Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Tài liệu thi Lịch sử Đảng Trung cấp lý luận chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.66 KB, 23 trang )

Câu 1: Phân tích những nguyên lý về đảng kiểu mới của giai cấp công
nhân do Lê Nin sáng lập? Liên hệ
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, những người lãnh đạo Quốc tế thứ hai
Becxtanh và Cauxky đã phản bội giai cấp công nhân theo đuôi giai cấp tư sản,
đã biến nhiều đảng lớn của Quốc tế hai ở Tây Âu thành đảng cải lương, phụ
thuộc vào giai cấp tư sản. Các đảng ấy khơng đủ uy tín và năng lực lãnh đạo
cách mạng vô sản giành thắng lợi. Lenin dự báo cách mạng vô sản sắp nổ ra,
nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng vơ sản giành chính quyền ngày càng đến gần đòi
hỏi phải xây dựng đảng khác hẳn về chất với các đảng Quốc tế hai khi đó. Lê
Nin đã kế thừa, phát triển những tư tưởng của chủ nghĩa C. Mác, Ph. Ăngghen
về Đảng Cộng sản đưa ra 8 nguyên lí về đảng kiểu mới của giai cấp cơng nhân.
Đó là:
Thứ nhất: CN Mác là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt
động của ĐCS.
Theo Lênin: “Học thuyết của Mác là học thuyết vạn năng vì nó là một học
thuyết chính xác, hồn bị và chặt chẽ; nó cung cấp cho người ta một thế giới
quan hồn chỉnh, khơng thỏa hiệp với bất cứ 1 sự mê tín nào, 1 thế lực phản
động nào, 1 hành vi nào bảo vệ sự áp bức của tư sản. Nó là người thừa kế chính
đáng của tất cả những cái tốt đẹp nhất mà loài người tạo ra thế kỷ XIX, đó là
triết học Đức, kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội Pháp”. Học thuyết
đó là lý luận có vai trị đặc biệt quan trọng đối với phong trào công nhân và hoạt
động của Đảng.
Đối với Đảng Cộng sản, Lênin khẳng định: “Trước hết và trên hết phải xem
xét lý luận là kim chỉ nam cho hành động”. Người nhấn mạnh, chúng ta hoàn
toàn đứng trên cơ sở lý luận của Mác: lý luận đó là lý luận đầu tiên đã biến
CNXH từ khơng tưởng trở thành khoa học. Lý luận đó đã chỉ rõ nhiệm vụ thật
sự của 1 đảng XH chủ nghĩa cách mạng, nhiệm vụ đó là: Tổ chức cuộc đấu tranh
giai cấp của giai cấp vô sản và lãnh đạo cuộc đấu tranh đó mà mục tiêu cuối
cùng là giai cấp vơ sản giành lấy chính quyền và tổ chức XH XHCN. Lênin còn
lưu ý các Đảng Cộng sản phải phát triển lý luận của Mác và vận dụng lý luận ấy
phù hợp với diều kiện cụ thể của mỗi nước.


Thứ hai: ĐCS phải là đội tiên phong chính trị có tổ chức và là đội ngũ
có tổ chức chặt chẽ nhất, cách mạng nhất và giác ngộ nhất của GCCN.
Đảng đó phải là Đảng tập hợp những người tiên tiến, ưu tú của GCCN,
phải thể hiện sự tiên phong về hành động và tiên phong về lý luận. Đảng là tổ
chức được tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật sắt, tự giác nghiêm minh thống nhất ý chí
và hành động, được vũ trang bằng lý luận cách mạng thì mới có thể thực hiện
được lý tưởng cơng sản. Khi có chính quyền, Đảng là hạt nhân lãnh đạo hệ
thống chun chính vơ sản và là một bộ phận của hệ thống đó. Đó là điều kiện
tiên quyết bảo đảm sự thành công của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
Thứ ba: tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản xây dựng tổ chức, sinh
hoạt và hoạt động của Đảng.


Đảng phải là một tổ chức tự nguyện của những người cùng chung lý tưởng
cộng sản. Để thực hiện lý tưởng của mình, một mặt Đảng phải thực hiện tốt dân
chủ để phát huy cao độ trí tuệ, tính sáng tạo của mọi đảng viên trong hoạt động,
đồng thời đảng phải hoạt động một cách tập trung thống nhất. Vì thế, đảng phải
xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ để
thống nhất ý chí và hành động.
Nguyên tắc tập trung dân chủ vừa đảm bảo phát huy quyền dân chủ, tập
trung trí tuệ, sáng tạo của đảng viên vừa đảm bảo thống nhất ý chí và hành động
của Đảng. Đó là vấn đề thuộc bản chất của Đảng, phân biệt đảng kiểu mới của
giai cấp công nhân với đảng kiểu cũ-đảng cải lương. Xa rời nguyên tắc này
Đảng sẻ giảm sức mạnh và không tránh khỏi tan rã. Lênin viết: “Chúng tôi luôn
bảo vệ dân chủ trong nội bộ đảng. Nhưng chúng tôi không bao giờ phản đối chế
độ tập trung của đảng. Chúng tôi chủ trương chế độ tập trung dân chủ”. Tập
trung dân chủ đối lập với tập trung quan liêu, gia trưởng độc đốn và dân chủ
hình thức, dân chủ khơng lãnh đạo.
Thứ tư: đồn kết thống nhất là sức mạnh vơ địch của đảng, tự phê
bình và phê bình là quy luật phát triển của đảng.

Lê Nin đã chỉ rõ đoàn kết thống nhất là sức mạnh to lớn của đảng. Sự đồn
kết đó phải được dựa trên Cương lĩnh chính trị và Điều lệ đảng.Đồn kết thống
nhất trong đảng là cơ sở và điều kiện để đoàn kết GCCN. Cịn tự phê bình và
phê bình là biện pháp căn bản để xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất của
đảng, là quy luật phát triển của đảng. Lê Nin viết “Nếu một chính đảng nào
khơng dám nói thật bệnh tật của mình ra, khơng dám chẩn đốn bệnh một cách
thẳng tay, và tìm phương cứu chữa bệnh đó, thì đảng đó sẽ khơng xứng đáng
được người ta tơn trọng”.
Thứ năm: phải gắn bó mật thiết với nhân dân, đấu tranh kiên quyết
ngăn chặn và loại trừ bệnh quan liêu.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Đảng là một tổ chức tự nguyện,
đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng quần chúng khỏi ách áp bức bóc lột. Quần
chúng cần có Đảng với tư cách là người lãnh đạo họ trong cuộc đấu tranh ấy.
Nếu khơng có sự đồng tình và ủng hộ của quần chúng thì mọi chủ trương, đường
lối của Đảng không trở thành hiện thực.
Gắn bó mật thiết với nhân dân thuộc về bản chất của đảng. Lê Nin đã cảnh
báo: Quan liêu xa dân đảng khơng tránh khỏi tan rã, thậm chí mất chính quyền.
Quan liêu xa dân là một nguy cơ lớn của ĐCS cầm quyền.
Khi đã có chính quyền, Đảng có nhiều điều kiện mới, công cụ mới rất
thuận lợi cho việc tăng cường mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng; đồng thời
trong Đảng cũng dễ nảy sinh bệnh quan liêu, mệnh lệnh làm cho một bộ phận
cán bộ, Đảng viên thiếu rèn luyện có thể rơi vào tình trạng thối hóa, biến chất,
xa rời quần chúng. Lênin coi đó là một trong những nguy cơ mà Đảng cầm
quyền cần chú ý đề phòng, khắc phục.


Thứ sáu: Đảng phải kết nạp những người ưu tú của GCCN, NDLĐ vào
đảng, và kịp thời đưa những người khơng đủ tiêu chuẩn đảng viên ra ngồi
đảng.
Đảng là đội tiên phong của giai cấp. Đảng chỉ có thể làm tròn vai trò ấy nếu

trong Đảng chỉ bao gồm những chiến sỹ tiên phong. Tích cực kết nạp những đại
biểu ưu tú của giai cấp công nhân và nhân dân lao động vào Đảng là biện pháp
quan trọng để cải thiện thành phần, chất lượng của Đảng là điều kiện vơ cùng
trọng yếu để nâng cao uy tín và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng.
Theo LêNin để đảng ngày càng phát triển làm trịn nhiệm vụ của mình thì
một mặt đảng phải tích cực kết nạp những người ưu tú vào đảng; mặt khác đảng
cũng không thể để ở trong đảng những người thối hóa, biến chất và những phần
tử cơ hội trong đảng. ĐCS là GCCN, song theo Lê Nin đảng không chỉ kết nạp
những người ưu tú xuất thân từ GCCN vào đảng mà đảng còn phải kết nạp
những người ưu tú xuất thân từ các giai cấp, tầng lớp lao động khác vào đảng và
đặc biệt coi trọng việc giáo dục, rèn luyện họ theo lập trường quan điểm của
GCCN.
Thứ bảy: khi đã có chính quyền, đảng là hạt nhân lãnh đạo chuyên
chính VS và là một bộ phận của hệ thống đó.
Theo Lê Nin, đảng lãnh đạo CM giành được chính quyền về tay GCCN và
NDLĐ đó mới chỉ là thành cơng bước đầu. Nhiệm vụ khó khăn và phức tạp hơn
nhiều là đảng phải lãnh đạo xây dựng thành công chế độ XH mới đó là XH
XHCN mà đỉnh cao là CNCS. Đảng là một bộ phận của hệ thống chuyên chính
VS nhưng theo Lê Nin đảng là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống đó. Sự lãnh đạo
của đảng là điều kiện tiên quyết bao đảm cho công cuộc xây dựng CNXH thành
cơng. Chính vì vậy khơng một lúc nào được phép buông lỏng sự lãnh đạo của
đảng đối với nhà nước.
Thứ 8: tính quốc tế của ĐCS.
Tính quốc tế của ĐCS bắt nguồn từ tính chất quốc tế của GCCN. Điều này
được bắt nguồn từ sứ mệnh lịch sử thế giới của GCCN. Theo Lê Nin, tính quốc
tế của ĐCS khơng chỉ thể hiện trong lời nói mà cịn trong hành động. Tính chất
quốc tế của Đảng thể hiện trước hết ở chỗ Đảng được tổ chức và hoạt động theo
những nguyên lý của học thuyết Mác, ở đường lối của đảng phải thể hiện chủ
nghĩa quốc tế vô sản. Đảng luôn luôn quan tâm giáo dục đội ngũ Đảng viên và
nhân dân lao động chủ nghĩa quốc tế vô sản. Trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa

yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng.
đồng thời Lê Nin cũng nhấn mạnh, đảng phải tích cực chống lại những biểu hiện
sơvanh nước lớn và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi.
Kết luận: Vận dụng những nguyên tắc về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân
theo tư tưởng của Lê nin, các Đảng cộng sản trên thế giới đã được xây dựng ngày
càng lớn mạnh, đưa cách mạng VS và CMXHCN giành thắng lợi to lớn, đưa CNXH
từ lý luận trở thành hiện thực và đã từng trở thành một hệ thống hùng mạnh. Học


thuyết Mác - Lênin về ĐCS vẫn còn nguyên giá trị và có ý nghĩa to lớn, tiếp tục là cơ
sở lý luận cho sự phát triển của các Đảng CS trên thế giới trong thời đại ngày nay.
Liên hệ chi bộ:
Chi bộ Cựu chiến binh - Huyện đoàn là chi bộ sinh hoạt ghép của 3 cơ
quan: Hội Cựu chiến binh huyện, Huyện đoàn và Liên đoàn Lao động huyện.
Chi bộ hiện có 10 Đảng viên trong đó 9 đảng viên chính thức, 1 đảng viên dự bị.
Trong những năm qua, chi bộ cơ bản đã thực hiện tốt các nguyên tắc về đảng kiểu
mới theo tư tưởng của Lênin, đạt nhiều kết quả tích cực:
Chi bộ thường xuyên tổ chức học tập, quán triệt chủ nghĩa Mác-Lênin, các nghị
quyết, chỉ thị của Đảng để nâng cao nhận thức cho cán bộ đảng viên; quán triệt và
thực hiện tốt Điều lệ Đảng, quy định những điều đảng viên không được làm
Tập thể chi bộ ln nêu cao tình thần đồn kết, thống nhất trong mọi hoạt động,
đảng viên ln nói và làm đúng tinh thần Nghị quyết. Đảng viên tích cực, đi đầu, nêu
gương tốt cho quần chúng để thực hiện nhiệm vụ chính trị, chun mơn của đơn vị.
Căn cứ nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Chi bộ đã họp bàn, thống nhất xây dựng các
nghị quyết chuyên đề để lãnh đạo chính quyền thực hiện tốt nhiệm vụ. Việc học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được triển khai đến tất cả đảng viên; mỗi
cá nhân, cơ quan đều có các hành động thiết thực thực hiện;
Tất cả các nghị quyết, chương trình hành động của Chi bộ đều được Chi ủy
chuẩn bị một cách chu đáo, sau đó tổ chức sinh hoạt chi bộ để đảng viên thảo luận,
góp ý xây dựng và thống nhất hình thành nghị quyết, chương trình hành động của Chi

bộ. Hầu hết đảng viên đều tích cực tham gia bàn bạc, đóng góp ý kiến để xây dựng
nghị quyết. Sau khi thống nhất trong sinh hoạt, giao cho Chi ủy ban hành thành nghị
quyết và chỉ đạo thực hiện theo Nghị quyết; theo thời gian đã xác định Chi bộ tổ chức
họp kiểm điểm, đánh giá, rút kinh nghiệm và điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn và
đảm bảo Nghị quyết được thực hiện hiệu quả. Chi bộ quán triệt và xác định rõ thẩm
quyền, trách nhiệm của Chi ủy, Chi bộ, người đứng đầu Cấp ủy để đảm bảo thực hiện
dân chủ một cách tập trung.
Việc tự phê bình và phê bình đã được Chi bộ coi trọng, duy trì đều đặn,
thực hiện nghiêm túc và thu được kết quả quan trọng. Hàng năm, chi bộ đều tiến
hành các đợt phê bình và tự phê bình kết hợp với việc đánh giá, phân loại đảng
viên. Trong sinh hoạt Chi bộ thường xuyên tổ chức học tập, quán triệt chủ nghĩa Mác
– Lênin, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng để nâng cao nhận thức cho cán bộ đảng viên;
quán triệt và thực hiện tốt Điều lệ Đảng và quy định những điều đảng viên không
được làm.
Tập thể chi bộ ln nêu cao tình thần đồn kết, thống nhất trong mọi hoạt động,
đảng viên ln nói và làm đúng tinh thần Nghị quyết. Đảng viên tích cực, đi đầu, nêu
gương tốt cho quần chúng để thực hiện nhiệm vụ chính trị, chun mơn của đơn vị.
Hạn chế, khuyết điểm:


Cịn tình trạng đảng viên ít đọc và tìm hiểu Nghị quyết; chưa tích cực tham gia
bàn bạc, góp ý trong xây dựng Nghị quyết, chương trình hành động của Chi bộ, ngại
đấu tranh, chưa mạnh dạn phê bình và tự phê bình.
Trong sinh hoạt chi bộ có lúc cịn nhầm lẫn giữa việc lãnh đạo thực hiện nhiệm
vụ của Chi bộ và việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của từng cơ quan.
Trong hàng buổi sinh hoạt đều thực hiện kiểm điểm việc thực hiện Điều lệ Đảng,
quy định những điều đảng viên không được làm và việc Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh song có lúc cịn hình thức, chưa cụ thể. Cịn đảng viên
chưa thực sự gương mẫu, đi đầu trong việc thực hiện nhiệm vụ, còn vi phạm quy chế,
quy định của đơn vị.

Giải pháp:
Từ những ưu điểm, hạn chế cũng như nguyên nhân nêu trên, trong thời gian tới
Chi bộ cần tiếp tục đẩy mạnh và cần tập trung vào các giải pháp sau:
Đặc biệt chú trọng công tác giáo dục tư tưởng, tổ chức tốt việc học tập nghị
quyết, chỉ thị của Đảng.
Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, phê bình và tự phê bình.
Tiếp tục phát huy tính tiên phong, gương mẫu của đảng viên trong thực hiện
nhiệm vụ.
Tiếp tục phát huy dân chủ trong xây dựng nghị quyết, chương trình hành động,
đưa việc tham gia đóng góp ý kiến của đảng viên vào quy chế sinh hoạt của Chi bộ để
đảm bảo đảng viên phải nghiên cứu, học tập và nêu ý kiến xây dựng nghị quyết,
chương trình hành động của chi bộ trong sinh hoạt chi bộ…
Câu 2 Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đảng cộng sản. Ý nghĩa.
Liên hệ cơng tác xây dựng chỉnh đốn Đảng hiện nay?
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng
giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH. Hơn một thế kỷ đã trôi qua nhưng
những giá trị lý luận và thực tiễn về con đường đấu tranh giải phóng dân tộc và
xây dựng CNXH ở Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho đến nay vẫn cịn
ngun giá trị của nó.
1. Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi. 
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln khẳng định “Cách mệnh trước hết phải có
Đảng cách mệnh, để trong thì vận động, tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc với
dân tộc bị áp bức và vơ sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững, cách mệnh mới
thành công…” Đảng muốn vững, phải lấy chủ nghĩa Mac –Lenin làm cốt, đó là
bàn chỉ nam cho hành động của Đảng.
Đảng là người đề ra đường lối, chủ trương cách mạng, là người tập hợp,
tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ quần chúng, đưa đường lối, chủ trương vào
quần chúng, tổ chức quần chúng đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng xã



hội mới. Nếu ko có Đảng lãnh đạo thì Cách mạng Việt Nam không thể dành
thắng lợi.
2. Sự ra đời của ĐCSVN là kết quả của sự kết hợp của CN Mác Lenin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời sau khi thực dân Pháp đã thiết lập nền
thống trị của chúng trên đất nước ta và qua hai lần khai thác thuộc địa. Phong
trào cơng nhân mới bắt đầu hình thành và phát triển từ những năm 20 của thế kỷ
trước. Khi đó, phong trào yêu nước vẫn là phong trào rộng lớn nhất, lôi cuốn
giai cấp nông dân chiếm tới 90% dân số và các tần lớp khác như tầng lớp tiểu tư
sản, tư sản dân tộc, các nhân sĩ, trí thức u nước... Giai cấp cơng nhân mặc dù
là giai cấp tiên tiến, nhưng còn nhỏ bé, vào thời điểm đó, phong trào cơng nhân
mới chỉ là một bộ phận của phong trào yêu nước và nằm trong phong trào u
nước.
Chính vì lẽ đó, sự ra đời của ĐCSVN là kết quả của sự kết hợp của CN
Mác Lenin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đó là
sự phản ánh quy luật ra đời và là cội nguồn sức mạnh của ĐCSVN là sự vận
dụng sáng tạo CN Mác Lenin vào đặc điểm của nước Việt Nam – một nước nửa
thuộc địa nửa phong kiến.
3. Đảng CSVN là Đảng của giai cấp công nhân đồng thời là Đảng của
dân tộc Việt Nam
Đảng là đội tiền phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiền phong
của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích
của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Mục đích của
Đảng là xây dựng một nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội cơng
bằng, văn minh, khơng có người bóc lột người. Tính chất giai cấp cơng nhân của
Đảng được thể hiện cụ thể trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng và tổ chức.
4. ĐCSVN phải được xây dựng theo các nguyên lý đảng kiểu mới của
giai cấp công nhân
Vận dụng các nguyên lý đảng kiểu mới của chủ nghĩa mac – lenin về
ĐCSVN chủ tịch HCM đã khái quát thành những nguyên lý chủ yếu như: tập

trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình, kỷ
luật nghiêm túc và tự giác, đoàn kết thống nhất trong đảng, đức và tài, quan hệ
giữa đức và tài của cán bộ, liên hê mật thiết với nhân dân; sây dựng chi bộ, đảng
bộ cơ sở và đội ngũ đảng viên; lề lối, phong cách làm việc… đồng thời người
cũng chỉ ra các nguyên lý đó đối với ĐCSVN
5. ĐCSVN vùa là người lãnh đạo vùa là người đầy tớ trung thành của
nhân dân.
Đảng lãnh đạo nhân dân làm chủ, Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân,
Đảng phải thường xuyên chăm lo đổi mới và chỉnh đốn đảng
Đảng vừa là người nhân văn sâu sắc nhất là người phục vụ đắc lực nhất,
vừa là người lạnh đạo vừa là người đầy tớ trung thành. Muốn thực hiện điều đó


Đảng phải phát huy vai trò làm chủ của nhân dân đó là sự dống cịn sự phát triển
của đảng
6. ĐCSVN phải thường xuyên chăm lo xây dựng và chỉnh đốn đảng
Để giữ vững vị trí và vai trị lãnh đạo cách mạng của mình, lãnh đạo cách
mạng giành thắng lợi, Đảng phải thường xuyên được xây dựng và chỉnh đốn,
phịng và chống nguy cơ thối hóa, biến chất trong đội ngũ. Hồ Chí Minh nhấn
mạnh tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng trên những vấn đề sau đây:
- Đảng phải ln ln vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải
luôn luôn xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của dân tộc Việt Nam.
- Đội ngũ đảng viên, cán bộ của Đảng phải là những người toàn tâm, toàn ý
phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phải là những người vừa có đức vừa có tài,
ln ln giác ngộ cách mạng, đi đầu trong mọi công tác, đặt quyền lợi của
Đảng, của Tổ quốc lên trên hết và trước hết. phải có đạo đức cách mạng, có lối
sống lành mạnh.
- Ln ln chú ý đề phịng và khắc phục những tiêu cực, thối hóa, biến
chất, ln ln giữ gìn Đảng trong sạch, vững mạnh.

- Đảng phải tự vươn lên đáp ứng kịp thời yêu cầu của tình hình và nhiệm
vụ mới. Muốn vậy, Đảng phải chú ý nâng cao tầm trí tuệ, tầm tư tưởng, nâng
cao trình độ về mọi mặt.
Ý nghĩa:
- Vận dụng sáng tạo học thuyết Mac –Lenin về đảng cộng sản phù hợp với
nước ta, Hồ Chí Minh đã xây dựng thành cộng một đảng kiểu mới ở Việt Nam.
Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam vững mạnh về chính trị, thể hiện ở việc xác
định Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng; xây dựng
Đảng vững mạnh về tư tưởng, luôn trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Mac –
Lenin; về giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; đưa
cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác
- Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mac –Lenin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh
lịch sử cụ thể của Việt Nam, một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Liên hệ công tác chỉnh đốn Đảng
Lý do cần xây dựng và chỉnh đốn Đảng
- Nước ta đi vào đổi mới, đi vào phát triển kinh tế thị trường, mở cửa, hội
nhập do đó tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là yếu tố vô cùng quan trọng; là
nhân tố bảo đảm thực hiện thắng lợi Cương lĩnh chính trị, mục tiêu, nhiệm vụ
xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, nền độc lập
tự chủ của Tổ quốc ta. Tuy nhiên một bộ phận nhỏ đảng viên chưa nhận thức
một cách sâu sắc vấn đề này, chỉ nặng về công tác chuyên môn, chưa quan tâm
đầy đủ đến công tác xây dựng Đảng; hoặc xem nhẹ vai trị lãnh đạo của Đảng,
coi nhẹ cơng tác Đảng.


- Do tính chất phức tạp của thời kỳ quá độ và tác động tiêu cực của cơ chế
kinh tế thị trường. Vì vậy, việc khắc phục những dấu vết của xã hội cũ, trong đó
có đạo đức phong kiến, đạo đức tư sản địi hỏi phải có thời gian, khơng thể chủ
quan, nóng vội. Tính phức tạp này là một trong những nguyên nhân khách quan

dẫn đến tình trạng suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ
phận không nhỏ cán bộ đảng viên, đoàn viên thanh niên hiện nay.
- Do sự tác động của đạo đức, lối sống, hưởng thụ tư sản du nhập vào nước
ta trong điều kiện tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế và công nghệ thông tin. Một bộ
phận đảng viên có chức, có quyền, có điều kiện nắm giữ tài sản, tiền bạc, tham
nhũng, hối lộ, bòn rút của cơng, lãng phí, quan liêu, chạy chức, chạy quyền,
chạy chỉ tiêu, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng
- Sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động phủ nhận thành tựu của
cách mạng; thổi phồng khuyết điểm, tồn tại của Đảng, bơi đen hiện thực, gieo
rắc hồi nghi, phá vỡ niềm tin của nhân dân và cán bộ, quy kết là do đường lối
sai, sự lãnh đạo, quản lý yếu kém của Đảng và Nhà nước. Phủ nhận chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ định con đường xã hội chủ nghĩa, định
hướng xã hội chủ nghĩa; hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, phê phán, đổ lỗi cho
Đảng, đòi đa nguyên, đa đảng. Kích động chia rẽ nội bộ, tung ra những luận
điệu bịa đặt, xuyên tạc lịch sử; vu cáo, bôi nhọ một số đồng chí lãnh đạo cao cấp
của Đảng và Nhà nước
Chính vì vậy mà Đảng ta ln ln nhấn mạnh phải đặc biệt coi trọng công
tác xây dựng Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, nhiệm vụ có ý nghĩa sống
còn đối với Đảng ta, chế độ ta.
Giải pháp:
Thứ nhất, đẩy mạnh giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân kiên định,
giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, hệ tư tưởng của
Đảng.
Tăng cường công tác giáo dục về mục tiêu, lý tưởng của Đảng, đưa hệ tư
tưởng của Đảng vào đời sống chính trị tinh thần của tồn Đảng, tồn dân. Trên
cơ sở nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên phải trung thành, vận dụng sáng tạo
lý luận của Đảng vào từng lĩnh vực của đời sống xã hội. Tăng cường đoàn kết
thống nhất trong Đảng trên nền tảng sự giác ngộ chính trị cao và những nguyên tắc
của công tác xây dựng Đảng. Tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận và đấu tranh

chống lại những quan điểm sai trái, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; làm thất bại mọi âm mưu,
thủ đoạn của kẻ thù chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta, phá hoại khối đoàn
kết trong Đảng, trong toàn xã hội.
Thứ hai, đẩy mạnh học tập, rèn luyện đạo đức, lối sống cách mạng cho đội
ngũ cán bộ, đảng viên.
Trước hết phải nâng cao kiến thức mọi mặt cho cán bộ, đảng viên, trong đó
tập trung bồi dưỡng lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,


năng lực tư duy, hoạt động thực tiễn và chuyên mơn nghiệp vụ, thực hiện tốt tư
tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá
nhân. Khắc phục triệt để tình trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên giảm sút ý
chí, phai nhạt lý tưởng, thối hóa, biến chất về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống...xác định việc học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống là chế độ bắt
buộc, là tiêu chuẩn để phân loại, đánh giá chất lượng tổ chức đảng và đảng viên.
Thứ ba, củng cố tổ chức, chấp hành nghiêm các nguyên tắc, chế độ sinh
hoạt của Đảng.
Đây là cơ sở để củng cố tổ chức, bảo đảm đồn kết thống nhất, kỷ luật
trong Đảng. Vì vậy, phải quán triệt, chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân
chủ, nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng, chế độ tự phê bình và phê bình trong
tồn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII; Nghị
quyết Đại hội Đảng lần IX, X, XI và Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI, để tiếp
tục khơi dậy và phát huy tính tích cực, dân chủ, trách nhiệm của đảng viên. Kiên
quyết chống quan điểm, tư tưởng phủ nhận, xuyên tạc, bóp méo nguyên tắc, chế
độ xây dựng Đảng, hòng làm cho Đảng suy yếu về tổ chức, dẫn đến biến chất
Đảng viên.
Câu 3: Nguyên tắc tập trung dân chủ. Liên hệ chi bộ?
Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản của đảng cộng sản, là nguyên tắc
để phân biệt chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân với các đảng phái

khác. Nguyên tắc tập trung dân chủ chỉ đạo mọi hoạt động xây dựng, tổ chức,
sinh hoạt và lãnh đạo của đảng, đồng thời chi phối các nguyên tắc tổ chức, hoạt
động khác của đảng cộng sản.Nguyên tắc tập trung dân chủ trong đảng cộng sản
có những nội dung chủ yếu sau:
- Đảng viên bình đảng về quyền và nghĩa vụ
- Cơng việc của đảng được thảo luận và quyết định theo đa số, ý kiến thiểu
số được quyền bảo lưu
- Cơ quan lãnh đạo của đảng do bầu cử lập ra
- Báo cáo và thơng báo cơng việc của đảng
- Đảng có một cơ quan lảnh đạo cao nhất
- Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, đảng viên phải
chấp hành nghị quyết của đảng
- Ký luật của đảng chặt chẽ, nghiêm minh.
Nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng Cộng sản
Việt Nam được quy định tại Điều 9 của Điều lệ Đảng:
- Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
- Cơ quan lảnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội Đại biểu toàn quốc, cơ
quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa 2 kỳ
đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là
ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp ủy)


- Cấp ủy các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước
đại họi cùng cấp, trước cấp ủy cấp trên và cấp dưới; định kì thơng báo hoạt động
của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình.
- Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số
phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ
chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành
Trung ương

- Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi
có hơn một nữa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết,
mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về
thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp ủy cấp trên cho đến Đại hội đại
biểu toàn quốc song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được
truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp ủy có thẩm quyền nghiên cứu
xem xét ý kiến đó; khơng phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về
thiểu số
- Tổ chức đảng quyết định những vấn đề thuộc phạm vi, quyền hạn của
mình, song khơng được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.
Liên hệ chi bộ Cựu chiến binh - Huyện đoàn
Chi bộ Cựu chiến binh - Huyện đoàn là chi bộ sinh hoạt ghép của 3 cơ
quan: Hội Cựu chiến binh huyện, Huyện đoàn và Liên đồn Lao động huyện.
Chi bộ hiện có 10 Đảng viên trong đó 9 đảng viên chính thức, 1 đảng viên dự bị.
Trong những năm qua, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ đã được toàn
thể đảng viên chấp hành tương đối nghiêm túc, đạt nhiều kết quả tích cực:
Mỗi kỳ sinh hoạt, chi bộ ln tập trung thảo luận để quán triệt sâu sắc tinh
thần chỉ đạo của đảng ủy cấp trên; nắm chắc tình hình hoạt động và đề ra nghị
quyết để chỉ đạo sâu sát các cơ quan nhằm giải quyết tốt các nhiệm vụ mà đảng
ủy cấp trên giao. Bên cạnh đó, chi bộ thường xuyên chăm lo công tác giáo dục
cán bộ, đảng viên nhận thức một cách đầy đủ từ vai trò quan trọng của nguyên
tắc tập trung dân chủ, những nội dung chủ yếu và bản chất của nguyên tắc đến
quy chế thực hiện nguyên tắc này. Chi bộ đã sâu sát từng đảng viên, phát hiện và
chấn chỉnh kịp thời những nhận thức không đúng, tư tưởng giản đơn, thiếu trách
nhiệm trong thực hiện; đấu tranh khắc phục bệnh quan liêu, độc đốn, dân chủ
hình thức cũng như mọi biểu hiện cục bộ địa phương chủ nghĩa, vô tổ chức, vô
kỷ luật. Mặt khác, mọi cán bộ, đảng viên dù ở cấp nào, chức vụ gì cũng đều phải
tự giác đặt mình trong sự quản lý của Chi bộ.
Đồng thời, để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, các dự thảo Nghị quyết

luôn được xây dựng bám sát nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan và tạo mọi
điều kiện cho đảng viên đóng góp xây dựng chủ trương, biện pháp lãnh đạo. Sau
khi thống nhất, Nghị quyết được quán triệt và phân công nhiệm vụ cho đảng
viên, phù hợp với chức trách, nhiệm vụ của từng người. Đồng thời, mỗi đảng
viên phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm, tính tích cực, sự sáng tạo, bảo đảm
cho Nghị quyết được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả. Đối với những vấn đề
quan trọng cần bỏ phiếu kín, chi bộ chấp hành nghiêm quy trình bỏ phiếu, tổ


chức kiểm phiếu chặt chẽ, công bố kết quả theo quy định và lập biên bản bảo
lưu kết quả. Mọi đảng viên nghiêm chỉnh thực hiện Nghị quyết đã ban hành,
không  phát ngơn và có hành động trái với Nghị quyết. Việc xây dựng, ban hành
các quy định cụ thể hoá nguyên tắc TTDC phải đảm bảo yêu cầu tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách và mở rộng sinh hoạt dân chủ. Trong Chi bộ, bí thư và
các đảng viên phải tự giác chấp hành các quy định đã đề ra.
Song song với các biện pháp này, mọi hoạt động của chi bộ đều được công
khai. Định kỳ, các cơ quan đưa nội dung kiểm điểm tình hình thực hiện quy chế
tập trung dân chủ vào trong nội dung sinh hoạt. Phát huy vai trị của Bí thư chi
bộ trong việc duy trì các nền nếp, chế độ, thủ tục, nguyên tắc của Đảng. Ngoài
việc tổ chức thực hiện các chế độ nề nếp, nguyên tắc sinh hoạt đảng nghiêm túc,
chi bộ đã làm tốt công tác kiểm tra chấp hành đảng viên hằng năm theo kế hoạch
của đảng ủy cấp trên.Trong hoạt động kiểm tra chấp hành chi bộ đã thực hiện
nghiêm túc, chất lượng, thể hiện ý thức phê bình và tự phê bình cao của tất cả
các đảng viên trong chi bộ. Bên cạnh đó, việc đóng góp cho đảng viên được
kiểm tra thực sự thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, tình đồng chí chân thành,
cầu thị.
Nhờ thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ mà chi bộ đạt trong sạch,
vững mạnh hàng năm; khơng có đảng viên vi phạm tư cách, khơng hồn thành
nhiệm vụ.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân

chủ của các đảng viên vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm cần được khắc
phục.Đó là:
Một bộ phận cán bộ, đảng viên còn nhận thức chưa đầy đủ yêu cầu, nội
dung nguyên tắc tập trung dân chủ và việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ.
Việc phát huy vai trò của tập thể cấp ủy cũng như trách nhiệm cá nhân của
một số cấp ủy viên còn chưa đầy đủ. Một số đảng viên còn ngại phát biểu, ý
kiến chung chung, xuôi chiều, cho nên, khi gặp phải những vấn đề cần làm rõ
đúng sai còn né tránh, đổ lỗi cho khách quan, quy khuyết điểm cho tập thể.
Việc phân công trách nhiệm cá nhân phụ trách chưa thật rõ ràng, cụ thể,
còn biểu hiện chung chung.
Từ những kết quả và hạn chế trong việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ ở Chi bộ Cựu chiến binh - Huyện đồn, có thể rút ra một số kinh nghiệm
thực tiễn:
Thứ nhất, không ngừng nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về bản
chất, nội dung, yêu cầu của nguyên tắc tập trung dân chủ. Nhận thức đúng đắn
bản chất, yêu cầu, nắm chắc nội dung nguyên tắc tập trung dân chủ trong Điều lệ
Đảng, coi đó là nền tảng, cơ sở khoa học cho mỗi đảng viên trong sinh hoạt,
hoạt động và bảo vệ Đảng, phịng, chống có hiệu quả những biểu hiện xa rời
nguyên tắc tập trung dân chủ.


Thứ hai, cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ bằng những văn bản
hướng dẫn cụ thể, để mọi đảng viên thực hiện. Rà soát lại các quy định, quy chế,
tìm ra những điểm bất hợp lý, khơng cịn phù hợp trong thực hiện nguyên tắc để
bổ sung, hoàn thiện, giúp cho việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ được
thống nhất, đồng bộ, chặt chẽ, khắc phục những bất cập, hạn chế trong nhận
thức và hoạt động.
Thứ ba, thực hiện tốt tự phê bình và phê bình; nâng cao chất lượng sinh
hoạt chi bộ, coi trọng việc quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên. Thực hiện

nguyên tắc tập trung dân chủ sẽ đạt kết quả cao khi nó gắn với nguyên tắc tự phê
bình và phê bình. Hai nguyên tắc này phải cùng được tiến hành mọi nơi, mọi lúc
trong toàn chi bộ. Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, thực hiện tốt tự phê
bình và phê bình là tạo mơi trường, điều kiện thuận lợi cho phịng, chống tình
trạng xa rời ngun tắc tập trung dân chủ.
Thứ tư, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát quá
trình thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong chi bộ. Mục đích kiểm tra
khơng chỉ để phát hiện những vi phạm và sai lầm, mà quan trọng hơn là phòng
ngừa, uốn nắn những lệch lạc, chấn chỉnh những biểu hiện sai trái, giúp thực
hiện và phát huy tốt hơn tác dụng của nguyên tắc tập trung dân chủ. Kiểm tra
đảng viên khi dấu hiệu vi phạm nguyên tắc mới manh nha, để giáo dục, ngăn
chặn. Coi trọng việc xem xét, xử lý kỷ luật nghiêm minh và kịp thời với những
cán bộ, đảng viên cố tình khơng chấp hành chỉ thị, nghị quyết, tham nhũng, vi
phạm, xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ, gây chia rẽ, bè phái, làm suy yếu
khối đoàn kết, thống nhất trong chi bộ.
Thứ năm, đề cao vai trò của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt trong giữ
vững và phịng, chống tình trạng xa rời ngun tắc tập trung dân chủ. Cán bộ
chủ chốt phải gương mẫu thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình. Đề cao trách nhiệm và quyền
hạn của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt; khuyến khích, bảo vệ người dám
nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, đặt lợi ích chung lên trên lợi ích riêng.
Hiện nay, tồn Đảng đang triển khai thực hiện kiểm điểm theo tinh thần
nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng với quyết tâm
chính trị rất cao. Bởi vậy, việc thực hiện nghiêm ngun tắc tập trung dân chủ
và phịng, chống có hiệu quả những biểu hiện xa rời nguyên tắc này sẽ góp phần
quan trọng đảm bảo cho Nghị quyết đi vào cuộc sống, thiết thực xây dựng Đảng
vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, ngang tầm nhiệm vụ lãnh
đạo Nhà nước và xã hội.
Câu 4: Nội dung Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng, sự vận dụng
của Đảng ta trong tiến trình cách mạng Việt Nam.

Đầu năm 1929, Việt Nam lần lượt xuất hiện ba tổ chức cộng sản: Đông
Dương Cộng sản Đảng (17/6/1929) ở Bắc kỳ, Đơng Dương Cộng sản Liên đồn
(1/1/1930) ở Trung kỳ và An Nam Cộng sản Đảng (11/1929) ở Nam Kỳ.Tuy


nhiên, các tổ chức hoạt động riêng rẽ, tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau gây bất
lợi cho phong trào cách mạng. Từ ngày 6/1 đến ngày 8/2/1930, Nguyễn Ái Quốc
triệu tập Hội Nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Cửu Long (Hương Cảng –
Trung Quốc). Hội nghị đã nhất trí hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng
duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam; Hội nghị đã thơng qua Chính
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Các văn kiện này hợp thành Cương lĩnh Chính trị đầu
tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam
1. Nội dung của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng:
- Về con đường cách mạng Việt Nam: Trên cơ sở phân tích, đánh giá khái
quát đặc điểm cơ bản nhất của Việt Nam dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến,
phân tích thực trạng và những mâu thuẫn trong lòng xã hội Việt Nam – xã hội
thuộc địa nửa phong kiến. Cương lĩnh xác định đường lối chiến lược của cách
mạng Việt Nam là "chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản".
- Về nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể của cách mạng:
+ Về chính trị: Đánh  đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho
nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra Chính phủ cơng nơng binh và tổ
chức qn đội cơng nơng.Hai nhiệm vụ này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, phải
được tiến hành khăng khít khơng tách rời nhau nhưng trong đó nhiệm vụ chống đế
quốc, giành độc lập cho dân tộc được đặt lên hàng đầu.
+ Về kinh tế: Tịch thu toàn bộ các sản nghiệp lớn của bọn đế quốc giao cho
Chính phủ công nông binh; tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc làm của công và chia
cho dân cày nghèo.
+ Về văn hóa xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền,

phổ thơng giáo dục theo hướng cơng nơng hố.  
- Xác định lực lượng cách mạng: là đồn kết công nhân, nông dân, đây là
lực lương cơ bản của cách mạng, trong đó giai cấp cơng nhân là lực lượng lãnh
đạo. Đồng thời chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp, các lực lượng tiến bộ,
yêu nước để tập trung chống đế quốc và tay sai: “Đảng phải hết sức liên lạc với
tiểu tư sản, trí thức, trung nông,...để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Cịn đối
với bọn phú nơng, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản
cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào
đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ”.
- Về phương pháp tiến hành cách mạng: Cương lĩnh khẳng định phải
bằng con đường bạo lực cách mạng (bạo lực chính trị và bạo lực vũ trang) chứ
không thể là con đường cải lương thoả hiệp "khơng khi nào nhượng một chút lợi
ích gì của cơng nơng mà đi vào con đường thoả hiệp". Có sách lược đấu tranh
cách mạng thích hợp để lơi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nơng về phía giai cấp
vơ sản, còn “bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (đảng lập hiến) thì phải
đánh đổ".


- Về vai trò lãnh đạo của đảng:Cương lĩnh xác định: giai cấp vô sản là lực
lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng CSVN là đội tiên phong của giai cấp
vô sản: "Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục đại bộ phận
của giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng". "Đảng
là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công nhân và
làm cho họ có đủ khả năng lãnh đạo quần chúng".
- Về đoàn kết quốc tế: Cương lĩnh nêu rõ cách mạng Việt Nam liên lạc
mật thiết và là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, "trong khi tuyên
truyền các khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng thời tuyên truyền và tiến
hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới".
2. Sự vận dụng của Đảng ta trong tiến trình cách mạng Việt Nam:
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn vận đúng đắn,

sáng tạo các nội dung của cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, đưa cách
mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác:
- Về con đường cách mạng: Từ 1930 đến nay con đường, mục tiêu của
cách mạng Việt Nam không hề thay đổi. Đảng ta vẫn khẳng định Độc lập dân tộc
gắn liền với CNXH là con đường duy nhất đúng đắn mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta
lựa chọn. Sau kháng chiến chống Pháp thành cơng 1954, Miền Bắc cơ bản hồn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, đóng vai trị
là căn cứ địa, hậu phương lớn cho cách mạng miền Nam và chuẩn bị những điều kiện
vật chất, tinh thần cho cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội sau này. Năm 1975
miền Nam hồn tồn giải phóng, đất nước thống nhất, Đảng lãnh đạo cả đất nước tiến
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc Việt
Nam vẫn đang vững bước trên con đường đổi mới, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
- Về nhiệm vụ và mục tiêu của cách mạng: Việc xác định nhiệm vụ và mục
tiêu của cách mạng Việt Nam được thay đổi cho phù hợp với từng thời kỳ, từng giai
đoạn lịch sử:
+ Trong thời kỳ 1930 – 1931, dưới tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế
thế giới giới 1929 – 1933 và chính sách “khủng bố trắng” của thực dân Pháp sau
thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa mới ra đời
đã kịp thời đề ra chủ trương phát động quần chúng đấu tranh đòi các quyền tự
do, dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, chống khủng bố, đòi trả tự do cho
những người yêu nước bị bắt… Chủ trương đúng đắn đó đã tạo ra một phong trào
đấu tranh cách mạng sôi nổi, trở thành cuộc diễn tập thứ nhất chuẩn bị cho cách mạng
Tháng Tám sau này.
+ Trong thời kỳ những năm 1936 – 1939, trước bối cảnh mới của lịch sử Đảng ta
xác định: Kẻ thù chính của nhân dân Đông dương lúc này không phải bọn thực dân
Pháp nói chung, mà là bọn phản động thuộc địa Pháp, tay sai của bọn phản động ở
chính quốc; cũng không phải là giai cấp tư sản và địa chủ nói chung, mà là một bộ
phận tư sản mại bản, đại địa chủ tay sai đắc lực của bọn phản động thuộc địa. Do đó
Đảng đã xác định mục tiêu, nhiệm vụ đấu tranh trước mắt là đấu tranh chống chế độ



phản động thuộc địa, chống phát xít và chống chiến tranh đế quốc, địi dân sinh, dân
chủ và hịa bình. Chủ trương đúng đắn đó đã tạo ra một phong trào đấu tranh cách
mạng sôi nổi, mang nhiều giá trị to lớn, trở thành cuộc diễn tập thứ hai trước khi cách
mạng Tháng Tám nổ ra và giành thắng lợi.
+ Trong thời kỳ 1939 – 1945, Đảng ta xác định mục tiêu của cách mạng là đánh
đổ đế quốc và tay sai, đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
Sau khi Nhật đảo chínhhất cẳng pháp ra khỏi Đơng Dương (9/3/1945) thì nhiệm vụ
của cách mạng Việt nam là kháng Nhật cứu nước và chớp thời cơ tiến hành Tổng khởi
nghĩa Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi trong cả nước.
+ Sau khi Cách mạng tháng 8/1945 thành cơng, nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hịa ra đời, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta, Đảng khẳng định: Nhiệm vụ
của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược và đánh đổ các thế lực
phong kiến tay sai, giành độc lập cho dân tộc, giành ruộng đất cho nông dân, hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để tiến lên làm cách mạng XHCN.
+ Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, đất nước tạm thời chia làm hai miền với hai
chế độ chính trị khác nhau, Đảng ta chủ trương tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ cách
mạng: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và tiếp tục Cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam; Cách mạng hai miền có mối quan hệ mật thiết, gắn bó
với nhau nhằm hồn thành Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước,
thực hiện hịa bình thống nhất Tổ quốc.
+ Từ năm 1975 sau khi Việt Nam hồn tồn độc lập thì Đảng ta xác định nhiệm
vụ của cả nước là xây dựng CNXH, bảo vệ độc lập dân tộc. Hiện nay Đảng ta xác
định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới,
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh với các mục tiêu cụ thể:
Về chính trị: Tiếp tục xây dựng và hồn thiện nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Về kinh tế:Thực hiện nền kinh tế định hướng XHCN nhiều thành phần.

Về văn hóa - xã hội: Xây dựng xã hội học tập, thực hiện nam nữ bình quyền…
- Về Lực lượng cách mạng: Từ 1930 đến nay Đảng ta luôn xác định Công nhân
– nông dân là lực lượng cơ bản của cách mạng trong đó giai cấp cơng nhân giữ vai trị
lãnh đạo cách mạng, chủ trương đại đoàn kết toàn dân trong mặt trận dân tộc thống
nhất để tiến hành cách mạng. Qua từng thời kỳ lịch sử khác nhau, mặt trận dân tộc
thống nhất có những tên gọi khác nhau song đều thực hiện mục tiêu chung là tập hợp,
đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ngày nay, lực lượng cách mạng là đại
đoàn kết toàn dân tộc trong Mặt trận tổ quốc Việt Nam trên nền tảng khối liên minh
công nhân – nông dân và đội ngũ trí thức để tiếp tục thực hiện sự nghiệp cách mạng.
- Về phương pháp cách mạng: Từ năm 1930 Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta
dùng phương pháp bạo lực cách mạng, đấu tranh vũ trang kết hợp đấu tranh chính trị,
ngoại giao tiến hành và chiến thắng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước. Ngày nay, trong điều kiện hịa bình, chúng ta sử dụng phương pháp hịa bình để


tiếp tục tiến hành sự nghiệp cách mạng, song Đảng chủ trương xây dựng nền quốc
phịng tồn dân và an ninh nhân dân vững chắc, xây dựng lực lượng vũ trang chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại để đảm bảo đủ thực lực bảo vệ vững chắc tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Về vai trò lãnh đạo của Đảng: Từ năm 1930 đến nay Đảng cộng sản Việt
Nam ln giữ vững vai trị lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo toàn diện đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội và tồn bộ hệ thống chính
trị. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, cách mạng Việt Nam đã đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác. Đảng vừa ra đời đã lãnh đạo cao trào cách mạng 1930 – 1931 mà
đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh, cao trào cách mạng những năm 1936 – 1939 và cao
trào cách mạng 1939 – 1945, đảng 15 tuổi đã lãnh đạo nhân dân ta làm nên cách mạng
tháng 8/1945 khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa nhân dân ta từ thân
phận nô lệ lầm than lên làm chủ nước nhà. Đảng lãnh đạo thành công 9 năm kháng
chiến chống Pháp làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy 5 châu, chấn
động địa cầu”. Từ năm 1954 đến 1975 Đảng lãnh đạo thành công công cuộc xây

dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở miền Nam, thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đang thực hiện cơng cuộc
đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa để thực hiện mục tiêu xây dựng tổ quốc dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện
tiên quyết để cách mạng Việt Nam giành thắng lợi.
- Về đoàn kết quốc tế: Cách mạng Việt Nam luôn là một bộ phận của phong
trào cách mạng thế giới, nhận được sự giúp đỡ to lớn của phong trào cách mạng thế
giới, sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và nhân dân tiến bộ trong đó có nhân dân
tiến bộ của ngay cả những nước đế quốc xâm lược Việt Nam, đồng thời thắng lợi của
cách mạng Việt Nam đã đóng góp to lớn vào phong trào giải phóng giai cấp, giải
phóng dân tộc, đấu tranh vì hịa bình trên thế giới. Ngày nay, Đảng và nhà nước ta
luôn chủ trương làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt thể chế
chính trị, trên cơ sở tơn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và tồn vẹn lãnh thổ,
khơng can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và tơn trọng quyền dân tộc tự quyết,
hai bên cùng có lợi.
Kết luận:
Tóm lại trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng đã chứng minh được vai trò và giá trị to lớn của nó, tuy nhiên trong từng
thời kỳ cách mạng, Đảng ta đã vận dụng cương lĩnh một cách sáng tạo, đề ra các
nhiệm vụ chiến lược phù hợp để chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam giành thắng
lợi.
Câu 5 Tính tất yếu ra đời của Đảng? Ý nghĩa đối với công cuộc đổi mới
và con đường đi lên CNXH hiện nay?
Đảng cộng sản Việt Nam được thành lập ngày 3-2-1930. Sự ra đời của
Đảng là kết quả tất yếu của một q trình vận động cách mạng trong hồn cảnh
cụ thể của nước ta, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, là sự kiện có
ý nghĩa quyết định đối vơí tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam.



- Tình hình thế giới
Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh phát
triển thành chủ nghĩa đế quốc. CNĐQ xâm chiếm hầu hết các vùng đất trên TG,
biến các nước nhỏ yếu thành thuộc địa. Các phong trào đấu tranh giải phóng dân
tộc phát triển mạnh mẽ nhất là ở châu Á.
Năm 1917, cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã mở ra thời đại mới
cho lịch sử loài người - thời đại quá độ lên CNXH. 3/1919, Quốc tế Cộng sản
được thành lập trở thành bộ tham mưu chiến đấu, tổ chức lãnh đạo phong trào
cách mạng vơ sản tồn thế giới. Quốc tế cộng sản không những vạch hướng
chiến lược của cách mạng vô sản mà đối với các vấn đề dân tộc và thuộc địa,
chú trọng giúp đỡ và chỉ đạo phong trào cách mạng giải phóng của các dân tộc
thuộc địa. Tư tưởng, lý luận chủ nghĩa cộng sản đã ảnh hưởng và thức tỉnh
phong trào dân tộc ở các thuộc địa trong đó có Việt Nam.
- Bối cảnh trong nước:
1/9/1858 Thực dân Pháp nổ súng xâm lược và từng bước thơn tính Việt
Nam. Triều đình nhà Nguyễn từng bước thỏa hiệp và đi đến đầu hàng hoàn toàn
(với các điều ước năm 1862,1874,1883,1884). Nước ta từ một nước phong kiến
độc lập trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. TD Pháp chia nước ta
thành 3 kì (Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ) với các chế độ chính trị khác nhau nhằm
phá vỡ khối đại đồn kết dân tộc. Chúng tiến hành chính sách ngu dân để dễ bề
cai trị, nhà tù nhiều hơn trường học, du nhập văn hóa đồi trụy, khuyến khích tệ
nạn xã hội, dùng rượu cồn và thuốc phiện đầu độc thế hệ trẻ…
Pháp tiến hành 2 cuộc khai thác thuộc địa (1897 – 1914; 1919 - 1929) tập
trung chủ yếu vào các lĩnh vực như giao thông vận tải, xây dựng đê điều, cơng
nghiệp khai khống (khai thác mỏ), trồng cây CN (cao su, chè,..). GCCN Việt
Nam xuất hiện trong xã hội. Cuối năm 1929, cơng nhân Việt Nam có hơn 22 vạn
người, chiếm 1,2% dân số.
Tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội, đặc biệt là các mâu thuẫn về dân
tộc và giai cấp dẫn đên nhu cầu đấu tranh để tự giải phóng. Độc lập dân tộc và
tự do dân chủ là nguyện vọng tha thiết của nhân dân ta là nhu cầu bức thiết của

dân tộc
Đảng ra đời là kết quả của quá trình lựa chọn con đường cứu nước cho
dân tộc Việt Nam.
Cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược dành độc lập dân tộc đã
diễn ra liên tục mạnh mẽ. Các phong trào yêu nước phát triển theo nhiều khuynh
hướng chính trị khác nhau: theo khuynh hướng phong kiến của các nho sĩ (Cần
Vương, nông dân Yên Thế,...); khuynh hướng DCTS (PB Châu, PC Trinh); khởi
nghĩa Yên Bái,.... Nhưng các phong trào giải phóng dân tộc ở nước ta đầu thế kỉ
XX đều thất bại do những nguyên nhân chủ yếu: thiếu một đường lối chính trị
đúng đắn (chưa giải quyết được mâu thuẫn cơ bản của DT VN lúc đó); thiếu một
tổ chức lãnh đạo CM chặt chẽ (một đảng chính trị); thiếu lực lượng CM (ko tập
hợp được rộng rãi các GC tầng lớp trong XH). Việt Nam lâm vào khủng hoảng,


bế tắc về đường lối cứu nước, nhiệm vụ lịch sử đặt ra là cần phải có một tổ chức
cách mạng tiên phong, đường lối cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc.
Giai đoạn 1920 – 1929, dưới sự ảnh hưởng của Quốc tế thứ ba cùng với sự
truyền bá chủ nghĩa Mac- Lênin vào Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc, phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam phát triển cả về chất lượng và số
lượng, kết thành một làn sóng dân tộc dân chủ ngày càng lan rộng, đặc biệt là từ
khi Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên phát động phong trào “vô sản hóa” vào
cuối cuối những năm 1928 và đầu 1929. Ở Việt Nam lần lượt xuất hiện ba tổ
chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng (17/6/1929) ở Bắc kỳ, Đông
Dương Cộng sản Liên đoàn (1/1/1930) ở Trung kỳ và An Nam Cộng sản Đảng
(11/1929) ở Nam Kỳ.
Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản chứng tỏ chủ nghĩa Mác –Lênin đã thấm
sâu vào phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam - điều kiện cho
sự thành lập Đảng đã chín muồi. Tuy nhiên, các tổ chức hoạt động riêng rẽ,
tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau gây bất lợi cho phong trào cách mạng.Trước
yêu cầu của lịch sử, từ ngày 6/1 đến ngày 8/2/1930, Nguyễn Ái Quốc triệu tập

Hội Nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Cửu Long (Hương Cảng – Trung
Quốc). Hội nghị đã nhất trí hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng duy
nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã thơng qua Chính cương
vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Các văn kiện này hợp thành Cương lĩnh Chính trị đầu tiên
của Đảng Cộng sản Việt Nam – chỉ ra các luận điểm cơ bản về đường lối chiến
lược và sách lược của cách mạng Việt Nam. Sự ra đời của Đảng CMVN là tất
yếu lịch sử bởi:
- Đó là kết quả chín muồi của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp
trong thời đại lịch sử mới.
- Đó là kết quả của sự chuẩn bị công phu và khoa học của lãnh tụ NAQ trên
cả ba mặt chính trị tư tưởng và tổ chức.
- Đó là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa M-L với phong trào đấu
tranh của GCCN và phong trào yêu nước của nhân dân VN trong đầu thế kỷ XX.
Sự ra đời của ĐCSVN vừa thể hiện quy luật phổ biến của sự hình thành chính
đảng CM của GCCN (chủ nghĩa M-L kết hợp với phong trào công nhân) vừa thể
hiện quy luật đặc thù VN (chủ nghĩa M-L kết hợp với phong trào CN và p/trào
yêu nước VN).
ĐCSVN ra đời là bước ngoặt trọng đại, chấm dứt thời kì khủng hoảng sâu
sắc về giai cấp lãnh đạo và đường lối cứu nước; kết thúc thời kỳ đấu tranh tự
phát chuyển sang thời kỳ đấu tranh tự giác. Chứng tỏ GCCN VN đã đến độ
trưởng thành đủ sức lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong của mình.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh, sau khi ra đời (3/2/1930),
Đảng đã lãnh đạo giai cấp cơng nhân và tồn thể dân tộc Việt Nam tiến hành
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến lên CNXH và đỉnh cao là thắng
lợi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thành lập nước Việt Nam Dân chủ


Cộng hòa - nhà nước của dân, do dân và vì dân, nhà nước vơ sản đầu tiên ở
Đơng Nam Á. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ, đứng lên làm chủ đất nước, làm

chủ vận mệnh mình. Đảng ta đã có q trình chuẩn bị trong suốt 15 năm, qua
các phong trào cách mạng 1930 – 1931, 1936 – 1939 và thoái trào cách mạng
1932 – 1935, đã đúc rút được những bài học kinh nghiệm qua những thành cơng
và thất bại, nhất là trong q trình điều chỉnh, hoàn thiện lý luận cách mạng, xây
dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng và chớp thời
cơ cách mạng tiến hành Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi
trong cả nước.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7/5/1954) và chiến dịch Hồ Chí Minh
(30/4/1975) là những chiến thắng vĩ đại nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của
dân tộc Việt Nam, chấm dứt 117 năm chống lại các thế lực thực dân, đế quốc
xâm lược. Đồng thời khẳng định đường lối và phương pháp cách mạng đúng
đắn, sáng tạo của Đảng, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Sau chiến tranh, đất nước ta bị tàn phá nặng nề, gặp vơ vàn khó khăn về
phát triển kinh tế. Đây là thời kỳ thực hiện chế độ quản lý tập trung bao cấp, lấy
kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể là chủ yếu. Điều này đã kìm hãm sự phát
triển của tiến bộ khoa học – kỹ thuật. Chế độ công hữu được thiết lập một cách
nóng vội khơng những ko tạo ra được động lực mà cịn kìm hãm lực lượng sản
xuất phát triển. Sở hữu tư nhân không được thừa nhận, khơng phát huy được sự
sáng tạo, trí tuệ của nhân dân điều này tạo ra nhiều lực cản đối với việc thực
hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. Nhận ra những hạn chế này, tại đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986), Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện
về kinh tế, tư duy lý luận về con đường đi lên CNXH, phong cách lãnh đạo của
Đảng. Đại hội VII (6/1991) Đảng đã đề ra Cương lĩnh xây dựng đất trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chiến lược ổn định, phát tiển kinh tế xã hội
đến năm 2000. Đại hội XI (1/2011) Đảng tiếp tục đề ra Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH(bổ sung và phát triển năm 2011),
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020…
Như vậy, trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới và thực hiện Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, nhận thức của Đảng về

CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng rõ ràng hơn. Đảng đã
nhận thức rõ hơn về những vấn đề chế độ kinh tế, chính trị, cơ cấu xã hội của
thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta từ đó lãnh đạo nhân dân ta hồn thành thắng
lợi cơng cuộc đổi mới trên nhiều mặt. Đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội, kinh tế tăng trưởng nhanh, cơ sở vật chất – kỹ thuật được cải
thiện, tốc độ tăng trưởng nền kinh tế khá nhanh, đời sống vật chất tinh thần của
người dân ngày càng nâng cao, hệ thống CSVCKT và CSHT ngày càng hoàn
thiện. Bên cạnh đó trên các lĩnh vực văn hóa, y tế, giáo dục,… cũng đạt được
nhiều thành tựu to lớn. Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN đạt
được những kết quả bước đầu, trên mặt trận ngoai giao đã đạt được nhiều thành
tưu to lớn; quốc phòng an ninh được đảm bảo giữ vững được độc lập chủ quyền
toàn vẹn lãnh thổ. Công tác xây dựng Đảng đạt được nhiều kết quả quan trọng,


dân chủ trong Đảng có nhiều tiến bộ. Hệ thống tổ chức Đảng từng bước được
kiện toàn.
  * Ý nghĩa đối với công cuộc đổi mới và con đường đi lên CNXH hiện
nay
Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời đánh dấu một bước ngoặc vĩ đại trong lịch
sử Cách Mạng Việt Nam. Nó chấm dứt thời kỳ Cách Mạng Việt Nam khủng
hoảng về đường lối, chấm dứt hệ tư tưởng tư sản, xác lập hệ tư tưởng vô sản cho
Cách Mạng Việt Nam. 
Sự ra đời của Đảng khẳng định dứt khoát nội dung xu hướng phát triển của
XH VN là gắn liền độc lập dân tộc với CNXH. Để xây dựng thành cơng CNXH,
con đường đổi mói địi hỏi cần có sự lãnh đạo của một tổ chức chân chính nhất,
cách mạng nhất đó chính là ĐCS. Để lãnh đạo CM địi hỏi Đảng có năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu, do đó phải thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
xây dựng Đảng trí tuệ, đạo đức, vắn minh, phải xây dựng Đảng vững mạnh trên
tất cả các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức.
Để công cuộc đổi mới đi đến thành công đường lối phải đúng đắn, bám sát

thực tế. Vận dụng tài tình chủ nghĩa MLN vào trong hoàn cảnh cụ thể của đất
nước ta trong từng giai đoạn. Đường lối phải xuất phát từ nguyện vọng, lợi ích
của nhân dân đáp ứng được yêu cầu của nhân dân.
Câu 6: Q trình khảo nghiệm, tìm tịi đường lối đổi mới của Đảng (19791986). Ý nghĩa đối với công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay.

1. Bối cảnh lịch sử
Năm 1975, miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất. Đảng đã lãnh
đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ khôi phục kinh tế, ổn định đời sống, xã hội ở
các tỉnh miền Nam, củng cố quan hệ sản xuất ở miền Bắc.
Sau Đại hội IV, công cuộc cải tạo XHCN được đẩy mạnh ở miền Nam. Tuy
nhiên, hiệu quả của quá trình cải tạo XHCN ở miền Nam không được như mong
muốn. Ở miền Bắc, mô hình kinh tế thời chiến bắt đầu khơng thích hợp sau khi
chiến tranh kết thúc.Nền kinh tế tập thể hóa nông nghiệp sau chiến tranh đã bộc
lộ yếu kém về nhiều mặt.Nông dân chán nản, không hứng thú với mảnh đất tập
thể, ruộng đất bị bỏ hoang, lãng phí.
2. Qúa trình tìm tịi, khảo nghiệm đường lối đổi mới.
Việc đề ra chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm quá cao, vượt quá khả năng thực tế,
thiên về công nghiệp nặng với quy mô lớn, mở rộng quy mô hợp tác xã quá
mức; chưa thấy hết những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế nên ĐH chưa
nêu được giải pháp có hiệu quả, nhằm phá thế bao vây, cấm vận, cô lập làm suy
yếu nước ta của kẻ thù.
Trong điều kiện kinh tế - xã hội gặp nhiều khó khăn. Một số địa phương áp
dụng hình thức “khốn chui”, khốn hộ, khốn sản phẩm cây màu, cây cơng


nghiệp. Việc thực hiện khốn khơng chỉ thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng sản
lượng cây trồng mà còn củng cố quan hệ sản xuất, bảo đảm ba lợi ích, tăng
cường cơ sở sản xuất kỹ thuật. Một số địa phương đã cho phép thí điểm thực
hiện giao quyền tự chủ cho các xí nghiệp, thực hiện hạch tốn, “phá rào”, “vượt
rào” làm kinh tế.

Trong bối cảnh đó, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương
khoá IV họp vào tháng 8 năm 1979 đã thông qua hai Nghị quyết:
- Tình hình nhiệm vụ cấp bách
- Phương hướng nhiệm vụ phát triển hang công nghiệp tiêu dùng và công
nghiệp địa phương.
Hội nghị chỉ rõ Đảng và nhà nước phải có những chủ trương, biện pháp cấp
bách, mạnh mẽ, kiên quyết, đem lại hiệu quả thiết thực nhằm đẩy mạnh đời
sống, ổn định sản xuất, làm cho sản xuất “bung ra”, tạo điều kiện cho LLSX
phát tiển, khuyến khích mạnh mẽ sản xuất nông nghiệp, làm cho người nông dân
phấn khởi sản xuất, tận dụng hết đất đai, tự do lưu thơng hàng hóa, xóa bỏ việc
ngăn sơng cấm chợ.
Nghị quyết hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khố IV là tín
hiệu mới, có tính chất khời đầu của quá trình tìm kiếm giải pháp tháo gỡ cuộc
khủng hoảng kinh tế xã hội. Những chính sách kích thích LLXS phát triển đã
tháo gỡ một số trịi buộc của cơ chế sản xuất cũ, tạo động lực cho SX bung ra.
Đây là bước tiến về nhận thức của Đảng. Hội nghị cũng đã hé mỡ những ý
tưởng mới cho con đường thích hợp đi lên CNXH. Nghị quyết hội nghị đã thu
hẹp khoảng cách giữa thực tiễn và lý luận của Đảng ta, là bước đột phá đầu tiên
trong quan điểm của Đảng về đổi mới.
Ngày 23.6.1980, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 26 về cải tiến công
tác phân phối lưu thông. Nghị quyết đã đề ra ba bước cải tiến lưu thông. Nghị
quyết đã cụ thể hóa tinh thần tạo điều kiện cho sản xuất “bung ra” của Hội nghị
lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng, mở đường cho các bước tìm tịi,
đổi mới cơ chế quản lí kinh tế của Đảng trong nơng nghiệp và cơng nghiệp.
Ngày 21.10.1980, Ban Bí thư ra Thơng báo số 22: Kết luận của Ban Bí thư
về một số công tác trước mắt trong việc củng cố hợp tác xã nông nghiệp gắn với
xây dựng huyện ở đồng bằng và trung du miền Bắc. Thông báo nêu rõ:
- Điều chỉnh quy mô các hợp tác xã và đội sản xuất cho phù hợp.
- Cho phép các địa phương khoán thử cây lúa, song phải kiên quyết và kịp
thời sửa chữa tình trạng “khốn trắng”.

Ngày 13.1.1981, Ban Bí thư ra Chỉ thị 100-CT/TWvề cải tiến cơng tác
khốn, mở rộng khốn sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong
hợp tác xã nông nghiệp. Nội dung cơ bản của Chỉ thị 100 là cải tiến mạnh mẽ
các hình thức khốn của đội sản xuất đối với xã viên, mở rộng “khoán sản
phẩm”. Chỉ thị 100 bước đầu thay đổi khoán việc bằng khoán sản phẩm. Đánh
dấu sự chuyển biến bước đầu từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang cơ


chế hạch tốn kinh doanh, phát huy tính chủ động, sáng tạo của người lao động
nên được đông đảo bà con nhân dân đồng tình đón nhận.
Khốn sản phẩm đã thực sự trở thành một cuộc cách mạng trong chỉ đạo
quản lí nơng nghiệp của Đảng. Qua việc chỉ đạo thực hiện tốt Chỉ thị 100 mà vai
trò của tổ chức đảng được củng cố và phát huy. Quan hệ sản xuất XHCN trên
mặt trận nông nghiệp được tăng cường, đời sống của nơng dân xã viên được cải
thiện. Hình thức khốn sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động được
Đảng nâng lên thành cơ chế quản lí mới. Nó mở đầu cho q trình đổi mới
đường lối phát triển nông nghiệp ở nước ta và là mốc đánh dấu sự chuyển đổi từ
cơ chế tập trung quan liêu sang hạch toán, tự chủ.
Với tinh thần tạo điều kiện cho sản xuất “bung ra”, ngày 21.1.1981, Hội
đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 25/CPvề một số chủ trương và biện
pháp nhằm tiếp tục phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự
chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh và Quyết định số 26/CPvề mở
rộng hình thức trả lương khốn, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền
thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước đã góp phần làm
giảm tình trạng trì trệ trong sản xuất, tăng năng suất lao động.
Chỉ thị 100 của Ban Bí thư và các Quyết định số 25/CP và 26/CP của Hội
đồng Chính phủ là những thử nghiệm, tìm kiếm và bước đầu đã thành công trên
con đường đổi mới tư duy kinh tế của Đảng theo tinh thần Hội nghị Trung ương
sáu khóa IV. Đây chính là sự đổi mới từng phần dẫn đến đổi mới toàn bộ sau
này.

Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương khóa V họp vào tháng
6-1985, bàn về giá, lương, tiền. Hội nghị quyết định dứt khốt xóa bỏ cơ chế
quan liêu bao cấp chuyển sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ
nghĩa, lấy giá - lương - tiền làm khâu đột phá.
Hội nghị là bước đột phá thứ hai trên q trình tìm đường đổi mới.Thể
hiện Đảng ta đã có sự đổi mới tư duy trên lĩnh vực phân phối lưu thơng một
cách cơ bản.Thừa nhận sản xuất hàng hóa và những quy luật của sản xuất hàng
hóa.Tháng 9 năm 1985, tổng điều chỉnh giá - lương - tiền đã diễn ra. Tuy nhiên,
không đạt được kết quả như mong muốn do duy ý chí lại thiếu các biện pháp
đồng bộ và các giải pháp cụ thể nên việc triển khai nghị quyết vào cuộc sống có
nhiều sai lầm
Vì vậy, Hội nghị lần thứ 9 BCH TW khóa V (12.1985), Hội nghị lần thứ
10 BCH TW khóa V (5.1986) đã đề ra những giải pháp để khắc phục những tác
động tiêu cực của tổng điều chỉnh giá - lương - tiền, tiếp tục khẳng định những
giải pháp mới và chính sách đổi mới.
Ngày 20.9.1986, Bộ Chính trị ra Kết luận về một số vấn đề thuộc quan
điểm kinh tế:
- Về cơ cấu kinh tế, thay đổi cơ cấu kinh tế ở nước ta, thực hiện chính sách
kinh tế nhiều thành phần, cho phép sở hữu các thành phần kinh tế.


- Đổi mới cơ chế quản lý, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực
hiện cơ chế hạch toán kinh tế, kinh doanh XHCN, vận dụng đúng các quy luật
kinh tế, sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, thị trường trong cơ chế kế hoạch
hóa.
- Đổi mới cơ cấu sản xuất và đặc biệt coi trọng nông nghiệp, đưa sản xuất
nông nghiệp lên hàng đầu.
Kết luận của Bộ Chính trị là bước đột phá thứ ba trong q trình tìm tịi
đường lối đổi mới. Những quan điểm cơ bản đó là cơ sở để hồn chỉnh, nâng
cao chất lượng các văn kiện của đường lối đổi mới sẽ trình tại Đại hội Đại biểu

tồn quốc lần thứ VI của Đảng.
Ý nghĩa đối với công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay:
Quá trình khảo nghiệm, tìm tịi đường lối đổi mới của Đảng trong giai đoạn
1979-1986 có ý nghĩa vơ cùng to lớn. Những kinh nghiệm quý báu và thành tựu
đạt được trong thời kì này là cơ sở tiền đề để Đảng ta hoạch định những chính
sách trong cơng cuộc đổi mới đất nước sau năm 1986.
- Q trình khảo nghiệm, tìm tịi đường lối đổi mới của Đảng (1979-1986)
là q trình tìm tịi, thử nghiệm, thông qua đấu tranh về tư duy trên cơ sở tổng
kết thực tiễn kết hợp với vận dụng lý luận đòi hỏi quyết tâm cao, tinh thần quả
cảm và trí sáng tạo khoa học. Đổi mối phải xuất phát từ thực tiễn và thường
xuyên tổng kết thực tiễn, lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn của lý luận, thông qua
thực tiễn mà phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm ra quy luật phát triển, khắc
phục mọi biểu hiện nóng vội, duy ý chí cũng như bảo thủ, trì trệ, từng bước hồn
thiện đường lối và chiến lược. Ðó là quá trình từng bước từ thấp đến cao, từ đổi
mới bộ phận đến đổi mới căn bản, từ đổi mới từng mặt đến đổi mới tồn diện.
- Q trình đổi mới phải luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Ðổi
mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động,
sáng tạo của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn nhạy bén với cái mới.
Chính những ý kiến nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình
thành đường lối đổi mới của Ðảng.
- Đổi mới phải kết hợp giữa chính trị và kinh tế, xem phát triển kinh tế là
nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Ðảng là nhiệm vụ then chốt. Đây chính là bài học
đổi mới mà sau này Văn kiện Ðại hội VIII của Ðảng đã nêu lên "Kết hợp chặt
chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm
trung tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị".




×