Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Nghiên cứu nồng độ glucose máu trước khi ngủ ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2 được điều trị bằng liệu pháp insulin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (555.75 KB, 8 trang )

Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường”

Số 49 - Naêm 2021

NGHIÊN CỨU NỒNG ĐỘ GLUCOSE MÁU TRƯỚC KHI NGỦ Ở BỆNH NHÂN
ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÍP 2 ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ BẰNG LIỆU PHÁP INSULIN
Nguyễn Thị Tơ, Võ Thị Minh Đức*, Nguyễn Thị Phước Hằng,
Hồ Thị Kim Ánh, Phạm Thị Minh Ly, Đào Thị Thúy Hiền,
Hoàng Thị Thanh Thúy, Trịnh Duy Thanh Hằng, Nguyễn Thị Mỹ Thạnh,
Trần Như Ngọc, Võ Thị Ngọc Lan, Nguyễn Thị Nhuận,
Nguyễn Thị Hoài Phong, Mai Thị Bé, Nguyễn Hải Thủy
Khoa Nội Tổng hợp-Nội tiết, Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế
DOI: 10.47122/vjde.2021.49.7

TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát đường huyết trước khi
ngủ của bệnh nhân ĐTĐ típ 2 sử dụng liệu
pháp insulin. Đối tượng và phương pháp: 57
bệnh nhân ĐTĐ trong đó nam giới chiếm
70,2%; bệnh nhân trên 65 tuổi chiếm 28%,
cùng thực hiện 190 lượt theo dõi đường máu
của bệnh nhân. Kết quả: Nhóm bệnh nhân trên
65 tuổi được sử dụng liều insulin nhanh trước
ăn tối trung bình là 8,84 ± 2,56 IU; liều
insulin chậm buổi tối là 11,90 ± 4,28 IU; liều
insulin hỗn hợp buổi chiều là 8,20 ± 2,05 IU.
Đường máu trước ngủ đo lúc 22 giờ trung bình
ở bệnh nhân trên 65 tuổi và trung bình tồn bộ
nghiên cứu lần lượt là 15,24 ± 6,43 và 16,74 ±
7,25. Nhóm có bệnh phối hợp và sa sút trí tuệ
mức độ nhẹ khơng đạt mục tiêu điều trị. Nhóm


với nhiều bệnh phối hợp, bệnh tim mạch nặng,
nguy cơ hạ đường huyết cao, sa sút trí tuệ nặng
có 31,3% đạt mục tiêu trong khi đó khơng đạt
chiếm 43,7%. Về kiểm soát đường máu trước
ngủ ở người trên 65 tuổi, nhóm có 16,1% bệnh
nhân thuộc nhóm 3 đạt mục tiêu điều trị;
35,5% không đạt mục tiêu, đặc biệt có 12,9%
trường hợp bị hạ đường huyết. Kết luận: Nhu
cầu dùng insulin cho bệnh nhân đái tháo
đường típ 2 rất lớn nhằm kiểm sốt đường
huyết. Hạ đường huyết ln luôn là nguy cơ
cho bệnh nhân đái tháo đường trên 65 tuổi nhất
là về đêm đòi hỏi theo dõi đường huyết trước
khi ngủ là cần thiết.
Từ khóa: glucose máu trước khi ngủ, liệu
pháp insulin
ABSTRACT
Study of bedtime glycemia in type 2 diabetic
patients on insulin therapy
Nguyen Thi To, Vo Thi Minh Duc*,

Nguyen Thi Phuoc Hang, Ho Thi Kim Anh,
Pham Thi Minh Ly, Dao Thi Thuy Hien,
Hoang Thi Thanh Thuy, Trinh Duy Thanh
Hang, Nguyen Thi My Thanh, Tran Nhu Ngoc,
Vo Thi Ngoc Lan, Nguyen Thi Nhuan,
Nguyen Thi Hoai Phong, Mai Thi Be,
Nguyen Hai Thuy
Endocrine-General Internal Medicine
Department, Hue University of Medicine and

Pharmacy Hospital
Objective: Survey the bedtime glycemia in
type 2 diabetic patients using insulin therapy.
Patients and Methods: This prospective study
included 57 consecutive diabetics who were
admitted in the period January 2019 to January
2020 the Endocrine-General Internal Medicine
Department, Hue University of Medicine and
Pharmacy Hospital had 190 blood glucose
monitoring times. Results: In group of patients
over 65 years of age, mean prandial fast-acting
insulin dose for dinner was 8.84 ± 2.56 IU;
mean long-acting insulin dose was 11.90 ±
4.28 IU; mean afternoon mixed insulin dose
was 8.20 ± 2.05 IU. Mean bedtime glycemia in
group of patients over 65 years of age and all
patients was 15.24 ± 6.43 and 16.74 ± 7.25,
respectively. The group of patients with mild
combination disease and dementia did not
achieve the treatment goals. 31.3% of group
with many combination diseases, severe
cardiovascular disease, and severe dementia
(group 3) achieved goals of treatment while
43.7% of patients did not. Regarding control
bedtime glycemia in patients over 65 years of
age, 16.1% of patients in group 3 achieved
treatment goals; 35.5% did not; especially
12.9%
of
cases

having
nocturnal
hypoglycemia. Conclusions: The demand of

57


Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường”

insulin for type 2 diabetics is huge for
achieving treatment goals. The nocturnal
hypoglycemia are always a risk for diabetics
over 65 years old. This poses the strong
recommendation for bedtime blood glucose
monitoring for elderly diabetics.
Key words: Bedtime glycemia, insulin
therapy.
Chịu trách nhiệm chính: Võ Thị Minh Đức
Ngày nhận bài: 6/2/2021
Ngày phản biện khoa học: 15/5/2021
Ngày duyệt bài: 23/7/2020
Email: vominhduc48gmail.com
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Kiểm soát đường huyết là một trong những
mục tiêu chính về điều trị bệnh đái tháo đường
(ĐTĐ) típ 2. Phần lớn các phác đồ điều trị
ĐTĐ típ 2 ngồi chế độ tiết thực vận động
thường phối hợp với các thuốc viên hạ đường
huyết trong giai đoạn đầu. Tuy nhiên chức
năng tế bào β đã suy giảm từ 10-12 năm trước

khi được chẩn đoán ĐTĐ vào giai đoạn tiền
đái tháo đường chính vì thế chỉ cịn khoảng
50% tế bào beta còn hoạt động ngay thời điểm
phát hiện ĐTĐ và tiếp tục suy giảm chức năng
và số lượng tế bào beta bị hủy hoại dần do diễn
tiến tự nhiên liên quan tuổi tác, béo phì gây
kháng insulin kéo dài, khơng kiểm sốt lipid
máu nhất là triglycerid, kiểm sốt đường máu
kém dẫn đến tình trạng tổn thương tế bào beta
trầm trọng với kết quả bệnh nhân phải phụ
thuộc vào insulin ngoại sinh để kiểm soát
đường huyết [2], [16].
Nghiên cứu UKPDS ghi nhận trên bệnh
nhân ĐTĐ chức năng tế bào β tiếp tục giảm
cùng với sự gia tăng glucose máu cho dù có
điều trị. Thất bại với đơn trị liệu sau 5 năm là
15% với Rosiglitazone, 21% với Metformin và
34% với SU hạ đường huyết. Hiện tượng chết
tế bào beta theo lập trình nguyên nhân do
kháng insulin, tiếp đến hiện tượng ngộ độc
glucose (glucotoxicity) và ngộ độc lipid
(lipotoxicity) như đã nói trên cần đến biện
pháp can thiệp đó là sử dụng insulin sớm ngay
khi chẩn đốn ĐTĐ típ 2.
Trong các khuyến cáo của Hội Nội Tiết Đái Tháo Đường Việt Nam (VADE) 2014, IDF

58

Số 49 - Năm 2021


2012, ADA 2015 và ADA/EASD 2015 đều
thống nhất mục tiêu kiểm soát đường máu dựa
vào 3 tiêu chí: (1) đường huyết lúc đói, (2)
đường huyết sau ăn 2 giờ hoặc cao nhất sau ăn
và (3) HbA1c trong đó HbA1c là mục tiêu
chính trong kiểm soát glucose máu do phản
ảnh đường máu hồi cứu trong nhiều ngày,
nhiều tháng. Ngoài ra nồng độ HbA1c liên
quan chặt chẽ đường máu sau ăn hơn là đường
máu lúc đói và nhất là liên quan đến biến
chứng mãn tính ĐTĐ [3], [7], [8], [11], [12].
Mặt khác do tỷ lệ người cao tuổi mắc ĐTĐ
típ 2 có tính phổ biến, thời gian mắc bệnh kéo
dài, nhiều bệnh đi kèm, nguy cơ hạ đường
huyết cao khi áp dụng khuyến cáo. Vì thế theo
ADA/EASD 2015 việc xác định mục tiêu kiểm
soát đường máu có tính “ Cá Nhân Hóa” dựa
trên một số yếu tố bao gồm công việc hàng
ngày, tuổi tác người bệnh, thời gian sống, thời
gian mắc ĐTĐ, sự minh mẫn, khả năng tự theo
dõi glucose máu tại nhà; các bệnh lý kèm theo
nhất là biến chứng tim mạch (bệnh mạch vành,
bệnh mạch máu não, suy tim..), bệnh thần kinh
tự động các tạng (dạ dày, ruột), bệnh thận đái
tháo đường, hạ glucose máu khơng nhận biết
[7], [6], [8]. Vì những lý do trên, chúng tối đã
tiến hành thực hiện đề tài này.
Mục tiêu: Khảo sát đường huyết trước khi
ngủ của bệnh nhân ĐTĐ típ 2 sử dụng liệu
pháp insulin.

2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân ĐTĐ típ 2 có chỉ định liệu
pháp Insulin tăng cường được điều trị nội trú
tại Khoa Nội tiết, Bệnh viện Đại học Y Dược
Huế.
Bệnh nhân được chẩn đoán bệnh ĐTĐ theo
Hiệp hội ĐTĐ Hoa Kỳ (ADA) 2018 và xác
định ĐTĐ típ 2 theo TCYTTG 2002
Chỉ định liệu pháp insulin tăng cường
(theo ADA 2018)
- Bệnh nhân đã sử dụng liệu pháp insulin
nền nhưng đường huyết sau một hoặc nhiều
bữa ăn không kiểm sốt theo khuyến cáo
(HbA1c >7% và/hoặc Glucose máu đói >7.2
mmol/l và/hoặc Glucose máu sau ăn >10


Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường”

mmol/l) được tăng cường insulin tác dụng
nhanh trước bữa ăn để kiểm soát tốt đường
huyết sau ăn.
- BN ĐTĐ típ 2 phát hiện lần đầu có
Glucose máu ≥16.7 mmol/l và /hoặc HbA1c ≥
10%.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu theo dõi
tiến cứu ngắn hạn

Cỡ mẫu: Thuận lợi
Các biến số nghiên cứu
1. Tuổi: tính bằng năm, chia nhóm tuổi
dưới 65 và từ 65 trở lên
2. Giới: nam, nữ
3. Thời gian phát hiện bệnh ĐTĐ: Chia
thành 3 nhóm dưới 5 năm, từ 5-10 năm và trên
10 năm
4. Chỉ số khối cơ thể (BMI). đánh giá béo
phì theo khuyến cáo của TCYTTG áp dụng
cho người châu Á trưởng thành (2002) [1].
5. Huyết áp động mạch: Chẩn đoán THA
theo ADA 2018
5. Bệnh kèm và biến chứng: [8], [10], [11],
[13], [21].

Số 49 - Năm 2021

- Bệnh lý mạch vành, suy tim, tăng huyết
áp, Bệnh mạch máu não, động mạch ngoại
biên
- Sa sút trí tuệ, giảm thính lực, Bệnh thận
mạn, bệnh lý võng mạc, đục thủy tinh thể
- Bệnh lý thần kinh ngoại biên, bệnh lý bàn
chân
6.Hoạt động thể lực và chế độ dinh dưỡng
theo khuyến cáo ADA:[8], [18].
7. Glucose máu huyết tương mao mạch
bằng máy Accu Chek Sensor Glucometer vào
lúc đói, 2 giờ sau ăn, bất kỳ, trước khi đi ngủ

(khoảng 22 giờ).
8. HbA1C
9.Liệu pháp insulin tăng cường
Bệnh nhân được chọn một trong các liệu
pháp sau:
Insulin plus basal: Insulin một mũi nhanh
trước bữa ăn nhiều nhất + mũi nền.
Insulin bolus basal : Thêm ≥2 mũi tiêm
insulin nhanh trước các bữa ăn + mũi nền hoặc
2 mũi hổn hợp .
10. Mục tiêu kiểm soát đường huyết

Bảng 2. Khuyến cáo về mục tiêu kiểm soát glucose máu trên bệnh nhân ĐTĐ típ 2
ADA/EASD
Đường máu
VADE 2014
IDF 2012
ADA 2019
2015
Glucose máu đói (mmol/l)
3,9-7,2
< 6,5
4,5-7,2
< 7,2
Glucose sau ăn 2 giờ hoặc mức < 10
< 9,0
< 10
< 10
cao nhất (mmol/l)
HbA1c (%)

< 7,0
< 7,0
< 7,0
< 7,0
Nồng độ glucose máu lúc đói và sau ăn sẽ thay đổi ở ngưỡng trên hoặc dưới của mục tiêu tùy
thuộc vào các yếu tố nói trên. Đặc biệt nhằm hạn chế hạ đường huyết ở đối tượng người cao tuổi
xãy ra về đêm, bệnh nhân có biến chứng tim mạch và suy giảm nhận thức. Hội Đái Tháo Đường
Hoa Kỳ và Hội Lão Khoa Hoa Kỳ năm 2018 đã đề xuất [8], [15], [23].Ở bệnh nhân lớn tuổi (>=65
tuổi), chúng tơi chọn mục tiêu kiểm sốt đường máu theo ADA và AGS 2018.
Bảng 3. Đồng thuận kiểm soát đường máu cho bệnh nhân ĐTĐ người cao tuổi (≥ 65 tuổi)
của Hội Đái Tháo Đường Hoa Kỳ và Hội Lão Khoa Hoa Kỳ năm 2018[14], [17], [23].
Đặc điểm người bệnh ĐTĐ cao tuổi (≥ HbA1C Glucose đói hoặc Glucose máu trước
65 tuổi)
trước ăn
khi ngủ (mmol/l)
(mmol/l)
Không bệnh phối hợp , sống lâu, ít nguy
7,5%
5 – 7,2
5 – 8,3
cơ, minh mẫn (nhóm 1)
Có bệnh phối hợp và sa sút trí tuệ mức
8,0%
5 – 8,3
5,6 – 10
độ nhẹ (nhóm 2)

59



Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường”

Số 49 - Naêm 2021

Nhiều bệnh phối hợp, bệnh tim mạch
nặng, nguy cơ hạ đường huyết cao, sa sút
8,5%
5,6 – 10
6,1 – 11,1
trí tuệ nặng (nhóm 3)
11. Hạ đường huyết: Phân loại hạ đường
cung cấp đường, tiêm glucagon hoặc thực hiện
huyết (ADA 2018):
các biện pháp hồi sức tích cực
Hạ đường huyết có triệu chứng: Glucose máu
Địa điểm nghiên cứu: Khoa Nội Tiết Bệnh
<3.9 mmol/l và có các triệu chứng điển hình.
viện ĐH Y Dược Huế.
Hạ đường huyết khơng có triệu chứng:
Thời gian nghiên cứu: từ tháng 01/2019 đến
Glucose máu <3.9 mmol/l nhưng không có các
tháng 01/2020.
triệu chứng.
Phương pháp xử lý số liệu: Xử lý số liệu
Hạ đường huyết nặng: Là trường hợp hạ
trên máy vi tính bằng phần mềm thống kê
đường huyết cần sự trợ giúp của người khác để
SPSS 22.0.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Có 57 bệnh nhân ĐTĐ được theo dõi với 190 lượt theo dõi đường máu trong đó 53 lượt kiểm

tra đường máu trên những bệnh nhân trên 65 tuổi.
Bảng 1. Đặc điểm bệnh nhân
Đặc điểm bệnh nhân
n
%
Giới
Nam
40
70,2
Nữ
17
29,8
Tuổi
< 65
41
71,9
≥ 65
16
28,1
Thời gian phát hiện bệnh
< 5 năm
33
57,9
ĐTĐ
5-10 năm
22
38,6
> 10 năm
2
3,5

BMI
Gầy
15
26,3
Bình thường
34
59,6
Thừa cân
8
14,1
Tăng huyết áp

16
28,1
Khơng
41
71,9
Tỷ lệ bệnh nhân nam 70,2%, tỷ lệ bệnh nhân trên 65 tuổi là 28,1% và thời gian phát hiện ĐTĐ
dưới 5 năm 58%
Tỷ lệ BMI bình thường và gầy 85,9% và tỷ lệ bệnh nhân có THA kèm 28,1%.
Bảng 2. Tình trạng kiểm sốt HbA1C trước nhập viện của nhóm trên 65 tuổi (n=16)
Người bệnh trên 65 tuổi
Khơng bệnh phối hợp , sống lâu, ít nguy cơ, minh mẫn (nhóm 1)
Có bệnh phối hợp và sa sút trí tuệ mức độ nhẹ (nhóm 2)
Nhiều bệnh phối hợp, bệnh tim mạch nặng, nguy cơ hạ đường
huyết cao, sa sút trí tuệ nặng (nhóm 3)
Tổng cộng
Khơng kiểm sốt đường huyết dựa vào HbA1c là 68,7%

60


Đạt (n,%)
0
0

Không (n,%)
0
4 (25%)

5 (31,3%)
5(31,3%)

7 (43,7 %)
11(68,7%)


Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường”

Số 49 - Năm 2021

Bảng 3. Tình trạng sử dụng insulin trong ngày và đường máu trước khi ngủ của bệnh nhân.
Insulin hỗn hợp
Insulin nhanh
Insulin chậm
Đường máu
buổi tối
Nhóm tuổi
trước ăn tối
buổi tối
trước đi ngủ

(mixtard-chiều)
(nhanh_chiều) IU
(nền) IU
(mmol/l)
IU
< 65 tuổi
9,50 ±3,47
11,35 ± 3,42
8,19 ± 1,89
17,78 ± 7,63
≥ 65 tuổi

8,84 ± 2,56

11,90 ± 4,28

8,20 ± 2,05

15,24 ± 6,43

Trung bình
9,24 ±3,15
11,57 ± 3,79
8,19 ± 1,88
16,74 ± 7,25
Đường máu trước khi ngủ của bệnh nhân trung bình 16,74 ± 7,25mmol/l
Trong đó nhóm dưới 65 tuổi là 17,78 ± 7,63 mmol/l và ≥ 65 tuổi là 15,24 ± 6,43 mmol/l.
Bảng 4. Tình trạng kiểm sốt đường máu trước đi ngủ nhóm trên 65 tuổi
Đạt
Khơng đạt

Người trên 65 tuổi
n (%)
n (%)
Khơng bệnh phối hợp , sống lâu, ít nguy cơ, minh mẫn (nhóm 1) 0 (0,0%)
0 (0,0%)
Có bệnh phối hợp và sa sút trí tuệ mức độ nhẹ (nhóm 2)
3 (5,7%)
10 (18,9%)
Nhiều bệnh phối hợp, bệnh tim mạch nặng, nguy cơ hạ đường
huyết cao, sa sút trí tuệ nặng (nhóm 3)
17 (32,0%)
23 (43,4%)
Tổng cộng (n= 53)
20 (37,7%)
33 (62,3%)
62,3% bệnh nhân trên 65 tuổi khơng đạt kiểm sốt đường máu trước ngủ; 37,7% bệnh nhân trên
65 tuổi đạt kiểm soát đường máu trước ngủ
Bảng 5. Tỷ lệ hạ đường huyết của nhóm trên 65 tuổi
Hạ đường huyết /n (%)
Người trên 65 tuổi
Khơng bệnh phối hợp, sống lâu, ít nguy cơ, minh mẫn (nhóm 1)
0 (0,0%)
Có bệnh phối hợp và sa sút trí tuệ mức độ nhẹ (nhóm 2)
1 (1,9%)
Nhiều bệnh phối hợp, bệnh tim mạch nặng, nguy cơ hạ đường
4 (7,5%)
huyết cao, sa sút trí tuệ nặng (nhóm 3)
Tổng cộng (n= 53)
5 (9,4%)
9,4% bệnh nhân trên 65 tuổi có cơn hạ đường huyết.

4. BÀN LUẬN
Qua theo dõi 57 bệnh nhân ĐTĐ được theo
dõi với 190 lượt theo dõi đường máu trong đó
53 lượt kiểm tra đường máu trên những bệnh
nhân trên 65 tuổi chúng chúng tôi ghi nhận
như sau
4.1. Đặc điểm lâm sàng:
Trong nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận tỷ
lệ bệnh nhân nam giới là 70,2%, trên 65 tuổi
chiếm 28% với thời gian phát hiện đái tháo
đường dưới 5 năm; 5-10 năm; trên 10 năm lần
lượt là 57,9%; 38,6% và 3,5%. Tỷ lệ thừa cân
và béo phì là 12,3% và 1,8%. Tỷ lệ bệnh nhân
có THA kèm 28,1%.

Phan Thị Kiều Diễm và Nguyễn Thị Nhạn
(2009) [4] khảo sát mối liên quan giữa liều
insulin điều trị và một số đặc điểm lâm sàng và
cận lâm sàng trên 56 bệnh nhân ĐTĐ típ 2
được chỉ định điều trị insulin với 60,7% nữ và
39,3% nam, thời gian điều trị trung bình là 26
± 7,22 ngày.
Hồ Xuân Sơn và Nguyễn Thị Nhạn (2008)
[9] nghiên cứu chỉ định điều trị Insulin ở bệnh
nhân đái tháo đường típ 2 nhập viện tại khoa
Nội tiết - Đái tháo đường Bệnh viện Trung
ương Huế, 64 bệnh nhân Đái tháo đường típ 2
với tuổi trung bình 56,03±4,90, nữ chiếm
67,19%, thời gian phát hiện bệnh dưới 5 năm


61


Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường”

chiếm 64,06%, trên 10 năm chiếm 7,81%.
4.2. Nhu cầu sử dụng insulin cho bệnh
nhân ĐTĐ
Nghiên cứu của chúng tơi cho thấy tình
trạng bệnh nhân trước khi vào viện khơng
kiểm sốt đường huyết dựa vào HbA1c là
68,7%. Vì thế liệu pháp insulin được sử dụng
trong đó nhóm bệnh nhân trên 65 tuổi được sử
dụng liều insulin nhanh trước ăn tối trung bình
là 8,84 ± 2,56 IU; liều insulin chậm buổi tối là
11,90 ± 4,28 IU; liều insulin hỗn hợp buổi
chiều là 8,20 ± 2,05 IU.
Khunti K. và cộng sự [22] nghiên cứu đoàn
hệ hồi cứu liên quan đến bệnh nhân Đái tháo
đường típ 2 đã được điều trị insulin nền từ
tháng 1 năm 2004 đến tháng 12 năm 2011,
tổng cộng 11696 bệnh nhân được đưa vào
phân tích. Trong tổng số các bệnh nhân, có
36,5% được điều trị insulin tăng cường trong
thời gian nghiên cứu; với việc điều trị 50,0%;
42,5% và 7,4% được tăng cường với mũi
nhanh, mũi hỗn hợp hoặc các thuốc đồng vận
GLP-1, tương ứng.
Thời gian trung bình từ khi khởi trị insulin
nền đến insulin tăng cường là 4,3 năm (95%

khoảng tin cậy (CI 4,1, 4,6). Trong số bệnh nhân
đủ điều kiện để điều trị tăng cường với HbA1c
≥7.5%, 30,9% bệnh nhân có phác đồ điều trị của
họ có insulin nền đến insulin tăng cường, thời
gian trung bình 3,7 năm (95% CI 3,4, 4,0).
Trong số những bệnh nhân có HbA1c
≥7.5% có 32,1% đã ngừng điều trị bằng insulin
nền. HbA1c trung bình của nhóm điều trị
insulin tăng cường 9,8±1,9%, sau 6 tháng có
tới 69,1% HbA1c của nhóm này <7,5% và
được duy trì trong 6 tháng kế tiếp. Khuyến cáo
cần được phát triển để tăng số lượng bệnh
nhân điều trị insulin tăng cường và giảm sự
chậm trễ liệu pháp insulin tăng cường ở bệnh
nhân đái tháo đường típ 2.
Freemantle N., Kawamori R.và cộng sự
(2012) [20] với 314 trung tâm ở 12 quốc gia
đại diện cho 5 vùng miền (Canada, Đông Âu,
Bắc Âu, Nam Âu và Nhật Bản) với 3031 bệnh
nhân ĐTĐ típ 2, tuổi trung bình 62, thời gian
mắc bệnh 11 năm, BMI 29,3, HbA1c trung
bình 9,5%. Chú ý đến nhóm người Nhật Bản
với 511 BN (đối tượng tương đồng với người

62

Số 49 - Năm 2021

Việt Nam hơn) tuổi trung bình 63, cân nặng
trung bình 62 kg, BMI 23,9 kg/m2, thời gian

mắc bệnh 12 năm, lựa chọn phác đồ insulin
của Kawamori R. lần lượt là Insulin hổn hợp 2
mũi (36,8%), 1 mũi nhanh (26,2%) và 3 mũi
nhanh (25,4%).
Riddle M.C. và cộng sự (2014) [24] Ở Hoa
Kỳ trên 588 bệnh nhân ĐTĐ típ 2 trong 1 năm
với HbA1c> 7%, so sánh liệu pháp insulin hổn
hợp 2 mũi (PM-2) với liệu pháp nền (Glargin)1 mũi nhanh (G+1), nền- 3 mũi nhanh (G+3)
với kết quả tuổi trung bình 54±10 năm, thời
gian mắc ĐTĐ 9,3±6,1 năm; BMI 33,2±5,8;
đường máu đói 11,2±3,9 mmol/l và HbA1c
9,4±1,6%.
Phan Thị Kiều Diễm và Nguyễn Thị Nhạn
(2007-2009) [4], sử dụng cho bệnh nhân liều
insulin điều trị trung bình là 0,45 ± 0,18
UI/kg/ngày, ở nhóm điều trị insulin đơn thuần
0,63 ± 0,09 UI/kg/ngày, insulin + thuốc uống
0,31 ± 0,04 UI/kg/ngày. Hồ Xuân Sơn và
Nguyễn Thị Nhạn (2008) [9] sử dụng insulin
cho bệnh nhân 52,21±10,2UI, cao nhất 85 UI,
thấp nhất 34 UI.
Kiểm soát đường huyết
Trong nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận
đường máu trước khi ngủ của bệnh nhân trung
bình 16,74 ± 7,25 mmol/l. Trong đó nhóm
dưới 65 tuổi là 17,78 ± 7,63 mmol/l và ≥ 65
tuổi là 15,24 ± 6,43 mmol/l. Điều này cho thây
đường huyết giao động ở mức cao .
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỉ lệ
người trên 65 tuổi đạt mục tiêu HbA1C theo cá

nhân hóa của khuyến cáo ADA 2018 khá
khiêm tốn. Cụ thể nhóm có bệnh phối hợp và
sa sút trí tuệ mức độ nhẹ khơng đạt mục tiêu
điều trị. Nhóm với nhiều bệnh phối hợp, bệnh
tim mạch nặng, nguy cơ hạ đường huyết cao,
sa sút trí tuệ nặng có 31,3% đạt mục tiêu trong
khi đó khơng đạt chiếm 43,7%.
Về kiểm soát đường máu trước ngủ ở người
trên 65 tuổi, nhóm có 16,1% bệnh nhân thuộc
nhóm 3 đạt mục tiêu điều trị; 35,5% không đạt
mục tiêu.
Hạ đường huyết
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy khảo sát
đường huyết trước khi ngủ có 12,9% bệnh
nhân bị hạ đường huyết.


Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường”

Ata Mahmoodpoor và cộng sự (2016) [19]
nghiên cứu các yếu tố hạ đường huyết và mối
quan hệ của nó với tử vong trên bệnh nhân đái
tháo đường típ 2 điều trị insulin trong đơn vị
chăm sóc tích cực, cho thấy hạ đường huyết là
biến chứng phổ biến của liệu pháp insulin tích
cực ở bệnh nhân ĐTĐ típ 2.
Hạ Glucose máu, phần lớn xảy ra vào ngày
thứ ba nhập viện, nguyên nhân thường gặp
nhất là chấn thương và nhiễm trùng huyết. Sự
gia tăng về số tổn thương cơ quan nội tạng làm

tăng các nguy cơ hạ đường huyết tới 52% (P
<0,001). Ở những bệnh nhân có suy chức năng
thận cấp nguy cơ hạ đường huyết là lớn hơn 10
lần so với những người không có suy thận
(RR: 10,3, CI: 3,16-33,6, P <0,001). Hạ đường
máu có mối tương quan với tỷ lệ tử vong (RR:
1,01, CI: 1,004-1,02, p <0,005), hạ đường máu
tăng gấp đôi tỷ lệ tử vong.
Điều đó cho thấy nhu cầu dùng insulin cho
bệnh nhân đái tháo đường rất lớn và không thể
thiếu. Cùng với đó, đạt mục tiêu điều trị đối
với bệnh nhân trên 65 tuổi vẫn là thách thức
với các nhà lâm sàng. Đặt biệt hạ đường huyết
luôn luôn là nguy cơ và tác dụng phụ nguy
hiểm đối với bệnh nhân đái tháo đường nói
chung và bệnh nhân đái tháo đường trên 65
tuổi nói riêng.
5. KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu nồng độ glucose máu trước
ngủ với 57 bệnh nhân ĐTĐ trong đó nam giới
chiếm 70,2%; bệnh nhân trên 65 tuổi chiếm
28%, cùng thực hiện 190 lượt theo dõi đường
máu, chúng tôi đưa ra kết luận như sau:
Nhóm bệnh nhân trên 65 tuổi được sử dụng
liều insulin nhanh trước ăn tối trung bình là
8,84 ± 2,56 IU; liều insulin chậm buổi tối là
11,90 ± 4,28 IU; liều insulin hỗn hợp buổi
chiều là 8,20 ± 2,05 IU.
Glucose máu trước ngủ ở bệnh nhân trên 65
tuổi và nhóm nghiên cứu lần lượt là 15,24 ±

6,43 và 16,74 ± 7,25 mmol/l. Nhóm có bệnh
phối hợp và sa sút trí tuệ mức độ nhẹ khơng
đạt mục tiêu điều trị. Nhóm với nhiều bệnh
phối hợp, bệnh tim mạch nặng, nguy cơ hạ
đường huyết cao, sa sút trí tuệ nặng có 31,3%
đạt mục tiêu trong khi đó khơng đạt chiếm

Số 49 - Năm 2021

43,7%. Về kiểm sốt đường máu trước ngủ ở
người trên 65 tuổi, nhóm có 16,1% bệnh nhân
thuộc nhóm 3 đạt mục tiêu điều trị; 35,5%
khơng đạt mục tiêu, đặc biệt có 12,9% trường
hợp trên 65 tuổi bị hạ đường huyết.
6. ĐỀ XUẤT
Sử dụng insulin liệu pháp phổ biến trên
bệnh nhân ĐTĐ típ 2. Vì thế đo đường máu
trước ngủ giờ trở thành thường quy đối với
bệnh nhân nhất là người cao tuổi nhằm dự
phòng hạ đường huyết.
Việc kiểm soát điều trị đái tháo đường cần
được cá nhân hóa đặc biệt đối với bệnh nhân
đái tháo đường trên 65 tuổi.
Hướng dẫn cho bệnh nhân chích insulin về
cách tính tốn lượng đường cho bữa ăn
(Carbohydrate counting) khi sử dụng insulin
Nên chuyển liều insulin nền buổi chiều
sang buổi sáng theo khuyến cáo ADA 2019

1.


2.

3.

4.

5.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Hoành Cường, Nguyễn Hoàng Vũ
và cộng sự (2012), “Kết quả điều trị và
nhận thức của bệnh nhân Đái tháo đường
típ 2”, Tạp chí Nội tiết Đái tháo đường,
Kỹ yếu tồn văn các đề tài khoa học Hội
nghị Nội tiết - Đái tháo đường - Rối loạn
chuyển hóa Miền trung mở rộng lần thứ
VIII, Vinh, (20), tr. 168-74.
Trần Hữu Dàng (2008), “Đái tháo đường”,
Giáo trình sau đại học Chuyên ngành nội
tiết và chuyển hóa, Nhà xuất bản Đại học
Huế, tr. 221-244.
Trần Hữu Dàng(2014), “Sự đóng góp của
đường huyết sau ăn và lợi ích của insulin
2 pha trong điều trị đái tháo đường típ
2”,Cập nhật liệu pháp insulin trong điều
trị đái tháo đường típ 2. Quy Nhơn
Trần Thị Kiều Diễm (2012), “Mối tương
quan giữa liều Insulin điều trị với một số
đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh

nhân Đái tháo đường típ 2 có điều trị
Insulin”, Tạp chí Nội tiết Đái tháo đường,
Kỹ yếu toàn văn các đề tài khoa học Hội
nghị Nội tiết và Đái tháo đường Toàn
Quốc lần thứ VI, Quyển I,(38) tr. 300-7.
Đào Thị Dừa, Nguyễn Tá Đông, Cao Văn

63


Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường”

6.

7.

8.
9.

10.

11.

12.

13.

64

Minh (2009), “Đánh giá một số yếu tố

nguy cơ tim mạch trên bệnh nhân Đái tháo
đường”. Tạp chí Nội tiết Đái tháo đường,
Kỹ yếu toàn văn các đề tài khoa học Hội
nghị Nội tiết và Đái tháo đường Toàn
Quốc lần VI, Quyển II, tr. 600-05.
Frederik Persson,Cá thể hóa điều trị đái
tháo đường typ 2, Lớp tập huấn giảng viên
về quản lý đái tháo đường. STENO VDCP. TP. HCM.
Hội Nội tiết Đái tháo đường Việt Nam
(2013), “Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị
Đái tháo đường type 2 chưa có biến
chứng”, Tạp chí Nội tiết Đái tháo đường,
9(2) tr.4-16.
ISTEP-D (2015),Chương trình đào tạo
Quốc tế về Đái tháo đường.
Nguyễn Thị Nhạn, Hồ Xuân Sơn (2008),
“Chỉ định điều trị Insulin ở bệnh nhân Đái
tháo đường típ 2 nhập viện tại khoa Nội
tiết Bệnh viện Trung ương Huế”, Y học
thực hành, Kỷ yếu toàn văn các đề tài
khoa học Hội nghị Đái tháo đường - Nội
tiết và Rối loạn chuyển hóa Miền trung
lần thứ VI, (30),tr.274-81.
Nguyễn Hải Thủy (2015), “Cập nhật liệu
pháp Insulin trong điều trị Đái tháo đường
típ 2”, Tạp chí Nội tiết Đái tháo đường,
16, tr.10-22.
American Diabetes Association (2015),
Microvascular Complications and Foot
Care (2015),Diabetes Care 5, 38(1),

pp.58-66.
American Diabetes Association(2015),
Cardiovascular
Disease
and
Risk
Management,Diabetes Care,38(1), pp.49-57.
American Diabetes Association (2015),
Approaches to Glycemic Treatment:
Pharmacological Therapy for Type 2
Diabetes,Diabetes Care,38(1), pp.41-48

Số 49 - Năm 2021

14. American Diabetes Association (2015),
Approaches to Glycemic Treatment:
Pharmacological Therapy for Type 2
Diabetes, Diabetes Care,38(1), pp. 52-59
15. American Diabetes Association (2015),
Classification and Diagnosis of Diabetes,
Diabetes Care,38(1), pp.8-16
16. American Diabetes Association (2015),
Foundations of Care (2015). Education,
Nutrition, Physical Activity, Smoking
Cessation, Psychosocial Care and
Immunization,Diabetes Care,38(1), pp.2030.
17. Ata Mahmoodpoor et al (2016),
Predisposing Factors for Hypoglycemia
and Its Relation With Mortality in
Critically Ill Patients Undergoing Insulin

Therapy in an Intensive Care Unit,Anesth
Pain Med, 6(1), pp.e33849
18. Freemantle N., Kawamori R. et al (2012).
Factors influencing initial choice of
insulin therapy in a large international
non-interventional study of people with
type 2 diabetes,Diabetes, Obesity and
Metabolism 14, pp.901-9
19. ISTEP-D. (2015) Diabetes and the Older
Adult. Diabetes Care, pp.67-84
20. Khunti K.,Nikolajsen A.,Thorsted L. et al
(2016), Clinical inertia with regard to
intensifying therapy in people with type 2
diabetes
treated
with
basal
insulin,Diabetes,
Obesity
and
Metabolism,18, pp.401-409.
21. Nathan D.M. (2016),Treatment of type 2
diabetes mellitus in the older patient,
Guidelines abstracted from the American
Geriatrics
Society
Guidelines
for
Improving the Care of Older Adults with
Diabetes Mellitus.




×