Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tài liệu Chuyên đề thực tập : Môi trường ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.21 KB, 15 trang )

Chuyên đề thực tập: Thực tế áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệthại do hành vi làm
ô nhiễm môi trường gây nên tại địa phương . (Tình hình khiéu nại, tố cáo, khiếu kiện trong
lĩnh vựcbảo vệ môi trường tại địa phương; quá trình giải quýêt các khiếu kiện đòi bồi thường
thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây nên tại địa phương; những vướng mắc nảy sinh trong quá
trình áp dụng các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
gây nên; kiến nghị hướng khắc phục những vướng mắc nảy sinh)
I, phần 1: Giới thiệu chung về chuyên đề
Nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong những năm gần đây với hệ
thống đô thị của Việt nam là hạt nhân của sự phát triển. Trong những năm gần đây cùng với
những chuyển biến tích cực về kinh tế xã hội, mạng lưới đô thị quốc gia đã được mở rộng và
phát triển. Quá trình đô thị hóa đó diễn ra mạnh mẽ nhất là tại 3 vùng trọng điểm kinh tế là
Bắc, Trung, Nam. Sự phát triển mạnh mẽ của các đô thị đã tác động không nhỏ đến môi
trường. Tình trạng ô nhiễm môi trường đã đạt đến mức đáng báo động. Hai đô thị lớn nhất
Việt Nam là Hà Nội và Thành Phố Hồ Chí Minh được xếp vào 2 trong số những thành phố ô
nhiễm bụi cao nhất thế giới. Điều đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển bền vững của
kinh tế. điều đó có thể biến nỗ lực tăng trưởng kinh tế của chúng ta trong những năm qua
thành con số không. Và một điều quan trọng hơn là sự ô nhiễm môi trường đó gây tác hại vô
cùng nghiêm trọng đến cuộc sống cũng như sức khoẻ của người dân. Góp phần không nhỏ
vào tình trạng ô nhiễm môi trường là những hành vi có ý gây ô nhiễm môi trường của những
người thiếu ý thức bảo vệ môi trường. Những hành vi gay ô nhiễm môi trường vẫn tiếp tục
diễn ra và không có dấu hiệu giảm xuống mà nguyên nhân là do quy định của pháp luật về
bảo vệ môi trường còn chưa chặt chẽ, thiếu chế tài sử lý đói với những hành vi gây ô nhiễm
môi trường, thiếu những biện pháp kiên quyết trong việc bồi thường thiệt hại do hành vi ô
nhiễm môi trường gây ra. Đó là vấn đề được đề cập dến trong chuyên đề này.
II, Phần 2: quá trình tim hiểu thu thâp thông tin nơI thực tập, thời gian thu thập
thông tin , phương pháp thu thập thông tin, nguồn thu thập thông tin, các thông tin.
II.1, Quá trình tìm hiểu thu thập thông tin, thời gian thu thập thông tin:
Để tiến hành thu thập thông tin tại trung tâm để viết chuyên đề, đầu tiên phải tiến hành
thu thập thông tin về chức năng, nhiêm vụ, họat động của trung tâm. Sau khi tìm hiểu rõ
1
thông tin của trung tâm thì tiến hành thu thập thông tin về các tranh chấp môi trường. Tuy


nhiên, nhiêm vụ của trung tâm chủ yếu là phân tích môi trường vì vậy thông tin về các tranh
chấp về môi trường chủ yếu từ các cán bộ trực tiếp tham gia giải quyết tranh chấp. Đồng thời
trực tiếp xuống tận nơi xảy ra tranh chấp. Ngoài ra, thu thập thông tin trên mạng và qua báo
chí.
Công việc tiến hành thu thập thông tin tiến hành trong suốt quá trình thực tập.
Tuy nhiên hiện nay, các thông tin về các tranh chấp về môi trưòng chưa thực sự được
công khai vì vậy chỉ các thông tin đã được công khai với báo chí hoặc các thông tin về các vụ
việc đã được giải quyết sinh viên thực tập mới được tiếp cận. Những thông tin cũng như số
liệu của các vụ việc chưa giải quyết không được tiếp cận. Đồng thời trung tâm không có bất
kì một thống kê nào về các vụ tranh chấp xảy ra trong thời gian qua.
Mọi thông tin trong chuyên đề được thu thập chủ yếu từ báo chí, từ các cán bộ trực
tiếp tham gia giải quyết các vụ việc. Chuyên đề này chỉ đề cập đến thông tin về hiên trạng môi
trường của Hà Nội và các thông tin cụ thể của các vụ việc được công khai và đã được giải
quyết.
II.2, Phương pháp thu thập thông tin:
Các phương pháp thu thập thông tin trong chuyên đề:
Thứ nhất, phương pháp thu thập thông gián tiếp từ các cán bộ trực tiếp tham gia công
tác giải quyết.
Thứ hai, phương pháp thu thập trực tiếp thông tin tại nơI xảy ra tranh chấp
Thứ ba, phương pháp thống kê thông tin có được từ báo chí và internet.
II.3, Nguồn thu thập thông tin, thông tin:
*Các nguồn thu thập thông tin :
+ Cán bộ trực tiếp tham gia giảI quyết vụ việc
+ Báo chí và internet
Thông thi thu thập được:
* Thông tin về nơi thực tập : Trung tâm phân tích và quan trắc tài nguyên, môi trường
hà Nội.
Chức năng của trung tâm: Trung tâm Quan trắc và phân tích tài nguyên, môi trường
Hà Nội là trung tâm tổ chức các hoạt động quan trắc và phân tích tài nguyên, môi trường phục
vụ công tác quản lý Nhà nước về tài nguyên, môi trường trên địa bàn Thành phố;

2
Cung cấp cỏc dịch vụ, thụng tin cho cỏc tổ chức và cỏ nhõn cú nhu cầu nghiờn cứu
tỡm hiểu về quan trắc, phõn tớch tài nguyờn và mụi trường theo quy định hiện hành của Nhà
nước và Thành phố.
Nhiêm vụ của trung tâm: Trung tõm Quan trắc và phõn tớch tài nguyên, môi trường
Hà Nội có các nhiệm vụ sau:
Tổ chức quản lý, vận hành cỏc mạng lưới quan trắc, phân tích tài nguyên môi trường;
đo lường, đánh giá thông số tài nguyên, môi trường; thu thập thông tin về chất lượng tài
nguyên, môi trường trên địa bàn thành phố Hà Nội;
Tiến hành các hoạt động quan trắc, phân tích tài nguyên, môi trường để phục vụ quản
lý, cung cấp thụng tin phục vụ cỏc tổ chức, cỏ nhõn khỏc khi cú nhu cầu;
Tổ chức nghiên cứu ứng dụng, triển khai các thành tựu khoa học, đề tài khoa học, các
dự án bảo vệ môi trường và các nguồn tài nguyên.
Tiếp nhận và triển khai các chương trỡnh dự ỏn đầu tư, viện trợ của nước ngoài về
quan trắc, phân tích tài nguyên và môi trường theo thẩm quyền được UBND Thành phố và Sở
Tài nguyên, Môi trường và Nhà đất Hà Nội giao;
Tư vấn lập dự án, thiết kế và xây dựng các hệ thống quan trắc, phân tích, giám sát,
thăm dũ, đánh giá, khai thác, sử dụng, đánh giá tác động môi trường, phát triển và bảo vệ môi
trường và các nguồn tài nguyên khác trên địa bàn;
Tổ chức thông tin tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao nghiệp vụ về quản lý tài
nguyờn và mụi trường cho cán bộ, công chức của Trung tâm và các tổ chức kinh tế-xó hội
khỏc cú nhu cầu;
Quản lý và sử dụng cú hiệu quả nguồn tài chớnh, cơ sở vật chất, trang thiết bị của đơn
vị theo đúng quy định hiện hành của pháp luật;
Thực hiện chế độ thống kê báo cáo định kỳ, đột xuất tỡnh hỡnh thực hiện nhiệm vụ
được giao với các cơ quan có thẩm quyền;
Hoạt động của trung tõm:
Trung tõm mới được thầnh lập 2 năm và được tỏch ra từ Sở khoa Học cụng nghệ nờn
hiờn nay trung tõm chưa thực hiện đầy đủ chức năng và nhiệm vụ được giao. Hiờn nay, trung
tõm co hai hoạt động chớnh là tiến hành làm dịch vụ lập bỏo cỏo đỏnh giỏ tỏc động mụi

trường của cỏc dự ỏn đầu tư và tham gia thanh tra cỏc cơ sở sản xuất trờn địa bang thành phố
Hà Nội
*Thông tin về hiện trạng môi trường Hà Nội trong thời gần đây:
(LĐ) - Môi trường không khí, các dũng sụng, ao hồ ở HN đều đang ô nhiễm ở mức
báo động. Chất thải rắn, rác thải y tế nguy hại, ô nhiễm tiếng ồn cũng đang đe dọa nghiêm
trọng đến đời sống người dân.
Nụng thụn :
Hà Nội hiện có 147 đơn vị nằm trong danh mục gây ô nhiễm nghiêm trọng môi trường. Theo
kết quả khảo sát của cơ quan chức năng, nhiên liệu tiêu thụ tại HN mỗi ngày đêm là 240
nghỡn tấn than, 240 nghỡn tấn xăng, đưa vào không khí 80 nghỡn tấn bụi, khúi, 10 nghỡn tấn
SO2, 19 nghỡn tấn NOx, 46 nghỡn tấn khớ CO chiếm 38% tổng lượng chất nguy hại.
3
Theo Sở KHCNMT HN, từ năm 1995 đến nay, lượng chất thải rắn thải vào môi trường (ngoại
trừ chất thải sinh hoạt) của 9 khu công nghiệp (KCN) cũ, 8 KCN mới, 500 nhà máy, 100 cơ
sở sản xuất trên địa bàn thành phố lên tới 491.109 tấn, tăng trung bỡnh 5%/năm.
Ở vùng nông thôn như Đông Anh, Sóc Sơn khu vực vốn trước đây môi trường trong lành,
thỡ đến nay, các chỉ số về nồng độ bụi, CO, SO2 đó tăng 1,5 lần so với tiêu chuẩn cho phép.
Riêng khu vực Bát Tràng, nồng độ CO, CO2 thải 17m3, SO2: 0.146m3, bụi 0,92kg /ngày
đêm. Điều đáng nói là lượng chất thải nguy hại vào môi trường vẫn tăng đều từng năm. Tại
thời điểm này, mặc dù chưa phải là thành phố công nghiệp phát triển so với khu vực, nhưng
ngoại trừ nồng độ bụi, thỡ so với Bangkok (Thỏi Lan), Manila (Philippines), Jakarta
(Indonesia), mức độ ô nhiễm tiếng ồn, không khí (như SO2, CO, NO2) cao gấp nhiều lần và
được đánh giá là khá nghiêm trọng.
Cỏc dũng sụng cựng ụ nhiễm
Tại HN, 4 con sụng chớnh gồm Tụ Lịch, Lừ, Sột và Kim Ngưu đều ô nhiễm nặng. Các sông
này bị nhiễm bẩn hữu cơ và chất rắn lơ lửng rất nặng. Không chỉ do nước thải sinh hoạt, nước
thải sản xuất công nghiệp, nước thải của các bệnh viện và các cơ sở dịch vụ chứa nhiều chất ô
nhiễm phần lớn chưa qua xử lý chớnh là yếu tố gõy ụ nhiễm nguồn nước mặt của thành phố.
Hiện toàn thành phố mới có 40 cơ sở sản xuất công nghiệp, 29 cơ sở dịch vụ và 5 bệnh viện
cú trạm xử lý nước thải.

Để giải quyết triệt để các doanh nghiệp gây ô nhiễm trên địa bàn. Thành phố đó giao Sở Tài
nguyên môi trường và nhà đất lập đề án tổng thể. Theo đó, đến năm 2015, thành phố di
chuyển toàn bộ các cơ sở sản xuất không phù hợp quy hoạch, gây ô nhiễm ra khỏi nội đô.
Trước đó, năm 2010, phải di chuyển xong các cơ sở gây ô nhiễm nặng, như cơ sở sản xuất
rượu, dệt may, các cơ sở có sử dụng hoá chất gây độc hại. Lónh đạo thành phố cũng yêu cầu
Ban quản lý cỏc KCN HN lập quỹ đất, chuẩn bị các điều kiện để các doanh nghiệp ổn định
sản xuất khi di dời theo quyết định của thành phố. Sở TNMTNĐ đề nghị, cơ sở di dời được
phép giữ lại từ 30-50% giá trị thu được từ việc đấu giá đất (nơi doanh nghiệp đang sử dụng)
để bù đắp chi phí di dời.
Những kết quả quan trắc đáng tin cậy nhất thời gian gần đây tại trạm khí tượng Láng
(Hà Nội) do Trung tâm Khí tượng Thuỷ văn Đồng bằng Bắc Bộ thực hiện cho thấy, trung
bỡnh trong một một khối khụng khớ ở Hà Nội cú: 80 àg (mi-crụ gram) bụi khớ PM10, vượt
tiêu chuẩn quy định 50 µg/m
3
; bụi khớ SO
2
cũng vượt tiêu chuẩn châu Âu 20 µg/m
3
; nồng độ
bụi lơ lửng cao hơn tiêu chuẩn cho phép 2,5 lần.
Nếu xét về nguồn phát sinh, khí thải từ các hộ gia đỡnh khu vực trung tõm phố cũ và phố cổ
cú mật độ cao nhất so với các vùng dân cư khác của thành phố.
Một nguồn phát sinh ô nhiễm không khí khác là từ 14 khu công nghiệp, đáng chú ý là bụi và
khớ SO
2
. Tuy đó cú những biện phỏp xử lý ụ nhiễm, nhưng qua điều tra vẫn thấy khí thải
công nghiệp xuất hiện nhiều hơn ở các khu công nghiệp mới: Bắc Thăng Long, Nam Thăng
Long, Sài Đồng B, Đông Anh và Sóc Sơn.
Bên cạnh đó, khí thải giao thông từ 200.000 ô tô và 1,9 triệu xe máy đó trở thành nguồn chủ
yếu sinh ra cỏc khớ NO

x
, C
x
H
y
, SO
2
và bụi.
. Khu vực chợ Đồng Xuân và khu tập thể Kim Liên là ô nhiễm do dịch vụ thương mại và ô
4
nhiễm sinh hoạt. Khu công nghiệp Thượng Đỡnh và đường Pháp Vân ô nhiễm khí công
nghiệp và giao thông. Mức độ ô nhiễm không khí ở Hà Nội cũng có sự thay đổi theo thời tiết,
về mùa đông cao hơn mùa hè, cao nhất là vào tháng mười hai và tháng một.
Trong mùa đông, dưới tác dụng của khí áp cao và xoáy nghịch không khí bị tù hóm, thường
xảy ra “nghịch nhiệt”, chất ô nhiễm khó phát tán lên cao và ra xa. Về mùa hè, mặt đất bị đốt
nóng, không khí cùng chất ô nhiễm có khả năng phát tán lên cao và được rửa trôi theo mưa.
Khi các chất ô nhiễm phát ra cứ tích tụ lại trong phạm vi 150m đến 200m gần sát mặt đất thỡ
hàm lượng của chúng tăng lên.
Hiện tượng này thường xảy ra lúc tan tầm giao thông và các lũ đun nấu bắt đầu hoạt động,
khiến ô nhiễm tăng cao. Thêm vào đó là bụi bặm do xe ô tô, xe máy tốc lên từ mặt đường đầy
đất cát và khí thải tập trung do tắc nghẽn giao thông ở các tuyến đường có mật độ lưu thông
cao.
Hằng năm từ cuối tháng chín đến đầu tháng giêng, Hà Nội có khoảng 40 ngày xảy ra “nghịch
nhiệt” về ban đêm khiến cho hầu hết các chất ô nhiễm không khí tăng và kéo dài trong nhiều
ngày liên tục gây tác hại cộng năng đến sức khoẻ, nhất là những người có tuổi.
Nguy cơ cao về các bệnh do ô nhiễm không khớ
Kết quả nghiên cứu cho thấy xu hướng sức khỏe người dân ngày càng bị ảnh hưởng bởi các
yếu tố môi trường. Những người có thời gian sống tại thành phố hơn mười năm có tỷ lệ mắc
các bệnh mạn tính về tai, mũi, họng, cảm cúm cao hơn những người sống dưới ba năm.
Tại một số khu vực, kết quả điều tra cho thấy tỷ lệ hộ mắc bệnh chiếm 72,6 % và 43 % người

mắc bệnh mạn tính về tai, mũi họng, viêm mũi dị ứng, hen phế quản, cảm cúm, viêm phổi,
viêm phế quản, các bệnh ngoài da và bệnh về mắt.
Quận Hoàng Mai có tỷ lệ mắc các chứng tắc mũi, chảy nước mũi, viêm họng cao nhất, thấp
nhất là quận Hoàn Kiếm. Trong khi đó quận Đống Đa mắc tỷ lệ cao nhất là các bệnh về da
liễu và mắt, tiếp đến là các quận Hoàng Mai, Thanh Xuân, Hoàn Kiếm, Tây Hồ.
Theo các nghiên cứu về thực trạng các bệnh tật của nhân dân nội thành Hà Nội liên quan đến
ô nhiễm không khí thỡ những người dân tỏ ra ít thông tin về những tác hại của biến đổi môi
trường. Điều này có thể do việc giáo dục truyền thông tại nơi làm việc và nơi sinh sống của
cộng đồng chưa thật hiệu quả.
Theo báo cáo về môI trương toàn cầu của UNEP thì Hà Nội và thành Phố Hồ Chí
Minh là 2 trong số 6 thành phố ô nhiễm không khí nhất thế giới.
Trong thời gian gần đây nhiều sự cố môI trường thường xuyên xảy ra mà nguyên
nhân được cho là do hoạt động của con người . Trong đó phải kể đến:vụ cá chết hàng loạt trên
Hồ Tây, cá chết hàng loạt trên hồ Bảy Mẫu…
Thông tin về những vụ việc cụ thể:
1.Vụ cá chết hàng loạt ở Đông Anh
• Thời gian: năm 1998
• Địa điểm: huyện Đông Anh
5
• Nội dung vụ việc:
Năm 1998, Chủ tịch một xã ở Đông Anh báo cáo ở xã có hiện tượng cá chết hàng loạt
chưa rõ nguyên nhân. Vấn đề nghiêm trọng hơn do người dân nghi ngờ lẫn nhau (vì không
biết nguyên nhân). Các cơ quan chức năng đã xuống thanh, kiểm tra nhưng không phát hiện
được nguyên nhân. Có một điểm đặc biệt là hiện tượng cá chết hàng loạt chỉ xảy ra vào ban
đêm (có phải do hành vi phá hoại của con người?). Trong thời gian này, cô Thanh mới quen
một chuyên gia sinh vật học người Canada là ông McWall, do một lần gặp ông khi đi lấy mẫu
nước ở Hồ Tây. Ông rất quan tâm tới vấn đề cá chết hàng loạt và yêu cầu gọi ông ngay khi
hiện tượng này lặp lại. Vài hôm sau, đúng 12h đêm, hiện tượng trên lại xảy ra. Nhận được tin,
cô Thanh và chuyên gia McWall đã ngay lập tức đến kiểm tra. Đến nơi, ông lập tức cho kiểm
tra lượng O

2
trong nước. Kết quả kiểm tra cho thấy lượng O
2
trong nước gần bằng không, đây
chính là nguyên nhân làm cá chết hàng loạt. Nhưng tại sao cứ về đêm lượng O
2
trong nước lại
giảm đột ngột như vậy (kết quả kiểm tra lượng O
2
ban ngày không có vấn đề gì)? Sau khi
kiểm tra các vấn đề, chuyên gia McWall đã tìm ra nguyên nhân, cụ thể như sau: bà con trong
xã thường dùng phân heo, phân gà, phân chim cút (vật nuôi) làm thức ăn cho cá. Nhưng vì
lượng phân rất nhiều nên cá trong ao ăn không hết, lượng phân thừa này lắng xuống đáy hồ và
sinh ra một loài tảo (nấm) cực độc. Loài tảo này chỉ hoạt động về đêm và với số lượng rất lớn,
tốc độ sinh sôi nhanh nên khi hoạt động, chúng đã hút hết O
2
trong ao. Như vậy, câu chuyện
đã rõ ràng.
• Phương pháp giải quyết:

Chuyên gia McWall đưa ra phương án giải quyết trước mắt là rút hết nước ao, phơi
đáy ao, rải vôi và thay nước để diệt sạch tảo độc. Về sau, để tránh gặp lại tình trạng này,
chuyên gia khuyên bà con nên tính toán lượng phân phù hợp, không thừa, hoặc thường xuyên
thay nước ao.
2.Vụ cá chết hàng loạt ở Mễ Trì
• Thời gian: năm 2000
• Địa điểm: xã Mễ Trì
• Nội dung vụ việc:
Hiện tượng cá chết hàng loạt xảy ra tại khu vực nuôi cá của các hộ dân sau nhà máy
phân lân Văn Điển nhưng có một điểm đặc biệt là chỉ cá chim trắng chết. Các cơ quan chức

năng cũng đã tham gia giải quyết nhưng không phát hiện nguyên nhân vì kết quả kiểm tra
nguồn nước vẫn đạt tiêu chuẩn cho phép. Khi cô Thanh đến kiểm tra thì phát hiện ra một vấn
đề: người dân không dùng nguồn nước sông Lừ để nuôi cá mà họ đào đường dẫn nước từ
cống thải phía sau nhà máy phân lân Văn Điển về để nuôi cá. Nguyên nhân là vì nước này
chứa rất nhiều đạm (N,P,K), cá sẽ lớn nhanh. Hơn nữa, nước thải đã được xử lý nên nhìn rất
trong. Tuy nhiên, đây chính là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng cá chết hàng loạt. Vì nước
thải này tuy đã được xử lý nhưng lượng flo (F) trong nước vẫn rất lớn, kết quả đã được kiểm
định qua mẫu trầm tích ở đáy ao. Mặt khác, cá chim là loài cá rất háu ăn, chúng luôn tập trung
ở đầu nguồn để cướp thức ăn. Vậy, vấn đề đã rõ ràng.
• Phương pháp giải quyết:
Yêu cầu người dân không sử dụng nước thải từ nhà máy phân lân Văn Điển để nuôi
cá.
6
3. Vụ ô nhiễm khí do đốt phế thải công nghiệp (đốt dây điện lấy lõi đồng) ở Sóc Sơn
• Thời gian: mùa hè năm 2003
• Địa điểm: huyện Sóc Sơn
• Nội dung vụ việc:
Một số hộ dân buôn bán đồng nát ở Sóc Sơn đã thu gom rất nhiều dây điện về để lấy
lõi đồng, phần vỏ nhựa thì họ đem đốt. Họ cho rằng phần vỏ này hoàn toàn là nhựa nên không
vấn đề gì. Nhưng các hộ dân xung quanh lại bị ảnh hưởng rất nhiều (ngạt thở, mắc các bệnh
hô hấp) và đã đưa đơn kiện. Khi đoàn kiểm tra đến giải quyết và lấy mẫu khí để kiểm tra thì
thấy có rất nhiều chất độc hại sinh ra từ việc đốt vỏ nhựa này. Lý do là vì trong vỏ dây điện
ngoài thành phần nhựa còn có dầu trơn, khi đốt sẽ sinh ra nhiều chất độc hại, có thể gây ung
thư. Hơn nữa, mỗi lần các hộ này đốt hàng tạ dây nên mức độ độc hại là rất lớn.
Phương pháp giải quyết:
Buộc các hộ này đình chỉ hoàn toàn việc đốt vỏ dây điện.
4.Vụ cá chết ở hồ Ngọc Khánh
• Thời gian: năm 2007
• Địa điểm: hồ Ngọc Khánh
• Nội dung vụ việc:

Các hộ nuôi cá ở hồ Ngọc Khánh báo có hiện tượng cá chết hàng loạt ở hồ. Hiện
tượng này xảy ra vào ban ngày, kết quả kiểm tra cũng cho thấy lượng O
2
trong hồ vào ban
đêm cao hơn ban ngày. Điều này rất bất thường vì lẽ ra ban ngày các loài tảo và thực vật trong
hồ tiến hành quang hợp sẽ sinh ra nhiều O
2
hơn ban đêm. Tìm hiểu thêm, cô Thanh nhận ra
một số vấn đề sau: hiện tượng cá chết thường xảy ra vào những ngày nhiều mây, ấm, lặng gió,
những ngày này không có nắng nên tảo không (hoặc ít) quang hợp dẫn đến thiếu O
2
trong hồ;
mặt khác, hồ Ngọc Khánh lại có 4 đường cống thải từ khu dân cư tập trung vào một góc hồ.
Như vậy, các chất hữu cơ thải ra đều tập trung vào góc này, cá tập trung lại ăn với mật độ lớn
nên thiếu O
2
. Ngoài ra, các vi sinh vật trong hồ cũng lấy O
2
để phân huỷ chất hữu cơ. Với 3
nguyên nhân trên đủ thấy khi lượng chất hữu cơ từ 4 cống thải tăng cao thì lượng O
2
ở khu
vực này rất ít mà cá lại tập trung đông nên sẽ dẫn đến hiện tượng cá chết hàng loạt.
• Phương pháp giải quyết:
Các hộ nuôi cá phải tăng cường lượng O
2
trong hồ vào những ngày ít nắng; yêu cầu
các đường nước thải từ khu dân không thải ra hồ nữa mà đưa vào hệ thống cống thải của
thành phố; Nuôi cá đúng mật độ tiêu chuẩn (các hộ này nuôi cá quá dày)
7

III. Kết quả xử lý thông tin thu thập được:
Với nhưng thông tin đã thu thập được, ta có thể thấy tình hình môi trường Thành phố
Hà Nội đã xuống cấp nghiêm trọng.Môi trường không khí ô nhiễm trầm trọng, hàng loạt điểm
nóng ô nhiễm liên tục xuất hiên. Điều đó cho thấy công tác bảo vệ môi trường cuả chúng ta
vô cùng yếu. Đồng thời, rất nhiều vụ tranh chấp về ô nhiễm môi trường thường xuyên xảy ra
với chiều hướng gia tăng. những vi phạm về môi trường được xử lý rất hời hợt . Dường như
việc sử lý các điểm ô nhiễm môi trường chỉ để cho qua, không triệt để.
Thứ nhất, các cơ quan quản lý về môi trường tại thành phố Hà Nội hoạt động chưa
hiệu quả. Không đáp ứng được nhu cầu của thực tế, các cơ quan này hoàn thánh rất tốt các
chức năng đánh giá tác động môi trường, lập báo cáo đánh día tác động môi trường và lập báo
cáo hiện trạng môi trường của các dự án đầu tư. Nhưng lại không có bất kì đóng góp cho hoạt
động bảo vệ môi trường. Các cơ quan này chỉ thực hiện đánh gía môi trường và đưa ra lời
cảnh báo và tư vấn phương pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường mà không trực tiếp tham gia
công tác bảo vệ môi trường. Mà công tác bảo vệ môi trường là hoạt động quan trọng nhất, có
tác động lớn nhất đối với hiện trạng ô nhiễm môi trường. Đó là hoạt động có ý nghĩa quyết
định đến việc có thể giẩm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường. Các co quan này thường giữ bí
mật các thông tin về môI trường hoặc giả có cung cấp thông tin thì chỉ cung cấp một phần nhỏ
thông tin nhưng đã giảm bớt tính nghiêm trọng của sự ô nhiễm. Người đân khó lòng tiếp cận
đối với các thông tin về môI trường. Đặc biệt là những thông tin về sự ô nhiễm của các cơ sở
sản xuất.
Thứ hai, các cơ sở sản xuất là nguồn gây nhiễm nguy hiểm nhất hiện nay. Các cơ sỏ
này đóng góp rất nhiều cho sự phát triển kinh tế của thành phố song đồng thời cũng gây ô
nhiễm nghiêm trọng. Nguyên nhân là do các cơ sở này chạy theo lợi nhuận mà bỏ qua sự ô
nhiễm của mình đối với đời sống của người dân. Khi đến khi xảy ra sự cố thì thường đổ cho
hoàn cảnh khách quan. Những thiệt hại do các cơ sở này là không gì bù đắp nổi.
Thứ ba, là cơ chế xử lý đối với hành vi gây ô nhiễm môI trường còn chưa hoàn thiện .
Các quy định còn rất lỏng lẻo, thiếu các biện pháp chế tài đối hành vi gây ô nhiễm môi
trường. Hoặc các chế tài xử lý còn yếu không khiến các cá nhân tập thể ngừng hành vi vi
pham.
Pháp luật môi trường của nhiều nước đều có quy định chủ thể vi phạm pháp luật môi

trường phải chịu trách nhiệm pháp lý. Trỏch nhiệm này cú thể là trỏch nhiệm dõn sự hoặc
trỏch nhiệm hành chớnh hoặc trỏch nhiệm hỡnh sự. Tuy nhiờn, quy định cụ thể về trách
nhiệm pháp lý đó của các nhà nước là không hoàn toàn giống nhau.
Trước hết, trong Luật Kiểm soát ô nhiễm môi trường của Singapore (Luật này cú hiệu
lực từ ngày 01/7/2002) thể hiện rất rừ nguyờn tắc: Chủ thể gõy thiệt hại cho mụi trường thỡ
8
phải chịu trỏch nhiệm phỏp lý. Tuỳ từng đối tượng bị xâm hại mà hỡnh thức trỏch nhiệm cú
sự khỏc nhau. Đối với hành vi gây hại cho không khí thỡ hỡnh thức trỏch nhiệm chủ yếu là
phạt tiền. Khi xử phạt, cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào hành vi vi phạm lần đầu hay tái
phạm mà ấn định mức phạt nhẹ hay nặng. Cụ thể, theo quy định của Luật Singapore, bất kỳ
người nào là chủ sở hữu hoặc là người quản lý cỏc cơ sở thương mại hoặc cơ sở sản xuất công
nghiệp mà thải ra hoặc cho phép thải khói có hại từ ống khói của các cơ sở sẽ bị phạt tiền đến
20.000 SGD (đô la Singapore) khi bị kết án lần thứ nhất. Khi đó bị kết ỏn và xử phạt tiền mà
chủ thể vi phạm khụng chấm dứt hành vi vi phạm thỡ cũn bị phạt tiền đến 1.000 SGD cho
mỗi ngày vi phạm. Cũn nếu bị kết ỏn từ lần thứ hai trở đi thỡ mức phạt tiền sẽ cao gấp 2,5 so
với hành vi vi phạm lần đầu (Xem Điều 11 khoản 1 Luật Kiểm soát ô nhiễm môi trường của
Singapore).
Hành vi gõy thiệt hại cho khụng khớ theo phỏp luật Singapore khụng phải chịu trỏch
nhiệm hỡnh sự theo quy định của pháp luật Việt Nam, nhưng với mức phạt tiền rất cao và có
sự phân biệt giữa vi phạm lần đầu và tái phạm cũng đủ để ngăn ngừa và khắc phục hậu quả
suy thoái môi trường. Bộ luật Hỡnh sự Việt Nam (Điều 182 tội gây ô nhiễm không khí) quy
định về mức độ truy cứu trách nhiệm hỡnh sự và hỡnh phạt, nhưng trên thực tế thỡ toà ỏn
chưa xét xử vụ gây ô nhiễm không khí nào vỡ để có thể truy cứu trách nhiệm hỡnh sự đối với
tội này cần phải có văn bản hướng dẫn thi hành rất cụ thể. Bởi, hành vi này chủ yếu là do chủ
thể là các tổ chức gây ra, mà theo Bộ luật Hỡnh sự Việt Nam lại chưa có nguyên tắc truy cứu
trách nhiệm hỡnh sự đối với tổ chức.
Theo Luật Kiểm soát ô nhiễm môi trường của Singapore, thỡ hành vi gõy ụ nhiễm
nước có mức hỡnh phạt cao hơn rất nhiều so với mức hỡnh phạt dành cho hành vi gõy ụ
nhiễm khụng khớ. Chủ thể vi phạm khụng những bị phạt tiền mà cũn bị phạt tự. Tuỳ thuộc
vào mức độ vi phạm mà chủ thể vi phạm bị phạt tiền cho lần đầu kết án có thể đến 50.000

SGD, hoặc bị phạt tù đến 12 tháng hoặc chịu cả hai hỡnh phạt trờn. Nếu đó bị kết ỏn mà tỏi
phạm thỡ chủ thể vi phạm sẽ vừa bị phạt tự và vừa bị phạt tiền. Riờng đối với chủ thể là
người thực hiện các hoạt động thương mại bị kết án lần thứ hai về hành vi thải ra hoặc cho
phép thải các chất độc được tạo ra trong quá trỡnh sản xuất liờn quan đến các hoạt động
thương mại, thỡ ngoài việc phải chấp hành bản ỏn cũn bị buộc chấm dứt hoạt động thương
mại vô thời hạn hoặc trong một thời gian nhất định. Điều này giống như hỡnh thức buộc giải
thể hoặc buộc tạm ngừng hoạt động của tổ chức khi tổ chức đó vi phạm quy định về bảo vệ
môi trường. Hỡnh phạt này được đảm bảo thi hành trên thực tế cao vỡ nếu bất kỳ chủ thể nào
khụng thi hành bản ỏn thỡ sẽ bị phạt tiền đến 100.000 SGD hoặc bị phạt tù đến ba tháng hoặc
chịu cả hai hỡnh phạt này hoặc nếu cú quyết định buộc chấm dứt hoạt động thương mại vô
thời hạn hoặc bị buộc tạm ngừng hoạt động trong một thời gian mà khụng chấp hành thỡ chủ
9
thể vi phạm sẽ bị phạt 2.000 SGD cho mỗi ngày vi phạm. Ngoài ra, để đảm bảo cho bản án
hoặc quyết định đựoc thi hành trờn thực tế thỡ Tổng giỏm đốc cơ quan bảo vệ môi trường có
quyền áp dụng các biện pháp thích hợp và các khoản chi phí phát sinh để đảm bảo cho bản án
hoặc quyết định được thi hành sẽ do chủ thể vi phạm trả (Xem điều 17 Luật Kiểm soát ô
nhiễm môi trường của Singapo).
Cũng giống như quy định trong Luật Kiểm soát ô nhiễm môi trường của Singapore,
Sắc lệnh Kiểm soát ô nhiễm nước của Hồng Kông cũng quy định hỡnh thức trỏch nhiệm phỏp
lý cụ thể đối với hành vi gây ô nhiễm nước. Chủ thể gây ô nhiễm vùng nước nội địa sẽ bị phạt
đến sáu tháng tù và bị phạt 200.000 HKD (đô la Hồng Kông) khi bị buộc tội lần đầu, nếu bị
buộc tội các lần tiếp sau thỡ ngoài hỡnh phạt tự sỏu thỏng như lần bị buộc tội đầu tiên, chủ
thể vi phạm sẽ bị tăng mức phạt tiền lên gấp hai lần. Ngoài ra, nếu chủ thể bị buộc tội mà
khụng chấm dứt hành vi vi phạm thỡ cũn bị phạt 10.000 HKD cho mỗi ngày vi phạm. Riờng
đối với hành vi thải chất độc vào đường ống công cộng thỡ hỡnh phạt sộ tăng lên hai lần so
với hành vi gây ô nhiễm thông thường cho vùng nước nội địa. Cụ thể, người nào thải chất độc
vào đường cống công cộng sẽ bị phạt 400.000 HKD và phạt tù đến mười hai tháng khi phạm
tội lần đầu, nếu tái phạm sẽ bị phạt 1.000.000 HKD và kèm theo đó là hỡnh phạt tự cú thể tới
hai năm (Xem Điều 11 Sắc lệnh Kiểm soát ô nhiễm nước của Hồng Kông).
Ngoài việc phải chấp hành hỡnh phạt tự và hỡnh phạt tiền chủ thể vi phạm cũn cú

nghĩa vụ phục hồi thiệt hại theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
Như vậy, nếu so với quy định tại Điều 183 “Tội gây ô nhiễm nguồn nước” của Bộ luật
Hỡnh sự Việt Nam năm 1999, thỡ quy định về hành vi gây ô nhiễm trong Luật Kiểm soát ô
nhiễm môi trường của Singapore và Sắc lệnh Kiểm soát ô nhiễm nước của Hồng Kông tạo
thuận lợi hơn cho người áp dụng, vỡ khi ỏp dụng quy định này, người có thẩm quyền không
phải xác định hậu quả của hành vi vi phạm. Trên thực tế, để xác định dấu hiệu hậu quả của
hành vi thường rất khó, nhất là trong lĩnh vực môi trường. Mặt khác, có lẽ xuất phát từ quan
điểm coi trọng hoạt động bảo vệ môi trường và đề cao việc bảo vệ lợi ích công cộng nên theo
quan điểm của nhà lập pháp chỉ riêng hành vi nguy hiểm cho xó hội đó thể hiện tớnh chất
nguy hiểm của tội phạm đó chứ không cần phải xác định hậu quả của hành vi trên khi định
mức hỡnh phạt.
Theo quy định của Luật Kiểm soát ô nhiễm môi trường của Singapore thỡ hành vi gõy
tiếng ồn cú thể bị phạt tiền đến 10.000 SGD hoặc bị phạt tù đến ba tháng hoặc phải chịu cả
hỡnh phạt tiền lẫn hỡnh phạt tự khi chủ thể thực hiện cỏc cụng việc phỏt ra tiếng ồn mà khụng
thực hiện các quy định trong thông báo về việc kiểm soát tiếng ồn (xem Điều 28 Luật Kiểm
soát ô nhiễm môi trường của Singapore). Có thể thấy rằng, trong Luật Kiểm soát ô nhiễm môi
trường của Singapore thỡ người vi phạm có thể bị áp dụng một trong hai hỡnh phạt là phạt tự
10
hoặc phạt tiền hoặc bị ỏp dụng cả hai hỡnh phạt này. Tuy nhiờn, hỡnh phạt tiền vẫn được coi
là hỡnh phạt chớnh. Điều này có thể xuất phát từ quan niệm cho rằng khi sử dụng hỡnh phạt
tiền sẽ làm tăng hiệu quả trong việc trừng phạt chủ thể vi phạm nhất là đối với chủ thể là tổ
chức, và phũng ngừa cỏc vi phạm tương tự và hỡnh thức phạt tiền cú độ chính xác cao, dễ
thay đổi nên càng trở nên có hiệu quả.
Khác với các quy định trên, trong Luật Chất lượng môi trường của Canađa có sự phân
biệt rất rừ giữa trách nhiệm của cá nhân và trách nhiệm của pháp nhân khi vi phạm. Theo quy
định của Luật này, với cùng một hành vi vi phạm thỡ hỡnh phạt tự khụng ỏp dụng đối với
pháp nhân mà chỉ áp dụng đối với cá nhân. Tuy nhiên, mức phạt tiền áp dụng đối với pháp
nhân cao hơn rất nhiều so với cá nhân. Với hành vi thải lượng chất thải lớn hơn mức cho phép
thỡ với cỏ nhõn sẽ bị phạt tiền từ 2.000 CAD (đô la Canada) đến 20.000 CAD khi vi phạm lần
đầu, hoặc phạt tiền từ 4.000 CAD đến 40.000 CAD khii bị kết án từ lần thứ hai trở đi hoặc bị

phạt tù đến một năm hoặc vừa bị phạt tù vừa bị phạt tiền. Cũng hành vi trên nhưng nếu là
pháp nhân thỡ sẽ bị phạt tiền gấp 3 đến 25 lần so với cá nhân (Xem Điều 106.1 Luật Chất
lượng môi trường của Canada). Tương tự như quy định trên, đối với hành vi thải các chất làm
ô nhiễm môi trường thỡ hỡnh phạt cũng quy định phân biệt rất rừ giữa cỏ nhõn và phỏp nhõh.
Trong khi đó, theo pháp luật Việt Nam, hỡnh thức trỏch nhiệm hỡnh sự khụng đặt ra đối với
pháp nhân vi phạm pháp luật môi trường vỡ theo nguyờn tắc của Bộ luật Hỡnh sự, trỏch
nhiệm hỡnh sự chỉ ỏp dụng đối với cá nhân. Trong quy định sử phạt vi phạm hành chính về
bảo vệ môi trường mới có nguyên tắc tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường thỡ bị xử phạt hành chớnh. Tuy nhiờn, trong quy định của pháp luật môi trường Việt
Nam lại chưa có sự phân biệt giữa trách nhiệm của cá nhân và trách nhiệm của pháp nhân.
Ngoài ra, theo pháp luật Canada, ngoài hành vi xâm hại trực tiếp đến môi trường, với
chủ thể có hành vi có khả năng gây tác động tới môi trường thỡ trước khi thực hiện hành vi
này phải được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền, nếu vi phạm quy định này thỡ chủ thể
vi phạm sẽ bị phạt từ 300 CAD đến 5.000 CAD (Xem Điều 31.1 Luật Chất lượng môi trường
của Canada).
Để đảm bảo cho hỡnh phạt tiền được thi hành có hiệu quả, đạt được mục đích trừng
phạt, trong Luật Chất lượng môi trường của Canada cũn cú quy định cho phép áp dụng các
quy định của pháp luật thế nợ bằng động sản hoặc bất động sản. Theo đó thỡ với những chủ
thể bị phạt tiền nếu khụng chấp hành hỡnh phạt thỡ tài sản thuộc sở hữu của người đó là động
sản hoặc bất động sản có thể bị cưỡng chế để đảm bảo cho hỡnh phạt tiền được thi hành.
Chủ thể vi phạm bờn cạnh việc phải chịu hỡnh phạt tiền hoặc phạt tự hoặc chịu cả hai
hỡnh phạt trờn, cũn cú nghĩa vụ khắc phục hậu quả. Việc quyết định buộc chủ thể vi phạm
phải thực hiện nghĩa vụ khắc phục là thuộc thẩm quyền của Toà án. Toà án căn cứ vào mức
11
độ thiệt hại xảy ra trên thực tế để buộc chủ thể vi phạm phải bỏ chi phí để thực hiện các biện
pháp cần thiết nhằm khôi phục lại trạng thái của sự vật như trước khi bị vi phạm. Quy định
này cũng tương tự như quy định tại Điều 7 Luật Bảo vệ môi trường của Việt Nam khi xác
định nguyên tắc: chủ thể gây tổn hại cho môi trường do hoạt động của mỡnh phải chịu trỏch
nhiệm bồi thường thiệt hại. Nguyên tắc này đảm bảo rằng những thiệt hại của môi trường luôn
được khắc phục.

Theo Luật Chất lượng môi trường của Canada, không những chủ thể trực tiếp vi phạm
phải chịu trách nhiệm mà cả những chủ thể liên quan cũng phải chịu trách nhiệm. Cụ thể
những người thực hiện hành vi trợ giúp cho người khác để người đo vi phạm quy định của
luật này, hoặc người khuyên bảo, khuyến khích, xúi giục người khác thực hiện hành vi gây
nguy hại cho môi trường (Xem Điều 109.2 Luật Chát lượng môi trường của Canada).
Không những chỉ trong Luật Chất lượng môi trường của Canada phân biệt rừ trỏch
nhiệm của phỏp nhõn và trỏch nhiệm của cỏ nhõn cũn trong Luật Khoỏng sản của Canada
cũng cú quy định tương tự. Chẳng hạn, trong Điều 315 của Luật này quy định: chủ thể thực
hiện các hoạt động sản xuất, chế biến vi phạm về cấp phép hoặc không đáp ứng các định mức
môi trường thỡ bị phạt từ 175 CAD đến 5.800 CAD nếu chủ thể đó là cá nhân và phạt từ
2.325 CAD đến 11.600 CAD nếu chủ thể đó là phỏp nhõn. Khi bị kết ỏn lần thứ hai hoặc cỏc
lần tiếp theo, thỡ chủ thể vi phạm sẽ bị phạt từ 2.325 CAD đến 11.600 CAD nếu chủ thể đó là
cá nhân và phạt từ 4.650 CAD đến 23.200 CAD nếu chủ thể vi phạm là pháp nhân.
Như vậy, có thể thấy rằng trong pháp luật của Canada có quy định phân biệt rất rừ
giữa trỏch nhiệm của cỏ nhõn và trỏch nhiệm của phỏp nhõn. Mức phạt tiền đối với pháp
nhân bao giờ cũng cao hơn mức phạt tiền đối với cá nhân và hỡnh phạt tiền là hỡnh phạt
chớnh trong phỏp luật mụi trường Canada. Theo Bộ luật Hỡnh sự Việt Nam, “Chương các tội
phạm về môi trường” gồm 10 tội danh thỡ cú 9 tội danh cú quy định hỡnh phạt tiền là hỡnh
phạt chớnh, điều này thể hiện rừ nguyờn tắc trỏch nhiệm vật chất của tổ chức, cỏ nhõn khi sử
dụng thành phần mụi trường. Theo đó, các tổ chức, cá nhân khi sử dụng các thành phần môi
trường phải có trách nhiệm đóng góp tài chính và khi có hành vi gây thiệt hại cho môi trường
thỡ phải bồi thường thiệt hại và việc pháp luật hạn chế việc áp dụng các hỡnh phạt tước tự do,
tăng cường hỡnh phạt mang tớnh chất kinh tế là phự hợp với xu hướng phát triển chung của
hệ thống hỡnh phạt của cỏc nước tiến bộ.
Ngoài những hỡnh thức trỏch nhiệm được đề cập ở trên, trong Bộ luật Môi trường của
Thụy Điển (Bộ luật Môi trường của Thụy Điển có hiệu lực từ ngày 01/01/1999) cú một hỡnh
thức trỏch nhiệm mới đó là buộc mua tài sản (chẳng hạn là đất) bị xâm hại khiến cho chủ sở
hữu tài sản đó không khai thác được một phần hay toàn bộ lợi ích từ tài sản đó, hoặc khi chủ
sở hữu sử dụng toàn bộ hay một phần tài sản đó dẫn đến những hậu quả bất lợi (hay dẫn đến
12

thiệt hại khi sử dụng) thỡ chủ thể gõy thiệt hại buộc phải mua tài sản bị mất cụng dụng đó
theo yêu cầu của chủ sởữu. Quy định này cũng áp dụng đối với trường hợp khi người đó có
trách nhiệm thực hiện việc khắc phục dẫn đến việc chủ sở hữu không khai thác được một
phần hay toàn bộ lợi ích của tài sản hoặc khi chủ sở hữu sử dụng tài sản đó dẫn đến những
hậu quả bất lợi. Với quy định này trong Bộ luật Môi trường Thuỵ Điển thỡ luụn đảm bảo rằng
thiệt hại sẽ được khắc phục tới mức tối đa và chủ thể có trách nhiệm khắc phục thiệt hại sẽ
luôn phải có trách nhiệm khắc phục thiệt hại như đối với tài sản của chính họ, cũn nếu khụng
thỡ họ sẽ bị buộc phải mua lại tài sản do chớnh họ gõy ra thiệt hại.
Qua việc xem xét pháp luật môi trường ở các nước trên, ta thấy rằng: việc xác định
trách nhiệm của chủ thể vi phạm được các nước quy định ngay trong văn bản luật chuyên
ngành. Đa phần các nước này xác định trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hành chính, thậm chí
cả trách nhiệm hỡnh sự dựa ngay vào quy định trong văn bản luật chuyên ngành. Điều này
làm cho việc xác định trách nhiệm có độ chính xác cao, đũi hỏi nhà làm luật phải thận trọng
hơn trong việc xác định trách nhiệm của chủ thể vi phạm, nhất là đối với trách nhiệm hỡnh sự.
Mặt khỏc, với quy định như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người áp dụng pháp luật.
Hơn thế, cùng với sự thay đổi tính chất của các quan hệ xó hội, khi thay đổi một điều luật
trong một văn bản luật chuyên ngành nhất là khi quy định trách nhiệm với một hành vi vi
phạm mới sẽ không kéo theo sự thay đổi trong các văn bản luật khác. Điều này làm cho việc
xử lý cỏc hành vi vi phạm được kịp thời. Trong khi đó, trong hệ thống pháp luật môi trường
Việt Nam, nếu muốn quy định một hỡnh thức trỏch nhiệm (nhất là trỏch nhiệm hỡnh sự) đối
với một hành vi vi phạm mới thỡ kộo theo đó là sự phải thay đổi, bổ sung các văn bản có liên
quan khác. Việc thay đổi, bổ sung các văn bản có liên quan trên thực tế thường diễn ra rất
chậm, làm cho việc xử lý hành vi vi phạm không được kịp thời, nhiều khi bỏ lọt cả vi phạm
mà đáng ra phải bị xử lý.
IV. Nhõn xột và kiến nghị:
1. Nhận xột:
Thứ nhất, tỡnh hỡnh ụ nhiễm mụi trường Hà Nội vô cùng nghiêm trọng.
Thứ hai, các cơ quan nhà nước hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ môi trường vẫn chưa
hoàn thành nhiêm vụ của mỡnh.
Thứ ba, hệ thống các quy đinh về môi trường vẫn chưa hũan thiện.

2. Kiến nghị
Qua sự xem xét trên, để góp phần hoàn thiện thêm hệ thống pháp luật môi trường của
Việt Nam, chúng tôi rút ra một số kiến nghị sau:
13
1. Cho phép quy định ngay trong các văn bản có hiệu lực pháp lý cao (như Luật, Pháp
lệnh) các hỡnh thức trỏch nhiệm dõn sự, trỏch nhiệm hành chớnh và cả trỏch nhiệm hỡnh sự
đối với các hành vi vi phạm với lý do như nêu ở trên.
2. Để quy định trách nhiệm của chủ thể có hành vi gây hại cho môi trường thỡ khụng
cần thiết phải cú dấu hiệu hậu quả. vỡ:
- Hậu quả của hành vi xâm hại cho các yếu tố cấu thành nên rất đa dạng, mặt khác rất
khó có được các tiêu chí có tính khoa học và thực tiễn để đánh giá một cách đầy đủ mức độ
tác động của hành vi xâm hại môi trường;
- Hậu quả của hành vi xâm hại môi trường thường khó xác định ngay sau khi hành vi
vi phạm được thực hiện và phải có một quá trỡnh chuyển hoỏ rất lõu.
3. Tăng cường hỡnh thức xử phạt tiền đối với hành vi gây hại cho môi trường vỡ cỏc
hành vi xõm hại mụi trường sẽ gây ra những thiệt hại về môi trường mà cần phải có kinh phí
để khắc phuc, thêm nữa việc áp dụng hỡnh thức phạt tiền sẽ mang lại một nguồn thu cho ngõn
sỏch Nhà nước, tạo quỹ để đảm bảo cho môi trường ở trạng thái có thể chấp nhận được và
góp phần giải quyết các hậu quả lâu dài do hành vi xâm hại pháp luật môi trường gây ra.
4. Nên có quy định phận biệt trách nhiệm của tổ chức và cá nhân theo hướng: trách
nhiệm của tổ chức phải cao hơn trách nhiệm của cá nhân đối với cùng một hành vi vi phạm
vỡ: cựng một hành vi vi phạm, nhưng nếu hành vi đó được thực hiện bởi một tổ chức thỡ tớnh
chất cũng như mức độ nguy hai của hành vi đó thường bao giờ cũng cao hơn so với hành vi
được thực hiện bởi một cá nhân.
5. Tạo ra cơ chế thuận lợi để tiến hành công khai các thông tin về môi trường của tất
cả các cơ sở sản xuất. Tránh tỡnh trạng che dấu cỏc thụng tin về ụ nhiễm mụi trường. Phải có
chế định quy định vụ thể hơn quyền và nghĩa vụ của cơ quan nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường . Đồng thời có quy định xử phạt đối với các cán bộ nhà nước không công khai
thông tin về môi trường.
6. Cần xem xét lại các tiêu chuẩn môi trường tại Việt Nam cho phù hợp với hoàn cảnh

thực tế hiện nay.
14
Tài liệu tham khảo:
1, Giỏo trỡnh Luật mụi trường Đai học luật Hà Nội
2. Luật môi trường
3. Báo Lao động
4. Thời bỏo kin tế Việt Nam
15

×