Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Đề cương bài giảng Tiếng Việt thực hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (915.15 KB, 91 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

BỌ MÔN NGÔN NGỮ

ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG

TIẾNG VIỆT THỰC HÀNH
MÃ HỌC PHẦN: VIU 121N

Thái Nguyên, năm 2018


Chương 1
RÈN LUYỆN KĨ NĂNG VỀ CHÍNH ÂM, CHÍNH TẢ, DÙNG TỪ, ĐẶT CÂU
1.1. Rèn kĩ năng về chính âm, chính tả
1.1.1. Rèn kĩ năng về chính âm
1.1.1.1. Một số quan điểm về chính âm tiếng Việt
Hiểu theo nghĩa hẹp, chính âm là cách phát âm phù hợp với chuẩn phát âm đã được thừa
nhận trong một ngôn ngữ, là hệ thống các chuẩn mực phát âm của ngôn ngữ đó.
Theo quan điểm của Nguyễn Lân (Tạp chí Văn Sử Địa - số 19, năm 1956): Tiếng Việt
phải lấy thanh điệu vùng đồng bằng Bắc Bộ làm chuẩn. Hệ thống phụ âm cuối lấy vùng đồng
bằng Bắc Bộ làm chuẩn. Trong hệ thống âm đầu, ba phụ âm quặt lưỡi phải phát âm giống
Trung Bộ, đồng thời phải giữ sự phân biệt giữa d và gi theo cách phát âm của Hà Tĩnh và
Quảng Bình.
Hồng Giao trong bài viết Vài ý kiến về tiếng Việt hiện thời (1957) chủ trương lấy âm Hà
Nội làm cơ sở và hoàn toàn theo hệ thống này. Cụ thể là không phân biệt ba phụ âm quặt lưỡi
với các phụ âm không quặt lưỡi tương ứng. Như vậy, theo Hồng Giao, hệ thống âm đầu của
tiếng Việt chỉ có 15 âm vị.
Hồng Tuệ trong Giáo trình Việt ngữ, tập 1 cho rằng riêng về mặt ngữ âm tiếng Việt ở
Hà Nội chưa có giá trị cơ sở. Hệ thống ngữ âm của tiếng Việt phải có đủ ba âm uốn lưỡi chứ


khơng như Hà Nội chưa có ba âm này. Ơng cũng thống nhất với Nguyễn Lân ở quan điểm là
cần có sự khu biệt giữa d và gi. Theo ông, tiếng Việt phải lấy vùng Vinh làm chuẩn khi phát
âm.
Hoàng Phê (1961) trong báo cáo của mình về vấn đề cải tiến chữ Quốc ngữ đã đề nghị
nên lấy âm Hà Nội làm cơ sở, bổ sung thêm ba phụ âm quặt lưỡi, bỏ sự phân biệt giữa d và
gi trong phát âm.
Các tác giả Cù Đình Tú, Hồng Văn Thung và Nguyễn Nguyên Trứ (1972) cũng cùng
một quan niệm với Hoàng Phê khi cho rằng hệ thống ngữ âm tiêu chuẩn của tiếng Việt hiện
đại là hệ thống ngữ âm đã được cố định trên chữ viết với một sự điều chỉnh thích đáng cho
phù hợp với thực tế phát triển của tiếng Việt ngày nay.
Nhìn chung, các ý kiến thảo luận về hệ thống âm chuẩn của tiếng Việt hiện đại ở các tác
giả khác nhau cũng có phần khác nhau. Nhưng, điểm gặp nhau trong quan niệm của các tác
1


giả là ở chỗ: thống nhất lấy phương ngữ Bắc làm phương ngữ cơ sở, trong đó lấy thổ âm của
người Hà Nội làm chuẩn nhưng được bổ sung bằng ưu điểm của các vùng phương ngữ khác.
Cụ thể là:
- Hệ thống thanh điệu gồm sáu thanh như trong thổ âm Hà Nội.
- Hệ thống phụ âm đầu được bổ sung thêm ba phụ âm quặt lưỡi có ở phương ngữ Trung
và coi sự phân biệt d/ gi chỉ có ở trên chữ viết chứ không phân biệt về thành phần âm vị, nghĩa
là trong hệ thống âm đầu tiếng Việt có hai con chữ d/ gi nhưng hai con chữ này chỉ dùng để
ghi một âm vị /z/.
- Hệ thống vần giống như giống như trên chữ viết.
Ở đây, có một điều quan trọng cần lưu ý là: chính âm trong tiếng Việt với nội dung cơ
bản như đã nói ở trên đã được nhân dân trên tồn quốc thừa nhận, nhưng nó lại khơng tồn tại
trong thực tế (mà chỉ tồn tại trong ý thức, trong đầu óc của đa số người nói tiếng Việt). Bên
cạnh đó, trong giới nghiên cứu tiếng Việt lại tồn tại quan niệm cho rằng “khơng cần thống
nhất giọng nói”, cần phải tơn trọng màu sắc địa phương trong giọng nói. Vì vậy, cần có một
quan niệm uyển chuyển và thực tế về vấn đề chính âm trong tiếng Việt, về hệ thống ngữ âm

chuẩn trong tiếng Việt.
Trong nhà trường, vấn đề chính âm ngồi tính chất khoa học, chính trị cịn có tính chất
nghiệp vụ. Hiện nay, hiện tượng phạm lỗi chính tả trong nhà trường và ngoài xã hội khá phổ
biến. Vì vậy, các kiến thức về ngữ âm có liên quan đến chính tả, trước hết là vấn đề chính âm
rất quan trọng. Nếu khơng nắm vững chính âm thì dễ viết sai chính tả, vì ảnh hưởng của lỗi
phát âm địa phương.
Những yêu cầu cụ thể của vấn đề chính âm là:
- Phát âm đúng (cả âm lẫn thanh).
- Chú ý phân biệt các dấu hỏi, ngã, nặng.
- Chú ý phân biệt các cặp phụ âm đầu: tr/ ch, s/ x, l/ n, v/ d; các cặp phụ âm cuối n/t, ng/ c...
- Chú ý phân biệt các vần: âu/ iu, ây/ ay, iêu/ ươu, iu/ ưu...
1.1.1.2. Các bài tập luyện kĩ năng chính âm
a. Luyện phát âm đúng các phụ âm đầu
* Luyện phát âm các phụ âm đầu d, gi, r
- da dẻ, da diết, dành dụm, dan díu, dào dạt
- gia ân, gia đình, gian khó, gian nan, giàn giụa, giản dị
2


- ra bộ, ra oai, ra rìa, rả rích, rã rượi, rõ ràng, rì rầm
- dao rựa, giẻ rách, gieo rắc, ranh giới, rau dưa, ruột già, rước dâu
* Luyện phát âm các phụ âm đầu ch, tr
- cha con, chai lọ, chai sạn, chán chê, chán nản, chanh chua, chao chát, chân thực, chóng
vánh, chung thủy
- tra cứu, kiểm tra, tra tấn, trao đổi, tranh chấp, trân trọng, trìu mến, trừu tượng
- trau chuốt, trôi chảy, trốn chạy, trực chiến, trượt chân, truân chuyên, trúc chẻ ngói tan
* Luyện phát âm các phụ âm đầu b, v (dành cho SV dân tộc Mường)
- ba bề bốn bên, bạc bẽo, bận rộn, biện bạch, bóng bảy, bung bét
- va chạm, và cơm, vạc dầu, viện cớ, vung vãi, vướng víu
- ba hồn bảy vía, bán vặt, bao vây, bấu víu, bước nhảy vọt, bênh vực, báo cáo viên

* Luyện phát âm các phụ âm đầu l, n
- la hét, la liếm, lai lịch, la cà, lai rai, luyên thuyên, lóng ngóng, lủng lẳng, lao xao, luẩn quẩn
- cây na, này nọ, nơi ở, nơi nơi, nóng nảy, nơn nao, núng nính, nức nở
- láng nền, leo núi, lên nước, nai lưng, nản lịng, năng lực, nén lịng, niêm luật, nín lặng, nỗi
lòng
* Luyện phát âm các phụ âm đầu l, r (dành cho SV dân tộc Tày)
- lê la, lã chã, lạng lách, lan man, loạng choạng, lung tung
- ra vào, rã rời, rơi rụng, rung rinh, run rẩy, rộng ràng
- ra lệnh, rắn lục, rên la, rét lộc, rộng lớn, rủ lòng thương, rượu lậu
b. Luyện phát âm đúng các tiếng có ngun âm đơi iê (, ia, ya), ươ (ưa), uô (ua)
* Luyện phát âm phân biệt iê với i và ê
bia miệng, da diết, điền viên, mái hiên, hiền triết, liên miên, luyên thuyên, khuyết điểm, nghiên
cứu, chuyên quyền
* Luyện phát âm phân biệt uô với u và ơ
lá bùa, con cua, cái cuốc, bó đuốc, vào hùa, khua chiêng, gió lùa, mua bán, mong muốn, sn
sẻ, xua đuổi, tuổi tác, vng trịn
* Luyện phát âm phân biệt ươ với ư và ơ
bừa bãi, bươn chải, ương bướng, cưa kéo, cương thường, hạt cườm, chườm đá, hứa hẹn, lườm
nguýt, đo lường, mưa phùn, mương máng, nương nhờ, phố phường, bừa phứa, vướng víu,
xướng danh
c. Luyện phát âm các tiếng có vần khó trong từ, cụm từ
chếnh chống, choang chốc, đểnh đoảng, đùng đồng, khuỷu tay, khúc khuỷu, khứu giác,
chim khướu, kì diệu, rượu chè, lưu danh mn thuở, lưu cữu, ngoắt ngoéo, ngoằn ngoèo,
quềnh quàng, quều quào, quờ quạng, trìu mến, trừu tượng
3


d. Luyện phát âm đúng các thanh điệu
- ca cẩm, dóng dả, lã chã, hàng mã, thắm thiết, ngúng nguẩy, sáng sủa
- cằn nhằn, cạu nhạu, liếm láp, lãi lờ, điềm đạm, đẹp đẽ, nặng nề, rùng rợn

1.1.2. Rèn luyện kĩ năng về chính tả
1.1.2.1. Khái niệm "chính tả"
Chính tả là sự chuẩn hóa hình thức chữ viết của ngơn ngữ. Đó là một hệ thống các quy
tắc về cách viết các âm vị, âm tiết, từ; cách dùng các dấu câu, lối viết hoa. [Từ điển giải thích
thuật ngữ ngơn ngữ học, tr.47]
Chính tả tiếng Việt là chính tả ngữ âm học. Về nguyên tắc chung, giữa cách đọc (phát
âm) và cách viết (viết chính tả) phải thống nhất với nhau. Song trên thực tế, sự biểu hiện của
mối quan hệ giữa đọc và viết khá phong phú, đa dạng. Cụ thể, chính tả tiếng Việt khơng dựa
hồn tồn vào cách phát âm thực tế của một phương ngữ nhất định nào. Cách phát âm thực tế
của một phương ngữ đều có những sai lệch so với chính âm cho nên không thể thực hiện
phương châm “nghe như thế nào, viết như thế ấy” được. Ví dụ khơng thể viết là bo vang, Ba
Vi... như cách phát âm của phương ngữ vùng Sơn Tây; suy nghỉ, sạch sẻ... ở vùng Thanh Hóa;
bắc bẻ, Bng Mê Thuộc... trong phương ngữ Nam Bộ. Đây chính là một trong những nguyên
nhân lớn dẫn đến tình trạng viết sai chính tả của người sử dụng tiếng Việt.
Một ngơn ngữ văn hóa khơng thể khơng có chính tả thống nhất. Chính tả có thống nhất
thì giao tiếp bằng ngơn ngữ viết mới khơng bị trở ngại giữa các địa phương trong cả nước
cũng như giữa các thế hệ với nhau. Vì vậy, việc rèn luyện viết đúng chính tả là một việc làm
hết sức có ý nghĩa khơng chỉ với học sinh, sinh viên - những người cịn đang đi học - mà cịn
có ý nghĩa với tất cả mọi người.
1.1.2.2. Quy tắc viết hoa và quy tắc phiên âm tiếng nước ngoài
Viết hoa, viết phiên âm tiếng nước ngồi khơng phải vấn đề lớn nhưng khá phức tạp.
Đáng tiếc là kể từ khi Bộ Giáo dục & Đào tạo (GD & ĐT) công bố “Một số quy định về chính
tả trong sách giáo khoa cải cách giáo dục” (11/1980) cho đến nay, ở nước ta, vẫn chưa có
một văn bản pháp quy nào quy định về chuẩn chính tả nói chung và quy tắc viết hoa, viết
phiên âm tiếng nước ngồi nói riêng. Vì vậy, văn bản quy định về chính tả do Bộ GD & ĐT
ban hành từ năm 1980 vẫn được xem là cơ sở quan trọng để thống nhất chính tả trong cả nước.
[Tham khảo tài liệu học tập bắt buộc [1] tr.238 - 241, phần Phụ lục]
a. Quy tắc viết hoa
Về cơ bản, viết hoa có hai loại: viết hoa theo quy tắc ngữ pháp và viết hoa tu từ.
Viết hoa theo quy tắc ngữ pháp

Theo quy tắc ngữ pháp, trước hết các chữ cái đứng đầu câu, đầu tên chương, bài, mục...
đều phải viết hoa. Mỗi khi xuống dòng, chữ cái đứng đầu dòng cũng cần được viết hoa.
4


Ví dụ:
Một con lạc đà thị đầu vào cái lu bằng sành, nó bị mắc cứng, khơng thể nào rút đầu ra
được. Mọi người lo lắng, hỏi một vị trưởng lão, được ông bày cách:
- Lấy dao chém đầu con lạc đà là xong ngay.
Người chủ con lạc đà làm theo lời bậc cao niên dày kinh nghiệm. Đầu con lạc đà lìa
khỏi cổ nhưng vẫn mắc trong lu. Cuối cùng người ta đành phải đập chiếc lu để lấy đầu lạc
đà.
Lạc đà chết và chiếc lu cũng vỡ tan.
(Truyện ngụ ngôn Ấn Độ)
Cũng theo quy tắc ngữ pháp tiếng Việt, các tên riêng đều phải viết hoa. Cụ thể:
- Đối với tên người, tên địa lí Việt Nam: chữ cái đứng đầu mỗi âm tiết được viết hoa. Ví
dụ: Việt Nam, Hà Nội, Triệu Thị Trinh, Trần Hưng Đạo, Tố Như, Đội Cấn...
- Đối với tên người, tên địa lí nước ngồi: chữ cái đứng đầu mỗi bộ phận của tên được
viết hoa và giữa các âm tiết trong cùng một bộ phận có dấu gạch nối. Ví dụ: I - u - ri Ga - ga
- rin, Vla - đi - mia I - lich Lê - nin, Ê - vơ - ret, Béc - lin, Xanh Pê - téc - bua... Những tên
người, tên địa lí Việt Nam phiên âm từ tiếng dân tộc thiểu số có các bộ phận cấu thành gồm
nhiều âm tiết thì cũng viết hoa theo nguyên tắc trên. Ví dụ: Ê - đê, Ba - na, Y - rơ - pao...
- Đối với tên các cơ quan, đơn vị, tổ chức: chữ cái đầu của âm tiết đầu tiên và các âm
tiết biểu thị tính chất riêng biệt của tên được viết hoa. Ví dụ: Sở Giáo dục và Đào tạo Hải
Phịng, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn...
Lưu ý: Các từ chỉ phương hướng (đông, tây, nam, bắc) chỉ viết hoa khi dùng trong tên
riêng địa lí. Ví dụ: bờ biển phía nam của khu vực Đông Nam Á, miền tây của Tây Đức...
Ngồi ra, cịn có quy định viết hoa cho các trường hợp khác như: tên các năm âm lịch,
tên các tiết và tết, từ chỉ số trong những đơn vị là tên gọi các sự kiện lịch sử, tên gọi một số
thời kì lịch sử, tên các ngành, lớp, bộ, họ, giống (chi) trong phân loại sinh vật học, các niên

đại địa chất, tên gọi các tôn giáo, giáo phái, tên chức vụ,... Ví dụ: năm Quý Tị, tiết Lập thu,
tết Nguyên Đán, thời kì Phục Hưng, họ Dâu tằm, chi Tôm he, kỉ Phấn trắng, đạo Thiên chúa,...
Viết hoa theo quy tắc tu từ
Viết hoa theo quy tắc tu từ để thể hiện sự tôn trọng đặc biệt đối với người hay sự vật
nhất định hoặc nhằm thể hiện một dụng ý nghệ thuật nào đó của tác giả.
Ví dụ:

Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường
Nhớ Người những sớm tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo
5


Người đi rừng núi trơng theo bóng người.
(Việt Bắc - Tố Hữu)
Hoặc tên gọi các phần thưởng, danh hiệu cao quý: Anh hùng Lao động, Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng, Nhà giáo Nhân dân,…
b. Quy tắc phiên âm tiếng nước ngoài
Trong các văn bản khoa học, chúng ta thường gặp các tên riêng nước ngoài và các thuật
ngữ quốc tế. Có ba cách để xử lí các từ ngữ này tùy thuộc vào các loại hình văn bản mà chúng
xuất hiện. Cụ thể:
- Cách viết nguyên dạng được dùng trong các sách báo, tạp chí chun mơn, trong các
tiểu luận, luận văn, luận án. Ví dụ: John Lyons, Z. S. Harris, cognitive linguistics...
- Cách chuyển tự (chuyển từ các chữ cái tiếng nước ngoài thành chữ cái tiếng Việt) cũng
được dùng trong các văn bản chuyên môn. Khi chuyển tự, ta viết liền cả từ, khơng có gạch
nối giữa các âm tiết và cũng khơng đánh dấu thanh. Ví dụ: aspirin, lipit, gluco...
- Cách phiên âm được dùng trong sách báo phổ cập. Khi phiên âm, cần viết rời từng âm tiết,
giữa các âm tiết trong cùng một bộ phận có gạch nối, các âm tiết khơng đánh dấu thanh. Ví dụ:

Na - pơ - lê - ơng Bơ - na - pac, Vla - đi - mia I - lich Lê – nin, ...
1.1.2.3. Các lỗi thông thường về chính tả
a. Các lỗi do vi phạm các quy định trong hệ thống chữ Quốc ngữ
Chữ Quốc ngữ là thứ chữ ghi âm vị. Về nguyên tắc, một âm vị được thể hiện bằng một
hình thức chữ viết và ngược lại, một hình thức chữ viết là sự thể hiện của một âm vị. Trên
thực tế, chữ Quốc ngữ không đảm bảo được nguyên tắc này. Chỗ hạn chế đó được khắc phục
bằng các quy định bổ sung. Nếu viết không đúng theo những quy định này là mắc lỗi chính
tả. Ví dụ: viết kung, kàng kua, gi, nge dảng, m, cươ... [Tìm hiểu thêm quy định thể hiện
trên chữ viết của âm /k/ (c, k, q), /ŋ/(ng, ngh), /ɣ/ (g, gh), /z/ (d, g, gi), /-u-/ (u, o), /-u/ (u, o),
/ie/ (iê, yê, ia, ya), /uo/ (uô, ua), /ɯɤ/ (ươ, ưa), /i/ (i, y)...]
Ngoài ra, người dùng sẽ mắc lỗi chính tả nếu đánh dấu thanh sai vị trí trong âm tiết. Ví
dụ: ý kíên, quỷên sách, mựơn... Tất cả các dấu thanh đều phải đánh đúng chữ cái ghi âm chính
(ở trên hoặc dưới). Ví dụ: tồn, tốn, toản, tỗn, toạn... Khi âm chính là ngun âm đơi thì
dấu thanh đánh ở chữ cái thứ nhất nếu âm tiết khơng có âm cuối. Ví dụ: mía, lúa, nữa... Nếu
có âm cuối thì dấu thanh đánh ở chữ cái thứ hai. Ví dụ: muốn, hưởng, luyện, ...
b. Các lỗi do ảnh hưởng của cách phát âm địa phương
Tiếng địa phương trong tiếng Việt có sự phát âm khơng đúng với chuẩn mực âm thanh
ở các vị trí: âm đầu, âm cuối, thanh điệu và có thể ở cả âm đệm, âm chính. Tình hình đó dẫn
đến chỗ trong thực tế thường xảy ra lỗi chính tả ở các vị trí tương ứng trong âm tiết. Sau đây
là những lỗi phổ biến cùng với những cơ sở và biện pháp rèn luyện, sửa chữa.
6


Lỗi về âm đầu
Người vùng Bắc Bộ thường mắc lỗi viết sai âm đầu do phát âm lẫn lộn các cặp âm đầu
sau đây:
* N và L
Để sửa lỗi và rèn luyện viết đúng những âm đầu này, có thể căn cứ vào một số quy tắc
sau:
- L đứng trước âm đệm cịn N thì khơng (trừ nỗn): loa, loan, loét, luật, lụy, ...

- Trong các từ láy vần, chỉ có L đứng ở âm đầu của tiếng thứ nhất cịn N thì khơng: lị
dị, liên miên, linh tinh, loắt choắt, long đong, lụng thụng...
- Cũng trong các từ láy vần, nếu xét tiếng thứ hai, thì N chỉ có thể xuất hiện khi âm đầu
của tiếng thứ nhất là GI hoặc tiếng thứ nhất khơng có âm đầu: gieo neo, gian nan, áy náy, ảo
não... Ngược lại L xuất hiện với nhiều âm đầu khác của tiếng thứ nhất: bảng lảng, cheo leo,
khéo léo...
- Những từ có từ đồng nghĩa bắt đầu bằng NH thì viết âm đầu là L: nhỡ - lỡ, nhầm - lầm,
nhố nhăng - lố lăng, nhem nhuốc - lem luốc, nhanh - lanh...
[Tham khảo thêm tài liệu học tập bắt buộc [1], tr.249 - 251]
* TR và CH
Căn cứ để rèn luyện và sửa chữa là:
- Trong từ láy vần, trừ vài từ viết là TR (trót lọt, trọc lóc, trụi lủi...), cịn lại đầu viết là
CH phối hợp với các âm đầu khác: CH - B (chơi bời, chành bành...), CH - L (cheo leo, chói
lói...), L - CH (lau chau, lã chã...), CH - M (chếch mếch, chểnh mảng...), CH - R (chộn rộn,
chàng ràng...), CH - V (choáng váng, chênh vênh, chờn vờn, chạy vạy...).
- Các từ Hán Việt mang dấu nặng hoặc dấu huyền đều viết với TR: trịnh trọng, giá trị,
truyền thống, trường hợp, phong trào, trừng trị...
- Về nghĩa, các từ chỉ người trong gia đình viết là CH: cha, chú, chị, cháu, chắt, chồng...
Các từ chỉ đồ dùng trong nhà cũng thường viết với CH: chổi, chum, chén, chiếu, chăn, chảo,
chậu, chai, chày... (trừ tráp)
- Các từ đồng nghĩa với GI thì đều bắt đầu bằng TR: tranh - gianh, trai - giai, trăng giăng, tro - gio, trời - giời, trả - giả...
[Tham khảo thêm tài liệu học tập bắt buộc [1], tr.251 - 253]
* S và X
- Trong từ láy vần, chỉ có âm đầu X, khơng có âm đầu S: lịa xịa, loăn xoăn, liêu xiêu,
lao xao, xích mích, xo ro...(ngoại lệ: cục súc, sáng láng, lụp sụp (cũng viết lụp xụp))

7


- Đi với các vần oa, oă, oe, uê là âm đầu X, chứ khơng phải là S: xuề xịa, xoen xoét,

xoay xở, xoắn xuýt... (ngoại lệ: soát trong kiểm soát, soạn trong soạn bài, soán trong soán
đoạt, suýt soát, sột soạt, sờ soạng)
- Tên các thức ăn và đồ dùng nấu nướng thường viết với X: xôi, xáo, xúc xích, lạp xường,
phở xào, cái xanh, xiên nướng...
[Tham khảo thêm tài liệu học tập bắt buộc [1], tr.253 - 255]
* R, D và GI
- Chỉ có D mới đi trước các vần có âm đệm (oa, oă, uâ, uê, uy) cịn R và GI thì khơng:
dọa, doanh, dun, duệ, dỗn, duyệt, duy... (ngoại lệ: dây cu - roa)
- Các âm Hán Việt không viết với R, âm nào mang thanh ngã hoặc nặng thì viết với D
(duyệt, dũng, duệ...), âm nào mang thanh hỏi hoặc sắc thì viết với GI (giáo, giảo, giả...)
- Từ tượng thanh, tượng hình bắt đầu bằng R: rào rào, rì rầm, run rẩy, róc rách, ra rả,
réo rắt, rủng rỉnh...
- Có những cặp từ đồng nghĩa có các âm đầu phối hợp thành cặp L - R: lấp - rấp, lỗ rỗ, lắp - ráp... hoặc cặp S - R: siết - riết, sáng - rạng, sắp - rắp...
[Tham khảo thêm tài liệu học tập bắt buộc [1], tr.255 - 256]
Lỗi về vần
* ƯU và IU
Vần ƯU chỉ có ở một số từ (bưu điện, lưu trữ, lưu trú, hưu trí, lựu đạn, cứu, cừu, cửu,
sưu, tửu, tựu...) còn lại là vần IU.
* ƯƠU và IÊU
Vần ƯƠU chỉ có ở một vài từ (rượu, hươu, ốc bươu, con khướu, bướu cổ, bươu đầu)
còn lại là vần IÊU.
* ƯƠI và ƯI
Vần ƯI chỉ có ở vài từ (chửi, gửi, ngửi, khung cửi) còn lại là vần ƯƠI.
* I và UI
- Trong các từ láy âm khơng có vần I, chỉ có vần UI. Vì vậy, khi viết các từ này đều
phải viết với vần UI: lầm lũi, nhẵn nhụi, đen đủi, ngậm ngùi, hắt hủi...
- Những từ đơn mang vần UI thường có nghĩa như sau:
+ Chỉ hành động hướng xuống dưới: chui, cúi, dụi, chúi...
+ Chỉ hành động đẩy tới: ủi, dũi, xui, xúi, chũi, dùi...
+ Chỉ hành động rút lui: lủi, lùi, lui, lụi, vùi...

Lỗi về thanh điệu
Một số vùng địa phương không phát âm đủ sáu thanh của tiếng Việt mà lẫn lộn một số
thanh với nhau, tiêu biểu là lẫn thanh ngã và thanh hỏi.
8


Việc rèn luyện viết đúng và sửa chữa lỗi khi viết hai thanh này có thể dựa vào hai quy
tắc sau đây:
- Ở các từ láy âm, thanh của hai tiếng phải cùng nhóm: nhóm bổng (hỏi, sắc, khơng)
hoặc nhóm trầm (huyền, ngã, nặng). Vì vậy, khi một tiếng trong từ láy âm đã rõ ràng mang
thanh sắc hoặc thanh khơng thì tiếng kia cần viết với thanh hỏi. Ví dụ: sắc sảo, ngớ ngẩn, ngổ
ngáo, xỏ xiên, vất vả, đen đủi,...
Còn khi một tiếng trong từ láy âm đã rõ ràng mang thanh huyền hoặc thanh nặng thì
tiếng kia cần viết với thanh ngã. Ví dụ: đẹp đẽ, mạnh mẽ, buồn bã, nhãn nhã, lặng lẽ, tầm tã,
trễ tràng, dỗ dành,...
Một số ngoại lệ: ngoan ngoãn, khe khẽ, lam lũ,...
- Trong các từ Hán Việt, các tiếng bắt đầu bằng một trong các phụ âm M, N, NH, V, L,
D, NG (cách nhớ: MÌNH NÊN NHỚ VIẾT LÀ DẤU NGÃ) đều mang dấu ngã chứ khơng
mang dấu hỏi. Ví dụ: mĩ lệ, mãn nguyện, nỗ lực, thanh nhã, vĩnh viễn, lữ thứ, dũng cảm, bản
ngã, ngưỡng mộ...
[Tham khảo thêm tài liệu học tập bắt buộc [1], tr.244 - 247]
Lỗi do biến thể tùy tiện
Hiện nay, trong nhà trường phổ thông xuất hiện hiện tượng ngôn ngữ bị các em biến thể
một cách tùy tiện, khơng có căn cứ nào cả. Trong quá trình viết, các em dần biến đổi và quy
ước với nhau. Thói quen này dẫn đến tình trạng viết sai chính tả đến mức trầm trọng.
Ví dụ:
Chữ
Muốn
I (vui)
Nh (nhưng)

Iêu (nhiều)
B (bó tay)

Biến thể
Mún
J (vuj)
Nk (nkưng)







Iu (nhìu)
P (pó tay)

BÀI TẬP
1. Hãy viết hoa theo đúng quy tắc những từ cần thiết trong đoạn văn sau:
Đầu thế kỉ XX, đứng trước trào lưu âu hóa và những biến động về mọi mặt của đất nước
do sự giao lưu với phương tây mang lại, phong trào chấn hưng phật giáo được dấy lên, khởi
đầu từ các đô thị miền nam, với vai trò quan trọng của các nhà sư khánh hòa và thiện chiếu.
vào những năm 30, các hội phật giáo ở nam kì, trung kì và bắc kì lần lượt ra đời với những
cơ quan ngôn luận riêng. các cuộc tranh luận về tư tưởng phật giáo đã diễn ra trên báo chí
hết sức sơi nổi.
2. Hãy giải thích những trường hợp viết hoa được dùng trong đoạn thơ sau:
9


Vui sao một sang tháng Năm

Đường về Việt Bắc lên thăm Bác Hồ.
Suối dài xanh mướt nương ngô
Bốn phương lồng lộng Thủ đơ gió ngàn.
Bác kêu con đến bên bàn
Bác ngồi Bác viết nhà sàn đơn sơ.
(Tố Hữu)
3. Chữa lại những trường hợp viết hoa không đúng:
- Lê hồng Phong, Trần Phú, Nguyễn văn Huyên, Lê Thánh tông, Quang Trung,
Hưng đạo vương.
- Các mác, Ăng – Ghen, Giu – li – út Phu – xích
- Hà Nội, Đà nẵng, Hải Phòng, Nha trang, Cần thơ, An Giang
- Mạc – Tư – Khoa, Bắc Kinh, Plây – Cu, In Đô Nê Xi A
4. Chuyển các từ viết nguyên dạng (trong ngoặc đơn) thành dạng phiên âm:
Ông đến các tỉnh ven biển, tìm hiểu các vị thuốc đặc biệt của miền biển như: cá ngựa
(hippocampus), rau câu (glacilaria), ô tặc cốt (sepiaescalenta) ở Hòn Gai, trân châu
(pteiridae) ở Quảng Ninh.
5. Hãy giải thích vì sao các trường hợp dưới đây lại viết ng/ngh:
- ngô, ngày, người, nga, ngân, ngủ, ngáy, ngon, ngoan, ngừng, ngượng, nguội, nguyên,
nguyện, ngông, ngờ, ngất, ngậm, ngấm.
- nghệ, nghề, nghèo, nghênh, nghỉ, nghĩ, nghiêm, nghĩa, nghi, nghiên, nghìn, nghịt,
nghĩa quân, nghị định, nghỉ tay.
- nghiệt ngã, nghiện ngập, nghịch ngợm, nghiêm ngặt, nghênh ngang, nghi ngờ, ngốc
nghếch, nghề ngỗng, nghi ngút, nghẹn ngào.
6. Hãy giải thích vì sao các yếu tố dưới đây lại viết g/gh:
- nhà ga, con gà, gạ gẫm, gả bán, gan góc, gác lửng, gạch hoa, gánh vác, gây gổ, gấp
gáp, gần gũi, gầy cịm, gây chuyện, gẫy gọn.
- dì ghẻ, ghe thuyền, ghen ghét, ghi chép, ghìm nén, ghi âm, ghế tựa, lắp ghép, ghì chặt,
trêu ghẹo.
10



7. Hãy giải thích vì sao các trường hợp dưới đây lại viết c/k/q:
- ca hát, cái ca, con cò, chim cút, cách biệt, cách mạng, can đảm, cọ xát, cãi lộn, cạn
chén, cạm bẫy, cao kiến, cung cấp.
- kè nhè, kem que, kèm nhèm, kém cạnh, kèo nhèo, kẽo kẹt, kế thừa, kềnh càng, kếch xù,
kết thúc, kêu nài, kêu van.
- qua lại, quả tang, quá bán, quá chừng, quái ác, quái vật, quan hệ, quán triệt, quản lí,
quảng cáo, quạnh quẽ, quắc thước.
8. Phát hiện và sửa lỗi chính tả trong đoạn văn sau:
Nền kinh tế nước ta đang trên đà phát chiển. Nông nghiệp đã đạt được những thành tịu
lớn ở cả ba phương diện: diện tích, lăng xuất và xản lượng. Nhiều dống lúa mới được nai tạo,
hơn nữa cịn có phong chào chuyển dịch dống cây trồng. Chăn ni cũng có nhiều dống mới
cho lăng xuất cao và chất nượng tốt.
9. Điền l hoặc n vào những chỗ trống:
Tơi ...àm nghề chở đị đã ...ăm ...ăm ...ay. Nhà tôi ...à chiếc thuyền gỗ ...ênh đênh trên
mặt ...nước. Tôi ...ắm vững ...ơi ...ào ...ước chảy xiết, ...ơi ...ào có đá. ...úc đêm đến, trong khi
con thuyền ...ướt nhẹ trên dịng sơng phẳng ...ặng, tơi nhìn chỗ ...ày cây ...ưa thưa, chỗ ...ọ
...óc nhà ...ổi ...ên ...ối tiếp nhau cũng đoán biết được thuyền đã đến ...ơi ...ào.
10. Chữa lại những chữ viết sai s/x trong các từ ngữ dưới đây:
sé rách tờ giấy

tóc sõa trước trán

nâng cao năng xuất

xợi dây sích

đẩy mạnh suất khẩu

nói xen vào


dư luận xơn xao

quanh quẩn só nhà

xa cơ lỡ vận

ăn gió nằm xương

thật là xáng dạ

con chim xáo

ngã xấp mặt

xóng to gió lớn

sức khỏe xuy xụp
11. Điền d, gi hay r vào chỗ trống:
(1) Cha tôi ...ao ...u rộng. (2) ...iễn ...ả nói rất hay. (3) ...áo ...ục chúng ta kết hợp học
với hành. (4) Thầy ...áo nói năng ...ản ...ị. (5) Văn học ...ân ...an có nhiều tác phẩm xuất
sắc. (6) Phải chú ý tới ...anh ...ự của mình. (7) người nào cũng rét …un cầm cập. (8)Không

11


nên ...ao ...ịch với người xấu. (9) Nó hay nói lai ...ai. (10) Cơng việc đang ...ang ...ở. (11)
lị ...ị như cị chết đói. (12) …út …ây động rừng.
12. Chữa những chữ sai trong các câu sau đây:
(1) Nó cứ hay rấu riếm tôi. (2) Không biết run rủi thế nào tôi lại gặp anh ta. (3) Câu

chuyện thật là giùng giợn. (4) Mặt nó dạng dỡ hẳn lên. (5) Nước chảy dóc dách. (6) Phải nói
năng dành dọt, dõ dàng. (7) Chiếc thắng xuân qua thật là ròn rã. (8) Đừng có rại rột nghe
theo những lời đồn nhảm. (9) Nó cứ ru rú ở nhà khơng đi đâu cả. (10) Sức khỏe phải rẻo rai,
tinh thần phải giắn giỏi.
13. Chữa lại những chữ viết sai tr/ch trong các từ ngữ dưới đây:
chài lưới

chanh chấp

chống trải

chà chộn

chiến tranh

trong tróng

trung thủy

chấn giữ

chân thật

trù trừ

con chai

trách cứ

trẻ chung


trạnh lòng

trung cuộc

trinh phu

trung thủy

chinh nữ

trà đạp

chưng dụng

14. Với mỗi vần sau đây, hãy tìm 10 từ có vần đó: un, ut, ươc, ươt, oăn, oăt, ươi,
ươu, oac, oat. Hãy đọc các từ tìm được.
15. Điền vần thích hợp vào chỗ trống:
gà kêu quang q….

đau q… bụng

dốt đ… cán mai

cành lá xum x…

băn kh… lo lắng

làm lụng quần q…


chạy loăng q…

lam lũ q… năm

t… đất, t… vàng

ướt lướt th…

kh… trương thanh thế

không chịu q… gối

con đường khúc kh…

chớp loằng ng…

thắt lưng b… bụng

mặt mũi lem l…
12


chạy cuống c…

say lướt kh…

no ph… bụng

r… chè be bét


1.2. Rèn luyện kĩ năng dùng từ
1.2.1. Khái quát về từ tiếng Việt
1.2.1.1. Khái niệm
Từ là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có khả năng vận dụng độc lập để tạo câu.
Ví dụ: sách, bút, nói, khóc, xinh, bẩn...
Chú ý phân biệt từ với hình vị: Hình vị (tiếng) có thể trùng với từ (ví dụ trên) nhưng
cũng có thể khơng trùng với từ (hỏa, thủy, sơn...)
Khơng ai nói cho xin ít hỏa, tưới thủy cho rau hay đi leo sơn đi
1.2.1.2. Một số đặc điểm của từ tiếng Việt
a. Tính khơng biến hình
Từ tiếng Việt khơng biến hình biểu hiện ở chỗ khi hoạt động với các chức năng cú
pháp khác nhau ở trong câu, từ tiếng Việt không thay đổi hình thức.
Ví dụ: Tơi uống trà. (BN)
Trà này ngon. (CN)
b. Đặc điểm về cấu tạo
Xét về mặt cấu tạo: từ tiếng Việt được chia thành:
- Từ đơn: tức những từ gồm 1 tiếng: ăn, học, đi, nhà…
- Từ phức: tức những từ gồm nhiều tiếng. Từ phức lại được chia làm 3 loại chính:
+ Từ ghép gồm:
Ghép đẳng lập như: cha con, vợ chồng, nhà cửa, ăn uống…
Ghép chính phụ như: nhà máy, đường sắt, hoa hồng…
+ Từ láy gồm:
Láy hồn tồn (có thể khơng biến thanh hoặc biến thanh và thay đổi phụ âm ở vị trí
phát âm cuối cùng) như: xanh xanh, đo đỏ, man mát, khang khác,…
Láy phụ âm đầu như: long lanh, nhấp nháy, thấp thỏm...
Láy vần như: hấp tấp, bịn rịn, tươi cười…
* Lưu ý:
- Về mặt cấu tạo, mặc dù từ là đơn vị cố định được dùng nguyên khối nhưng từ tiếng
Việt khi hoạt động trong lời nói, có khả năng biến đổi về mặt cấu trúc. Các kiểu biến đổi
thường gặp là:

+ Rút gọn số tiếng: Bungari → Bun
+ Tách từ: lả lơi → biết bao bướm lả ong lơi, giữ gìn → gìn vàng giữ ngọc…
13


+ Đảo trật tự giữa các từ: tốt tươi → tươi tốt, gìn giữ → giữ gìn…
- Ngồi việc biến đổi về mặt hình thức cấu tạo, đơi khi từ cịn được biến đổi cả về hình
thức ngữ âm.
Ví dụ:
Vênh vênh váo váo như bố vợ phải đấm nguyên thể là vênh vênh váo váo như khố rợ
phải lấm.
Hay: Vắng chủ nhà gà mọc đuôi tôm nguyên thể là vắng chủ nhà gà vọc niêu tôm…
1.1.2. Một số lỗi thông thường khi dùng từ
1.1.2.1. Dùng từ sai về hình thức ngữ âm
Giữa mặt âm thanh và mặt ý nghĩa của từ thực ra chỉ có mối quan hệ quy ước mang
tính võ đốn. Chúng ta khơng thể lí giải được vì sao cùng nội dung chỉ vật đem lại ánh sáng
và sức nóng cho trái đất thể hiện bằng hình thức âm thanh mặt trời (tiếng Việt), sun (tiếng
Anh)…
Tuy vậy, đó là một sự thỏa thuận ngầm mang tính xã hội tồn tại trong lịch sử, được các
thế hệ tôn trọng và duy trì. Vì thế, nó có tính ổn định, thống nhất. Trong điều kiện, ngữ cảnh
bình thường, khơng ai được phép tùy tiện thay đổi mặt âm thanh và mặt ý nghĩa của từ nếu
muốn đảm bảo chất lượng của hoạt động giao tiếp. Nếu tùy tiện thay đổi thì sẽ ảnh hưởng đến
chính hoạt động giao tiếp của bản thân mình hoặc ít ra cũng “làm trị cười cho thiên hạ”. Tức
là khi dùng từ, phải đảm bảo dùng đúng hình thức ngữ âm của chúng.
Ví dụ:
- Đội ngũ tri thức ngày nay được đào tạo rất bài bản, có đầu óc.
Từ tri thức dùng khơng đúng âm thanh và hình thức cấu tạo làm cho câu văn trên khơng
có nghĩa. Bởi lẽ, tri thức (danh từ) với ý nghĩa là: những hiểu biết có hệ thống về sự vật, hiện
tượng tự nhiên hoặc xã hội (nói khái qt). Ví dụ: Có tri thức về cơng nghệ thơng tin. Trong
khi đó, trí thức: Người chun làm việc trí óc và có trình độ chun mơn nhất định, cần thiết

cho nghề nghiệp của mình. Ví dụ: Tầng lớp trí thức. Con nhà trí thức. Do đó, dùng từ tri thức
ở đây là sai, và phải dùng trí thức mới đúng.
Dùng từ khơng đúng hình thức ngữ âm của nó là lỗi có quan hệ với các lỗi về phát âm
và chính tả; khơng nắm được hình thức âm thanh chuẩn của từ thì sẽ viết sai. Những hiện
tượng bị coi là sai khi viết giống cách phát âm đơn giản hóa hay đọc chệch âm so với âm gốc,

14


nhất là từ Hán Việt. Ở đây, ta chỉ xét trường hợp những từ thường bị viết sai hình thức ngữ
âm thành một âm tương tự.
Ví dụ: Xem xét cột A và B trong những trường hợp sau bằng cách khẳng định đúng/sai
trong các cặp từ:
A

B

xán lạn

sáng lạn

việt vị

liệt vị

biểu ngữ

biển ngữ

phản ánh


phản ảnh

cảm khái

cảm khoái

sáp nhập

sát nhập

thủy mặc

thủy mạc

tham quan

thăm quan

đào ngũ

đảo ngũ

giao lưu

giao liu

bất trắc

bất chắc


uống rượu

uống riệu

bổ sung

bổ xung

chia sẻ

chia xẻ

khuyến mãi

khuyến mại

khúc chiết

khúc triết

mạn tính

mãn tính

bàng quan

bàng quang

Hầu hết đó là trường hợp của những từ Hán Việt với nghĩa gốc Hán không phải là dễ

hiểu đối với tất cả người Việt.
Chẳng hạn:
Tham quan là một từ Hán Việt đã được chúng ta sử dụng từ lâu. Trong tiếng Hán tham
có hai nghĩa, và được mượn vào tiếng Việt trong hai dãy từ phái sinh khác nhau. Với nghĩa
“tham gia”, tham có mặt trong các từ Hán Việt: tham chiến, tham chính, tham dự, tham gia,
tham luận… Với nghĩa “tham khảo”, tham có mặt trong: tham bác, tham khảo, tham quan,
tham vấn…Trong tiếng Việt, tham quan có nghĩa “xem, nhìn tận nơi để thêm hiểu biết và học
hỏi kinh nghiệm”. Nghĩa đầy đủ của tham quan khơng được phản ánh trong thăm quan, vì
15


thăm chỉ là đến hỏi han, xem xét tình hình. Như vậy, thăm quan xuất hiện do đọc nhầm tham
thành thăm, hai tiếng có âm và nghĩa na ná nhau. (Tạp chí Ngơn ngữ số 7/ 2000); Hay sán lạn
nghĩa là rực rỡ. Nhầm âm sán thành sáng mà viết thành sáng lạn là khơng đúng…
Lưu ý:
Trong q trình phát triển của ngôn ngữ, cách phát âm thường biến đổi trước và nhanh
hơn chữ viết. Có những từ do thói quen phát âm từ xưa, ta có thể chấp nhận hai khả năng. Do
đó, ở một số từ vẫn tồn tại song song hai dạng chuẩn và biến thể.
Ví dụ:
sứ mệnh
sứ mạng
khảng khái
sự thực

khẳng khái
sự thật

sáp nhập
sát nhập
án ngự

án ngữ
1.2.2.2. Dùng từ sai về ý nghĩa
Nguyên nhân của việc dùng sai ý nghĩa của từ là do không nắm vững ý nghĩa của từ.
Nghĩa của từ là một hiện tượng rất phức tạp, không phải cứ là người bản ngữ là có thể phân
biệt được những nét tinh tế về ngữ nghĩa của một từ trong những ngữ cảnh khác nhau, cũng
như nhận định rõ những dị biệt, tinh tế giữa hai từ khác nhau. Cách khắc phục là ta nên tra từ
điển khi dùng những từ còn cảm thấy mơ hồ về nghĩa.
Sau đây là một số trường hợp dễ dẫn đến nhầm lẫn mà chúng ta cần biết để tránh:
a, Những từ có hình thức ngữ âm gần nhau nhưng nghĩa khác nhau
Ví dụ:
Văn chương và văn học
Nhược điểm và yếu điểm
Mạc khách và mặc khách
Phong thanh và phong phanh
Liên quan và liên can
b, Những từ có âm gần nhau, nghĩa gần nhau
Ví dụ:
Cổ nhân và cố nhân
Thường xuyên và thường trực…
c, Những từ không phù hợp với nghĩa hạn chế mà nó vốn có
Ví dụ:
- Ơng giơ tay chỉ ba hoa
16


Chúng ta chỉ có thể dùng “chỉ trỏ lung tung” hoặc “chỉ trỏ vu vơ” mà không thể dùng
“chỉ trỏ ba hoa” vì ba hoa có nghĩa là “nói q nhiều, thường chỉ ý khốc lác” (Từ điển Tiếng
Việt, Hồng Phê chủ biên, Đà Nẵng, 1995).
Hay:
- Họa sĩ Phạm Viết Song nhấp nháy bộ râu quen thuộc …

Không dùng nhấp nháy để chỉ cử động của bộ râu mà chỉ có thể dùng để chỉ cử động của
mắt…
Hay:
- Tuy món ăn nhỏ nhen nhưng người đi vẫn nhớ.
Phải thay nhỏ nhen bằng bình thường, đạm bạc…
Hoặc:
- Bên bờ sơng Như Nguyệt đã xảy ra nhiều chiến công ác liệt.
Nên thay xảy ra bằng diễn ra và chiến công bằng trận đánh.
1.2.2.3. Dùng từ sai về phong cách
Từ dùng phải phù hợp với văn cảnh, hoàn cảnh giao tiếp hoặc thể loại văn bản. Khơng
đảm bảo điều đó, việc dùng từ sẽ bị coi là sai về phong cách.
* Chẳng hạn, trong văn viết lại dùng từ ngữ của văn nói, ví dụ:`
- Sở thích của chúng tơi, mỗi đứa mỗi khác.
- Cần phải bảo vệ cái thành quả quý báu đó.
Ở đây, cần thay từ đứa bằng từ người và phải bỏ từ cái trong cái thành quả.
* Trong thể loại này lại sử dụng từ ngữ của thể loại khác
Ví dụ: Sau năm 1945, dân tộc ta đi lên từ trong đêm mờ xa xơi lạnh cóng của lịch sử,
bước đi xiêu vẹo, khoác tấm áo tả tơi nhiều mảnh vá.
Đây không phải là văn miêu tả mà là văn nghị luận. Vì vậy cần thay các từ ngữ miêu
tả trên thành: Sau năm 1945, dân tộc ta bước ra khỏi đêm trường trung cổ, bước những bước
đi đầu tiên trong nghèo nàn, lạc hậu.
* Có những từ Hán Việt được dùng cho những trường hợp cần sự trang trọng như phụ
nữ, thiếu nhi… mà ta không thể thay thế bằng những từ thuần Việt cho dù nó có sẵn.
Ví dụ:
Khơng thể gọi Hội Phụ nữ Việt Nam là Hội Đàn bà Việt Nam, hay đội Thiếu niên Tiền
Phong là đội trẻ con hay đội con nít Tiền Phong.
* Trong hồn cảnh giao tiếp thân tình lại dùng từ trang trọng như trong hội nghị hoặc
từ óng ả như trong thơ ca.
Ví dụ:
+ Người cha nói với các con bên bếp lửa:

17


- Bố đã trình bày hết ý kiến của mình. Các con đã quán triệt chưa nào?
+ “Trước lúc đi ngủ, San tâm sự với tôi:
- Cháu bị số phận hắt hủi. Giờ thì cả cha và mẹ đều khơng cịn.
Lẽ ra, khi ngồi bên con trong khơng khí gia đình thân mật, người cha chỉ cần nói một
cách mộc mạc, tình cảm:
- Bố nói hết ý nghĩa của mình rồi đấy. Các con thấy thế nào?
Hay trong hoàn cảnh nói trên, nhân vật San cần dùng cách nói giản dị:
- Cháu chẳng gặp may chút nào,…
1.2.2.4. Dùng từ sáo rỗng và trùng lặp
Để câu văn có tính thẩm mĩ, hiệu quả diễn đạt cao, không nặng nề, người viết phải có
vốn từ phong phú, phải có ý thức tránh lặp từ và sử dụng từ sáo rỗng.
Ví dụ 1:
- Lao động chân tay là cao quý lắm thay, vinh quang lắm thay, tự hào lắm thay.
Các từ ngữ ca ngợi lao động chân tay ở trên là quá văn hoa, bóng bảy mà khơng diễn
tả chân thực và đúng mức giá trị của lao động chân tay. Đây là lỗi dùng từ sáo rỗng. Cần thay
các từ ngữ thành:
- Lao động chân tay cũng đáng quý.
Ví dụ 2:
- Nhân dân ta phải đương đầu chống lại một kẻ thù hung bạo nhất.
Ở câu trên, đương đầu và chống lại trùng lặp về nghĩa. Đây là lỗi lặp thừa. Các chữa
kiểu lỗi này là cần bỏ đi một trong hai từ ngữ trùng lặp về nghĩa đó.
Ví dụ 3:
- Các sinh viên phải thi lại phải làm đơn xin thi lại và nộp tiền thi lại thì mới được xét
thi lại trong đợt thi lại này.
Các từ phải và thi lại ở trên là không thừa, nhưng sự lặp lại chúng đã gây nên cảm giác
nặng nề, nhàm chán. Có thể coi đây là lỗi lặp vụng. Cách chữa ở kiểu lỗi này là dùng phép
thế, phép tỉnh lược và thay đổi cách diễn đạt. Câu trên có thể được sửa thành:

- Các sinh viên phải thi lại cần làm đơn và nộp tiền thì mới được xét trong đợt thi lần
hai này.
- Để được xét tham gia vào kì thi đợt hai này, các sinh viên thuộc diện thi lại phải làm
đơn và nộp tiền kịp thời.
* Lưu ý: Lặp từ không phải luôn là lỗi dùng từ. Người viết có thể cố tình lặp từ nhằm
các mục đích sau:
+ Lặp từ để liên kết các câu trong văn bản
Ví dụ:
18


- Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hi sinh để bảo vệ
con người. Tre anh hùng lao động. Tre anh hùng chiến đấu.
(Thép Mới)
+ Lặp từ là để diễn đạt chính xác hơn
Ví dụ:
- Nhân dân thế giới đồng tình ủng hộ các bản tuyên bố của chính phủ Việt Nam và của
Chính phủ Lào.
Nếu khơng có từ của thứ hai thì người đọc có thể nghĩ các bản tuyên bố đó là những
tuyên bố chung của hai chính phủ.
+ Lặp từ như một biện pháp tu từ để nhấn mạnh một ý nào đó
Ví dụ:
Cùng trơng lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai
(Chinh phụ ngâm khúc)

BÀI TẬP
1. Chỉ ra và nêu cách sửa những lỗi dùng từ trong những câu sau đây:

1. Ban đêm bầu trời đầy những vì tinh túy.
2. Quá trình vượt núi cao là quá trình con người trưởng thành và lớn lên.
3. Chúng nó cười to quá quên cả quy luật của giờ nghỉ.
4. Trong gian phòng thanh tịnh im lặng, chỉ nghe tiếng nước sơi, tiếng than nổ, tiếng
gió thổi…
5. Ý thức trách nhiệm đã nhiễm sâu vào cán bộ.
6. Tính tình anh ấy rất hiền lành nhưng khi ra trận đánh giặc thì táo tợn vơ cùng.
7. Anh phải vào phịng 302 để được chuẩn đốn bệnh trước đã.
8. Cuốn sách cậu cho tơi mượn có rất nhiều hình thuyết minh đẹp.
9. Anh đã đọc tác phẩm nặc danh đó chưa?
10. Ngồi những ưu điểm trên chúng ta cịn một số yếu điểm.
11. Cậu ta vừa được đề đạt lên làm hiệu trưởng.
12. Bằng trí tuệ nhạy bén và thông minh, những người lao động đã đấu tranh chống lễ
giáo bảo thủ, lạc hậu.
19


13. Một trong những lý do để tập thể đạt được những thành cơng cao là đã có sự đồn
kết và thương yêu nhau.
14. Anh có khả năng làm tiền giỏi.
15. Nhiều nông dân trong thành phố sử dụng chất phế thải rất không đúng cách.
16. Trước đây thiên nhiên thật phong phú, giàu đẹp ghê gớm; nhưng ngày nay nó cịn
giữ được sự phong phú, giàu đẹp ấy nữa không?
17. Nạn rải đinh tái xuất hiện trở lại
18. Công ty chúng tôi xin phiền quý ban giải quyết cho vấn đề này trong thời gian sớm
nhất.
19. Mời các bạn nghe những tin tức cập nhật đầu tiên trong ngày.
20. Mục đích cơ đến đây để làm gì?
21. Chắc có lẽ là vậy.
22. Anh xin lỗi! Anh đã tát vào má em.

23. Nếu chúng ta không thay đổi nếp suy nghĩ đến hôm nay đã trở nên rất cổ điển thì
khó lịng tiến kịp thời đại.
24. Đơn vị chúng ta năm qua đã hoàn thành tốt kế hoạch, tuy vậy vẫn còn một số tồn
tại.
25. Đến khi ra pháp trường, anh Nguyễn Văn Trỗi vẫn hiên ngang đến phút chót lọt.
26. Mấy năm trở lại đây về sau này, vai trò của nữ giới châu Á được nâng cao.
27. Những năm gần đây, các nước lục địa đen bị nạn hạn hán hành hồnh.
28. Thưa cơng chúa, chúng em thân phận hèn mọn, những thứ đồ trang sức đắt tiền
này không xứng với em đâu.
29. Tôi thường hát những bài ca khúc có âm hưởng của dân ca.
30. Chúng ta phải phát triển kinh nghiệm này trong sản xuất.
31. Nhìn những hình ảnh này, người ta đã gợi nhớ đến những cuộc chiến tranh đẫm
máu.
32. Đó là nguy cơ nhiễm trùng xảy ra.
33. Nó run lên cầm cập, khí hậu hôm ấy rất là lạnh.
34. Cô rất được hoan nghênh nhiều lắm.
35. Trường Sư phạm Hà Nội vừa tổ chức mấy đợt xâm nhập thực tế phổ thông cho cả
mấy thầy trị.
36. Từ đó người ta thấy tính chất nghiêm trọng của việc nghiên cứu tìm cách thay thế
máu khi phải mổ xẻ, bằng những thể chất nhân tạo.
37. Năm nay 61 tuổi (…) ông vẫn mặc bộ đồ xanh công nhân, chiếc bảng tên nhỏ đeo
trước ngực, đôi bàn tay nhỏ và mái tóc sửa soạn bạc trắng.
20


38. Trong những năm khơi phục kinh tế, mới có ít ngày thơi mà đất nước ta đã thay
lịng đổi dạ, những mái nhà dạ cứ lùi dần cho ngói mới.
39. Lão cố tỏ ra vui vẻ nhưng thực ra lão rất nhớ thương chú chó vàng của lão vì lão
bị ốm mà phải bán chó đi.
40. Bà cơ tươi cười nói chuyện với Hồng về mẹ chú như một sự giả dối. Bà cô muốn

Hồng vào thăm mẹ. Bà đã nói với những ý nghĩa thật cay độc trong giọng nói và trên nét mặt
khi cười rất kịch của bà cô.
41. Nhân dân ta đang ngày đêm chăm lo kiến thiết xây dựng nước nhà.
42. Lòng yêu mến thiên nhiên say đắm đã làm cho người quên đi nỗi vất vả trên đường.
43. Trong thời kỳ đổi mới, nước ta đã thành lập quan hệ ngoại giao với hầu hết các
nước trên thế giới.
44. Lên lớp 6 em mới thấy việc học tập thật là nghiêm trọng.
45. Bạn Trinh xin hứa sẽ cố gắng học thật giỏi để khỏi phụ lịng thầy cơ và các bạn.
46. Ơng nghe bì bõm câu chuyện của họ.
47. Hiểu rồi, các bạn muốn nói đến một nền văn học hiện đại, giao diện với tồn thế
giới.
48. Đó chỉ là những ảnh ảo trong tưởng tượng, không bao giờ tồn tại trong sự thực.
49. Chồng nàng là một phi công cao to vạm vỡ, đẹp trai nức nở, kiếm tiền như rác.
50. Anh ấy làm việc rất là năng lực.
51. Anh ta chỉ biết làm bạc mạng thơi, khơng tính tốn gì hết.
52. Cái sự khó khăn trong cách phát âm tên gọi “Thạch Tuyền ng” có một sự phù
hợp nào đó với cuộc đời đầy gian truân mà người ấy đang dẫm phải.
53. Nó có thái độ bàng quang trước thời cuộc.
54. Chúng ta phải cảnh giác với cái ác từ ngoại lai đến và cả cái ác trong bản thân
mình.
55. Sinh viên trong trường sẽ hiểu sai các vấn đề mà thầy truyền tụng.
56. Xuân mới, tôi đi giữa đường phố mà cứ xốn xang. xuân đã gợi cho tôi biết bao
nhiêu trí nhớ về đất kinh kì xưa.
57. Trong lịng thổ lộ niềm vui sướng.
58. Mời các cụ an vị chỗ ngồi cho.
59. Thế là nó ám hiệu cho tơi biết.
60. Khi ý thức cách mạng, ý thức trách nhiệm đã nhiễm sâu vào cán bộ nhân viên rồi
thì trở thành niềm hăng say, lạc quan trong cơng tác.
61. Nó len lét đi lại sau lưng bạn và bất ngờ ôm choàng lấy bạn.
21



62. Bây giờ, anh ta đã về nhà trị liệu.
63. Ở khu rừng ấy, các lồi mn thú được sống tự do.
64. Nàng muốn mình thật xinh đẹp để biểu tượng cho đất nước Philippin này.
67. Hiến máu để chuyền máu cứu người là một việc làm nhân đạo.
68. Anh vừa mua món quà này để giành tặng em.
69. Sự việc đó càng chứng tỏ sự tinh khiết, thủy chung của chị Dậu.
70. Sinh viên phải nỗ lực học tập để có được một tương lai sáng láng sau này.
71. Đối lập với hình ảnh đẹp đẽ, chân chất của chị “nắng mịn phù sa, da mật ong”,
phẩm cách trong sạch sáng như ngọc, lung linh như muôn hạt kim cương của chị là hình ảnh
của lũ mặt người dạ thú bẩn thỉu và thối tha.
2.Phân biệt nghĩa của các cặp từ sau:
1. phê bình và phê phán
2. thất lễ và vơ lễ
3. phổ biến và phổ cập
4. quyết đốn, võ đoán và độc đoán
5. chứng giám và chứng kiến
6. cổ điển và kinh điển
7. cự tuyệt và đoạn tuyệt
8. dễ dãi và dễ dàng
9. sưu tầm và sưu tập
10. thực sự và thực thụ
3.Tham khảo bài tập 1- Tr.234 (Sách Tiếng Việt thực hành Nguyễn Minh Thuyết chủ biên).
4.Tham khảo bài tập 2 -Tr.235 (Sách Tiếng Việt thực hành - Nguyễn Minh Thuyết chủ biên).
5.Tham khảo bài tập từ tr.215-> tr.226 (Sách Tiếng Việt thực hành- Bùi Minh Toán chủ biên).
1.3. Rèn luyện kĩ năng đặt câu
1.3.1. Khái quát về câu tiếng Việt
1.3.1.1. Khái niệm
So sánh các ví dụ:

a. sách, học, giáo viên, học sinh
b. Trang và Lan; đang học tiếng Việt
c. Hôm nay, Trang và Lan cùng đi học.
Nhận xét:
22


Vd (a) gồm các từ đơn và từ phức. Vd (b) gồm các cụm từ đẳng lập và chính phụ. Vd
(c) là một câu.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về câu. Chẳng hạn:
Nguyễn Tài Cẩn định nghĩa: “Câu là đơn vị ngữ pháp dùng từ cấu tạo nên trong quá
trình suy nghĩ, thơng báo. Nó có ý nghĩa tương đối trọn vẹn, có tính chất độc lập và có cấu
tạo ngữ pháp của nó”.
Theo Nguyễn Minh Thuyết: “Câu là kiểu đơn vị nhỏ nhất mà có thể mang một thơng
báo tương đối hoàn chỉnh”.
Diệp Quang Ban cho rằng: “Câu là đơn vị ngơn ngữ có cấu tạo ngữ pháp (bên trong và
bên ngoài) tự lập và ngữ điệu kết thúc, mang một ý nghĩa tương đối trọn vẹn hay thái độ, sự
đánh giá của người nói, hoặc có thể kèm theo thái độ, sự đánh giá của người nói, giúp hình
thành và biểu hiện, truyền đạt tư tưởng, tình cảm. Câu đồng thời là đơn vị thông báo nhỏ nhất
bằng ngôn ngữ”.
1.3.1.2. Đặc trưng của câu
a. Đặc trưng về cấu trúc
Về cấu trúc, trong câu có thể phân biệt bộ phận nịng cốt và bộ phận ngồi nịng cốt.
Nịng cốt là bộ phận giữ vai trị chính về cấu trúc và ý nghĩa, khơng thể lược bỏ trong
điều kiện tình huống nói năng bình thường. Ở dạng điển hình, nịng cốt câu thường do một
hoặc một số cụm chủ vị đảm nhiệm.
Ví dụ:
- Đèn điện lấp lánh như sao sa. (Nguyễn Minh)
- Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. (Hồ Chí Minh)
Ở dạng khơng điển hình, câu có thể do từ hoặc cụm từ đảm nhiệm. Ví dụ:

- Trời đất!
- Thanh!
- Dạ!
Bộ phận ngồi nịng cốt (bộ phận phụ) có tác dụng bổ sung, làm rõ nghĩa cho nịng cốt.
Ví dụ:
- Ở đây, đất tốt, khí hậu lành.
b. Đặc trưng về ngữ nghĩa
Về ngữ nghĩa, câu phải biểu đạt được một ý tương đối trọn vẹn, nói cách khác, câu phải
biểu đạt thơng báo, có thể kèm thái độ, tình cảm của người nói.
c. Đặc trưng về hình thức
Về hình thức, câu là một chuỗi từ, chữ cái đầu câu viết hoa, cuối câu có dấu ngắt câu
(dấu chấm, dấu hỏi, dấu chấm than, dấu ba chấm...). Khi phát âm, câu có ngữ điệu kết thúc.
23


1.3.1.3. Thành phần câu
a. Thành phần nòng cốt
Thành phần nòng cốt của câu là những thành phần đảm bảo cho câu được trọn nghĩa và
thực hiện được chức năng giao tiếp, cả trong trường hợp câu tồn tại tách biệt với văn cảnh
hoặc hoàn cảnh sử dụng. Trong trường hợp bình thường, câu có hai thành phần nịng cốt
(thường gọi là hai thành phần chính): chủ ngữ và vị ngữ.
- Chủ ngữ
+ Khái niệm: Chủ ngữ là một trong hai thành phần chính của câu, chỉ chủ thể của hoạt
động, đặc điểm, tính chất nêu ở vị ngữ.
+ Đặc điểm:
● Về nội dung: Chủ ngữ bổ sung cho vị ngữ ý nghĩa chủ thể, ý nghĩa của chủ ngữ có
quan hệ chặt chẽ với ý nghĩa của vị ngữ. Chẳng hạn, trong:
Con mèo thật đáng yêu. -> Con mèo: chủ thể của tính chất.
Con mèo đang rình chuột. -> Con mèo: chủ thể của hoạt động.
● Về hình thức: Chủ ngữ ln có khả năng thay thế bằng một từ nghi vấn (ai? cái gì?),

tức là có thể dựa vào vị ngữ để đặt câu hỏi cho chủ ngữ. Ví dụ:
Hải đang đọc sách. -> Ai đang đọc sách?
Quyển sách này rất hiếm. -> Cái gì rất hiếm?
● Về vị trí: Thơng thường, chủ ngữ đứng trước vị ngữ. Tuy nhiên, trong một số trường
hợp, trật tự từ có thể thay đổi. Ví dụ:
. Trong câu có vị ngữ là động từ tồn tại: Từ xa, tiến lại mấy bóng người.
. Khi muốn nhấn mạnh để làm nổi bật ý nêu ở vị ngữ: Trên mặt hồ, lướt nhẹ mấy chiếc
thuyền mỏng manh của khách du lịch.
. Trong thơ ca, do yêu cầu của nhịp điệu hay cảm xúc:
Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều...
Đau đớn thay phận đàn bà...
● Về tính xác định: Chủ ngữ thường có tính xác định, chỉ người hoặc sự vật đã biết
hoặc được giả định là đã biết đối với người nói, người nghe.
● Về phương tiện biểu hiện: Chủ ngữ thường biểu hiện bằng danh từ, cụm danh từ, đại
từ. Ngoài ra, chủ ngữ cịn có thể được biểu hiện bằng động từ, nhóm động từ, tính từ, nhóm
tính từ hoặc cụm chủ vị. Ví dụ:
Viết văn rất khó.
nhóm ĐT
Tốt gỗ hơn tốt nước sơn.
nhóm TT
24


×