựng
Nhà nước pháp quyền thời kỳ đổi mới trên cả mặt lý luận và thực tiễn.
1.
3
Phạm vi, đối tượng, phương pháp nghiên cứu
Phạm vi: Từ Đại hội VI (năm 1986) đến nay.
Đối tượng: Việc xây dựng hệ thống chính trị và Nhà nước pháp quyền của Đảng
Cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp duy vật biện chứng: Chủ yếu dựa vào quan điểm Mác – Lenin về
duy vật biện chứng.
Phương pháp duy vật lịch sử: Nghiên cứu dựa theo các sự kiện lịch sử, hiện
tượng chính trị.
Phương pháp tổng hợp, nghiên cứu tài liệu: Tham khảo các tài liệu từ các
nguồn chính thống để đưa ra nhận định.
4. Ý nghĩa đề tài
Giúp nâng cao nhận thức về đặc điểm, bản chất, vai trò, tầm quan trọng của việc
xây dựng hệ thống chính trị và Nhà nước pháp quyền XHCN của Đảng Cộng sản
Việt Nam
Thể hiện đánh giá của bản thân và đề xuất những giải pháp vừa tầm với nhận thức
và kiến thức của mình để đóng góp vào việc xây dựng hệ thống chính trị ở nước ta.
3.
•
•
•
•
•
B.
NỘI DUNG
Làm rõ mối quan hệ giữa các thiết chế trong hệ thống chính trị Việt Nam
thời kỳ đổi mới
1. Khái niệm Hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị là một bộ phận kiến trúc thượng tầng xã hội, bao gồm các tổ
chức, các thiết chế có quan hệ với nhau về mục đích, chức năng tham gia thực hiện
quyền lực chính trị hoặc đưa ra các quyết định chính trị. Các chủ thể có bộ máy, có
tư cách pháp lý. Hệ thống chính trị được tổ chức có tính hợp pháp và hệ thống tổ
chức được hiến pháp, pháp luật quy định. Các tổ chức, thiết chế trong hệ thống có
mục đích, chức năng, tham gia thực hiện quyền lực nhà nước, quyền lực chính trị
và thực hiện các chính sách quốc gia. Đây là cơ sở quan trọng để phân biệt các tổ
chức của hệ thống chính trị với các tổ chức có mục đích hoặc chức năng kinh tế xã hội đa dạng khác. Giữa các bộ phận cấu thành hệ thống bao giờ cũng có một bộ
phận giữ vai trò nòng cốt, hạt nhân làm động lực thúc đẩy và dẫn dắt cả hệ thống
vận hành theo một mục tiêu hoặc một phương hướng xác định.
I.
Trong các xã hội chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản, hệ thống chính trị hình
thành và phát triển cùng với quá trình vận động của mâu thuẫn đối kháng giữa các
4
giai cấp gắn với cuộc đấu tranh của nhân dân lao động và các lực lượng tiến bộ
chống lại xã hội đó, làm thay đổi các hệ thống chính trị theo hướng tiến bộ, hoặc
thủ tiêu và thay thế nó bằng một hệ thống chính trị dân chủ, tiến bộ hơn.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa giai cấp công nhân và nhân dân dân lao động
chính là chủ thể thực sự của quyền lực chính trị - xã hội, tự bản thân nó đã vận
động xây dựng và giữ vai trò quản lý xã hội, quyết định đến nội dung hoạt động
của hệ thống chính trị trong xã hội. Điển hình là tại Việt Nam với hệ thống chính
trị được xây dựng theo suốt chiều dài lịch sử và quá trình đấu tranh giành và giữ
độc lập dân tộc cho đất nước.
2. Cấu
trúc hệ thống chính trị của nước ta
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, hệ thống chính trị ở nước ta là
một cơ chế và công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Ở Việt Nam, khái
niệm “hệ thống chính trị” lần đầu tiên được Đảng ta sử dụng trong Văn kiện Hội
nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (tháng 3/1989) thay cho
khái niệm “hệ thống chuyên chính vơ sản”. Hệ thống chính trị này bao gồm có:
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân (Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ
Chí Minh, Tổng Liên đồn lao động Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Hội Liên
hiệp phụ nữ Việt Nam...). Hệ thống chính trị nước ta vận hành theo cơ chế Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Đây không chỉ đơn giản là sự thay
đổi tên gọi mà là một bước đổi mới quan trọng trong tư duy chính trị của Đảng ta.
Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại
biểu trung thành lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của cả dân
tộc. Đảng là một bộ phận của hệ thống chính trị, đồng thời là hạt nhân lãnh đạo của
tồn bộ hệ thống chính trị.
Ðảng Cộng sản Việt Nam là Ðảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Chức năng lãnh đạo của Đảng thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau: Đảng đề
ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, chủ trương phát triển kinh tế, xã
hội; đồng thời Đảng là người lãnh đạo và tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối
đó.
2.1.
5
Đảng tổ chức, thực hiện tuyên truyền, thuyết phục, vận động các tổ chức và xã
hội ủng hộ, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Ðảng thống nhất lãnh đạo
công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ
năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống
chính trị. Ðảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các
tổ chức của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua việc thực hiện, kiểm tra,
giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên.
2.2. Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nhà nước là trụ cột của hệ
thống chính trị Việt Nam. Nhà nước gồm có các cơ quan trung ương như Quốc hội,
Chính phủ, Tịa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân và chính quyền địa phương.
2.2.1. Quốc hội
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện
quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám
sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.
Quốc hội được toàn thể Nhân dân bầu ra theo hình thức phổ thơng đầu phiếu
với nhiệm kỳ 5 năm.
2.2.2. Chủ tịch nước
Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong
số đại biểu Quốc hội. Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước
Quốc hội.
2.2.3. Chính phủ
Chính phủ là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ chịu trách nhiệm
trước Quốc hội và báo cáo cơng tác trước Quốc hội. Chính phủ thực hiện chức
năng hành pháp, “tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp
lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch
nước”, thống nhất quản lý về các lĩnh vực, ngành và nền hành chính quốc gia.
2.2.4. Tịa án nhân dân
Tịa án nhân dân là cơ quan xét xử thực hiện quyền tư pháp. Tòa án gồm Tòa
án nhân dân được thành lập từ cấp trung ương đến cấp huyện và các tịa án khác do
luật định. Tịa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
6
•
•
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Tòa án xét xử độc lập chỉ tuân theo
pháp luật. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm; thực hiện chế độ xét
xử sơ thẩm, phúc thẩm.
2.2.5. Viện kiểm sát nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.
Nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân là bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
2.2.6. Chính quyền địa phương
Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính. Cấp chính
quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức
phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc
biệt theo luật định.
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý
chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra,
chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên”.
Ủy ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp
bầu, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở
địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà
nước cấp trên.
2.3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện
của các tổ chức chính trị - xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng
lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo; người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Từ khi được thành lập đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng và cùng trải qua các
thời kỳ hoạt động cách mạng với những tên gọi khác nhau, Mặt trận là tổ chức tập
hợp, phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống đoàn kết dân tộc của Việt Nam một nhân tố quan trọng góp phần quyết định vào thắng lợi của sự nghiệp cách
mạng giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò tập hợp,
thu hút các tầng lớp Nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội; tuyên truyền động
viên Nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng,
nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật.
7
Các tổ chức chính trị - xã hội bao gồm: “Cơng đồn Việt Nam, Hội Nơng dân
Việt Nam, Đồn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện
và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên, tổ chức
của mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất
hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”.
Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội là một bộ phận của hệ thống chính trị,
là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, đại diện cho quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của Nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại
đồn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, nơi hiệp thương, phối
hợp và thống nhất hành động của các thành viên. Ðảng Cộng sản Việt Nam vừa là
thành viên vừa là tổ chức lãnh đạo Mặt trận.
Chủ trương xây dựng hệ thống chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam thới
kỳ đổi mới
3.1. Đổi mới tư duy về hệ thống chính trị:
Việc khơng sử dụng khái niệm “hệ thống chun chính vơ sản” và sử dụng
khái niệm “hệ thống chính trị” là kết quả của bước đổi mới tư duy chính trị có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, thể hiện ở các vấn đề nhận thức mới về mối
quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.
Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới kinh tế trong
việc hoạch định đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại. Khơng có sự đổi
mới đó thì khơng có mọi sự đổi mới khác. Đảng ta đã đúng khi tập trung trước hết
vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng
kinh tế - xã hội, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định
chính trị, xây dựng, củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các
mặt khác của đời sống xã hội. Như vậy, việc sử dụng khái niệm “hệ thống chính
trị” đã phản ánh và đáp ứng yêu cầu chuyển đổi từ thể chế kinh tế kế hoạch hóa
tập trung quan liêu, bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Nhận thức mới về đấu tranh giai cấp và về động lực chủ yếu phát triển đất
nước trong giai đoạn mới. Về vấn đề này, Đại hội IX của Đảng cho rằng: “Trong
thời kỳ q độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần
kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng cơ cấu, tính chất, vị trí của
các giai cấp trong xa hội ta đã thay đổi nhiều cùng với những biến đổi to lớn về
3.
8
3.2.1.
kinh tế, xã hội. Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp
tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Lợi ích giai cấp cơng nhân thống nhất với lợi ích tồn dân tộc trong mục
tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai
cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo
kém phát triển; thực hiện cơng bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh
ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu
tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch;
bảo vệ độclập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn
vinh, nhân dân hạnh phúc. Động lực chủ yếu phát triển đất nước là đại đoàn kết
toàn dân trên cơ sở liên minh giữa cơng nhân với nơng dân và trí thức do Đảng
lãnh đạo, kết hợp hài hịa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm
năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội”. Nhận thức trên
đây là cơ sở tư tưởng, lý luận rất quan trọng để xác định bản chất dân chủ của hệ
thống chính trị và đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị. Nhận
thức mới này đã khắc phục tư tưởng tả khuynh cho rằng chun chính vơ sản là sự
tiếp tục đấu tranh giai cấp dưới hình thức mới.
Trong đổi mới tư duy về hệ thống chính trị, vấn đề đổi mới tư duy về Nhà nước
có tầm quan trọng đặc biệt. Thuật ngữ “xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN”
lần đầu tiên được đề cập tại Hội nghị Trung ương 2 khóa VII (năm 1991). Đến
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994) và các Đại hội
VIII, IX, X, XI và XII, Đảng tiếp tục khẳng định nhiệm vụ xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và làm rõ thêm các nội dung của nó.
3.2. Mục tiêu, quan điểm, chủ trương xây dựng của Đảng
Mục tiêu và quan điểm xây dựng hệ thống chính trị
Ngay từ Đại hội VI, Đảng ta đã chỉ rõ cần đổi mới chính trị, trong đó có đổi
mới hệ thống chính trị.
Mục tiêu: Chủ yếu của đổi mới hệ thống chính trị là nhằm thực hiện tốt hơn
dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Toàn bộ
tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới là nhằm
xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc
về nhân dân.
9
•
•
•
•
Quan điểm:
Một là, kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi
mới kinh tế làm trọng tâm đồng thời từng bước đổi mới chính trị.
Hai là, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị khơng
phải là hạ thấp hoặc thay đổi bản chất của nó mà là nhằm tăng cường vai trò lãnh
đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, làm cho hệ thống chính trị hoạt động có hiệu quả hơn, phù hợp với đường lối
đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước; đặc biệt là phù hợp với yêu cầu của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa gắn với kinh tế tri thức, với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Ba là, đổi mới hệ thống chính trị một cách tồn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước
đi, hình thức và cách làm phù hợp.
Bốn là, đổi mới mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị với
nhau và với xã hội, tạo ra sự vận động cùng chiều của cả hệ thống để thúc đẩy xã
hội phát triển.
3.2.2. Chủ trương xây dựng hệ thống chính trị
a) Xây dựng Đảng trong hệ thống chính trị:
Trước Đại hội X, Đảng ta xác định: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong
của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của cả dân tộc. Đại hội X và XI đã bổ sung một số nội dung quan trọng:
“Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là
đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung
thành lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc”.
Về phương thức lãnh đạo, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Đảng lãnh đạo xã
hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương
lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám
sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo
công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có
đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ
thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động
trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân,
nhất là người đứng đầu. Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và
hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trị, tính chủ động, sáng tạo
10
b)
và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị”. Đảng khơng làm
thay cơng việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
Về vị trí, vai trị của Đảng trong hệ thống chính trị, Cương lĩnh (bổ sung, phát
triển 2011) xác định: “Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của
hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát
của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật”. Trọng
tâm của đổi mới hệ thống chính trị là đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động
của các bộ phận cấu thành hệ thống.
Trong đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, vấn đề mấu chốt
nhất và cũng là khó khăn nhất là đổi mới phương thức hoạt động của Đảng, khắc
phục cả 2 khuynh hướng thường xảy ra trong thực tế, hoặc là Đảng bao biện, làm
thay, hoặc là buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng. Đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị phải được đặt trong tổng thể
nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng.
Đồng bộ với đổi mới kinh tế, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa thích ứng với những địi hỏi của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị là cơng việc hệ trọng, địi hỏi phải
chủ động, tích cực, có quyết tâm chính trị cao, đồng thời cần thận trọng, có bước
đi vững chắc, vừa làm vừa tổng kết, vừa rút kinh nghiệm; vừa phải quán triệt các
nguyên tắc chung, vừa phải phù hợp với đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ của từng
cấp, từng ngành.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền
Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là sự khẳng định
và thừa nhận Nhà nước pháp quyền là một tất yếu lịch sử. Nó khơng phải là sản
phẩm riêng của xã hội tư bản chủ nghĩa là tinh hoa, sản phẩm trí tuệ của xã hội
lồi người, của nền văn minh nhân loại, Việt Nam cần tiếp thu.
Chúng ta hiểu chế định Nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước,
một chế độ nhà nước. Trong lịch sử loài người chỉ có bốn kiểu nhà nước. Nhà
nước pháp quyền là cách thức tổ chức phân công quyền lực nhà nước. Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xây dựng theo những đặc điểm sau
đây:
11
•
•
•
•
•
•
•
•
•
•
Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân.
Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa
các cơ quan trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm
cho Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ
thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng cao trách
nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân; thực hành dân chủ, đồng thời tăng
cường kỷ cương, kỷ luật.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do một Đảng duy nhất lãnh đạo,
có sự giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và tổ chức thành viên của Mặt trận.
Để việc xây dựng Nhà nước pháp quyền đạt kết quả cao cần thực hiện tốt một
số biện pháp lớn sau đây:
Hồn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn
bản pháp luật; tổ chức thực thi pháp luật. Xây dựng, hồn thiện cơ chế kiểm tra,
giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ
quan công quyền.
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Hoàn thiện cơ chế bầu cử
nhằm nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội. Đổi mới quy trình xây dựng luật,
giảm mạnh việc ban hành pháp lệnh. Thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quyết định các
vấn đề quan trọng của đất nước và chức năng giám sát tối cao.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo
hướng xây dựng cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại.
Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm
minh, bảo vệ công lý, quyền con người. Tăng cường các cơ chế giám sát, bảo đảm
sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp.
Nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND và UBND các cấp. bảo đảm quyền tự
chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc quyết định và tổ chức thực hiện những chính
sách trong phạm vi được phân cấp.
c)
Xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ
thống chính trị
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội có vai trị rất quan
trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại
12
diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, đề xuất các chủ trương, chính
sách về kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phịng.
Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội thực
hiện tốt vai trị giám sát và phản biện xã hội. Thực hiện tốt Luật Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, Luật Thanh niên, Luật Công đoàn…, quy chế dân chủ ở mọi cấp để mặt
trận, các tổ chức chính trị - xã hội và các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng
Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị.
Đổi mới hoạt động của Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội, khắc phục tình
trạng hành chính hóa, nhà nước hóa, phơ trương, hình thức; nâng cao chất lượng
hoạt động; làm tốt cơng tác dân vận theo phong cách trọng dân, gần dân, hiểu dân,
học dân và có trách nhiệm với dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin.
4. Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước pháp quyền XHCN,
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội trong Hệ thống chính trị
4.1. Mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước
Là một bộ phận của hệ thống chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trị
lãnh đạo cả hệ thống chính trị, trong đó nhà nước là trực tiếp và chủ yếu nhất. Sở
dĩ Đảng Cộng sản Việt Nam có khả năng lãnh đạo được Nhà nước là vì: Đảng là
lực lượng tiên tiến nhất, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh - kim chỉ nam hành động cho Đảng và cả xã hội. Đảng chiếm được lòng
tin sâu sắc, tình cảm thân thiết của nhân dân bằng thực tiễn đấu tranh cách mạng
đầy hi sinh, gian khổ của mình vì độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Đảng đã tạo
được uy tín lớn trên trường quốc tế, đặc biệt là sự đồng tình ủng hộ, giúp đỡ quý
báu của các đảng cộng sản và đảng công nhân ở nhiều nước trên thế giới.
Đảng lãnh đạo Nhà nước dưới nhiều hình thức, phương pháp khác nhau tùy
thuộc vào tính chất, đặc điểm của mỗi lĩnh vực đời sống xã hội hay hoạt động của
nhà nước mà Đảng quan tâm. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước được thực
hiện dưới những hình thức chủ yếu sau:
• Đảng hoạch định chiến lược và những mục tiêu cơ bản, những đường lối chính
sách phát triển kinh tế, chính trị cũng như các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
13
Việc hoạch định đường lối chiến lược, đường lối phát triển kinh tế, chính trị, xã
hội là hình thức lãnh đạo quan trọng nhất, thể hiện rõ nhất vai trò lãnh đạo của
Đảng. Uy tín của Đảng phụ thuộc rất nhiều vào hình thức này.
• Đảng bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có phẩm chất, có năng lực để giới thiệu vào các
cương vị quan trọng của Nhà nước. Việc giới thiệu cán bộ của Đảng vào các vị trí
như vậy phải được tiến hành thơng qua sự tín nhiệm của Nhà nước, của quần
chúng. Đảng không áp đặt các tổ chức, cơ quan nhà nước phải chấp nhận người
mình giới thiệu.
• Đảng kiểm tra việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng thông qua các biện
pháp và phương tiện khác nhau. Thông qua công tác kiểm tra Đảng kịp thời phát
hiện những sai lầm, những thiếu sót trong các chủ trương, chính sách do mình đề
ra, khắc phục chúng để hồn thiện hơn nữa vai trị lãnh đạo. Công tác kiểm tra của
Đảng phải theo những nguyên tắc của tổ chức Đảng trên cơ sở tôn trọng quyền
hạn và chức năng quản lý của Nhà nước. Một nét đặc trưng trong vai trò lãnh đạo
của Đảng là phương pháp lãnh đạo. Đảng là tổ chức chính trị, phương pháp lãnh
đạo của Đảng không phải là phương pháp hành chính mà là tuyên truyền, vận
động, giáo dục, thuyết phục và nêu gương.
Tuy nhiên cần phải nhận thực đúng đắn vai trò lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh
đạo hệ thống chính trị một cách tồn diện tuy nhiên tính tồn diện này hồn tồn
khơng có nghĩa là Đảng quyết định tất cả, làm thay tất cả những công việc của các
bộ phận cấu thành khác mà Đảng vẫn phải chịu sự tác động của pháp luật, bình
đẳng với các bộ phận cấu thành khác của hệ thống chính trị.
Văn kiện Đại hội IX của Đảng viết “Tăng cường vai trò lãnh đạo và tiếp tục
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đảng lãnh đạo nhà
nước thông qua việc đề ra đường lối, chủ trương, các chính sách lớn, định hướng
cho sự phát triển và kiểm tra việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của
Đảng và Hiến pháp, pháp luật của nhà nước. Ban Chấp hành Trung ương, tập thể
cấp ủy, ban cán sự Đảng, Đảng đoàn thảo luận dân chủ, biểu quyết và ra nghị
quyết theo đa số những vấn đề quan trọng về đường lối, chủ trương, chính sách,
về tổ chức, cán bộ. Tăng cường chế độ lãnh đạo tập thể đi đôi với phát huy tinh
14
thần chủ động, sáng tạo và trách nhiệm cá nhân”. Đảng và Nhà nước ta chủ
trương đổi mới và hoàn thiện mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước đáp ứng yêu
cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, yêu cầu dân chủ
hóa, xây dựng nhà nước pháp quyền và xã hội công dân, đáp ứng yêu cầu hội
nhập.
Bằng thực tiễn đấu tranh kiên cường của mình, bằng những hi sinh, cống hiến
lớn lao cho dân tộc, Đảng cộng sản Việt Nam đã chiếm được lòng tin của đại đa số
quần chúng nhân dân, tạo được uy tín quốc tế lớn cũng như tình đồn kết và giúp
đỡ từ phía phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế. Điều này có tác dụng to lớn
đối với việc khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với hệ
thống chính trị trong nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh khi nói về vai trò lãnh đạo của
Đảng đã chỉ rõ: “Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng
rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng thì Đảng mới
giành được vị trí lãnh đạo”.
4.2. Mối quan hệ giữa Đảng và Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị xã
hội
Mối quan hệ giữa Đảng vớiMặt trận Tổ quốc Việt Nam là mối quan hệ mà
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là tổ chức lãnh đạo Mặt trận vừa là thành viên của
Mặt trận. Mối quan hệ này chỉ rõ Đảng là tổ chức chính trị duy nhất trong “liên
minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội,
dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài” tạo thành Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam. Đồng thời, Đảng là tổ chức lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
là lực lượng hạt nhân trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Đảng giữ vị trí, vai trị lãnh đạo Mặt trận bằng Cương lĩnh, chiến lược; các
định hướng về chủ trương, chính sách phát triển đất nước nói chung trong đó có
cơng tác Mặt trận; Đảng lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc bằng tuyên truyền, thuyết
phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của
đảng viên trong tổ chức Mặt trận; bằng công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ
chủ chốt của Mặt trận… . Thực tiễn chỉ ra rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt
15
trận Tổ quốc các cấp càng ngày càng phát huy vai trò làm chủ của các tầng lớp
nhân dân; nâng cao hiệu quả tuyên truyền, vận động, tập hợp các tầng lớp nhân
dân củng cố và phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc; phát huy dân chủ, đại
diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.
4.3. Mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính
trị xã hội
Mối quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Nhà nước là mối quan hệ
phối hợp để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi bên theo quy định của Hiến
pháp và pháp luật và quy chế phối hợp công tác do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và cơ
quan nhà nước có liên quan ở từng cấp ban hành (khoản 1 Điều 7 Luật Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam năm 2015).
Đây là mối quan hệ giữa một bên là Mặt trận Tổ quốc - là cơ sở chính trị của
Nhà nước, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân và
có trách nhiệm tham gia xây dựng nhà nước. Và bên kia là Nhà nước nói chung và
các cán bộ, cơng chức nhà nước nói riêng, có trách nhiệm và tạo điều kiện cho Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam hoạt động theo quy định của pháp luật.
Nhà nước là công cụ thực hiện quyền lực nhà nước của nhân dân. Thông qua
Mặt trận Tổ quốc các cấp với tư cách là những “sợi dây chuyền” nối liền Đảng,
Nhà nước với nhân dân mà Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân
dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Vì
thế, những năm qua mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc các cấp
không ngừng được tăng cường. Ví dụ hưởng ứng phong trào “Cả nước chung sức
xây dựng nơng thơn mới” của Chính phủ phát động, Ủy ban Trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam đã triển khai cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông
thôn mới, đô thị văn minh”. Được sự quan tâm kịp thời của Đảng, phối hợp của
Chính phủ và chính quyền các địa phương, cuộc vận động nhanh chóng được tổ
chức triển khai rộng đến tận cơ sở. Với phương châm lấy sức dân để chăm lo đời
sống nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp đã chủ trì hiệp thương, phối hợp
với các tổ chức thành viên vận động nhân dân huy động nguồn lực, hiến đất, hiến
công xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững; bảo vệ
16
môi trường, chấp hành pháp luật, xây dựng các cộng đồng dân cư văn minh và
hạnh phúc.
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp đã phối hợp chặt chẽ trong cơng tác xây dựng
pháp luật của Quốc hội và chính quyền các địa phương. Đoàn Chủ tịch Ủy ban
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phối hợp với Ủy ban Thường vụ Quốc
hội, Chính phủ để ban hành các nghị quyết liên tịch trong giám sát và phản biện xã
hội.
II.
Liên hệ thực tiễn
Hiện nay, việc xây dựng hệ thống chính trị ngày càng hồn thiện, đi vào thực
tiễn cả về chiều rộng và chiều sâu.
Ở cấp Trung ương, Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
XII đã đưa ra Nghị quyết số 18-NQ/TW “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp
xếp tổ chức bộ máy của HTCT, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” và Nghị
quyết số 19-NQ/TW “Tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất
lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập”, tiếp tục nhấn
mạnh tầm quan trọng của việc tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả và phù hợp với thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII vừa qua của Đảng cũng đã
xác định: “Xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp
quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch.
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng tinh gọn, hiệu
lực, hiệu quả”. Đảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự đảng Chính phủ đã lãnh đạo, chỉ
đạo cụ thể hóa, thể chế hóa bằng các nghị quyết, luật, nghị định, điển hình như:
Nghị quyết số 56/2017/QH14, ngày 24-11-2017 của Quốc hội về việc tiếp tục cải
cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả...
Đây là cơ sở chính trị, pháp lý để các cấp cụ thể hóa, triển khai thực hiện có hiệu
quả việc sắp xếp, kiện tồn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị ở cấp mình; đồng
thời cũng thể hiện sự quyết liệt với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, có trọng
tâm, trọng điểm của Đảng đối với nhiệm vụ hệ trọng, phức tạp này.
17
Ở cấp địa phương, việc xây dựng hệ thống chính trị cũng hết sức được coi
trọng và đạt được những thành tựu đáng kể. Điển hình như ở địa phương tôi đang
sinh sống là huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội, những năm qua, các cấp ủy
Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc huyện đã tích cực xây dựng các phong trào
xây dựng hệ thống chính trị. Mặt trận Tổ quốc huyện phối hợp với chính quyền
tham gia thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; nhân rộng các mơ hình,
phong trào nịng cốt, tham gia xây dựng nông thôn mới, thực hiện giảm nghèo bền
vững, đồng thời trao đổi những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực
hiện các nhiệm vụ tại cơ sở. Các phong trào điển hình như mơ hình ngõ, xóm sáng
– xanh – sạch – đẹp - an toàn, những tuyến đường có hoa, đường bích họa; tham
gia tun truyền giải phóng mặt bằng, giảm nghèo bền vững và vận động thực hiện
“ Tổ chức đám hiếu văn minh tiến bộ”,… Để đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu
nước, các cuộc vận động của Mặt trận luôn gắn với phong trào xây dựng hạ tầng
nông thôn, thực hiện đề án xây dựng huyện phát triển thành quận trong giai đoạn
2020 - 2025; làm tốt công tác nắm bắt dư luận và định hướng dư luận trong nhân
dân. Phát huy vai trò của Mặt trận tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, làm tốt
cơng tác tơn giáo trên địa bàn huyện. Đẩy mạnh các phong trào thi đua, tích cực
tham gia đóng góp ý kiến vào dự thảo văn kiện Đại hội Đảng các cấp lần thứ XIII.
Tuy vậy, vẫn cịn những hạn chế khơng thể tránh khỏi sau đây. Việc đổi mới hệ
thống chính trị có phần lúng túng, có mặt cịn chậm, chưa theo kịp và đáp ứng tốt
yêu cầu của những bước phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều việc thiếu đồng bộ (việc
phân định chức năng giữa các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị cịn
những nội dung chưa rõ, chưa hợp lý; cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị nói
chung và của từng tổ chức nói riêng cịn những điểm chưa đồng bộ và phù hợp…).
Mơ hình tổ chức, phương thức hoạt động của hệ thống chính trị chậm được đổi
mới. Cơ cấu tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị cịn cồng kềnh, nhiều tầng nấc
nhưng hiệu quả thấp; cịn cứng nhắc về mơ hình, cơ cấu tổ chức và phương thức
hoạt động. Thẩm quyền và trách nhiệm của từng tổ chức, từng cấp, từng ngành
trong hệ thống chính trị chưa được quy định đồng bộ, chặt chẽ, còn nhiều chồng
chéo và bất cập.
Đổi mới tổ chức bộ máy chưa gắn với việc hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ,
với việc xác định biên chế, tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức. Số lượng cán bộ, công chức, nhất là số lượng hưởng phụ cấp từ ngân
18
sách nhà nước ở xã, phường, thị trấn tăng nhanh. Mơ hình tổ chức, phương thức
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội chậm được đổi
mới, vẫn cịn tình trạng “hành chính hóa”, “cơng chức hóa”, “viên chức hóa”.
Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN chưa đáp ứng đầy đủ các nguyên
tắc cơ bản: thượng tôn pháp luật, hoạt động thực sự dân chủ; chăm lo, bảo vệ
quyền lợi chính đáng của nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Cơ chế bảo vệ pháp luật và tăng cường pháp chế chưa đầy đủ, cịn hạn chế. Cơng
tác lập pháp còn nhiều bất cập. Hệ thống pháp luật còn nhiều tầng nấc, thiếu đồng
bộ, hiệu lực chưa cao; tính cơng khai, minh bạch, tính khả thi, ổn định còn hạn chế;
nhiều nội dung chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN,
chưa phù hợp với thực tiễn. Việc thực thi pháp luật không nghiêm, kỷ cương, kỷ
luật cịn lỏng lẻo.
Cải cách hành chính chậm, chưa đạt yêu cầu. Thủ tục rườm rà, tình trạng quan
liêu, tiêu cực còn nghiêm trọng, gây phiền hà cho nhân dân, hạn chế việc phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, đang là trở lực lớn trong việc xây dựng môi trường
xã hội, môi trường kinh doanh lành mạnh, minh bạch, thúc đẩy đổi mới và phát
triển.
Những hạn chế, yếu kém trên do cả những nguyên nhân khách quan và chủ
quan.
Trước hết, vấn đề xây dựng nền dân chủ, đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN trong điều kiện một Đảng cầm quyền là những vấn
đề lớn, phức tạp, mới và chưa có tiền lệ. Công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết
thực tiễn về xây dựng nền dân chủ, về đổi mới hệ thống chính trị và mối quan hệ
giữa các bộ phận cấu thành và cơ chế vận hành chưa được coi trọng đúng mức.
Trong nhận thức lý luận, còn biểu hiện giáo điều, không sát thực tiễn.
Thứ hai, một số nội dung luật pháp, cơ chế, chính sách ban hành chưa sát thực,
khơng bảo đảm tính khả thi, có những vấn đề chưa được luận chứng đầy đủ cơ sở
khoa học và thực tiễn, còn né tránh, ngại va chạm, triển khai chậm, thiếu nhất
quán, nên chủ trương và tổ chức thực hiện đổi mới, kiện toàn chức năng, nhiệm vụ,
tổ chức bộ máy không đồng bộ.
Thứ ba, Ảnh hưởng về tư duy, nội dung, phương thức và cơ chế vận hành của
cơ chế cũ cịn khá nặng.
Vì thế, để tiếp tục phát huy những thành tựu đã đạt được, đồng thời khắc phục
những yếu kém, khuyết điểm cần tồn đọng.
19
Trước tiên, là tăng cường xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, phát huy sức
mạnh tồn dân tộc. Theo đó, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Đảng ta
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi
mới và chủ trương: “Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc”. Để làm được điểu đó, tư tưởng của các cán
bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp phải được nâng cao; khơng dao động trong
bất cứ tình huống nào.
Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách của Đảng phù hợp với
quy luật khách quan và đặc điểm của Việt Nam, tạo bước đột phá để phát triển.
Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính
thuyết phục, hiệu quả của cơng tác tư tưởng phục vụ yêu cầu thực hiện nhiệm vụ
chính trị, phù hợp với từng giai đoạn, tạo sự thống nhất trong Đảng.
Tiếp tục thực hiện tốt phong trào “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh”ở các cấp, các địa phương, đơn vị nhằm ngăn chặn,
đẩy lùi sự suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng.
Kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá
nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, “lợi ích nhóm”, nói khơng đi đơi với làm.
Thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát của tổ chức Đảng, giám sát
và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của
nhân dân về phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Giải quyết kịp
thời, có hiệu quả những bức xúc, những kiến nghị chính đáng của nhân dân và
khiếu nại, tố cáo của công dân.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, phát huy sức mạnh
khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bảo đảm pháp luật vừa là
công cụ để Nhà nước quản lý xã hội vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra,
giám sát quyền lực nhà nước. Quản lý đất nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng
xây dựng nền tảng đạo đức xã hội. Bãi bỏ những thủ tục hành chính gây phiền hà
cho người dân, doanh nghiệp. Kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
20
lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa quyền; thực hành tiết kiệm trong các cơ quan
nhà nước và trong đội ngũ cán bộ, công chức.
Thứ ba, tiếp tục củng cố, tăng cường tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Mặt trận Tổ quốc đóng
vai trị nịng cốt trong tập hợp, vận động nhân dân, đẩy mạnh phong trào thi đua
yêu nước, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tham gia xây dựng Đảng,
Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Khắc
phục những hạn chế, bảo đảm hiệu quả thực chất hoạt động giám sát, phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; tạo sự đồng thuận trong
tồn xã hội.
Tiếp tục tăng cường mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân
dân làm chủ, nhất là nội dung Nhân dân làm chủ và phương châm “Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Để Nhà nước thực sự là của dân, do dân, vì dân, đồn
kết được toàn dân, cần đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi
hành pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền
XHCN.
III. Liên hệ bản thân
Bản thân tôi hiện nay đang là một Đồn viên Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh, là lực lượng dự bị tin cậy, cánh tay đắc lực của Đảng và của hệ thống
chính trị. Vì vậy, tơi nhận thức đầy đủ trách nhiệm, góp phần xây dựng hệ thống
chính trị ngày càng vững mạnh. Cụ thể:
•
Tham gia tích cực vào cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà
nước thật sự trong sạch, vững mạnh.
•
Thực hiện một cách có hiệu quả đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước ở địa phương và trường học.
21
•
Tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng, mạnh dạn đấu tranh với
những hành động sai trái, bảo vệ lợi ích thiết thực, hợp pháp và chính đáng của
nhân dân, đặc biệt là tầng lớp học sinh, sinh viên.
•
Tích cực tham gia và thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, hăng hái đi đầu trong
mọi lĩnh vực học tập và cơng tác xã hội.
•
Tích cực hưởng ứng và tham gia hoạt động trong phong trào của các tổ chức chính
trị – xã hội phát động; trực tiếp là xây dựng tổ chức Đoàn và phong trào của Đồn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Sinh viên, Hội Liên hiệp Thanh niên.
C.
KẾT LUẬN
Hệ thống chính trị nước ta hiện nay đang từng bước được đổi mới để phù hợp
hơn với tình hình và bối cảnh phát triển đất nước, nhất là trong điều kiện phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, thúc đẩy công
cuộc đổi mới, đồng thời vẫn giữ được ổn định chính trị. Vị trí, vai trị, chức năng,
nhiệm vụ của các tổ chức trong hệ thống chính trị được xác định ngày càng rõ hơn
và được thể chế hóa thành các quy định của pháp luật. Phân định rõ hơn vai trò
lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước, vai trò của Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức chính trị - xã hội; từng bước đổi mới nội dung và phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước, đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị
- xã hội. Nội dung “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” từng
bước được cụ thể hóa, có những bước tiến theo hướng phân định rõ hơn chức năng,
thẩm quyền, nhiệm vụ, trách nhệm của mỗi chủ thể, nâng cao hơn hiệu lực, hiệu
quả, công khai, minh bạch, ý thức tuân thủ pháp luật.
Tầm quan trọng của việc xây dựng hệ thống chính trị giống như “xây nền
móng cho một căn nhà”. Đây là một việc hết sức quan trọng, cần phải có “tâm” và
“tầm”, “tài” và “đức”; có sự cứng rắn, kiên quyết về nguyên tắc chung nhưng cũng
phải mềm dẻo, linh hoạt về phương thức, hoạt động cụ thể; có sự phối hợp đồng
bộ, nhịp nhàng giữa các thành viên trong bộ máy. Có như thế, Đất nước mới có
được một hệ thống chính trị ổn định, vững mạnh; tạo sự đồng thuận cao trong nhân
22
dân, tạo điều kiện phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội bền vững, thực hiện được mục
tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Danh mục tài liệu tham khảo
1.
2.
Trần Ngọc Đường (2008). “Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tất cả
quyền lợi nhà nước thuộc về nhân dân”. />Trần Ngọc Đường (2021). “Quy định về quan hệ giữa MTTQ Việt Nam với
Đảng, Nhà nước, Nhân dân và tổ chức trong MTTQ Việt Nam – Thực tiễn và
các vấn đề đặt ra”. />23
Nguyễn Thị Phương Hoa (2019). “Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh”. />4. Nguyễn Quang Hùng (2020). “Đổi mới và hồn thiện hệ thống chính trị cơ sở
tại Trà Vinh đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới”. dungdang.
org.vn /home/dai-hoi-dang/2020/14507/doi-moi-va-hoan-thien-he-thong-chinhtri-co-so-tai.aspx
5. Cầm Thị Lai (2020). “Quy định về Đảng Cộng sản Việt Nam tại Điều 4 Hiến
pháp năm 2013). />6. Nguyễn Viết Thông (2020). “Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị - thành tự và
kinh nghiệm”. />7. Võ Văn Thưởng (2019). “Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong tình hình
mới”. />s5L7xhQiJeKe/content/xay-dung-dang-va-he-thong-chinh-tri-o-viet-nam-trongtinh-hinh-moi
8. Báo Nhân dân (2009). “Về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ
thống chính trị ở Việt Nam”. />9. Tạp chí Xây dựng Đảng (2011), “Tài liệu bồi dưỡng thi nâng ngạch chun viên
chính khối Đảng, đồn thể năm 2011: Những vấn đề cơ bản về tổ chức, bộ máy
của hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay”.
10. Tỉnh đồn Bình Phước (2020). “Hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay”.
/>3.
24