Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

BÀI THU HOẠCH TCCT HOẠT ĐỘNG PHỐI hợp TRONG LÃNH đạo, QUẢN lý ở cơ sở LIÊN hệ THỰC tế VIỆC PHỐI hợp tổ CHỨC kỳ họp của HĐND xã MINH THÀNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.41 KB, 16 trang )

TRƯỜNG CHÍNH TRỊ
*

BÀI THU HOẠCH HẾT HỌC PHẦN
Chương trình Trung cấp lý luận chính trị - hành chính

CHỦ ĐỀ: HOẠT ĐỘNG PHỐI HỢP
TRONG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở
CƠ SỞ. LIÊN HỆ THỰC TẾ VIỆC
PHỐI HỢP TỔ CHỨC KỲ HỌP CỦA
HĐND XÃ MINH THÀNH

Họ tên học viên:
Lớp: Trung cấp LLCT-HC, khóa 119
Phần: V.1


Bình Phước, năm 2021


1

PHẦN I. MỞ ĐẦU
Trong hoạt động quản lý và thực thi công vụ của bất cứ cơ quan, đơn vị nào
cũng đều có sự phối hợp giữa cấp trên với cấp dưới, giữa các phòng ban, bộ phận
và giữa các cán bộ, công chức, viên chức trong cùng cơ quan, đơn vị với nhau.
Hình thức và nội dung của sự phối hợp quản lý và thực thi công vụ bao gồm các
hoạt động cung cấp thông tin, trợ giúp vật chất, phương tiện kỹ thuật, chia sẻ kinh
nghiệm, hỗ trợ nguồn lực, tài chính, xác định nội dung cơng việc và phạm vi trách
nhiệm cho tổ chức, cá nhân được phân công thực hiện những nhiệm vụ chung; tất
cả những nội dung đó đều cần tuân thủ theo nguyên tắc phối hợp để đảm bảo đạt


hiệu quả cao trong thực thi các nhiệm vụ.
Nhiều năm qua, cấp cơ sở đã luôn quan tâm đến các hoạt động phối hợp
trong lãnh đạo, quản lý với nhiều giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công
việc, đảm bảo đời sống tinh thần và vật chất cho mọi cán bộ, viên chức và người
dân. Trong các cơ quan đã thực sự là một tập thể đoàn kết, thống nhất trong thực
hiện nhiệm vụ, trong xây dựng cơ quan văn hóa và thực hiện qui chế dân chủ tại
cơ sở. Có được kết quả đó, ngồi sự lãnh chỉ đạo sát sao của người đứng đầu các
cơ quan ở cơ sở, cịn có sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ từ các phòng chức năng
và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Để hoàn thành các nhiệm vụ được giao, mỗi cá
nhân cần nâng cao tinh thần tự giác, năng động sáng tạo, có kỹ năng phối hợp,
chia sẻ thơng tin tích cực, chủ động kịp thời giải quyết các công việc, tuân thủ các
nguyên tắc phối hợp để đạt hiệu quả cao trong mọi cơng việc được giao. Chính vì
vậy, nghiên cứu nội dung: “Hoạt động phối hợp trong lãnh đạo, quản lý ở cơ
sở. Liên hệ thực tế việc phối hợp tổ chức kỳ họp của HĐND xã Minh Thành”
có ý nghĩa thiết thực.
PHẦN II. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG PHỐI HỢP TRONG
LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở CƠ SỞ
1.1. Khái niệm hoạt động lãnh đạo
Hoạt động lãnh đạo là hoạt động mang tính định hướng, gây ảnh hưởng, tạo
dựng niềm tin, thuyết phục người khác để họ đồng lòng với người lãnh đạo thực


2

hiện đường lối, chủ trương hoặc hệ thống mục tiêu nào đó. Lãnh đạo tạo hiệu ứng
điều khiển, dẫn dắt người khác dựa trên cơ chế nhận thức, niềm tin, tiêu chuẩn đạo
đức, lý tưởng, v.v. mà khơng mang tính cưỡng bức đối với người khác. Ví dụ, lãnh
đạo đảng, lãnh đạo của các tổ chức xã hội. Đảng lãnh đạo quần chúng không phải
bằng sức mạnh của bộ máy bạo lực mà bằng sự đúng đắn trong các đường lối, chủ

trương thông qua hoạt động tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, vận động.
Cán bộ lãnh đạo thường được gọi là những người hoạt động chính trị, xã hội.
Họ khơng tự thân có quyền lực lãnh đạo mà phải được xã hội, được người chịu sự
lãnh đạo tự nguyện trao quyền lãnh đạo cho họ hoặc thông qua bầu cử, tôn vinh.
Cán bộ lãnh đạo khác với thủ lĩnh ở chồ cán bộ lãnh đạo có một tổ chức chính
thức để thực thi sự lãnh đạo của mình, cịn thủ lĩnh có thể chỉ có quyền lực trong tổ
chức phi chính thức. Tuy nhiên, cán bộ lãnh đạo phải đạt tới năng lực và uy tín của
thủ lĩnh thì hiệu quả lãnh đạo mới như mong muốn.
Cán bộ lãnh đạo cũng khác thủ trưởng. Chức danh thủ trưởng thường được
dùng trong lĩnh vực hành chính, trong đó thủ trưởng có phạm vi quyền hạn theo
chức danh, bất chấp họ có hay khơng có uy tín đối với những người chịu sự quản
lý của họ. Thủ trưởng có thể được bổ nhiệm không qua bầu cử.
Khái niệm cán bộ lãnh đạo gần với khái niệm lãnh tụ, chính khách nhiều hơn.
Tuy nhiên, lãnh tụ thường gán cho những người đứng đầu một quốc gia, một tổ
chức lớn, còn cán bộ lãnh đạo xuất hiện ở mọi cấp độ. Chính khách và cán bộ lãnh
đạo chung nhau đặc điểm là điều khiển người khác thơng qua sức mạnh ý chí, niềm
tin, nhưng chính khách thường được sử dụng trong các quan hệ chính trị ngoại
giao, cịn lãnh đạo xuất hiện trong mọi lĩnh vực.
Cán bộ lãnh đạo cũng cần có kỹ năng lãnh đạo, nhưng các kỹ năng này khó
định hình và khó đào tạo. Cán bộ lãnh đạo thường phải rèn luyện qua hoạt động
thực tiễn. Vũ khí của người lãnh đạo là một hệ thống tri thức được tổ hợp chặt chẽ
có tác dụng định hướng tương lai cho đơn vị (chủ thuyết). Cán bộ lãnh đạo phải có
kỳ năng đủ để thuyết phục người khác tin vào những điều họ tin và phải có đủ uy
tín để tạo dựng sự tin cậy đối với người khác khiến họ tự nguyện trao quyền lãnh
đạo cho mình, đồng thời phải có kỹ năng tồ chức, hướng dần những người khác
hoàn thành mục tiêu chung nhằm củng cố lòng tin nơi họ.
1.2. Khái niệm hoạt động quản lý


3


Hoạt động quản lý mang tính kỹ thuật, quy trình, được quy định rõ trong
khuôn khổ các thể chế xác định. Ví dụ, quản lý hành chính trong các cơ quan của
Nhà nước; quản trị trong các doanh nghiệp. Kỹ thuật quản lý có thể được nghiên
cứu và được chuyển giao qua đào tạo.
Người quản lý sử dụng quyền lực để điều hành người khác. Thông thường cán
bộ quản lý sử dụng ba loại quyền lực: quyền lực tổ chức hành chính bắt buộc mọi
người phải tuân thủ những nguyên tắc, quy định đã được cấp có thấm quyền phê
chuẩn trở thành quy chế, kỷ luật, quy trình, chế độ, chính sách; quyền lực vật chất
kích thích động cơ vật chất đối với người dưới quyền theo các chế độ thưởng phạt
vật chất khác nhau; quyền lực tinh thần thông qua các hình thức tơn vinh, khen
thưởng hoặc các hình thức phê phán, bài trừ, cô lập khác nhau.
Trong hoạt động quản lý, quan hệ quản lý thường được xác định theo cách
cấp trên quản lý cấp dưới. Vì thế, hoạt động quản lý thường được phân chia theo
cấp bậc trong bộ máy quản lý của mòi một tổ chức. Phổ biến nhất là phân chia theo
ba cấp: cấp cao; cấp trung gian và cấp cơ sở, trong đó cấp cao có quyền lực hành
chính cao nhất, có phạm vị quản lý bao trùm cả tổ chức, chịu trách nhiệm về tổ
chức trong mối quan hệ với tố chức khác, cấp trung gian chủ yếu làm chức năng
tham mưu hoặc quản lý theo lĩnh vực ủy quyền của cấp cao. Cấp cơ sở quản lý
tồn diện cấp của mình nhưng thường có quy mơ hạn chế trong cấu thành một tổ
chức và là cấp quản lý thấp nhất, dưới đó khơng cịn cấp quản lý nào nữa.
Hoạt động quản lý thường do cán bộ quản lý thực hiện theo từng lĩnh vực
chuyên môn cụ thể. Mồi lĩnh vực quản lý đòi hỏi các yêu cầu đặc thù về phương
pháp, cách thức, quy trình, nguyên tắc, phương tiện, nguồn lực quản lý riêng.
1.3. Mối quan hệ giữa hoạt động lãnh đạo và hoạt động quản lý
Lãnh đạo và quản lý có mối quan hệ qua lại chặt chẽ với nhau. Điểm chung
của hai loại hoạt động này là đều đạt đến mục đích mong muốn thơng qua hành
động của người khác. Nói cách khác, hoạt động lãnh đạo và hoạt động quản lý là
hoạt động điều khiến con người.
Điểm khác biệt giữa hoạt động lãnh đạo và hoạt động quản lý là ở chỗ lãnh

đạo sử dụng uy tín và sự thuyết phục nhiều hơn, sử dụng quyền lực ít hơn; quản lý
sử dụng quyền lực nhiều hơn, sử dụng uy tín và sự thuyết phục ít hơn. Hoạt động
quản lý thường được thực hiện theo một quy chế, chuẩn mực, nguyên tắc rõ ràng.


4

Lãnh đạo không dựa nhiều vào quy chế mà dựa vào sự thuyết phục và cảm hóa
mang tính nhận thức, tình cảm.
Trong thực tế, nhất là ở cấp cơ sở, khó tách bạch hai hoạt động này trong con
người cán bộ. Cán bộ nào cũng đồng thời thực hiện cả vai trị lãnh đạo và vai trị
quản lý. Vì thế người ta thường gọi chung là hoạt động lãnh đạo, quản lý.
1.4. Vai trò của hoạt động lãnh đạo, quản lý ở cơ sở
Hoạt động lãnh đạo, quản lý tạo nên sức mạnh tập thê trên cơ sở thống nhất ý
chí và hành động. Cộng đồng dân cư trên địa bàn xã, phường, thị trấn, dù khác biệt
nhau nhiều phương diện, nhưng mỗi cộng đồng cũng có những lợi ích chung như
bảo vệ mơi trường sống chung có lợi cho sức khỏe, giữ gìn trật tự trị an, giữ gìn vệ
sinh chung, xây dựng cơ sở hạ tầng giao thong, y tế, trường học, v.v.. Nếu khơng
có cấp quản lý cơ sở sẽ khơng thế thống nhất ý chí và hành động của người dân đề
tất cả đều có cuộc sống tốt hơn. Hơn nữa, cấp cơ sở còn là nơi hỗ trợ trực tiếp cho
dân cư khi họ gặp khó khăn, cũng như tạo điều kiện cho dân cư tham gia vào hệ
thống chính trị chung của quốc gia.
Hoạt động lãnh đạo, quản lý tạo ra môi trường vừa cho phép mọi người dân
được tự do sáng tạo, vừa định hướng hoạt động của mọi người theo mục tiêu
chung. Các xã, phường, thị trấn đều nằm trong một huyện, một tỉnh nào đó và nằm
trong nước ta, do đó vừa được hưởng lợi chung của sự quản lý của huyện, của tỉnh,
của quốc gia, vừa phải thực thi nghĩa vụ của mình với tập thế lớn hơn. Cơ quan
quản lý cấp cơ sở là đầu mối để triển khai chính sách chung một cách hiệu quả trên
địa bàn cơ sở, vừa phản ánh nguyện vọng, nhu cầu của cơ sở cho cấp trên để được
hỗ trợ giải quyết kịp thời, hiệu quả.

Hoạt động lãnh đạo, quản lý ở cơ sở tạo nên sự phối hợp nhịp nhàng giữa các
bộ phận khác nhau của đơn vị thành một hệ thống thống nhất. Giữa các bộ phận
dân cư, ngành nghề hoạt động trên địa bàn xã, phường, thị trấn đôi khi cũng xảy ra
xung đột. Cấp cơ sở là nơi trực tiếp đứng ra hòa giải hoặc phân xử nhằm tạo ra bầu
khơng khí đồn kết, thơng cảm, tương trợ lẫn nhau. Chức năng xét xử có thể chỉ
phân quyền ở phạm vi hẹp cho cấp cơ sở, nhưng chức năng hịa giải của hệ thống
chính trị chủ yếu do cấp cơ sở đảm nhiệm.
Hoạt động lãnh đạo, quản lý ở cơ sở góp phần tạo dựng sức mạnh bền vững
của hệ thống chính trị. Nhờ có sự quản lý ở cấp cơ sở mà hoạt động của dân cư và


5

các tổ chức trên địa bàn đi vào nền nếp, kỷ cương, giảm nhẹ vai trò quản lý, giám
sát của cấp trên. Hơn nữa, sự chuyên nghiệp, linh hoạt và tận tâm của cán bộ quản
lý cấp cơ sở làm tăng uy tín của hệ thống chính trị. Ngược lại, sự yếu kém của cấp
cơ sở, nhất là việc xử lý quan liêu, thiếu chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ cơ sở
khơng những làm cho hệ thống chính trị thiếu bền vững, mà còn làm phai nhạt
niềm tin của quần chúng vào hệ thống chính trị.
1.5. Hoạt động phối hợp trong lãnh đạo, quản lý ở cơ sở
Phối hợp là quá trình kết nối các hoạt động, hỗ trợ, hợp tác lẫn nhau của các
cán bộ giáo viên, viên chức, người lao động nhằm tổ chức thực hiện các nhiệm vụ
cụ thể trong công tác. Sự phối hợp diễn ra trong suốt quá trình quản lý, từ xây
dựng kế hoạch, đến việc tổ chức, chỉ đạo điều hành và kiểm tra kết quả. Ở đâu có
quản lý thì ở đó có nhu cầu phối hợp. Mục tiêu cuối cùng của phối hợp là tạo ra sự
thống nhất, đồng thuận, bảo đảm chất lượng và hiệu quả trong quản lý. Nói cách
khác, phối hợp là bố trí cùng nhau làm theo một kế hoạch để đạt một mục đích
chung. Thơng qua phối hợp, các bộ phận và cá nhân trong đơn vị được trao đổi
hoạt động và thông tin với nhau, hỗ trợ cho nhau trong việc thực hiện tốt các chức
năng, nhiệm vụ của tập thể và cá nhân, từ đó hiệu quả cơng việc được nâng cao.

Nếu sự phối hợp có chất lượng và được thơng qua những hình thức và cách thức
thích hợp thì khơng chỉ tạo dựng sự đoàn kết, đồng thuận, hỗ trợ nhau giữa các bộ
phận phịng ban; giữa các cá nhân cùng hồn thành nhiệm vụ chun mơn, mà cịn
có thể phát huy dân chủ, khai thác năng lực, sở trường của từng cá nhân trong công
tác để cùng hướng vào thực hiện tốt các nhiệm vụ cơng tác của đơn vị mình.
Hiệu quả trong công viêc, phụ thuộc vào nhiều yếu tố, song một trong những
yếu tố khơng thể thiếu đó là: “Tuân thủ nguyên tắc phối hợp”.
Một số nguyên tắc trong phối hợp:
- Nguyên tắc lãnh đạo thống nhất
- Nguyên tắc chia sẻ thơng tin
- Ngun tắc chun mơn hóa, hợp tác hóa
- Ngun tắc đảm bảo tính khách quan...
Có nhiều hình thức phối hợp trong cơng tác và các cá nhân, bộ phận có thực
sự được sự phối hợp, trên tinh thần hỗ trợ nhau trong việc thực hiện nhiệm vụ được
phân cơng hay khơng, đó là biểu hiện cụ thể của dân chủ trong cơ quan. Vấn đề đặt
ra là mức độ, phạm vi phối hợp đến đâu là hợp lý? Tất nhiên là không phải bất cứ


6

vấn đề nào, bất cứ khi nào và ở đâu cũng phối hợp. Phối hợp cần được đặt trong
mối quan hệ giữa tập trung và dân chủ của nguyên tắc tập trung dân chủ. Đề ra yêu
cầu phối hợp trong cơng tác phải đồng thời với khuyến khích tư duy độc lập và đề
cao trách nhiệm của từng cá nhân, tổ chức thuộc phạm vi chức năng, thẩm quyền
được phân công nhằm đạt hiệu quả cao trong mọi công việc.
Hiệu quả là đạt được một kết quả đúng như kế hoạch đã đề ra nhưng sử dụng
ít thời gian, cơng sức và nguồn lực nhất.
“Hiệu quả là kết quả theo của cơng việc và tác dụng của nó theo mục tiêu đã
xác định” [Trần Kiểm, Khoa học quản lý nhà trường phổ thông, NXB Đại học
Quốc gia, Hà Nội, 2002].

Hiểu theo cả hai nghĩa trên thì hiệu quả bao hàm hai khía cạnh: Là kết quả
cơng việc và kết quả đó phải có tác dụng đạt được theo mục tiêu đã xác định.
Vậy làm thế nào để nâng cao hiệu quả trong cơng việc? Điều này cịn phụ
thuộc nhiều yếu tố, song: Tuân thủ nguyên tắc phối hợp là một trong những yếu tố
cần thiết để tạo nên hiệu quả trong công việc; đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay,
khi mà công việc bận rộn nơi công sở cùng với nhiều cơng việc bồn bề trong gia
đình, khiến chúng ta cảm thấy 24 giờ một ngày là không đủ để hoàn thành mọi
việc, vậy chúng ta cần nắm vững các nguyên tắc phối hợp trong công việc và vận
dụng hài hòa, phối hợp nhịp nhàng theo đúng nguyên tắc để tiết kiệm thời gian,
công sức … hướng tới đạt hiệu quả cao theo kế hoạch đề ra.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VIỆC PHỐI HỢP TỔ CHỨC KỲ HỌP
CỦA HĐND XÃ MINH THÀNH HIỆN NAY
2.1. Những kết quả đạt được
Hiến pháp năm 2013, Điều 111 quy định: “Cấp chính quyền địa phương gồm
có hội đồng nhân dân (HĐND) và ủy ban nhân dân (UBND) được tổ chức phù hợp
với đặc điểm nơng thơn, đơ thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật
định”. Theo đó, khoản 1 Điều 113 tiếp tục quy định: “HĐND là cơ quan quyền lực
nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của
nhân dân địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân
dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên”. Điều 4 Luật Tổ chức chính quyền


7

địa phương quy định cấp chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành
chính gồm có HĐND và UBND. Như vậy, sau một thời gian dài thực hiện thí điểm
khơng tổ chức HĐND huyện, quận, phường theo Nghị quyết số 26/2008/QH12 của
Quốc hội, Nghị quyết số 724/2009/UBTVQH12 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
Hiến pháp 2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 đã quy định
cấp chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính đều phải có

HĐND và UBND. Điều này đã khẳng định rõ vị thế của HĐND trong tổ chức bộ
máy chính quyền ở địa phương.
Nhiều năm qua, hoạt động phối hợp tổ chức kỳ họp của HĐND xã Minh
Thành đã luôn quan tâm đến các hoạt động với nhiều giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả trong công việc, đảm bảo đời sống tinh thần và vật chất cho mọi cán bộ,
viên chức và người dân. Xã Minh Thành đã thực sự là một tập thể đoàn kết, thống
nhất trong thực hiện nhiệm vụ, trong xây dựng cơ quan văn hóa và thực hiện qui
chế dân chủ tại cơ sở.
Từ đầu nhiệm kỳ 2016 - 2021 đến nay, HĐND xã Minh Thành đã tích cực đổi
mới phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng kỳ họp, bảo đảm đúng quy định
của pháp luật; đã tổ chức thành công các kỳ. Hoạt động thảo luận tại các kỳ họp
của HĐND xã Minh Thành ln có sự đổi mới, dành nhiều thời gian thảo luận tại
hội trường, tăng số lượt đại biểu tham gia thảo luận, mở rộng thành phần tham gia
thảo luận, ngoài các đại biểu đã đăng ký, Chủ tọa chỉ định nhiều thành phần đại
biểu tham gia thảo luận. Tại các kỳ họp thường lệ HĐND xã Minh Thành ln
dành ít nhất một buổi cho chương trình thảo luận tập trung tại hội trường. Đối với
kỳ họp bất thường HĐND xã Minh Thành luôn dành phần lớn thời gian kỳ họp cho
việc thảo luận những vấn đề liên quan đến nội dung chính của kỳ họp. Việc chủ tọa
điều hành hoạt động thảo luận tại phiên họp toàn thể ở Hội trường theo hướng rất
linh hoạt, đảm bảo tính dân chủ, cởi mở, thắng thắn, tập trung vào những nhóm
vấn đề quan trọng, vấn đề mới phát sinh, bức xúc, được nhiều cử tri và nhân dân
quan tâm, những nhóm nội dung cịn ý kiến khác nhau, nhằm mổ sẻ phân tích làm
rõ, tìm ra giải pháp hữu hiệu, đi đến thống nhất làm cơ sở cho việc quyết định
những vấn đề quan trọng nhằm phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh của địa phương.


8

Quán triệt phương châm hoạt động “Đổi mới - dân chủ - trách nhiệm - hiệu
quả - vì dân” đã được HĐND xã Minh Thành đề ra từ đầu nhiệm kỳ 2016 - 2021,

HĐND xã Minh Thành đã tích cực hoạt động, phối hợp nhịp nhàng với các ban,
ngành của địa phương và cơ bản hoàn thành các nhiệm vụ theo quy định của pháp
luật, thể hiện được vai trò là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện
cho ý chí, nguyện vọng của cử tri và nhân dân, HĐND xã Minh Thành góp phần
quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh
quốc phòng của địa phương. So với nhiệm kỳ 2011 - 2016, hoạt động của HĐND
xã Minh Thành nhiệm kỳ 2016 - 2021 có nhiều thuận lợi hơn do được thành lập
thêm hai ban là ban Pháp chế và ban Kinh tế - xã hội. Các Ban dù mới được bầu ra
nhưng cũng đã tập trung thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo quy định; tích cực
thẩm tra các văn bản, dự thảo nghị quyết trình kỳ họp, góp phần làm cho việc ban
hành nghị quyết HĐND cấp xã được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục, thẩm
quyền và đúng pháp luật, quyết định nhiều vấn đề quan trọng trên địa bàn như tình
hình phát triển kinh tế - xã hội, thu - chi ngân sách, công tác cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất nông nghiệp sau dồn điền, đổi thửa… Đặc biệt, hoạt động giám
sát có bước chuyển quan trọng, các ban HĐND xã Minh Thành đã chủ động xây
dựng kế hoạch thực hiện giám sát các vấn đề của xã, thôn tích cực hơn, số cuộc
giám sát nhiều hơn, giám sát kỹ hơn về các chuyên đề như công tác thu - chi tài
chính, xây dựng cơ bản, thực hiện an sinh xã hội…
2.3. Những hạn chế còn tồn tại
Tuy nhiên, việc tổ chức triển khai thực hiện các quy chế phối hợp trong tổ chức
các kỳ họp của HĐND xã Minh Thành đó cịn bị bng lỏng, chưa có sự kiểm tra
giám sát, chưa tổng kết đúc rút kinh nghiệm; vấn đề tuân thủ nguyên tắc tập trung
dân chủ trong phối hợp chưa cao; Nội dung, hình thức, cách thức phối hợp chưa
được quy định và còn thực hiện theo kinh nghiệm. Chính vì vậy, việc phối hợp cịn
chủ quan, tuỳ tiện và không đồng bộ dẫn đến việc triển khai thực hiện nhiệm vụ
nhiều lúc còn lúng túng kém hiệu quả.


9


Công tác phối hợp giữa các cá nhân và bộ phận cịn mang nặng tính hình thức,
đối phó; kỷ luật, kỷ cương trong quan hệ phối hợp còn lỏng lẻo, trách nhiệm trong
phối hợp chưa cao, phạm vi công việc phối hợp cịn tuỳ tiện, chất lượng phối hợp
khơng cao; từ đó làm hạn chế việc phân cơng rành mạch, đề cao trách nhiệm cá
nhân trong công tác, dẫn tới hiệu quả của công việc chưa cao.
Nguyên nhân:
- Nhận thức của một bộ phận cán bộ cán bộ, đảng viên trong xã chưa thật
sự đầy đủ về vai trò và tầm quan trọng của nguyên tắc phối hợp trong việc thực
hiện nhiệm vụ. Chưa nắm được nguyên tắc trong phối hợp thực hiện các nhiệm
vụ chính trị tại địa phương.
- Quy chế phối hợp chưa có hướng dẫn cụ thể rõ ràng, một số cá nhân vẫn
còn túng túng trong thực hiện; chưa đọc hoặc chưa nghiên cứu kỹ quy chế.
- Chưa có sự giám sát thường xuyên, chưa kịp thời đánh giá công tác phối
hợp của các cá nhân và bộ phận; chưa đưa vào làm một trong những tiêu chí xét thi
đua.
Khơng ít đại biểu được phân cơng chuẩn bị nội dung thảo luận, song chưa
phát huy vai trò, trách nhiệm của người đại biểu Nhân dân, chưa bám sát thực tiễn
và thiếu thơng tin tình hình ở cơ sở; một số đại biểu chưa chủ động nghiên cứu kỹ
tài liệu kỳ họp, cũng như một số chủ trương, chính sách mới của Đảng, pháp luật
của nhà nước; một số đại biểu kinh nghiệm hoạt động cịn ít, thiếu mạnh dạn, do
đó, việc đăng ký thảo luận cịn bị động, nội dung thảo luận còn hạn chế. Đặc biệt,
một số đại biểu nhiều kỳ họp chưa tham gia thảo luận. Tại phiên thảo luận, có ý
kiến chưa tập trung vào những nội dung chính của kỳ họp phải để Chủ tọa nhắc
nhở; một số đại biểu là thủ trưởng các ngành phát biểu thường mang tính giải trình
cho ngành mình, hoặc tranh thủ báo cáo thành tích; đại biểu ngành nào thì đề xuất
giải pháp, biện pháp quản lý của ngành đó mà khơng cân nhắc đến giải pháp quản
lý chung của huyện. Bên cạnh đó, có đại biểu chỉ nêu lại ý kiến cử tri, vấn đề nêu
ra chưa có căn cứ xác đáng nên tính thuyết phục khơng cao. Một số đại biểu cịn có
tâm lý ngại va chạm, nhiều đại biểu dè dặt, phát biểu chung chung, xuôi chiều,...



10

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP VÀ LIÊN HỆ TRÁCH NHIỆM BẢN THÂN
3.1. Giải pháp
Một là: Cần tuyên truyền và phổ biến về mục đích, vai trị và tầm quan trọng
của cơng tác phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ cho toàn thể cán bộ xã và người
dân trong xã; Cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chun mơn,
trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, từ đó mỗi cá nhân nhận thức đúng đắn và có ý
thức thực hiện đúng nguyên tắc phối hợp trong mọi công việc được giao.
Giúp cho cán bộ và người dân nắm vững nội dung một số nguyên tắc trong
công tác phối hợp. Tuân thủ theo nguyên tắc tập trung dân chủ và thể hiện nhất
quán sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phối hợp. Trao đổi hoạt động và thông
tin với nhau; hỗ trợ nhau; tin tưởng, tôn trọng lẫn nhau trong phối hợp và thực hiện
nhiệm vụ.
Hai là: Cần có những quy định rõ ràng, cụ thể trong quy chế phối hợp để từ đó
mỗi cán bộ có cơ sở thực hiện cơng tác phối hợp, nêu cao tính tự giác, tự chịu trách
nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ và kết quả công việc được giao.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ và có hiệu quả cao trong công việc, xã Minh
Thành cần quan tâm và tạo điều kiện về môi trường làm việc, về cơ sở vật chất,
trang thiết bị, phương tiện làm việc, ... cho cán bộ; phấn đấu công bằng, công khai,
minh bạch nhằm tạo động lực cho cán bộ đều nỗ lực làm việc, nhiệt tình chăm chỉ
và bền bỉ hơn, có trách nhiệm cao hơn; khi đó họ đều có khả năng làm được nhiều
hơn những gì mà cấp trên mong chờ ở họ.
Ba là: Cần thường xuyên theo dõi, giám sát chặt chẽ cơng tác phối hợp của
quyền với cơng đồn; đảng với chính quyền; đảng với các đồn thể; giữa các
phịng, bộ phận với nhau; công tác phối hợp của từng phòng với các bộ phận; cá
nhân với cá nhân và phối hợp của các cá nhân với từng bộ phận. Có kiểm tra và
đánh giá kịp thời để giúp đỡ các cá nhân và bộ phận phòng ban khi cần thiết. Cần
đưa nội dung này vào kế hoạch công tác của các tổ chức cá nhân; có kiểm điểm

đánh giá, rút kinh nghiệm theo từng tháng, từng kỳ. Thực hiện tốt các nguyên tắc
trong phối hợp công việc, mỗi cá nhân có tinh thần tự giác, tích cực trong q trình


11

tổ chức thực hiện nhiệm vụ nhằm có được hiệu cao trong công việc. Phát huy sức
mạnh tổng hợp để phấn đấu hoàn thành mọi kế hoạch đề ra của HĐND xã Minh
Thành một cách hiệu quả cao nhất.
Bốn là: Thực tế cho thấy, nơi nào cấp ủy Đảng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo
thường xuyên, chặt chẽ và chăm lo đến tổ chức, bộ máy, định hướng nội dung hoạt
động, bố trí đúng cán bộ cho HĐND thì nơi đó hoạt động của HĐND có hiệu quả,
thực hiện tốt vai trò là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương. Do đó, địi hỏi
cấp ủy ở cơ sở cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động
của HĐND, đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của cấp ủy Đảng ở địa
phương đối với hoạt động của HĐND, quan tâm công tác quy hoạch, đào tạo, phân
cơng cán bộ có tâm, có tầm làm cơng tác HĐND để xây dựng HĐND thật sự là cơ
quan quyền lực Nhà nước ở địa phương.
Nâng cao chất lượng đại biểu HĐND và công tác tổ chức của HĐND xã.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND, trước hết phải đổi mới công tác hiệp
thương, giới thiệu người ra ứng cử làm đại biểu, không nên nặng về cơ cấu mà nên
coi trọng phẩm chất, đạo đức, trình độ, năng lực cơng tác, tâm huyết với hoạt động
của HĐND, có khả năng đại diện cho cộng đồng dân cư và năng lực tham vấn,
quyết định. Do đó, cần đặc biệt chú ý tiêu chuẩn của đại biểu “Có năng lực đóng
góp vào hoạt động của Hội đồng nhân dân, có điều kiện thực hiện nhiệm vụ đại
biểu”. Định kỳ mỗi năm, HĐND và đại biểu HĐND xã phải báo cáo công khai với
dân về các công việc đã làm, đề nghị nhân dân nhận xét, đánh giá; qua đó, phát huy
quyền giám sát của nhân dân đối với chính quyền cơ sở và đại biểu dân cử.
Cần cải tiến và nâng cao chất lượng kỳ họp HĐND. Kỳ họp HĐND xã phải
thực sự là diễn đàn của nhân dân, là nơi thể hiện phương châm “dân biết, dân bàn,

dân làm, dân kiểm tra”, là hoạt động thu hút sự quan tâm theo dõi của cử tri. Do
vậy, tổ chức kỳ họp phải có sự chuẩn bị chu đáo, đại biểu HĐND phải được cung
cấp đầy đủ và kịp thời các báo cáo, tờ trình và những thông tin liên quan để nghiên
cứu trước; đồng thời phải dành thời gian thỏa đáng cho đại biểu thảo luận và chất
vấn. Chủ tọa cần linh động trong điều hành kỳ họp, gợi mở để đại biểu mạnh dạn


12

tham gia ý kiến đóng góp, nhất là ý kiến phản biện để xem xét vấn đề một cách
thấu đáo hơn, đa chiều hơn nhằm ban hành những nghị quyết có tính khả thi cao.
Việc xây dựng và ban hành nghị quyết phải đảm bảo quy trình theo luật định.
Thực hiện tốt chức năng giám sát của HĐND xã. Cần thực hiện tốt các hình
thức giám sát như xem xét các báo cáo tại kỳ họp HĐND; kiểm tra, giám sát của
Thường trực HĐND; chất vấn của đại biểu; giám sát văn bản quy phạm pháp luật ở
địa phương và giám sát thực tế tại cơ sở nhằm tác động đến phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh ở địa phương. Để nâng cao chất lượng hoạt
động, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân, nhất là thực hiện Quy chế dân
chủ ở xã, HĐND cần tăng cường hoạt động giám sát chuyên đề.
Đổi mới và nâng cao chất lượng tiếp xúc cử tri, tiếp dân của đại biểu HĐND.
Cần tăng cường tiếp xúc cử tri trước và sau kỳ họp; đồng thời đa dạng hóa hình
thức tiếp xúc cử tri như: tiếp xúc nơi cư trú, nơi làm việc, theo chuyên đề. Khi có
yêu cầu của cử tri, đại biểu HĐND nên dành thời gian để tiếp dân; trong hoạt động
này, đại biểu phải thật sự gần dân, lắng nghe ý kiến người dân một cách cầu thị, đối
thoại cùng người dân và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của nhân dân
với HĐND.
Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã
là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Đó cũng là yêu cầu thực tế bức thiết
của cuộc sống, nhằm ngày càng hoàn thiện thiết chế dân chủ, bảo đảm cho nhân
dân thực hiện được quyền lực của mình. Nâng cao năng lực hoạt động của HĐND

xã cũng chính là điều kiện quan trọng để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với
toàn xã hội cũng như bảo đảm thực hiện cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ”.
3.2. Liên hệ trách nhiệm bản thân
Trên cương vị là cán bộ xã Minh Thành, bản thân tôi luôn nhận thức sâu sắc
vị trí, vai trị cơng tác phối hợp, quản lý trong xã, nhất là phối hợp tổ chức kỳ họp
của HĐND xã, từ đó ln nêu cao trách nhiệm trước Đảng mà mình là người đại
diện được đề cử tham gia đại biểu HĐND. Bản thân tôi luôn tuyệt đối trung thành


13

với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh
chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước;
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân cơng và điều động
của Đảng.
Bên cạnh đó bản thân tôi luôn cố gắng trong công tác, trách nhiệm hoàn thành
tốt các nhiệm vụ của người đại biểu như quy định tại các điều 93, 94, 95 Luật Tổ
chức chính quyền địa phương 2015, sửa đổi bổ sung năm 2019. Đó là đại biểu
HĐND có trách nhiệm tham dự đầy đủ các kỳ họp, phiên họp HĐND, tham gia
thảo luận và biểu quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND. Đại
biểu HĐND phải liên hệ chặt chẽ với cử tri nơi mình thực hiện nhiệm vụ đại biểu,
chịu sự giám sát của cử tri, có trách nhiệm thu thập và phản ánh trung thực ý kiến,
nguyện vọng, kiến nghị của cử tri, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cử tri;
thực hiện chế độ tiếp xúc cử tri và ít nhất mỗi năm một lần báo cáo với cử tri về
hoạt động của mình và của HĐND nơi mình là đại biểu, trả lời những yêu cầu và
kiến nghị của cử tri.
Trên cương vị công tác, tại các kỳ họp của HĐND luôn phát huy dân chủ, tích
cực thảo luận, tranh luận và phản biện, nhất là đối với quá trình quyết định các vấn
đề quan trọng của địa phương và giám sát. Song, với tư cách của đại biểu  - đảng

viên, các ý kiến đó là sự phản ánh tâm tư, nguyện vọng của cử tri và nhân dân với
Đảng có tổ chức nhất.
PHẦN III. KẾT LUẬN
Kỳ họp HĐND là hình thức hoạt động quan trọng nhất của cơ quan quyền lực
nhà nước ở địa phương, là nơi các đại biểu HĐND thể hiện rõ nét vai trò, trách
nhiệm đối với Nhân dân và cử tri trong việc quyết định các chủ trương, chính sách
và thực hiện các hoạt động giám sát nhằm đảm bảo việc thi hành Hiến pháp và
pháp luật, xây dựng chính quyền vững mạnh, quyết định các mục tiêu, nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, ổn định và nâng cao đời
sống Nhân dân. Do đó, nâng cao chất lượng kỳ họp HĐND là một nội dung hết sức
quan trọng trong yêu cầu đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND các


14

cấp nói chung và HĐND xã nói riêng; kỳ họp HĐND có nhiều hoạt động, song
hoạt động thảo luận là nội dung quan trọng, thảo luận vừa là nội dung bắt buộc
trong chương trình kỳ họp HĐND, vừa là giải pháp góp phần nâng cao chất lượng
các kỳ họp của HĐND. Đây là diễn đàn, kênh thông tin quan trọng để đại biểu
HĐND phát huy, thể hiện vai trò, trách nhiệm của người đại biểu đối với cử tri và
Nhân dân, trao đổi, mổ sẽ những vấn đề quan trọng, vấn đề cịn có ý kiến khác
nhau, vấn đề mới phát sinh, vấn đề bức xúc, thảo luận thậm trí tranh luận để cùng
nhau đi đến thống nhất, là cơ sở để đại biểu HĐND quyết định các chủ trương,
chính sách quan trọng nhằm phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an
ninh của địa phương; thảo luận luôn được nhiều đại biểu, cử tri và Nhân dân quan
tâm chú ý theo dõi. Vì vậy, trong những năm qua, hoạt động thảo luận được
Thường trực HĐND tỉnh hết sức quan tâm, chú trọng đổi mới, nâng cao chất
lượng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh và Friedrich Ebert

Stiftung: Các kỹ năng lãnh đạo, quản lý, Nxb. Chính trị - Hành chính, H.2013.
2. Đinh Văn Mậu, Lưu Kiếm Thanh: Cẩm nang cơng tác chính quyền cấp xã,
Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2002.
3. Nguyễn Văn Thâm: Tổ chức điều hành hoạt động của các cơng sở, Nxb.
Chính trị quốc gia. Hà Nội. 2017.
4. Nguyễn Văn Thâm, Lưu Kiếm Thanh: Hướng dẫn kỹ thuật nghiệp vụ hành
chính. Nxb.Thống kê, Hà Nội. 2003.



×