Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

SO SÁNH hệ THỐNG tòa án của mỹ và đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (303 KB, 12 trang )

BỘ NGOẠI GIAO
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO VIỆT NAM
KHOA LUẬT QUỐC TẾ

TIỂU LUẬN
Mơn: LUẬT SO SÁNH
Đề tài:
Bình luận về nhận định: “Do Đức và Mỹ đều là những Nhà nước
Liên bang nên hệ thống toà án của hai quốc gia này rất giống nhau.”
Giảng viên: ThS Phạm Minh Trang
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quỳnh Anh
Lớp: LQT45B
Mã sinh viên: LQT45B-029-1822
HÀ NỘI – 2021


MỤC LỤC
1. TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG TÒA ÁN CỦA ĐỨC VÀ HỆ THỐNG TÒA ÁN
CỦA MỸ...........................................................................................................................1
1.1. Tổng quan về Cộng hòa Liên bang Đức và Hợp chúng quốc Hoa Kỳ...............1
1.2. Vị trí, vai trị của hệ thống Tịa án........................................................................1
1.3. Cơ cấu tổ chức của hệ thống Tòa án.....................................................................1
1.3.1. Hệ thống Tịa án Đức.........................................................................................1
1.3.2 Hệ thống Tịa án Mỹ...........................................................................................3
2. BÌNH LUẬN VỀ NHẬN ĐỊNH QUA VIỆC SO SÁNH HỆ THỐNG TÒA ÁN MỸ
VÀ HỆ THỐNG TÒA ÁN ĐỨC......................................................................................5
2.1. Điểm giống nhau giữa hệ thống tòa án Mỹ và hệ thống tòa án Đức...................5
2.2. Điểm khác nhau giữa hệ thống tòa án Mỹ và hệ thống tòa án Đức....................6
2.2.1. Về nguồn luật....................................................................................................6
2.2.2. Về mơ hình tổ chức hệ thống tịa án..................................................................6
2.2.3. Sự tồn tại tòa án Hiến pháp ở hệ thống tịa án Đức mà khơng có ở hệ thống tịa


án Mỹ.......................................................................................................................... 8
2.2.4. Vị trí và chức năng của cơ quan tài phán hành chính.........................................8
3. Kết luận.....................................................................................................................9
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................10


1. TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG TÒA ÁN CỦA ĐỨC VÀ HỆ THỐNG TÒA ÁN
CỦA MỸ
1.1. Tổng quan về Cộng hòa Liên bang Đức và Hợp chúng quốc Hoa Kỳ
Lịch sử pháp luật Đức bắt đầu từ Hiệp ước Verdune năm 843 và từ đó đến nay được
chia làm 3 giai đoạn. Hệ thống pháp luật Đức là điển hình cho dòng họ Civil law. Một
trong những bộ phận quan trọng của hệ thống pháp luật là hệ thống tòa án. Hệ thống tòa
án Đức gồm tòa án hiến pháp, hệ thống tòa án tư pháp, hệ thống tòa án hành chính và các
tịa án khác.
Mỹ là một đất nước rộng lớn và dân số tăng lên hàng năm do sự xuất hiện của
những người nhập cư. Một hệ thống pháp luật điều chỉnh một xã hội đa dạng trong một
đất nước rộng lớn như vậy khơng thể nói là khơng phức tạp. Chính vì vậy mà Mỹ rất coi
trọng hoạt động xây dựng pháp luật và giám sát chặt chẽ hoạt động của hệ thống tòa án.
Hệ thống tòa án ở Mỹ là hệ thống tòa án kép gồm hệ thống tòa án Liên bang và hệ thống
tòa án Bang.

1.2. Vị trí, vai trị của hệ thống Tịa án
Theo hệ thống phân chia quyền lực thành 03 nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp
của Mỹ và Đức thì Tịa án đều có vị trí thuộc nhánh tư pháp, tức là những cơ quan có vai
trị giải quyết, xét xử các tranh chấp. Nhưng Tịa án khơng có quyền lập pháp do theo
Hiến pháp của cả hai quốc gia thì quyền lập pháp chỉ thuộc về Nghị viện (Quốc hội). 1

1.3. Cơ cấu tổ chức của hệ thống Tòa án.
1.3.1. Hệ thống Tòa án Đức
Hệ thống Tòa án của Đức được tổ chức theo mơ hình “kim tự tháp” đơn nhất, với

một cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử cao nhất là Tòa án Hiến Pháp Liên bang
1 Luật Cơ bản Cộng hòa Liên bang Đức (Basic Law for the Federal Republic of Germany), ngày 8 tháng 5 năm
1949, Điều 70 (Sau này là Hiến pháp Đức) và Hiến pháp Hợp chúng quốc Hoa Kỳ (Constitution of the United States
of America), Điều I Khoản 1


Đức, ở dưới là các nhánh Tòa án chức năng. Hệ thống tịa án của Đức xuất hiện cơ quan
có vai trị đảm bảo tính hợp hiến là Tịa án Hiến pháp Liên bang Đức. Về mặt vị trí, Tịa
án Hiến pháp Liên bang Đức là Tịa án có thẩm quyền cao nhất. Về mặt tổ chức, Tòa án
Hiến pháp Liên bang Đức gồm 16 thẩm phán do mỗi viện của Nghị viện Liên bang bổ
nhiệm một nửa.2 Đức tách các Tòa điều chỉnh các quan hệ về Thuế (Tài chính), Bảo hiểm
xã hội và Lao động thành những nhánh tòa độc lập. Nhánh Tòa án Tư pháp ở Đức có thể
được xem là nhánh Tịa án quan trọng nhất bởi quan hệ dân sự và hình sự đều do nhánh
Tịa án này chịu trách nhiệm. Ở Đức, hình sự và dân sự chỉ được xét xử riêng ở cấp Sơ
thẩm, còn cấp xét xử Phúc thẩm và Giám đốc thẩm thì hai lĩnh vực này do một Tịa án
chịu trách nhiệm.
Theo Đạo luật Tổ chức Tòa án của Đức (Courts Constitution Act) năm 1975, Tòa
án Đức được tổ chức với sơ đồ như sau:
Tòa án Hiến Pháp Liên bang Đức
Tòa án Tư pháp Tối cao liên
bang
Tòa án phúc
thẩm cấp tiểu
bang

Tòa án Sáng
chế Liên bang

Tòa án Quận cấp tiểu bang
Tòa Dân

Tịa
Tịa
sự
Thương
Hình sự
mại
Tịa án Địa phương
Tịa dân sự Tịa
Tịa hình
Gia
sự
đình

Tịa án
Lao động
cấp Liên
bang

Tịa án
Hành
chính cấp
Liên bang

Tịa án
Thuế
cấp
Liên
bang

Tịa án Bảo

hiểm xã hội
cấp Liên
bang

Tịa án
Tịa án
Lao động
hành
phúc thẩm chính phúc
cấp Tiểu
thẩm cấp
bang
tiểu bang
Tịa án Lao
Tịa án
động sơ
hành chính
thẩm cấp sơ thẩm cấp
tiểu bang
Tiểu bang

Tòa án
Thuế
cấp tiểu
bang

Tòa án phúc
thẩm bảo
hiểm xã hội
cấp tiểu bang


Bảng 1: Sơ đồ tổ chức hệ thống Tòa án của Đức
2 Hiến pháp Đức, Điều 94

Tòa án Sơ
thẩm Bảo
hiểm xã hội
cấp tiểu bang


1.3.2 Hệ thống Tòa án Mỹ
Tồn tại song song hai hệ thống tòa án tại Hoa Kỳ. Hệ thống tòa án liên bang được
thiết lập bởi Hiến pháp Mỹ và Đạo luật tư pháp liên bang, còn hệ thống tòa án bang được
thiết lập bởi hiến pháp và luật của 50 bang khác nhau (US, 1879, Judicial Act). Theo Điều
III Hiến pháp Mỹ, các tòa án liên bang là những tịa án có thẩm quyền xét xử hạn chế.
Các tịa án này chỉ có thể xét xử các vụ việc:…theo quy định của Hiến pháp và các điều
luật của Mỹ, các hiệp ước đã hoặc sẽ ký dưới thẩm quyền của Chính phủ; đối với các
trường hợp liên quan tới các đại sứ, các công sứ và các lãnh sự, đối với các trường hợp
liên quan tới luật pháp hàng hải và hải quân; đối với các tranh tụng trong đó Chính phủ
Mỹ là một bên tranh chấp; đối với các cuộc tranh chấp giữa hai bang trở lên, giữa một
bang với các công dân của bang khác, giữa các công dân của các bang khác nhau, giữa
các công dân trong một bang tranh chấp đất đai do các bang khác nhau cấp, giữa một
bang hoặc các công dân của bang đó với ngoại quốc hoặc với cơng dân ngoại quốc (US,
Judiciary Act 1789, chap. 20, §25, 1 Stat. 73, 85).
Tu chính án thứ 10 với quy tắc “những quyền lực không được Hiến pháp trao cho
Liên bang và không ngăn cấm các bang thực hiện, thì thuộc về các bang tương ứng hoặc
thuộc về nhân dân” sẽ được áp dụng. Theo đó, các tịa án bang là các tịa án có thẩm
quyền chung, căn cứ vào những giới hạn được mô tả trong luật của từng bang (US,
Constitution). Với tư cách là những tịa án có thẩm quyền chung, các tịa án bang cũng có
thể xét xử các vụ việc có liên quan đến việc giải thích Hiến pháp Mỹ, luật của liên bang

và một số vấn đề thuộc về thẩm quyền của các tòa liên bang, các tòa bang thực hiện điều
này rất thường xuyên.
Về cấp độ quyền hạn, hệ thống tịa án Mỹ nói chung là cấu trúc ba tầng:
- Tòa địa hạt (xử lý các vụ hình sự và dân sự)
- Tịa phúc thẩm
- Tối cao pháp viện


Quốc hội chia nước Mỹ thành 94 địa hạt và chuẩn y khoảng 650 quan tòa làm việc
tại các địa hạt này. Mỗi địa hạt nằm trong một bang và không địa hạt nào được phép vượt
ranh giới bang. Do đó, mỗi bang đều có ít nhất một tịa địa hạt. Vài bang có nhiều hơn
một tịa địa hạt (New York, California).
Mỹ có 13 tịa phúc thẩm, chịu trách nhiệm xem xét khiếu kiện hoặc yêu cầu gửi
lên từ tòa địa hạt (hoặc các cơ quan quản lý chính phủ, ví dụ như Cơ quan bảo vệ mơi
trường). Trong 13 tòa phúc thẩm, 12 tòa được chia theo khu vực địa lý. Tồn bộ các bang
Mỹ được phân nhóm thành 11 khu vực địa lý và như vậy người ta có tên các tịa như sau:
Tịa phúc thẩm cho khu vực địa lý thứ nhất, Tòa phúc thẩm cho khu vực địa lý thứ hai,...
cho đến thứ 11. Khu vực địa lý nhỏ nhất (thứ 12) là District of Columbia (Washington
DC); và nơi chịu trách nhiệm xử cho khu vực địa lý cuối cùng (thứ 13) - gọi là Tòa phúc
thẩm khu vực liên bang (U.S. Court of Appeals for the Federal Circuit) - không được quy
định bằng yếu tố địa lý mà bởi tính chất vụ kiện. Tịa phúc thẩm thứ 13 thường xử các vụ
liên quan mậu dịch quốc tế, bản quyền, các vấn đề liên quan đến cựu chiến binh...
Quốc hội chuẩn y 150 quan tòa làm việc tại 13 tòa phúc thẩm và số chánh án tại
mỗi tịa phúc thẩm khơng bằng nhau.
Và cuối cùng là Tối cao pháp viện, gồm 9 Thẩm phán được bổ nhiệm làm việc
suốt đời. Dù khơng chính thức được gọi là tòa quốc gia nhưng Tối cao pháp viện là cơ
quan tịa án cao nhất nước Mỹ. Đó là nơi đưa ra phán quyết cuối cùng cho các vụ kiện
nghiêm trọng (có khi liên quan đến hành vi vi phạm hiến pháp). Tối cao pháp viện cũng
xử các vụ khiếu nại từ tòa phúc thẩm; và đây là nơi duy nhất có quyền xử tội tổng thống,
Tối cao pháp viện cũng là nơi chính thức cơng nhận ghế tổng thống. Dù mỗi năm có hơn

5.000 vụ án được đệ trình nhưng Tối cao pháp viện Hoa Kỳ chỉ có thể nghe khơng đến
150 vụ.
Trên thực tế, nước Mỹ cịn có nhiều tịa án khác, mang tính chun biệt, chẳng hạn
Tịa án thuế Hoa Kỳ (U.S. Tax Court) hoặc Tòa khiếu kiện liên bang (U.S. Court of


Federal Claims) - nơi xử các đơn kiện nhằm trực tiếp vào nước Mỹ hoặc các vụ kiện tụng
liên quan tranh chấp đất đai giữa các bộ lạc da đỏ.
Ngoài ra, cịn có Tịa mậu dịch quốc tế; Tịa phúc thẩm cựu chiến binh; Tòa phúc
thẩm quân sự. Chánh án các tòa này được bổ nhiệm từ tổng thống và được phê chuẩn bởi
Thượng viện nhưng họ làm việc trong nhiệm kỳ giới hạn chứ không suốt đời như 9 vị ở
Tối cao pháp viện. Tất cả tòa án vừa kể đều là tịa án cấp liên bang.
Bên cạnh đó, mỗi bang có quyền thành lập hệ thống tịa án riêng (tịa gia đình...)
với luật riêng để thể hiện tính độc lập của từng bang.
2. BÌNH LUẬN VỀ NHẬN ĐỊNH QUA VIỆC SO SÁNH HỆ THỐNG TÒA ÁN MỸ
VÀ HỆ THỐNG TÒA ÁN ĐỨC
Điều đầu tiên, phải khẳng định Đức và Mỹ đều là những Nhà nước Liên bang nhưng
hệ thống tồ án của hai quốc gia này có những điểm khác biệt rất lớn. Do hệ thống pháp
luật của Mỹ thuộc dòng họ pháp luật Common Law, trong khi hệ thống pháp luật của
Đức thuộc dòng họ pháp luật Civil Law. Chính sự khác biệt trong hệ thống pháp luật đã
dẫn đến sự khác biệt lớn giữa hệ thống tòa án của Mỹ và Đức. Tuy nhiên, hệ thống tịa án
của hai quốc gia này vẫn có điểm chung.
2.1. Điểm giống nhau giữa hệ thống tòa án Mỹ và hệ thống tòa án Đức
Một đặc điểm chung trong hệ thống tịa án của khơng chỉ riêng dịng họ Common
Law mà còn cả Civil Law là sự xuất hiện của các tòa án cấp trên và cấp dưới được trao
đặc quyền và cấp xét xử riêng biệt.3 Điều này vừa đem lại các cơ hội cũng như thử thách
cho các thẩm phán. Các tịa án cấp trên sẽ có nhiệm vụ “sửa sai", 4 áp dụng tiền lệ của tòa
án cấp cao nhất. Khơng phải phán quyết nào ở tịa cấp dưới đều có thể được các tịa cấp
trên đồng ý xem lại, gây khó khăn cho những người muốn tìm lại bản án phù hợp với sự
việc của mình. Ví dụ, Tịa án Tối cao của Mỹ có quyền quyết định xét xử các vụ việc dựa

3 Marion Charret Del-Bove & Laurence Francoz-Terminal, “How Common is the Common Law? Some Differences
and Similarities in British and American Superior Court Decisions", Alicante Journal of English Studies 28 (2015):
62. Truy cập tại />4 Hội đồng Chánh án Tòa án Phúc thẩm tiểu bang và Trung tâm Quốc gia về các Tòa án tiểu bang, “The Role of
State Intermediate Appellate Courts: Principles for Adapting to Change" (Virginia: State Justice Institute, 2012), 5.
Truy cập tại />

trên một số tiêu chí nhất định,5 hoặc khi một vụ việc có “tầm quan trọng cấp thiết với
cơng chúng" và cần Tòa án Tối cao phải đưa ra phán quyết, thay vì chờ đợi xét xử tại Tịa
án Phúc thẩm liên bang.
2.2. Điểm khác nhau giữa hệ thống tòa án Mỹ và hệ thống tòa án Đức
2.2.1. Về nguồn luật
Hệ thống pháp luật của Đức thuộc dòng họ pháp luật Civil Law. Đức đặt hệ thống
các văn bản pháp luật thành văn do cơ quan có thẩm quyền ban hành là nguồn luật có giá
trị cao nhất và cơ bản nhất, còn các nguồn luật khác như tập quán pháp hay phán quyết
của Tòa án vẫn được sử dụng nhưng chỉ được xem là nguồn luật bổ trợ. Đức coi Hiến
pháp là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực cao nhất, sau đó lần lượt là Điều ước
quốc tế, các Đạo luật, luật và văn bản dưới luật.
Hệ thống pháp luật của Mỹ thuộc dòng họ pháp luật Common Law. Đặc trưng của
dòng họ Common Law là thừa nhận các án lệ và các nguồn luật thành văn. Dòng họ
Common Law đặc biệt coi trọng tiền lệ pháp, được định nghĩa là “một vụ việc đã có phán
quyết được dùng làm cơ sở để xác định các vụ việc xảy ra sau này với các sự kiện hoặc
vấn đề tương tự".6 Các tịa án cấp trên có phán quyết chung thẩm, ràng buộc đối với các
tòa án cấp dưới (stare decisis). Trong một số ít trường hợp, chính các tiền lệ này có thể
được các tịa án xem xét lại và đưa ra quyết định trái ngược. 7
2.2.2. Về mơ hình tổ chức hệ thống tịa án
Khác biệt lớn nhất giữa hệ thống tòa án của hai quốc gia Mỹ và Đức là về mơ hình
tổ chức.
Như đã nói ở trên, hệ thống Tịa án của Đức được tổ chức theo mơ hình “kim tự
tháp” đơn nhất, với cơ quan có thẩm quyền xét xử cao nhất là Tòa án Hiến Pháp Liên
bang Đức, ở dưới là các nhánh Tịa án chức năng.

5 Tu chính án 10 trong Quy tắc của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ (thơng qua ngày 18/4/2019, có hiệu lực ngày 1/7/2019)
[từ nay về sau gọi là Quy tắc của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ]
6 Bryan A. Garner, Black's Law Dictionary (Mỹ: Thomson Reuters, 2004), 3728
7 Mary Garvey Algero, “The Sources of Law and the Value of Precedent: A Comparative and Empirical Study of a
Civil Law State in a Common Law Nation”, Louisiana Law Review 65 (2005), 785-786. Truy cập tại
/>

- Nhánh Tồ án có thẩm quyền xét xử các vụ việc về dân sự và hình sự (gọi chung
là nhánh Tịa án thơng thường) với cơ quan xét xử cao nhất là Toà án Tư pháp Liên bang.
Toà án Tư pháp Liên bang có 127 Thẩm phán, được tổ chức thành 5 Hội đồng xét xử hình
sự.
- Nhánh Tồ án Hành chính có thẩm quyền xét xử về các vụ việc liên quan đến các
quyết định hành chính mà bị đơn là cơ quan nhà nước. Cơ quan xét xử cao nhất là Tồ án
Hành chính Liên bang.
- Nhánh Tồ án Tài chính có thẩm quyền xét xử các vụ việc khiếu kiện các quyết
định của cơ quan Nhà nước về Thuế và Hải quan... với cơ quan xét xử cấp cao nhất là Tồ
án Tài chính Liên bang.
- Nhánh Tồ án Lao động có thẩm quyền xét xử các vụ tranh chấp hợp đồng lao
động giữa chủ với thợ hoặc với Cơng đồn. Cơ quan xét xử cao nhất là Toà án Lao động
Liên bang.
- Nhánh Toà án Xã hội có thẩm quyền xét xử đối với các vụ kiện liên quan đến bảo
hiểm xã hội. Cơ quan xét xử cao nhất là Toà án Xã hội Liên bang.
Tách biệt với 5 nhánh Toà án trên là Toà án Hiến pháp Liên bang – Toà án tối cao
của Đức. Toà án Hiến pháp Liên bang là cơ quan xét xử duy nhất có quyền xem xét tính
hợp hiến của các đạo luật, các điều khoản của đạo luật đã được ban hành.
Trong khi đó, hệ thống tịa án tại Mỹ là hệ thống tòa án kép, hệ thống tòa án liên
bang và hệ thống tòa án riêng của các bang. Mỹ có hai hệ thống tịa án, các tiểu bang tự
hình thành hệ thống tịa án của riêng mình tồn tại song song với hệ thống các tịa án liên
bang. Cấu trúc hệ thống tòa án của tiểu bang có đầy đủ các cấp sơ thẩm, phúc thẩm và
một tòa án tối cao cuối cùng của tiểu bang. Ngồi hệ thống tịa án của tiểu bang, Hiến

pháp cịn trao quyền lực tư pháp cho Tòa án Tối cao và các tòa án cấp dưới của liên bang.
Cấp tòa án sơ thẩm liên bang được gọi là Tòa án Quận, cấp tòa án phúc thẩm liên bang là
Tòa án Kinh lý phúc thẩm liên bang.


2.2.3. Sự tồn tại tòa án Hiến pháp ở hệ thống tịa án Đức mà khơng có ở hệ thống tòa
án Mỹ
Một điểm khác biệt đáng chú ý giữa Tòa án Hiến pháp Liên bang Đức và Tòa án
Tối cao Hoa Kỳ là việc giải thích Hiến pháp Hoa Kỳ khơng phải là đặc quyền của Tịa án
Tối cao nhưng các vấn đề hiến pháp có thể được giải quyết bởi bất kỳ tòa án nào ở cấp
tiểu bang hoặc liên bang.5 Ngược lại, quyền tư pháp xem xét lại pháp luật được trao cho
Tòa án Hiến pháp Liên bang Đức bởi Luật cơ bản cũng quy định rằng tất cả các nhánh
khác đều bị ràng buộc bởi sự giải thích của Tịa án Hiến pháp.8
Một đặc điểm khác biệt nữa là phạm vi và chiều rộng của việc xem xét tư pháp của
họ. Tại Hoa Kỳ, hoạt động xét xử hiến pháp là cụ thể và mang tính hậu kiểm, trong khi
Tòa án Hiến pháp Liên bang Đức được trao quyền xem xét trừu tượng (cả trước và sau)
để phân bổ cho Tòa án một chức năng hoạch định chính sách quan trọng. Cơ chế này
thường được sử dụng bởi Các nhóm thiểu số chính trị phản đối việc quốc hội thông qua
luật như là cơ hội cuối cùng để cản trở việc ban hành luật. Ngược lại, ở Hoa Kỳ, Tịa án
chỉ có thể hành động trong các trường hợp có tranh cãi thực sự giữa các đối thủ thực sự
và hoạt động xem xét tư pháp dựa trên thực tế thay vì xem xét trừu tượng. Điều này
khơng có nghĩa là Tịa án tối cao Hoa Kỳ bỏ phiếu trắng trong việc hoạch định chính
sách. Tịa án tối cao giải thích yêu cầu này rất nghiêm ngặt và giới hạn tư cách đối với
một nhóm đương sự nhất định “đưa ra các câu hỏi về hiến pháp”, và chỉ chấp nhận “một
phần nhỏ trong số hàng nghìn kiến nghị.”
2.2.4. Vị trí và chức năng của cơ quan tài phán hành chính
Do tại Mỹ khơng có nhánh Tịa án Hành chính độc lập nên phần này sẽ chỉ trình
bày thẩm quyền của các nhánh Tịa này tại Đức.
Tịa án Hành chính tại Đức được tách thành nhánh Tịa án độc lập. hệ thống tịa
Hành chính có thẩm quyền giải quyết các vụ việc, khiếu nại phát sinh từ quan hệ pháp

8 GRUNDGESETZ FÜR DIE BUNDESREPUBLIK DEUTSCHLAND [GRUNDGESETZ][GG][BASIC LAW],
May 23, 1949, BGBL. I at art. 93(1) (Ger.).


luật hành chính. Xét một cách cụ thể, theo Luật tố tụng Hành chính Đức, Tịa Hành chính
sơ thẩm của Đức có thẩm quyền giải quyết những vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật
hành chính. Tịa Hành chính Phúc thẩm thì có thẩm quyền tiếp nhận và giải quyết những
vụ việc về hành chính theo thủ tục kháng cáo, kháng nghị. Tòa Giám đốc thẩm/Tái thẩm
(Tòa án Hành chính Phúc thẩm Liên bang của Đức) có thẩm quyền tiếp nhận và giải
quyết các vụ việc hành chính theo thủ tục Giám đốc thẩm/tái thẩm.

3. Kết luận
Qua những tìm hiểu trên, người đọc có thể phần nào hiểu thêm về cơ cấu tổ chức,
chức năng của hệ thống tư pháp của hai đại diện cho hệ thống Common Law và Civil
Law, là Mỹ và Đức. Tuy đều là những nhà nước liên bang, nhưng hệ thống tòa án của
Đức và Mỹ vẫn vẫn có những đặc trưng riêng, bảo tồn được những điểm mạnh trong
dịng họ pháp luật của mình.
Hệ thống Tịa án ở Đức được chun mơn hóa cao. Sự chun mơn hóa cao trong
việc tổ chức hệ thống Tòa án ở Đức bảo đảm hiệu quả cao trong chất lượng hoạt động
của đội ngũ Thẩm phán cũng như nâng cao chất lượng xét xử các vụ án.
Hệ thống tòa án ở Mỹ là hệ thống tòa án kép, ở đó các tịa án liên bang, dù có thẩm
quyền hạn chế, vẫn có những sự ảnh hưởng rất lớn khi các tòa này thực thi quyền tư
pháp. Sự cân bằng và đối trọng giữa các nhánh quyền lực nhà nước, giúp hạn chế những
sự lạm dụng quyền lực một cách tuyệt đối ở tất cả các nhánh quyền lực, bao gồm cả
nhánh tư pháp. Sự cân bằng một cách hài hịa giữa tính ổn định và tính linh hoạt của hệ
thống tịa án được duy trì một cách xác đáng trong nhiều thế kỷ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn bản pháp luật
1. Hiến pháp Cộng hòa liên bang Đức

2. Hiến pháp Hợp chúng quốc Hoa Kỳ


3. Tu chính án 10 trong Quy tắc của Tịa án Tối cao Hoa Kỳ
Sách
1. Giáo trình Luật so sánh, Đại học Luật Hà Nội (2017)
2. Bryan A. Garner, Black's Law Dictionary (Mỹ: Thomson Reuters, 2004), 3728
3. GRUNDGESETZ FÜR DIE BUNDESREPUBLIK DEUTSCHLAND
[GRUNDGESETZ][GG][BASIC LAW], May 23, 1949, BGBL. I at art. 93(1) (Ger.).
Trang web
1. Marion Charret Del-Bove & Laurence Francoz-Terminal, “How Common is the
Common Law? Some Differences and Similarities in British and American Superior
Court Decisions", Alicante Journal of English Studies 28 (2015): 62.
Truy cập tại />2. Hội đồng Chánh án Tòa án Phúc thẩm tiểu bang và Trung tâm Quốc gia về các Tòa án
tiểu bang, “The Role of State Intermediate Appellate Courts: Principles for Adapting to
Change" (Virginia: State Justice Institute, 2012), 5.
Truy cập tại />3.

Mary Garvey Algero, “The Sources of Law and the Value of Precedent: A

Comparative and Empirical Study of a Civil Law State in a Common Law Nation”,
Louisiana Law Review 65 (2005), 785-786. Truy cập tại
/>


×