Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Bài thu hoạch về bồi dưỡng kiến thức dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (63.7 KB, 7 trang )

CÂU HỎI
Văn hóa các dân tộc thiểu số có những đặc điểm gì? Hiện nay văn hóa các
dân tộc thiểu số ở nước ta đang phải đối mặt với những vấn đề gì? Hãy nêu một vài
giải pháp cho những vấn đề đó?
BÀI LÀM
a) Đặc điểm văn hóa các dân tộc thiểu số
- Văn hoá các dân tộc thiểu số nước ta vừa thống nhất vừa đa dạng
Quá trình lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm và phát triển kinh tế nông nghiệp
lúa nước, mở mang bờ cõi đã tạo nên tính thống nhất của cộng đồng nhiều thành
phần tộc người trong văn hóa Việt Nam. Đó là ý thức về một quốc gia, là sử dụng
một ngôn ngữ chung- tiếng Việt làm công cụ giao tiếp, truyền đạt các văn bản pháp
lý trong quản lý nhà nước chung... của nhiều thành phần dân tộc. Tính thống nhất
cịn biểu hiện ở lối sống và ứng xử trọng nghĩa, trọng tình, đặc biệt là tinh tính cố
kết cộng đồng của các cư dân thuộc nền văn hóa nơng nghiệp trồng trọt lúa nước,
biểu hiện cao nhất của tính thống nhất đó là tinh thần yêu nước của các dân tộc
Việt Nam, được khẳng định trong quá trình dựng nước và giữ nước, đặc biệt là
trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta... Từ văn hóa
Đơng Sơn, văn minh sơng Hồng sang văn hóa Đại Việt đến văn hóa các dân tộc
trong thời đại Hồ Chí Minh, đó là hệ quả của một tiến trình lịch sử hình thành và
định hình bản lĩnh, bản sắc văn hóa dân tộc - quốc gia Việt Nam. Đó cũng chính là
nguyên nhân sâu xa và trực tiếp tạo nên tính thống nhất của văn hóa Việt Nam.
Tính đa dạng trước hết biểu hiện ở sắc thái văn hóa vùng với những đặc điểm
riêng được sáng tạo nên bởi các nhóm cư dân, các thành phần tộc người trên vùng
lãnh thổ. Về cơ bản, có các vùng văn hóa như sau: Vùng văn hóa Tây Bắc, Vùng
văn hóa Đơng Bắc, Vùng văn hóa đồng bằng Bắc bộ, Vùng văn hóa Trường Sơn Tây Nguyên, Vùng văn hóa duyên hải miền Trung, Vùng văn hóa Nam bộ... Cũng
cịn có cách phân loại văn hóa vùng các tộc người theo một cách khác làm tăng
tính đa dạng của văn hóa các tộc người ở nước ta như: văn hóa vùng đồng bằng
châu thổ, văn hóa vùng thung lũng, văn hóa vùng chân núi, văn hóa vùng cao
nguyên, văn hóa rẻo cao... Đây là cách phân loại gắn với các hệ sinh thái nông
nghiệp hay hệ sinh thái nhân văn...Theo nhóm ngơn ngữ thì tính đa dạng lại thể
hiện ở những góc độ riêng mang tính lịch sử và giao thoa văn hố tạo nên một cá


tính riêng trong bức tranh văn hố chung của quốc gia.Văn hố của mỗi nhóm
ngơn ngữ (nhóm ngơn ngữ Việt - Mường, Tày -Thái, Môn- Khmer, Nam đảo, HánTạng), đều có những nét rất riêng về các giá trị văn hoá vật thể (trang phục, kiến
trúc, ẩm thực...) về văn hố phi vật thể (tín ngưỡng, tơn giáo, lễ hội...).
Tính đa dạng cịn biểu hiện ngay trong từng tộc người, nhất là những tộc
người có nhiều nhóm địa phương. Đối với những tộc người có nhiều nhóm địa
phương như: Thái, Dao, Mơng, Lơ Lơ, Banar, Nùng, Tà Ơi, Sán Chay, Chứt... đều
có những sắc thái văn hố đa dạng và phong phú. Với các nhóm địa phương của
các tộc người trên tính đa dạng được biểu hiện qua các giá trị văn hoá vật thể, phi
vật thể...


Tính đa dạng cịn biểu hiện ở sắc thái văn hóa tộc người trong chính từng
vùng văn hóa trên. Trong mỗi vùng văn hóa (Tây Bắc, Đơng Bắc, Tây Ngun,
Tây Nam bộ, Đơng Nam Bộ...) các tộc người có những thích ứng và sáng tạo văn
hóa khác nhau về nhà cửa, trang phục, lễ hội, hôn nhân, tang ma...
- Văn hóa các dân tộc thiểu số ở nước ta được hình thành và phát triển từ một
nền văn hóa dân gian
Các kết quả nghiên cứu khoa học về lịch sử, khảo cổ học, dân tộc học,
folklore, nhân chủng học, địa chất học, địa danh học...đã cung cấp nhiều bằng
chứng cụ thể về một quốc gia Việt Nam có lịch sử hàng ngàn năm, một cái nôi của
nhân loại về mặt sinh học và về mặt trồng trọt. Không nhiều quốc gia trên thế giới
có các nền văn hóa khảo cổ học phát triển liên tục từ đồ đá-đồng-sắt... Các nền văn
hóa của các khối cộng đồng người từ quốc gia Văn Lang, Âu Lạc đến quốc gia Đại
Việt... và Nước Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hơm nay cho thấy sự phát
triển liền mạch về chính trị - xã hội và văn hóa của một quốc gia với đặc điểm khác
các nước phương Tây trong thời kỳ hình thành chủ nghĩa tư bản mà mang đặc điểm
riêng của một quốc gia châu Á: một quốc gia sớm ra đời do nhu cầu trị thuỷ với
nền văn minh lúa nước và nhu cầu chống ngoại xâm.
Chủ nhân của các nền văn hóa Phùng Ngun, Đồng Đậu, Gị Mun, đặc biệt
là Đơng Sơn; của nền văn hóa Bắc sơn, Hịa Bình, Sa Huỳnh, Ĩc Eo, Phù Nam,

Chân Lạp... là tổ tiên của cộng đồng 54 dân tộc ở nước ta. Trong các làng xã,
mường bản, phum sóc, plây... của các dân tộc nước ta qua nhiều thế kỷ đã tồn tại
một giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của cư dân nông nghiệp trồng trọt, của
một thiết chế xã hội công xã nông thôn... với một hệ thống các triết lý và quan
niệm với nhiều hình thức sinh hoạt gắn với chu kỳ đời người, chu kỳ trồng trọt,
chu kỳ thời tiết... Đó là những giá trị văn hóadân gian.
Văn hóa dân gian các dân tộc thiểu số và đa số là mạch nguồn chảy suốt quá
trình hình thành và phát triển của dân tộc và quốc gia, từ thời đại Hùng Vương, qua
các triều đại quốc gia phong kiến độc lập... đến thời đại Hồ Chí Minh. Các giá trị
văn hóa dân gian là “nguyên liệu” chính cùng với các giá trị văn hóa bác học... đã
tạo nên bản sắc văn hóa của các dân tộc và của quốc gia.
- Văn hoá các dân tộc thiểu số ở nước ta là sự phản ánh quá trình tiếp xúc và
thích ứng văn hố trong lịch sử và hiện tại trong phạm vi quốc gia và quốc tế
Các dân tộc ở nước ta có một q trình lịch sử lâu dài cùng chung sống sáng
tạo và tụ hội nhiều giá trị văn hoá với những bản sắc mang tính tộc người, tính văn
hố vùng, tính văn hố của nhóm ngơn ngữ... Đó là diễn trình văn hố được thể
hiện, vận động và định hình trong một thời gian dài của văn hoá tộc người với
nhiều thăng trầm để định hình một diện mạo văn hố Việt Nam với sắc thái văn
hoá đa dạng của 54 tộc người, trong tính thống nhất của văn hố quốc gia. Đó là
q trình giao thoa và tiếp biến văn hố phản ánh những q trình lịch sử với
những thơng số chung mang tính khu vực, tộc người; phản ánh sức sống mãnh liệt
với những yếu tố nội sinh được thử thách, tôi luyện... và khơng bị đồng hố trước
nhiều âm mưu của các thế lực xâm lược ngoại bang.


Q trình đó đồng thời cũng là q trình diễn ra sự tiếp xúc và giao thoa văn
hoá giữa các dân tộc trong một khu vực lịch sử - dân tộc học như Việt Bắc, Tây
Bắc, miền Trung - Tây Nguyên, duyên hải, đồng bằng Nam Bộ, đồng bằng Bắc
Bộ...Các dân tộc anh em cùng chung sống trong một môi trường, khu vực thiên
nhiên với hình thái cư trú láng giềng và các đặc điểm lịch sử khác đã có sự tiếp

xúc, ảnh hưởng qua lại về các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể trong một tiến
trình lịch sử lâu dài. Đó là mối quan hệ văn hoá sâu sắc nhiều chiều giữa văn hoá
Kinh với văn hố Tày - Thái, Nam Đảo, Mơn - Khmer...; là mối quan hệ giữa văn
hoá Thái với văn hoá các cư dân Môn - Khmer ở Tây Bắc và bắc Trung bộ; giữa
văn hoá Chăm với văn hoá một số tộc người ngữ hệ Nam Đảo và Môn - Khmer ở
Trường Sơn - Tây Nguyên...
Mặt khác, nhiều dân tộc thiểu số khơng chỉ cư trú trong nước mà cịn cư trú ở
các nước láng giềng. Mối quan hệ văn hố giữa các dân tộcMơng, Dao, Thái,
Khmer... sinh sống ở Việt Nam và các nước trong khu vực Đông Nam Á và Trung
Quốc... đã cho thấy mối quan hệ lịch sử văn hoá lâu đời của văn hoá các dân tộc
thiểu số nước ta trong phạm vi quốc gia và quốc tế trên nhiều phương diện.
b) Nhận diện những vấn đề đặt ra đối với văn hóa các dân tộc thiểu số
- Nhiều phong tục, tập quán lạc hậu ở một số DTTS vẫn còn tồn tại
Hiện nay, tại nhiều dân tộc thiểu số những hủ tục, tập quán xấu, lạc hậu vẫn
tồn tại dai dẳng, thậm chí là đang phát triển lấn át các giá trị văn hóa truyền thống
của các dân tộc.Tại khu vực Tây Nguyên, một số đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây
Nguyên vẫn tồn tại hủ tục lạc hậu, điển hình như: tục giết ma lai, pháp luật chỉ có
thể xử lý hành vi phạm tội, có tác dụng trừng phạt để ngăn ngừa chứ không thể giải
quyết triệt để về mặt nhận thức.Đối với khu vực Tây Bắc, trong tang ma một số
đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn quan niệm mời thầy Tào, thầy Mo, thầy cúng
yểm bùa, trừ ma và con cháu lăn đường, đội mũ rơm; dân tộc Tày ở tỉnh Lạng Sơn
có tục viếng thơng gia và tế lễ riêng, khi cha mẹ mất thì các con (đã trưởng thành)
phải mỗi người một lễ, Tế rườm rà, tốn kém; rồi tục đưa đám trước 12 giờ đêm ảnh
hưởng cộng đồng dân cư; một số bản, làng dân tộc Mông tỉnh Sơn La để người
chết trong nhà nhiều ngày; có nơi ngồi việc làm ma tươi cho người chết, cịn phải
làm ma khơ cúng bằng trâu, bị.Về việc cưới, một bộ phận thanh niên dân tộc thiểu
số tin vào lá số, số mệnh và việc "nhập ma" cô dâu về nhà chồng; các dân tộc Dao
và Sán Chỉ ở vùng sâu, vùng xa tỉnh Quảng Ninh còn tục tảo hôn, ép gả, mua bán,
thách cưới cao, tổ chức cưới dài ngày; dân tộc Sán Dìu có tục một nhà trong một
năm khơng được đẻ hai người, nếu có người cưới dâu thì người đến kỳ sinh đẻ phải

ra ngồi rừng đẻ con; ở tỉnh Ðiện Biên, tại một số thơn, bản của dân tộc Hà Nhì và
Si La việc cưới, việc tang có quá nhiều thủ tục phức tạp, thói quen uống bia, rượu
triền miên dẫn đến sức khỏe suy yếu, khơng có sức lao động, dùng thầy mo cúng
bái để chữa bệnh là một trong những nguyên nhân làm cho cuộc sống của đồng bào
dân tộc Mảng luôn nghèo đói. Cho đến nay, nhiều làng bản nơi vùng núi xa xôi của
tỉnh Quảng Ngãi thuộc vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ như Sơn Hà, Ba Tơ, hủ tục
nghi kỵ “cầm đồ thuốc độc” vẫn đang diễn ra. Nó cũng là nguyên nhân chính dẫn
đến chia rẽ, bất an trong một số cộng đồng dân cư, ảnh hưởng rất lớn đến tình hình


an ninh trật tự tại địa phương. Nhiều bản, làng, thơn, ấp cịn tình trạng trọng nam,
khinh nữ; em dâu, con dâu không được ngồi ăn cơm chung mâm với anh chồng, bố
chồng; con gái không được học lên lớp trên; một số gia đình có người đau ốm đã
làm Then, cúng ma để giải hạn mà không đưa tới trạm y tế xã; tập quán dùng thuốc
phiện lưu cữu ở vùng cao.
- Nhiều giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số bị mai một.
Văn hoá truyền thống có nguy cơ tiếp tục bị mai một, đứt gãy mà hệ quả là
vai trị già làng, tính cộng đồng làng bản, những tri thức luật tục bảo vệ tài nguyên
thiên nhiên, các mối quan hệ truyền thống, đối nhân xử thế giữa những con người
với nhau đã bị mai một, biến đổi theo xu hướng tiêu cực. Nhiều yếu tố văn hoá
truyền thống đang đứng trước nguy cơ bị mai một và lúc đó các yếu tố văn hóa ở
bên ngồi càng có điều kiện để thâm nhập, nhiều trường hợp chủ nhân văn hoá các
dân tộc thiểu số choáng ngợp trước cái hiện đại và kết quả tất yếu là họ tiếp nhận
một cách ồ ạt, xơ bồ, miễn cưỡng cái bên ngồi, qn đi hoặc quay lưng lại với
truyền thống tạo nên sự lại căng, kệch cỡm, nhiễu loạn trong đời sống văn hoá.
Hiện nay, nhiều giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số bị mai một,
biểu hiện rõ nhất là sự mai một của ngôn ngữ mẹ đẻ, trang phục, nhạc cụ, kiến trúc
nhà ở truyền thống. Về ngôn ngữ, không chỉ bị mai một, mà thậm chí nhiều dân tộc
khơng cịn nói được tiếng mẹ đẻ của mình. Hiện tượng này phổ biến ở các nhóm
DTTS như: Dân tộc Khơ Mú tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết đọc, viết chữ dân

tộc mình là 0%; Tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết đọc, viết chữ dân tộc mình của
người Co là 0,8%; Người Kháng, khơng ai thuộc nhóm từ 15 tuổi trở lên biết đọc,
viết chữ dân tộc mình; Người La Chí, La Ha, Phù Lá, Người Hà Nhì cũng 0%... 1.
Tiếp đó là sự mai một về trang phục truyền thống, trang phục truyền thống khơng
chỉ mang đậm bản sắc văn hóa, mà cịn chứa đựng những giá trị nghệ thuật, giá trị
lịch sử của từng tộc người. Tuy nhiên, trong vài năm gần đây việc mang mặc trang
phục truyền thống của các đồng bào dân tộc thiểu số có biểu hiện dần bị mai một.
Tại khơng ít bản làng của đồng bào dân tộc thiểu số, rất khó bắt gặp cư dân mặc
trang phục truyền thống; trong một số trường hợp, công chúng chỉ có thể tiếp xúc
với các bộ trang phục truyền thống ở các viện bảo tàng, qua phim ảnh hay sân khấu
truyền thống.
Hiện nay hầu hết trang phục nam của các dân tộc khơng cịn lưu giữ, trang
phục của nữ giới cịn gìn giữ tốt hơn song người dân cũng chỉ mặc trong các dịp lễ,
tết hoặc các sự kiện hoạt động văn hóa của gia đình và cộng đồng. Vì vậy, hiện nay
trang phục truyền thống của một số dân tộc như: Phù Lá, Xinh Mun, Si La... ngày
càng mai một, thất truyền, đặc biệt là hững dân tộc có dân số dưới 1.000 người như
Rơ Măm, Ơ Đu, Thổ, Chứt…rất ít dân tộc cịn trang phục truyền thống.
Các nhạc cụ, bài hát truyền thống đã bị mai một, điển hình như: Dân tộc
Thái, tỷ lệ người biết hát bài hát truyền thống có 3,0%; Tỷ lệ người biết sử dụng
nhạc cụ truyền thống 0,9%; Người Hoa, tỷ lệ người biết múa điệu múa truyền
thống 1,6%; Tỷ lệ người biết hát bài hát truyền thống 5,5%; Tỷ lệ người biết sử
dụng nhạc cụ truyền thống 0,4%; Người Mông, tỷ lệ người biết múa điệu múa
1. Kết quả điều tra thực trạng kinh tế - xã hội của 53 DTTS năm 2019.


truyền thống 9,8%; Tỷ lệ người biết hát bài hát truyền thống 10,4%; Tỷ lệ người
biết sử dụng nhạc cụ truyền thống 1,3% 2.
- Văn hóa các DTTS có những biến đổi theo chiều hướng tiêu cực
Bên cạnh những giá trị văn hóa truyền thống được biến đổi theo hướng tích
cực, thì hiện tượng biến đổi văn hóa truyền thống theo hướng tiêu cực cũng đang

diễn ra mạnh mẽ ở các dân tộc thiểu số, biểu hiện khá rõ về mặt kiến trúc, lễ hội,
trang phục, kiến trúc nhà ở... Ví dụ: sự biến đổi của kiến trúc nhà sàn của người
Thái ở Tây Bắc, các giá trị văn hóa truyền thống trong lễ hội của người Tày ở
Đông Bắc cũng bị biến đổi theo hướng hiện đại, nhiều hoạt động trị chơi dân gian
đã khơng cịn và thay vào đó là các hoạt động ăn uống linh đình. Theo TS Bn
Krơng Tuyết Nhung - người có nhiều cơng trình nghiên cứu về văn hóa Tây
Ngun thì lâu nay, nhiều người thường gọi lễ Sa-rơpu - ăn trâu là đâm trâu. Cùng
với đó, nghi thức tạ ơn thần linh cũng thay đổi. Trong các lễ ăn trâu trước đây,
trước khi đâm chết con trâu, người ta thường làm nghi thức khóc trâu rồi đâm một
nhát trúng tim để nó chết một cách nhanh chóng. Cịn ngày nay, người ta lâu lâu lại
đâm một nhát để con trâu đau đớn, lồng lộn, mình đầy máu me... Việc tổ chức lễ
đâm trâu như vậy quá dã man và rùng rợn, con trâu được cột lại và nhiều người
xoay quanh lao giáo vào thân nó khiến máu phun tung tóe. Cứ thế, sau một nhát
đâm, người ta lại nhảy múa, reo hò, cảnh tượng bạo lực rất phản cảm. Cũng theo
TS Buôn Krông Tuyết Nhung, ngày nay, ở Tây Ngun khó lịng mà có được một
lễ ăn trâu theo phong tục cổ truyền nữa. Lễ ăn trâu thực sự có ý nghĩa, khi cả cộng
đồng đó mong muốn thực hiện và phải được gắn vào khơng gian văn hóa cồng
chiêng, nhà rơng, bến nước..., chứ không đơn thuần là mang một con trâu ra đâm
rồi ăn thịt. Hiện nay, người ta thực hiện lễ đâm trâu trong một số sự kiện văn hóa du lịch nào đó để nhằm mục đích kinh doanh thu lợi nhuận.Sự biến đổi của khơng
gian văn hóa làng bản cũng đang diễn ra mạnh mẽ ở các vùng dân tộc và miền núi.
Sự biến đổi của văn hóa truyền thống còn được biểu hiện rõ ở kiến trúc nhà ở
của tất cả các dân tộc thiểu số trên phạm vi cả nước. Ở Tây Nguyên, các dân tộc
Tây Nguyên có những loại kiến trúc nhà ở độc đáo, phù hợp với tập quán và điều
kiện thiên nhiên, môi trường nơi họ sinh sống. Nếu người M’nơng ở phía Nam Tây
Ngun có ngơi nhà trệt mái vịm thì các dân tộc còn lại như Êđê, J’rai, Xê Đăng
vùng Bắc Tây Nguyên sinh sống trong ngôi nhà sàn dài. Trong q trình phát triển
nơng thơn mới, kiến trúc nhà ở của đồng bào Tây Nguyên đã có nhiều thay đổi dẫn
đến giá trị văn hóa truyền thống bị biến đổi theo kiểu kiến trúc hiện đại. Hiện nay
các ngôi làng của người Êđê, M’nông ở Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nơng, Lâm Đồng,
Bình Phước khơng cịn nữa, thay vào đó là các ngơi nhà sàn bê tơng khơ cứng. Nó

khơng còn nét thơ mộng và phù hợp với cảnh sơn thuỷ hữu tình của một thắng
cảnh nổi tiếng Tây Nguyên như trước đây... Ở khu vực phía bắc, các tộc người
Mông, Dao, Thái, Tày kiến trúc nhà ở truyền thống đều đã bị biến đổi theo hướng
hiện đại. Ví dụ: Dân tộc Mơng, sống ở vùng xa xơi, nơi có những cánh rừng già
rộng lớn, người Mông thường khai thác gỗ rừng tự nhiên để làm nhà. Nhà người
Mông thường là nhà trệt, mái thấp, thưng ván bằng gỗ và mái gỗ, lợp bằng mái
2. Kết quả điều tra thực trạng kinh tế - xã hội của 53 DTTS năm 2019.


gianh. Những căn nhà này cũng rất ít khi có cửa sổ và chỉ có hai cửa chính, một
cửa trước và một cửa bên hông nhà, gần khu vực bếp nấu dành cho phụ nữ. Cách
kiến trúc nhà như vậy giúp đồng bào Mơng tránh được gió lớn và khơng khí giá
lạnh trên vùng núi cao. Thế nhưng, hiện nay người Mông đã lợp nhà bằng các vật
liệu mới như ngói, pro xi măng hay tơn. Các vật liệu mới này vừa bền, vừa dễ kiếm
hơn các vật liệu truyền thống trước đây.
c) Một số giải pháp nâng cao hiệu quả cơng tác quản lý văn hố vùng dân tộc thiểu
số
- Tuyên truyền nâng cao nhận thức về công tác bảo tồn văn hóa, về cơng tác
quản lý văn hóa vùng dân tộc thiểu số
Cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp cần xác định công tác truyên truyền nâng cao
nhận thức về cơng tác bảo tồn văn hóa, về cơng tác quản lý văn hóa vùng DTTS là
một nội dung quan trọng trong công tác lãnh đạo của Đảng đối với cơ sở. Nhiệm
vụ tuyên truyền có thể được lồng ghép việc bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc với phát triển du lịch, tiếp thu có chọn lọc văn hóa mới, bài trừ hủ tục lạc hậu,
chống âm mưu lợi dụng dân tộc, lợi dụng văn hóa dân tộc để gây chia rẽ dân tộc,
chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc và sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Thực hiện các hình thức động viên, khen thưởng, chú trọng biểu dương, nêu

gương các tổ chức, cá nhân có nhiều đóng góp cho sự nghiệp này.
- Xây dựng và tổ chức bộ máy quản lý văn hóa vùng dân tộc thiểu số
Quản lý Nhà nước về văn hóa ở cấp nào thì cơ quan Nhà nước cấp ấy là chủ
thể quản lý. Công chức, viên chức làm công tác quản lý văn hóa cấp nào thì có
trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân cấp ấy quản lý văn hóa trên địa bàn. Việc xây
dựng tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước về văn hóa phải được xác định cụ thể sát
với yêu cầu nhiệm vụ và hoàn cảnh của từng vùng và từng địa phương.
Vấn đề đặt ra hiện nay là cần có một cơ chế linh họat, mềm dẻo hơn nữa
nhằm gắn kết giữa kinh nghiệm, khả năng cố kết cộng đồng, duy trì truyền thống
của già làng với cơng tác quản lý của trưởng thơn, bản với chính quyền địa phương
các cấp trong quản lý.
- Tăng cường nguồn lực đầu tư cho cơng tác văn hóa
+ Nguồn lực tài chính: Nhà nước cần quan tâm bố trí đủ nguồn lực cho các
chương trình, dự án, đề án, nghiên cứu khoa học về bảo tồn văn hóa và nâng cao
hiệu quả cơng tác quản lý văn hóa vùng DTTS; có chính sách hỗ trợ, phục dựng
các lễ hội truyền thống; các cơng trình sản phẩm văn hóa; tơn vinh và có chính
sách đãi ngộ đối với nghệ nhân, nghệ sĩ có cơng tạo dựng các cơng trình, sản phẩm
văn hóa; phổ biến, truyền dạy nghệ thuật truyền thống, bí quyết nghề nghiệp có giá
trị về văn hóa đối với vùng DTTS; hỗ trợ các mơ hình văn hóa đặc sắc, mơ hình
điểm ở các bản làng; hỗ trợ việc bảo tồn tiếng nói và chữ viết của đồng bào DTTS.


+ Nguồn lực con người: Chú trọng công tác tuyển dụng công chức, viên chức
được đào tạo đúng chuyên môn nghiệp vụ; chú trọng công tác xây dựng quy hoạch
và chương trình đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng, tập huấn định kỳ, tập huấn hằng
năm; “chuẩn hóa” cán bộ, công chức, viên chức theo tiêu chuẩn, quy chuẩn chuyên
môn, nghiệp vụ. Tăng cường chính sách đãi ngộ, xây dựng đội ngũ trí thức, văn
nghệ sĩ trong các DTTS, có chính sách khuyến khích họ trở về cơng tác tại vùng
DTTS. Có chính sách phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, tơn vinh cán bộ
trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật; trọng dụng người có tài, có đức. Điều chỉnh chế

độ tiền lương, trợ cấp đối với những người hoạt động trong các bộ môn nghệ thuật
đặc thù tại các vùng DTTS.
Chú trọng các nghệ nhân, già làng trưởng bản trong việc bảo tồn và phát triển
những giá trị văn hóa truyền thống ở các vùng DTTS; khuyến khích cộng đồng
tham gia bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc, phát huy giá trị văn
hóa truyền thống của dân tộc và vùng DTTS; ngăn chặn nguy cơ làm mai một sai
lệch hoặc thất truyền các giá trị văn hóa của các DTTS
- Xử lý hài hịa mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội
Phải có chiến lược phát triển, phải chú ý đến tính đặc thù, phải có phương án,
giải pháp, giải quyết hài hòa giữa “bảo tồn và phát triển” giữa “đọng” và “chảy”.
Khi phát triển du lịch cộng đồng, phát triển sinh kế vùng DTTS, công tác quản lý
văn hóa phải chú trọng tới việc bảo tồn, phát huy giá trị, bản sắc văn hóa (dệt thổ
cẩm, canh tác ruộng bậc thang, đánh bắt cá dưới ruộng lúa hay sơng suối… tính
đặc thù của các dân tộc...), đặc biệt là các di sản theo hướng bảo vệ, tôn trọng ý
kiến của cộng đồng, đề cao vai trò của cộng đồng và cộng đồng là chủ thể được
hưởng lợi.
Quản lý văn hóa vùng DTTS thời đại 4.0 cần số hóa những dữ liệu cốt lõi gắn
với bản sắc văn hóa đặc thù của các dân tộc. Từ đó, có thể lựa chọn đăng tải các dữ
liệu trên các phương tiện truyền thơng (như mạng xã hội) và truyền hình, để đơng
đảo người dân có điều kiện tiếp cận, tương tác, tìm hiểu thuận lợi hơn.



×