Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Triethoc phuongdong phuongtay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (50.64 KB, 7 trang )

Lý do chọn đề tài:
Triết học là một hệ thống tri thức lí luận chung nhất của con người về thế giới về bản thân
con người và vị trí của con người trong thế giới đó. Triết học có một vai trò hết sức to lớn
trong xã hội.
Trước hết, triết học đặt ra và giải quyết những vấn đề thế giới quan, đó là tồn bộ những
quan điểm, quan niệm của con người về thế giới xung qunnh, về bản thân con người, về
cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới đó.
Bên cạnh đó, triết học cịn có chức năng phương pháp luận, là hệ thống các quan điểm,
các ngun tác chỉ đạo con người, tìm tịi xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương
pháp trong nhận thức và thực tiễn.
Sau cùng, triết học không những có vai trị to lớn đối với khoa học mà còn đối với việc
rèn luyện năng lực tư duy của con người.
Như Ăng ghen đã từng nói: “Một dân tộc muốn đứng trên đỉnh cao của khoa học thì
khơng thể khơng có tư duy lí luận”, và để hồn thiện năng lực tư duy lí luận thì khơng có
một cách nào khác hơn là nghiêm cứu toàn bộ triết hcọ thời trước.
Bước đi đầu tiên của lịch sử triết học thế giới là triết học cổ đại. Những học thuyết triết
học đầu tiên trong lịch sử xuất hiện vào thế kỉ thứ XIII – VI trước công nguyên. Ở
phương Đông thể hiện rõ nét ở Ấn Độ, Trung Quốc. Ở phương Tây, thể hiện rõ nét ở Hy
Lạp và La Mã cổ đại.
1. Nghiên cứu và so sánh sự khác nhau giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây
thời cổ đại sẽ cho ta một cái nhìn khái quát và biện chứng về nhữngđóng góp có giá trị
đối với tri thức nhân loại trong buổi đầu hình thành ý thức xã hội. Đồng thời giúp ta thâu
tóm tri thức, trí tuệ của mỗi thời đại lịch sử được kết tinh trong triết học.
2. Thông qua những sự khác nhau giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây thời
cổ đại sẽ cho ta một cái nhìn tồn diện, đúng đắn về ý nghĩa, ảnh hưởng, nắm được sợi
dây liên hệ giữa quá khứ và hiện tại. Bên cạnh đó, giúp tránh tư tưởng đề cao triết học
phương Đông, hạ thấp triết học phương Tây thời cổ đại và ngược lại.
Xuất phát từ những lí do nêu trên nên em đã chọn đề tài: “So sánh sự khác nhau giữa triết
học phương Đông và triết học phương Tây thời cổ đại” làm đề tài cho bài tiểu luận của
mình.
NỘI DUNG


CHƯƠNG I: Khái quát chung về triết học phương Đông và phương Tây. Thời xa xưa,
con người đã muốn khám phá về thế giới và bản thân mình. Khi khoa học cịn chưa phát
triển và trí tuệ con người cịn hạn chế, cơng cụ để nhận thức thế giới của họ lúc đầu là
huyền thoại và thần thoại, tức là giải tích các hiện tượng tự nhiên bằng các yếu tố thần
thoại. Nhưng từ khi xã hội chiếm hữu nô lệ ra đời thay thế xã hội nguyên thủy, sự giải
thích thế giới bằng huyền thoại, thần thoại khơng còn đáp ứng nhu cầu hiểu biết ngày
càng cao của con người. Một cơng cụ nhận thức mới của lồi người xuất hiện, đó là triết
học.
Triết học ra đời vào khoảng thế kỉ VIII – VI trước Công nguyên gắn liền với sự ra đời của
các nền văn minh cổ đại như Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp. Đó là kết quả của sự tách biệt
giữa lao động trí óc và lao động chân tay, cùng với sự phát triển ở trình độ cao (trình độ


hệ thống hoá, khái quát hoá, trừu tượng hoá) của tư duy nhân loại. Có rất nhiều quan
niệm khác nhau về triết học. “Triết” theo nghĩa chữ Hán là trí - sự hiểu biết của con
người, là truy tìm bản chất của đối tượng trong quá trình nhận thức thế giới. “Triết” theo
nghĩa tiếng Ấn Độ là “Darshna”, là sự suy ngẫm con đường đến chân lí, là sự hiểu biết
nói chung “Triết học” theo tiếng Hy Lạp là “Philosophya” - sự ham mê hiểu biết cộng
với sự thông thái. Như vậy, dù là Trung Quốc, Ấn Độ hay Hy Lạp, dù ở phương Đông
hay phương Tây, triết học thời cổ đại đều có nghĩa là sự hiểu biết chung, sự nhận thức
chung của con người về thế giới.
Do nghiên cứu những qui luật chung nhất của thế giới nên triết học với tư cách là một
khoa học đề cập tới nhiều vấn đề. Trong những vấn đề ấy, nổi lên vấn đề cơ bản là mối
quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt. Mặt thứ nhất trả
lời câu hỏi giữa tư duy với tồn tại, giữa ý thức với vật chất, giữa tinh thần và tự nhiên thì
cái nào có trước cái nào có sau; và cái nào có vai trò quyết định đối với cái nào? Mặt thứ
hai trả lời câu hỏi con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
Trong lịch sử triết học, có rất nhiều quan điểm khác nhau, thậm trí đối lập nhau khi giải
quyết vấn đề cơ bản của triết học. Đây chính là tiêu chuẩn để phân biệt lập trường tư
tưởng của các nhà triết học, hình thành nên các trường phái triết học khác nhau. Đi sâu

giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, các nhà triết học phương Đơng và phương Tây thời
cổ đại có nhiều quan điểm không giống nhau. Điều này đã một phần tạo nên sự khác biệt
giữa triết học phương Đông và phương Tây nói chung và thời cổ đại nói riêng.
Dù lịch sử triết học là quá trình hình thành, biến đổi, tác động và ảnh hưởng lẫn nhau
giữa các trào lưu, tư tưởng triết học nhưng nó có tính quy luật. Sự hình thành và phát
triển triết học có những đặc điểm chung như sau:
Thứ nhất, tư tưởng triết học là một hình thái ý thức xã hội được hình thành và phát triển
trên cơ sở kinh tế - xã hội trong một giai đoạn lịch sử xã hội nhất định là sự phản ánh của
tồn tại xã hội và chịu sự quy định của tồn tại xã hội. Như vậy, sự phát triển của lịch sử
triết học gắn liền với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, gắn với sự biến đổi, thay thế
nhau giữa các chế độ xã hội… Điều này hình thành nên tính giai cấp trong triết học. Từ
đó, tạo nên sự khác nhau giữa các trào lưu, tư tưởng triết học, giữa triết học phương Đông
và phương Tây.
Thứ hai, lịch sử triết học là quá trình thống nhất và đấu tranh của hai trường phái triết học
duy vật và duy tâm, hai phương pháp biện chứng và siêu hình. Thứ ba, lịch sử triết học
ln gắn bó chặt chẽ khơng thể tách rời với các thành tựu khoa học tự nhiên và khoa học
xã hội cùng với các thành tựu khoa học tự nhiên và khoa học xã hội cùng sự thâm nhập
tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các trào lưu, tư tưởng triết học cùng sự tác động của
các hình thái ý thức xã hội khác như: Tơn giáo, chính trị, nghệ thuật, văn hoá,…
Thứ tư, chiến tranh là một tác nhân quan trọng ảnh hưởng đến sự biến
đổi của tư tưởng triết học.
* Tóm lại:
Triết học là một khoa học bao gồm hệ thống tri thức lí luận chung nhất về thế giới của
con người và vị trí, vai trị của con người trong thế giới đó. Triết học là một hình thái ý
thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội và chịu sự qui định của tồn tại xã hội. Đồng thời, triết
học là một yếu tố của kiến trúc thượng tầng, là sự phản ánh cơ sở hạ tầng, chịu sự qui


định của cơ sở hạ tầng. Đây cũng là nét chung của triết học mọi thời đại cũng như triết
học phương Đông và triết học phương Tây cổ đại.

Tuy nhiên, do điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, văn hoá, bối cảnh lịch sử, khác nhau
nên triết học phương Đơng và phương Tây cổ đại có những nét đặc thù, riêng biệt, tạo
nên thiên hướng riêng của nó. Dựa vào phần khái quát chung làm cơ sở nền tảng, sự khác
nhau giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây thời cổ đại được phân tích cụ
thể ở mục tiếp theo.
CHƯƠNG II: Những điểm khác nhau giữa triết học phương Đông và triết học phương
Tây thời cổ đại
2.1. Mối quan hệ giữa con người và vũ trụ
Nếu như triết học phương Tây cổ đại tách con người ra khỏi vũ trụ, coi con người là chủ
thể còn thế giới quan là khách thể mà con người cần nghiên cứu, chinh phục thì triết học
phương Đơng thời cổ đại lại nhấn mạnh mặt thống nhất trong mối quan hệ giưũa con
người và vũ trụ.
Chúng ta có thể lí giải cho sự khác biệt này bởi con người phương Đơng sống gần gũi,
gắn bó với thiên nhiên, được thiên nhiên ưu đãi, nguồn sống nông nghiệp dồi dào, đã hoà
quyện con người với thiên nhiên và với vụ trụ. Chính điều này đã được khái quát thành tư
tưởng “thiên nhân hợp nhất”, trong đó con người được xem như là một “tiểu vũ trụ”.
Hơn thế các nền vă minh của phương Đơng chủ yếu được hình thành ở lưu vực các con
sơng. Nền văn minh Ấn Độ được hình thành trên lưu vực song Ấn và sông Hằng, nền văn
minh Trung Hoa được xây dựng trên sự hợp lưu của hai sơng Hồng Hà và Trường
Giang.
Do vậy nền văn minh phương Đông chủ yếu dựa trên sự phát triển nông nghiệp của một
chế đô nhà nước quân chủ lập quyền. “Thiên nhiên hợp nhất” là tư tưởng xuyên suốt
nhiều trường phái, học thuyết ở Trung Quốc. Đạo gia cho rằng; con người và vũ trụ
khơng ở ngồi nhau mà cùng hoà hợp, lien thong thành một khối. Lão tử nói: “Người
phỏng theo đất, đất phỏng theo trời, trời phỏng theo đạo, đạo phỏng theo tự nhiên”. Trời,
đất, người liên thong với nhau băng một đạo.
Những điều này đã ảnh hưởng sâu sắc đến nhận thức của từng con người và văn hố
Trung Quốc. Có lẽ vì thế mà khoa học tự nhiên và chủ nghĩa duy vật trong triết học Trung
Quốc phát triển không mạnh.
“Thiên nhiên hợp nhất” lại được thể hiện theo cách khác ở Ấn Độ. Trong kinh thánh

Vêđa, để cắt nghĩa các hiện tượng tự nhiên mà con người khơng thể lí giải, người Ấn Độ
đã xây dựng hệ thống các vị thần. Thần linh và con người có nhiều mối quan hệ với nhau,
có tính cách như nhau, các vị thần cũng mang tính người. Triết học Ấn Độ khẳng định
tính hợp nhất của con người và vũ trụ. Vạn vật trong thế giới đồng nhất thể, con người và
vũ trụ có chung bản chất.
Như vậy, triết học phương Đông lấy con người mà đặc biệt là phương diện tâm linh làm
đối tượng chủ yếu để nghiên cứu. Những triết học lớn thời đó đều xoay quanh những vấn
đề lien qian tới số phận, đạo đức của con người.
Trái lại, triết học phương Tây thời cổ đại lại tách con người ra khỏi vũ trụ, coi con người
là chủ thể còn thế giới khách quan là khách thể mà con người cần nghiên cứu, chinh
phục.


Với tư tưởng quan tâm tới bản nguyên thế giới thì các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã giải
thích sự xuất hiện của thế giới khách quan theo nhiều cách khác nhau. Các nhà duy vật
giải thích bằng sự xuất hiện của một dạng vật chất cụ thể như: nước, lửa, khơng khí
Đại diện đầu tiên là Talet, ông cho rằng nước là yếu tố đầu tiên, là bản nguyên của mọi
vật trong thế giới. Mọi vật đều sinh ra từ nước và khi phá huỷ, nó cũng trở thành nước.
Đại diện thứ hai là Amximen, ông cho rằng: khơng khí và bản chất, là nguồn gốc của mọi
sự việc, vì nó giữ vai trị rất quan trọng trong đời sống.
Đại diện thứ ba tiếp tục đứng trên quan điểm duy vật là Heraclit, ông đã dựa trên quan
điểm của duy vật đẻ giải quyết vấn đề “cơ sở đầu tiên” của thế giới từ một dạng vật chất
cụ thể. Nhưng ông cho rằng mọi vật sinh ra từ lửa, là bản nguyên của thế giới.
Cũng có quan điểm cho rằng: bản nguyên đầu tiên của thế giới là những phần nhỏ bé,
siêu cảm giác, không thấy được qua đất, nước, khơng khí, lửa; chúng gọi là mầm sống,hạt
giống của muôn vật.
Tuy rằng, trong triết học phương Đông như Ấn Độ, Trung Quốc cũng chứa những tue
tưởng triết học duy vật sơ khai, chất phác về bản nguyên của thế giới, nhưng các nhà triết
học phương Đông vẫn luôn xem xét sự phát sinh, phát triển của vũ trụ, của thế giới khách
quan trong sự gắn kết với con người.

Ngược lại, triết học phương Tây lại đặt trọng tâm nghiên cứu vào thế giới, vấn đề con
người được bàn tới chỉ nhằm mục đích giải thích thế giới.
Do vậy, vấn đề bản thể luận của triết học phương Tây được thể hiện rất đậm nét, trong
khi vấn đề bản thể luận của triết học phương Đông lại thể hiện một cách mờ nhạt hơn.
2.2. Mặt xã hội và mặt sinh vật của con người.
Trong khi triết học phương Đơng chú trọng vào việc giải thích mối quan hệ giữa người
với người và đời sống tâm linh của con người, hầu như rất ít quan tâm tới mặt sinh vật.
Trái lại, triết học phương Tây cổ đại lại chủ yếu quan tâm tới khía cạnh sinh vật, về
nguồn gốc xuất hiện của sinh vật, hầu như ít quan tâm tới mặt xã hội của con người.
Những mặt hạn chế của hai nền triết học cổ đại này sau đã được khắc phục bởi triết học
Mac-Lênin.
`Triết học Trung Quốc cổ đại khi nghiên cứu đã lấy con người làm gốc, lấy triết lí nhân
sinh làm nội dung. Theo Khổng Tử, cái mà con người nên biết và có thể biết là bản thân
con người. Yêu mến con người, thờ phụng con người là bổn phận của con người. Còn
theo Mạnh Tử, bản tính con người ta là thiện, nó được thể hiện ở bốn đức: Nhân, nghĩa,
lễ, trí.
Chúng ta có thể nói rằng: triết học ở đây đề cao lịng nhân ái, đạo đức, và sức mạnh của
đạo đức.
Cũng đề cao đạo đức nhưng triết học Ấn Độ cổ đại lại thơng qua những tư tưởng giải
thốt con người.
Trong khi đó, triết học phương Tây cổ đại lại ít quan tâm đến sức mạnh đạo đức, mà chủ
yếu quan tâm nghiên cứu khía cạnh sinh vật, nguồn gốc xuất hiện của con người.
Như vậy, các nhà triết học phương Đông cổ đại nghiêng về nghiên cứu nội
tâm, hướng nội thì các nhà triết học phương Tây cổ đại lại đi sâu vào phương diện lí trí.
Do vậy phải thường xuyên trau dồi lí trí, tiếp thu những quy luật của tự nhiên và quy luật
của con người.
2.3. Về tư tưởng nhận thức luận


Trong khi các nhà triết học phương Đông cổ đại có những phương thức tư duy triết học là

nhận thức trực quan, trực giác, thì các nhà triết học phương Tây cổ đại lại đề cao vai trò
của nhận thức lí tính, phát triển các tư tưởng thành lí thuyết với các chứng minh rõ ràng,
mạch lạc.
Ở Ấn Độ cổ đại, các trường phái triết học đề cao nhận thức trực giác, thực nghiệm tâm
linh khi nghiên cứu thế giới, như phái Vaisesika, Lokayata, kinh Uparishop..
Ở Trung Quốc cổ đại, Lão Tử và Trang tử đề cao tư duy trừu tượng và không coi trọng
nghiên cứu sự vật hiện tượng cụ thể.
Cho dù các nhà triết học phương Đông cổ đại đã có sự sáng tạo phương thức tư duy trực
quan, nhưng do thiếu luận chứng và phân tích, lại dùng phương pháp tư duy giác ngộ
bằng trực giác nên đã làm cho các khái niệm thiếu logic, khoa học.
Trái lại, các nhà triết học phương Tây cổ đại lại khơng đặt mình vào giữa đối tượng để
suy nghiệm, mà tách con người ra khỏi đối tượng nhận thức để đảm bảo được tính khách
quan. Mặc dù vẫn có quan điểm như Epiquga nhưng ông đã thừa nhận tác động của vật
chất vào các giác quan của con người. Hầu hết các triết gia Hy Lạp đã đưa ra quan điểm
về nhận thức luận đúng đắn, đó là nhận thức một q trình kinh nghiệm đến nhận thức lí
tính. Vì thế, logic học đã được phát triển ở phương Tây cổ đại.
2.4. Cuộc đấu tranh giữa duy tâm và duy vật:
Ở triết học phương Đông cổ đại, các trào lưư, học thuyết thường đan xen yếu tố duy vật
và duy tâm. Chính vì thế mà cuộc đấu tranh giữa duy vật và duy tâm không gay gắt như ở
phương Tây.
Ở Trung Quốc cổ đại với trường phái nho giáo mà đại diện là Khổng Tử. Trong quan
niệm của ông, bên cạnh các yếu tố duy tâm là các yếu tố duy vật. Ông đưa ra thuyết
“Thiên mệnh”, và coi việc hiểu biết mệnh trời là một hiểu biết tất yếu cần có để trở thành
một con người hồn thiện. Song ông lại phê phán sùng bái, mê tín. Trong phật giáo, sự
đan xen giữa yếu tố duy vật và duy tâm cũng thể hiện rất rõ nét.
Còn ở Triết học Ấn Độ cổ đại, các quan niệm tự nhiên về các vị thần dần mờ nhạt, thay
vào đó là những nguyên lí trừu tượng, duy nhất, tối cao được coi là nguồn gốc của vũ trụ,
đó là thần sáng tạo tối cao. Tuy nhiên trong thời kì này cũng xuất hiện một làn sóng đấu
tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm.
Không như ở phương Đông, triết học phương Tây cổ đại lại có những cuộc đấy tranh gay

gắt. Ở đây, mỗi nhà triết học, mỗi trường phái lại có một ý kiến riêng biệt về bản nguyên
của thế giới, về mầm mống ban đầu của thế giới.
2.5. Sự đấu tranh giữa biện chứng và siêu hình:
Trong triết học phương Đơng cổ đại, yếu tố bịên chứng và siêu hình cùng tồn tại với
nhau, đan xen nhau, khơng có sự đấu tranh gay gắt. Điều này trái ngược với triết học
phương Tây cổ đại.
Với triết học Trung Hoa cổ đại, ta xem xét đại diện là Lão Tử. Ông cho rằng trời không
phải căn cứ của đạo mà trái lại, đạo có trước thần linh, hiện tượng trong vũ trụ ơng gọi là
đạo thường. Ở đây, tư tưởng biện chứng được thể hiện rõ nét. Ông cũng chỉ ra rằng, bất
cứ sự vật nào cũng là thể thống nhất của hai mặt đối lập, vừa xung khắc lại vừa dựa vào
nhau, và liên hệ, ràng buộc bao hàm lẫn nhau.
Ở phương Tây, Hêraclit là người có đóng góp to lớn trong lịch sử phát triển biện chứng.


Đối lập với ông là phép biện chứng phủ định của trường phái Êlê với chủ nghĩa vạn vật
bất biến, khơng sinh thành, khơng diệt vong.
Có nhiều quan điểm đối lập nhau khau và khác nhau rất nhiều về thế giới.
Quan điểm biện chứng về thế giới của các nhà triết học phương Tây cổ đại có ý nghĩa to
lớn đối với lịch sử triết học. tuy nhiên, nó mới chỉ là quan điểm mang tính tự phát.
2.6. Các bước phát triển nhảy vọt về chất:
Ở triết học phương Tây, mỗi giai đoạn lịch sử bên cạnh những tư tưởng triết học cũ, luôn
xuất hiện những trường phái triết học mới với quan điểm có tính phát triển nhảy vọt, tính
cách mạng. Trong khi đó, triết học phương Đơng cổ đại ít có những bước nhảy mang tính
cách mạng. Triết học phương Đơng có phát triển nhưng chỉ là sự phát triển cục bộ, đi sâu
vào từng chi tiết, từng tư tưởng trên cơ sở cái cũ, có cải tiến về phương diện nào đó. Điều
đó thể hiện ở chỗ, những nhà tư tương ở giai đoạn lịch sử sau thường cho mình là học trị,
là người kế tục sự nghiệp của những nhà sang lập ở giai đoạn trước.
Những tư tưởng mới mà họ đưa ra chỉ là để giải thích sâu hơn hoặc nhằm bảo vệ những ý
tưởng của nhũng vị tiền bối.
Vì vậy ở giai đoạn sau ít thấy những trường phái triết học mới xuất hiện, điều đó cho

chúng ta thấy tính bảo thủ, trì trệ, kiệm tiến của triết học phương Đông cổ đại.
Ngược lại, ở phương Tây lại có những trường phái triết học mới, thể hiện sự đột phá về
tư tưởng.
Ở Hy Lạp, triết học đã đi sâu và bàn đến vấn đề con người, đặc biệt về thuyết
nguyên tử của Đemocrit đã tạo ra bước nhảy vọt về chất trong lịch sử triết học cổ đại.
Đặc điểm này còn được thể hiện qua quan điểm mới của Hêraclit và nhận
thức luận của Empedoclo.
Chính những điều đó đã tạo ra những bước phát triển nhảy vọt về chất của
triết học phương Tây cổ đại.
2.7. Việc được nhìn nhận như một khoa học độc lập:
Những tư tưởng triết học phương Đơng cổ đại ít khi tồn tại dưới dạng triết học thuần tuý
mà thường được trình bày xen kẽ hoặc ẩn dấu đằng sau những vấn đề chính trị, xã hội,
đạo đức, tơn giáo, nghệ thuật
Ngược lại, triết học phương Tây cổ đại là một hệ thống các tư tưởng được trình bày trực
tiếp, rõ ràng, triết học được coi là một khoa học độc lập. Với triết học Trung Hoa thời cổ
đại, khổng Tử thể hiện tư tưởng triết học về con người, về xã hội thơng qua một số chính
sách, bài học về trị quốc.
Ở Ấn Độ, triết học mang đậm máu sắc tơn giáo, triết học và tơn giáo ln hồ nhập với
nhau, rất khó phân biệt rõ ràng.
Triết học phương Tây cổ đại là một hệ thống triết học thuần tuý, ngay từ khi ra đời đã
chứa đựng các khoa học khác. Xen lẫn trong các học thuyết Hy Lạp cổ đại là những định
luật tốn học, vật lí, hay thiên văn học. Với các nhà triết học điển hình như Talet, Pitago,
Democrit..đều là những nhà khoa học tự nhiên.
2.8. Việc sử dụng hệ thống thuật ngữ của triết học :
Trong triết học phương Đông cổ đại, thường dung châm ngơn, ngụ ngơn, ẩn ngữ có tính
hình tượng để diễn đạt quan điểm, càng đi sâu vào suy nghĩ thì càng thấy sự sâu sắc của
triết học phương Đông cổ đại.


Cịn triết học phương Tây cổ đại thì các tư tưởng triết học được diễn đạt, lập luận với

ngôn ngữ và phong cách tư duy mạch lạc, khoa học, có tính hệ.
Về bản thể luận: Phương Tây dùng thuật ngữ: “giới tự nhiên”, “bản thể”, “vật chất”; cịn
phương Đơng lại cùng “thái cực”, “đạo sắc, hình, vạn pháp,… Để nói về bản chất của vũ
trụ, đặc biệt mối quan hệ giữa con người với vũ trụ, phương Đông dùng phạm trù khách
thể - chủ thể, con người - tự nhiên, vật chất – ý thức, tồn tại – tư duy, cịn phương Đơng
lại dùng Tâm vật, năng – sơ, lí – khí, hình - thần”.
Nói về tính chất, sự biến đổi của thế giới: Phương Tây dùng thuật ngữ biện chứng, siêu
hình, vận động, dứng im,…, thì phương Đơng dùng bằng thuật ngữ động - tỉnh, biến dịch,
bô thường, vô ngã… Khi diễn đạt về mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trên thế giới
thì phương Tây dùng thuật ngữ “liên hệ”, “quan hệ”, “quy luật”, còn phương Đơng dùng
thuật ngữ “đạo”, “lý”, “mệnh”, “thần”… Có nhịp điệu là hài hố âm dương, cịn vũ trụ là
tập hợp khổng lồ các xoắn ốc.

KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu và trình bày như ở trên, ta thấy rằng giữa hai nền triết học có những đặc điểm
khác xa nhau, mỗi nền triết học lại có những nét đặc sắc riêng, nhưng chúng lại bổ sung cho
nhau và đều có những đóng góp to lớn và lịch sử phát triển triết học của nhân loại.
Ở phương Đơng, ta tìm thấy sự sâu sắc, ý vị, tinh thần, đạo đức, tính nhân đạo, màu sắc đời sống.
Trong khi đó, tinh thần khoa học của triết học phương Tây cổ đại lại làm cho triết học có tính
logic và trở thành khoa học của các ngành khoa học
Sự khác biệt này do nhiều nguyên nhân chi phối song nguyên nhân chủ yếu chính là sự khác biệt
về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội. Bởi lẽ triết học là một hình thái ý thức xã hội và chịu sự
qui định của tồn tại xã hội.
Việc nghiên cứu triết học phương Đông và triết học phương Tây cổ đại có ý nghĩa hết sức to lớn.
Bởi lẽ, thông qua hoạt động nghiên cứu triết học, chúng ta đã thấy được sự phát triển lịch sử tư
tưởng triết học của nhận loại thời cổ đại, nắm bắt được quá trình hình thành và phát triển của
những phương pháp nhận thức khoa học. Từ đó, cho ta biện pháp hữu hiệu để nghiên cứu, đánh
giá một học thuyết triết học trong triết học cổ đại nói riêng và trong lịch sử triết học nói chung,
đồng thời, góp phần hình thành và phát triển phương thức tư duy khoa học.
Việc chỉ ra sự khác nhau giữa triết học phương Đông và phương Tây cổ đại đã giúp ta có cách

đánh giá thoả đáng vị trí hai nền triết học này trong lịch sử. Triết học phương Đông cổ đại ra đời
từ rất sớm và là cái nôi của triết học nhân loại. Triết học phương Tây cổ đại ra đời muộn hơn
nhưng “đã có mồng mống và đang nảy nở hầu hết tất cả các loại thế giới quan sau này”
(Ph.Ăngghen).
Tuy nhiên, cả hai đều tồn tại những hạn chế nhất định. Điều này được khắc phục dần trong
những học thuyết triết học sau này. Và phải khi triết học Mác-lênin ra đời thì triết học mới thực
sự là một công cụ nhận thức và cải tạo thế giới.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×