Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

TIEU LUAN lãnh đạo quản lý báo chí THỰC TRẠNG của HOẠT ĐỘNG báo CHÍ TRUYỀN THÔNG ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.13 KB, 34 trang )

I.

THỰC TRẠNG CỦA HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ TRUYỀN THƠNG
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Trong những năm qua, những khó khăn của nền kinh tế thế giới và trong

nước đã có ảnh hưởng khơng nhỏ đến sự phát triển của báo chí. Với sự chỉ
đạo kịp thời của Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông
và Hội Nhà báo Việt Nam, sự quản lý trực tiếp của các cơ quan chủ quản, các
cơ quan báo chí đã có nhiều cố gắng, duy trì hoạt động, tiếp tục phát triển về
số lượng, chất lượng, hình thức và nội dung báo chí cũng như đội ngũ những
người làm báo.
Về báo chí in, tính đến tháng 3 năm 2012, cả nước có 786 cơ quan báo
chí in với 1.016 ấn phẩm. Trong đó báo có 194 cơ quan (gồm 81 báo chí
Trung ương, 113 báo địa phương); tạp chí có 592 cơ quan (475 tạp chí Trung
ương và 117 tạp chí địa phương).
Trong năm qua, sự khó khăn của doanh nghiệp đã có tác động làm suy
giảm doanh thu quảng cáo trên báo chí in. Tuy nhiên, nhìn trên bình diện tổng
thể, doanh thu quảng cáo vẫn lớn hơn năm 2010 nhưng tỷ lệ tăng trưởng có
giảm hơn so với những năm trước đó. Theo số liệu báo cáo của các cơ quan
báo chí, tổng doanh thu quảng cáo của loại hình báo chí in trong năm 2010 là
khoảng 1690 tỷ đồng; ước tính năm 2011 là khoảng trên 1700 tỷ đồng; tổng
doanh thu năm 2011 ước tính khoảng 4200 tỷ đồng, trong đó nộp ngân sách
nhà nước khoảng 300 tỷ đồng.
Về phát thanh, truyền hình, hiện tồn quốc có 67 đài Phát thanh truyền
hình Trung ương và địa phương, trong đó có 2 đài quốc gia, 1 đài truyền hình
kỹ thuật số, 64 Đài Phát thanh, truyền hình cấp tỉnh. Ngồi hệ thống truyền
hình quảng bá, hệ thống truyền hình trả tiền ở nước ta phát triển mạnh bằng
nhiều loại công nghệ truyền dẫn như cáp, vệ tinh, số mặt đất và đang bước
đầu thử nghiệm công nghệ IPTV. Cả nước có 47 đơn vị được cấp phép hoạt
động truyền hình cáp, 09 đơn vị cung cấp dịch vụ truyền dẫn tín hiệu truyền


hình cáp.Trong đó có 03 đơn vị cung cấp dịch vụ truyền dẫn tín hiệu truyền
1


hình cáp lớn nhất trong cả nước là VCTV, SCTV và HTVC. Riêng 05 cơ quan
báo hình lớn nhất của Việt Nam (Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình
Kỹ thuật số VTC, Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Nội, Đài Truyền hình
thành phố Hồ Chí Minh, Đài Phát thanh- Truyền hình Bình Dương) đã sản
xuất 62 kênh truyền hình trả tiền. Ngồi ra, trên hệ thống truyền hình trả tiền
hiện có 75 kênh truyền hình nước ngồi, phục vụ gần 2,5 triệu thuê bao trên
toàn quốc. Năm 2011, tồn ngành phát thanh- truyền hình nộp ngân sách nhà
nước 900 tỷ đồng.
Cũng tính đến tháng 3 năm 2012, trong lĩnh vực thơng tin điện tử, cả
nước có 61 báo, tạp chí điện tử, 191 mạng xã hội, hơn 1.000 trang thơng tin
điện tử tổng hợp.
Cả nước có gần 17.000 nhà báo được cấp thẻ hành nghề, hàng nghìn
phóng viên đang hoạt động báo chí chuẩn bị đến thời hạn cấp thẻ.
Nhiều cơ quan báo chí chủ động tổ chức các hoạt động xã hội từ thiện
như ủng hộ đồng bào bị thiên tai ở trong nước và quốc tế, hỗ trợ đồng bào
những vùng khó khăn, các đối tượng chính sách, tổ chức các hoạt động văn
hóa, nghệ thuật, thể thao tôn vinh các doanh nghiệp, doanh nhân, người lao
động xuất sắc.
Trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước có những diễn biến phức
tạp nhưng có thể nói báo chí đã làm tốt vai trị, trách nhiệm là cơ quan ngôn
luận của Đảng, Nhà nước và diễn đàn của nhân dân, với những kết quả đáng
ghi nhận:
- Trong năm qua, báo chí trong cả nước đã thực hiện đúng sự lãnh đạo,
chỉ đạo, định hướng thông tin của Đảng, Nhà nước, thơng tin nhanh nhạy, đầy
đủ, tồn diện về mọi diễn biến của đời sống chính trị, kinh tế - xã hội ở trong
nước và quốc tế, là diễn đàn thực sự tin cậy của nhân dân.

- Thơng tin trên báo chí in, phát thanh, truyền hình và thơng tin điện tử
đã tun truyền sâu rộng, có chất lượng, với hình thức phong phú, đa dạng về
những sự kiện trọng đại của đất nước như: Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI
2


và công tác triển khai đưa Nghị quyết Đại hội Đảng vào cuộc sống; Bầu cử
Quốc hội khóa XIII và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016; Kỳ
họp thứ nhất và thứ hai Quốc hội khóa XIII; Kỷ niệm 100 năm ngày Bác Hồ
ra đi tìm đường cứu nước, 80 năm thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh và năm Thanh Niên 2011 v.v...
Hiện nay, báo chí đang tập trung tuyên truyền việc quán triệt triển khai
thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 trong cả nước, tạo được lịng tin, thu hút
sự quan tâm của tồn Đảng, toàn dân đối với Nghị quyết quan trọng này.
- Báo chí phát huy tính chủ động, sáng tạo, tích cực tuyên truyền các giải
pháp điều hành kinh tế - xã hội của Chính phủ nhằm phát triển kinh tế, kiềm
chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao niềm
tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành của Chính phủ. Báo
chí cũng đã tập trung phản ánh một số nhiệm vụ cấp bách mà Đảng, Nhà nước
đang chỉ đạo như tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, tài chính tiền tệ, giá cả
thị trường, quản lý và sử dụng đất đai, xuất khẩu hàng hóa, xóa đói giảm
nghèo...
Bên cạnh đó, những vấn đề nóng của nền kinh tế được cả xã hội quan
tâm như sự phá sản của nhiều doanh nghiệp; nợ thuế và nợ ngân hàng của các
đơn vị kinh tế tư nhân được báo chí phản ánh với thái độ khách quan, thận
trọng, không gây bức xúc trong xã hội. Báo chí cũng đã đưa ý kiến của nhiều
chuyên gia, nhà chuyên môn đánh giá, dự báo trên tinh thần khách quan, xây
dựng, góp phần xử lý những khó khăn, vướng mắc trong sản xuất và đời sống.
Báo chí đã bám sát tư tưởng chỉ đạo, quan điểm, giải pháp của Đảng,
Nhà nước ta về những vấn đề phức tạp, nhạy cảm. Hàng trăm bài viết về chủ

đề biển đảo đăng, phát trên các phương tiện thông tin đại chúng đã thể hiện ý
thức bảo vệ chủ quyền lãnh thổ đồng thời bảo đảm môi trường hịa bình, ổn
định để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Báo chí đã góp phần quan trọng trong việc phát triển dân chủ xã hội, kịp
thời phát hiện, đấu tranh kiên quyết với những hành vi tham nhũng, lãng phí
3


và các hành vi tiêu cực xã hội khác, góp phần củng cố niềm tin của người dân
đối với Đảng, Nhà nước, chế độ.
Tuyên truyền có hiệu quả việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh”; kịp thời biểu dương những gương người tốt, việc tốt, những
điển hình tiên tiến trong lao động, học tập và bảo vệ Tổ quốc.
Báo chí đã làm tốt việc đấu tranh phản bác các quan điểm, thông tin sai
trái của các thế lực thù địch và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ cán bộ, đảng viên. Thơng tin trên báo chí đã góp phần
quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam, thành tựu đổi mới của
nhân dân ta với bạn bè quốc tế và đồng bào ta sinh sống ở nước ngoài.
Đối với các vụ việc nhạy cảm, phức tạp, báo chí đã thể hiện sự chấp
hành đúng các quy định của pháp luật; sự chỉ đạo và cung cấp thông tin của
các cơ quan chức năng, tạo được những thông tin chính xác, kịp thời góp
phần ổn định dư luận xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đáng ghi nhận, một số thiếu sót,
khuyết điểm, thậm chí là những khuyết điểm nghiêm trọng, kéo dài trong hoạt
động báo chí chậm được khắc phục đang đặt ra cho chúng ta những suy nghĩ
về trách nhiệm của những người làm báo, quản lý báo chí đối với sứ mệnh mà
Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Thêm vào đó, thơng tin khơng đúng với tơn chỉ, mục đích, khơng đúng
đối tượng phục vụ đã được quy định trong giấy phép. Đây là khuyết điểm lớn
nhất, kéo dài nhất, trong đó trách nhiệm trước hết là cơ quan báo chí, cơ quan

chủ quản báo chí và cũng phải nói đến sự thiếu kiên quyết của cơ quan quản
lý nhà nước về báo chí.
Vi phạm này cần phải được các cơ quan chủ quản, cơ quan báo chí rà
sốt xử lý và có biện pháp chấn chỉnh một cách kiên quyết. Cơ quan quản lý
nhà nước cần đưa ra thời gian thích hợp để cơ quan báo chí khắc phục. Nếu
khơng thực hiện nghiêm quy định giấy phép cần xem xét để thu hồi giấy phép
hoạt động.
4


Thơng tin thiếu nhạy cảm về chính trị, khơng phù hợp với lợi ích của đất
nước, của nhân dân, khơng phù hợp định hướng thông tin. Đây là dạng sai
phạm có tác động xấu đến dư luận xã hội, là kẽ hở để báo chí nước ngồi, các
trang tin điện tử của các thế lực chống đối lợi dụng để xuyên tạc.
Khuyết điểm này trước hết thuộc về người đứng đầu, Ban biên tập và
người biên tập. Qua xem xét các vi phạm trong năm qua có thể nhận thấy
những vi phạm trong quy trình biên tập, duyệt bài là rất nghiêm trọng dẫn đến
những sai phạm có tác động xấu đến dư luận xã hội.
Thơng tin bịa đặt hồn toàn đã diễn ra ở một số tờ báo. Như bịa đặt bài
phỏng vấn khi không phỏng vấn. Từ tin đồn, tin từ mạng xã hội không được
kiểm chứng biến thành tin chính thức trên báo chí.
Thơng tin sai sự thật, gây ảnh hưởng xấu hoặc xúc phạm uy tín, danh dự
của tổ chức, nhân phẩm của công dân. Dạng sai phạm này tuy được thường
xuyên nhắc nhở, xử lý nhưng vẫn tiếp tục xảy ra ở một số cơ quan báo chí của
tất cả các loại hình báo chí.
Có bài báo, tờ báo thông tin sai sự thật, thiếu kiểm chứng, khơng khách
quan, mang tính một chiều. Đơn cử, liên quan vụ cưỡng chế, thu hồi đất ở Tiên
Lãng (Hải Phòng) mặc dù đã được Ban Tuyên giáo Trung ương và Bộ Thông
tin và Truyền thông 4 lần nhắc nhở, định hướng nhưng có một số tờ báo vẫn
thơng tin dồn dập, quá liều lượng cần thiết, mất cân đối với những vấn đề quan

trọng khác của đất nước. Đáng lưu ý, trong khi nhấn mạnh sai phạm của chính
quyền ở Tiên Lãng, Hải Phịng, lại thơng tin “nương nhẹ” về những vi phạm,
sai phạm của ơng Đồn Văn Vươn theo kết luận của Bộ Tài nguyên và Môi
trường và các cơ quan chức năng. Một số báo thông tin, bình luận có tính suy
diễn, cho rằng, gốc của vấn đề, vụ việc là do sở hữu toàn dân về đất đai trong
khi thực ra, nguyên nhân chủ yếu do nhận thức, thực hiện sai các quy định
pháp luật đất đai về cho thuê đất, thu hồi đất, cưỡng chế đất cũng như do các
quy định về quản lý đất đai thiếu đồng bộ, chống chéo, phức tạp.

5


Thông tin không phù hợp với thuần phong mỹ tục, văn hố Việt Nam
vẫn cịn khá phổ biến trên các trang báo mạng và nhiều trang thông tin điện
tử. Đặc biệt trên các báo điện tử có q nhiều hình ảnh phụ nữ hở hang bị dư
luận phản ứng gay gắt.
Một số vụ án, lúc đầu báo chí đưa tin chuẩn xác nhưng một số tờ báo,
trang tin điện tử khai thác, suy diễn quá nhiều theo hướng khác nhau dẫn đến
sai lệch bản chất vụ việc, vi phạm pháp luật.
Tình trạng từ thơng tin sai của một tờ báo, nhiều báo khác khơng kiểm
chứng đã đưa lại, thậm chí suy diễn thêm nên từ một tin sai trên một báo,
thành nhiều tin sai trên nhiều báo.
Nhiều thông tin thiếu thẩm mỹ, vơ bổ, có lúc cịn mang tính săm soi, lại
được các phóng viên, các báo khai thác quá nhiều như tin, ảnh về đời tư,
những hớ hênh của nghệ sỹ, người mẫu trong và ngồi nước.
Tình trạng sai về văn phạm, chính tả diễn ra khá phổ biến ở nhiều báo
điện tử; phát âm tiếng Việt thiếu chuẩn mực, đọc sai, đọc vấp ở một số phát
thanh viên làm mất đi sự chuẩn mực và trong sáng của tiếng Việt, vi phạm
quy định của Luật Báo chí.
Một số chương trình giải trí trên truyền hình, nhất là các chương trình

liên kết khơng được kiểm tra, thẩm định đưa lên những hình ảnh, lời nói phản
cảm, gây bất bình trong dư luận xã hội.
Tình trạng đưa tin quá nhiều về các vụ án, vụ việc tiêu cực trên một số
báo, trang báo, miêu tả quá tỉ mỉ, chi tiết các hành vi tội ác, gây cảm giác
nặng nề, u ám trong đời sống xã hội có xu hướng khơng giảm. Có những vụ
việc bình thường xảy ra ở một địa phương nhưng báo chí cả nước đồng loạt
đưa tin với mức độ như nhau, không phân biệt chức năng, nhiệm vụ, tơn chỉ
mục đích khác nhau, có khi dồn dập hàng trăm tin, bài tạo ra cảm giác vụ việc
quá khủng khiếp gây nên tâm lý hoang mang trong xã hội.
Một số nhà báo còn lợi dụng danh nghĩa nhà báo, cơ quan báo chí dọa
dẫm, sách nhiễu địa phương, doanh nghiệp để vụ lợi, vi phạm đạo đức nghề
nghiệp và quy trình tác nghiệp dẫn đến vi phạm pháp luật bị xử lý.

6


II. THỰC TRẠNG LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ BÁO CHÍ TRUYỀN
THƠNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý báo chí
Trong thời kỳ đất nước đang có chiến tranh, nền kinh tế lạc hậu do cơ
chế quan liêu bao cấp nên việc quản lý xã hội nói chung chủ yếu dựa trên các
Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng chứ chưa xây dựng một Nhà nước pháp quyền
quản lý xã hội bằng pháp luật. Công cuộc đổi mới do Đảng ta lãnh đạo đã trải
qua một chặng đường đầy thử thách, cam go nhưng cũng đầy sáng tạo, mang
lại những chuyển biến toàn diện về kinh tế và xã hội. Đảng ta đã xác định:
báo chí vừa là tiếng nói của Đảng, của Nhà nước, của các đồn thể, vừa là
diễn đàn của nhân dân – qua đó nối kết Nhà nước với quần chúng, là cầu nối
giữa Đảng với nhân dân.
Chúng ta đã biết lãnh đạo là đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức động
viên thực hiện, còn quản lý là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những

yêu cầu nhất định. Theo đó lãnh đạo báo chí là sự định hướng về thông tin,
vạch ra đường lối, chiến lược thông tin; quản lý báo chí là việc sắp xếp, quy
hoạch hệ thống báo chí và tổ chức kiểm tra giám sát các hoạt động báo chí
bằng pháp luật.
Có thể lấy ví dụ: ngay từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Đảng ta đã
sớm nhìn thấy những biểu hiện lệch lạc của báo chí trong thời kỳ đầu của
cơng cuộc đổi mới. Phân tích, đánh giá tình hình này, Chỉ thị 63/CT-TW
(ngày 25/7/1990) của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã phê phán: “Một số cơ
quan báo, tạp chí, nhà xuất bản khơng thực hiện đúng tơn chỉ mục đích, chức
năng của mình… Khuynh hướng “giật gân”, câu khách, kiếm tiền trong một
số cơ quan báo chí, nhà xuất bản cho ra thị trường những ấn phẩm gây hại
lớn đến việc xây dựng con người mới, nền văn hoá mới, làm cho dư luận bất
bình; có báo, tạp chí đăng quảng cáo quá nhiều, quảng cáo cả cho kẻ lừa và
làm hàng xấu”.
Sau hai năm, trước diễn biến theo chiều hướng tiêu cực của nhiều sản
phẩm báo chí, Chỉ thị 08/CT-TW (ngày 31/3/1992) của Ban Bí thư tiếp tục phê
phán nghiêm khắc hơn và chính thức dùng cụm từ “thương mại hoá” để chỉ
7


khuynh hướng chạy theo lợi nhuận đơn thuần báo chí: “Khuynh hướng thương
mại hoá, chạy theo lợi nhuận đơn thuần, khá nặng nề dẫn tới đua nhau đăng và
phát những tin, bài, hình ảnh giật gân, câu khách. Cũng có một số bài báo,
quyển sách có khuynh hướng chính trị lệch lạc, phủ định quá khứ tốt đẹp, miêu
tả đen tối thực trạng, tuyên truyền cho lối sống chủ nghĩa thực dụng.
Trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (khoá VIII) về Xây
dựng nền văn hoá Việt Nam tiến tiến đậm đà bản sắc dân tộc, khuynh hướng
thương mại hố trong báo chí tiếp tục được Đảng ta phê phán: “Khuynh
hướng “thương mại hoá”, lạm dụng quảng cáo để thu lợi cịn khá phổ biến.
Một số ít nhà báo đã vi phạm đạo đức nghề nghiệp, thông tin thiếu trung thực,

gây tác động xấu đến dư luận xã hội”
Tuy đã được phát hiện và uốn nắn sớm, nhưng khuynh hướng thương
mại hố trên báo chí nước ta sau đó khơng những khơng bị đẩy lùi, hạn chế
mà cịn phát triển trầm trọng hơn. Chỉ thị 22/CT-TW (ngày 17/10/1997) của
Bộ Chính trị (khố VIII) về Tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản
lý công tác báo chí, xuất bản đã nhận định: “Một bộ phận báo chí, xuất bản bị
khuynh hướng thương mại và cơ chế thị trường chi phối, chạy theo thị hiếu
tầm thường, đăng tải những chuyện giật gân, tình dục, bạo lực, mê tín dị đoan
hoặc những chuyện vụn vặt. Một số sách, báo, tạp chí, nhất là các số phụ, số
chuyên đề xa rời tơn chỉ mục đích và đối tượng phục vụ, nhất là đối với công
nhân, nông dân”
Tại Hội nghị báo chí, xuất bản tồn quốc (tháng 10/2001), Trong Báo cáo
của Ban Tư tưởng – Văn hoá Trung ương, phần đánh giá tình hình báo chí qua
4 năm thực hiện Chỉ thị 22 của Bộ Chính trị tiếp tục nêu nhận xét gay gắt: “Xu
hướng thương mại hố ở khơng ít cơ quan báo chí và xuất bản chậm được ngăn
chặn, đẩy lùi, nhiều mặt còn nghiêm trọng hơn, thể hiện rõ nét ở cách làm báo,
làm sách giật gân, câu khách, kích thích thị hiếu thấp hèn, tị mị, chuộng lạ của
một bộ phận độc giả thị dân và những đối tượng trình độ văn hố thấp. Biểu
hiện của xu hướng thương mại hoá ngày càng tinh vi, phức tạp”.
Vai trò chỉ đạo và tập trung của Đảng đối với báo chí khơng phải là bắt
tay chỉ việc mà là định hướng. Sự định hướng đó thể hiện trong các đường lối,
8


quan điểm, nội dung thơng tin tun truyền. Đó là việc đi trước nắm bắt tình
hình để dự báo các động thái trong nước và thế giới, giúp cơ quan báo chí có
điều kiện giữ đúng định hướng thơng tin như Nghị quyết Đại hội IX của Đảng
đã nêu rõ: “Hướng báo chí xuất bản làm tốt chức năng tuyên truyền, thực hiện
đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, phát hiện những
nhân tố mới, cái hay, cái đẹp trong xã hội, giới thiệu gương người tốt việc tốt,

những điển hình tiên tiến, phê phán các hiện tượng tiêu cực, uốn nắn những
nhận thức lệch lạc, đấu tranh với những quan điểm sai trái; coi trọng nâng cao
tính chân thật, tính giáo dục và tính chiến đấu của thơng tin; khắc phục
khuynh hướng “thương mại hố” trong hoạt động báo chí, xuất bản”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong thời kỳ đổi mới, báo chí nước ta đã tập
trung nhiều cơng sức cùng tồn Đảng, tồn dân thực hiện cuộc đấu tranh
chống tiêu cực, tham nhũng, buôn lậu, lãng phí, bài trừ các tệ nạn xã hội,
chống mê tín dị đoan… góp phần lập lại trật tự, kỷ cương, lành mạnh hố
quan hệ xã hội. Có thể khẳng định rằng: trong cơng cuộc thực hiện cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, báo chí nước ta đã đóng vai trị quan trọng
trong việc củng cố niềm tin của tầng lớp nhân dân vào đường lối đúng đắn
của Đảng và Nhà nước.
Cuộc đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hồ bình” của kẻ thù hiện nay
đang đặt ra cho việc quản lý báo chí nhiều vấn đề phải giải quyết, địi hỏi phải
có nhận thức mới trên nhiều phương diện. Chính điều đó sẽ giúp cho những
người làm báo nhìn thấy rõ tính hai mặt của cơ chế thị trường ở nước ta hiện
nay trong bối cảnh của tồn cầu hố, khu vực hố và có thái độ vững vàng
trước những khẩu hiệu loè bịp về “tự do báo chí” mà các thế lực phản động
vẫn đang rêu rao hòng che đậy bản chất xấu xa của nền báo chí tư bản.
Để tiếp tục khẳng định vị trí của báo chí nước ta trong thời kỳ đổi mới,
tiếp tục tạo ra những tác động tích cực cho cơng cuộc xây dựng, phát triển đất
nước, điều quan trọng nhất đối với hệ thống báo chí là phải tiếp tục nâng cao
chất lượng nội dung và hình thức. Muốn vậy, càng cần phải tăng cường sự
9


lãnh đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước đối với báo chí theo quan điểm
phát triển phải đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng.
Trong cơng cuộc đổi mới, thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất
nước những năm vừa qua, báo chí đã đóng vai trị quan trọng trong việc củng

cố niềm tin của tầng lớp nhân dân vào đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà
nước. Rõ ràng là trong những thành cơng của đất nước có thành cơng của báo
chí và sự nghiệp đổi mới của đất nước muốn thành cơng thì khơng thể thiếu
sự tham gia đắc lực của báo chí.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu khơng thể phủ nhận, nền báo chí
của chúng ta hiện nay cũng đang thể hiện nhiều hạn chế, nhược điểm, thiếu
sót… Điều đó cho thấy sự cần thiết của việc hoạch định những chiến lược,
chính sách để phát triển hệ thống báo chí.
Đến nay, hệ thống các văn bản pháp luật, chính sách, chế độ đối với báo
chí ở nước ta đã tương đối hồn chỉnh. Tuy nhiên, cơng tác quản lý báo chí
theo quy định của Luật báo chí và các văn bản hướng dẫn thi hành luật vẫn
còn nhiều bất cập. Hiện vẫn đang đặt ra yêu cầu cần có một tổ chức có đủ
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn để thực hiện vai trò quản lý. Nhiều lĩnh vực
như phát thanh, truyền hình, mạng Internet, báo chí Việt Nam ở nước ngồi,
báo chí nước ngồi ở Việt Nam… vẫn chưa được quản lý tốt.
Sự quản lý của Nhà nước cịn thể hiện trong cơng tác quy hoạch hệ thống
báo chí. Việc quy hoạch hợp lý hệ thống báo chí trong cả nước nhằm tạo ra sự
thống nhất, tính hợp lý để báo chí có thể phát huy tốt nhất hiệu quả thông tin,
tuyên truyền phục vụ nhân dân trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Cùng với việc động viên, phát huy những yếu tố tích cực trong hoạt động
báo chí, cần phải xử lý nghiêm những cơ quan báo chí, nhà báo vi phạm
những quy định trong hoạt động báo chí. Đối với những nhà báo phạm luật,
cần phải lên án mạnh mẽ và luật pháp cần phải nghiêm khắc trừng trị (như
trường hợp các nhà báo trong vụ án “Trương Văn Cam và đồng bọn”). Chỉ có
như thế mới từng bước làm cho hệ thống báo chí của chúng ta trở nên trong
10


sạch, lấy lại niềm tin của nhân dân. Mà muốn như vậy Nhà nước không thể bỏ
qua việc giám sát, kiểm tra, xử lý. Các cơ quan quản lý báo chí thường xuyên

kiểm tra giám sát các cơ quan báo chí thực hiện Luật báo chí, làm tham mưu
cho cấp uỷ Đảng chính quyền về những vấn đề mới nảy sinh để có biện pháp
xử lý kịp thời.
Việc giám sát, kiểm tra, xử lý địi hỏi sự góp sức của nhiều cấp, nhiều
ngành, trong đó có vai trị quan trọng của các cơ quan luật pháp và của chính
các cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản báo chí cùng với các cơ quan làm
nhiệm vụ quản lý báo chí từ Trung ương đến địa phương.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta ln có sự quan tâm đặc
biệt đến công tác đào tạo, đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ của người phóng
viên báo chí. Tuy nhiên, để phát triển một nền báo chí phục vụ cơng cuộc đổi
mới trong giai đoạn cơng nghiệp hố, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ
nghĩa trong bối cảnh mới, vẫn đang rất cần những giải pháp hiệu quả nhằm
nâng cao chất lượng của công tác đào tạo, đào tạo lại đối với đội ngũ cán bộ
báo chí ở nước ta.
Trong hoàn cảnh tiếp tục sự nghiệp đổi mới trong cơ chế thị trường,
pháp luật đã trở nên phương tiện hàng đầu trong việc quản lý xã hội nói
chung, quản lý báo chí nói riêng. Để xây dựng Nhà nước pháp quyền thực
hiện quản lý xã hội bằng pháp luật trên cơ sở Hiến pháp thì việc đầu tiên là
phải khẩn trương hoàn thiện và bổ sung hệ thống pháp luật sao cho nó thực sự
là cơng cụ để Nhà nước quản lý xã hội, đáp ứng yêu cầu hợp tác quốc tế, phù
hợp với tiến trình phát triển xã hội.
Báo chí là một lĩnh vực riêng, đồng thời phải hoạt động theo luật pháp
nói chung. Vì thế, hoạt động báo chí cũng như hoạt động của cơng tác quản lý
Nhà nước đối với báo chí trước hết phải được đặt trên cơ sở một hệ thống
pháp luật. Các hoạt động luật pháp, hành pháp, tư pháp của Nhà nước về báo
chí phải ln ln được hồn thiện phù hợp với yêu cầu đổi mới đất nước.
Luật Báo chí (do Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá
11



VIII ban hành năm 1989) đã xác lập hành lang pháp luật về báo chí, đặt cơ sở
pháp lý cho hoạt động báo chí nước ta phát triển đúng định hướng…
Quá trình quản lý Nhà nước bằng pháp luật trở thành yếu tố quan trọng
quyết định sự thành bại của cơng cuộc đổi mới – trong đó có hoạt động báo
chí. Thời gian qua, Chính phủ ta đã ban hành một loạt văn bản mới, khẳng
định quyết tâm của Đảng, Nhà nước ta trong việc phát triển nền tảng cho một
xã hội thông tin dựa trên nền kinh tế tri thức và phục vụ sự nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Sự phát triển nhanh chóng của báo chí và những đòi hỏi của nhân dân
đang đặt ra những đòi hỏi ngày càng tăng đối với những người làm cơng tác
quản lý Nhà nước về báo chí. Nền báo chí cách mạng nước ta khơng thể để
khuynh hướng thương mại hóa chi phối hoạt động báo chí. Để tiếp tục xứng
đáng với sự tin cậy của Đảng và nhân dân, báo chí Việt Nam cần kiên quyết
khắc phục những hiện tượng trên.
Tăng cường quản lý báo chí cũng chính là tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng được thể hiện thông qua hoạt động quản lý của bộ máy Nhà nước
các cấp các ngành, các địa phương. Đây là một bảo đảm chắc chắn cho báo
chí có thể phát triển ngày càng lớn mạnh, đồng thời cũng để Đảng kịp thời
phát hiện, khắc phục những thiếu sót, ngăn chặn những âm mưu nham hiểm
của kẻ thù nhằm lợi dụng báo chí để phá hoại cơng cuộc đổi mới phát triển
đất nước của nhân dân ta.
Nói tóm lại, quản lý tốt chính là tạo một khn khổ pháp lý cơ bản, tạo
mơi trường tự do sáng tạo, bình đẳng cho báo chí phát triển, đồng thời là hoạt
động bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong hoạt động báo chí, chống xu
hướng thương mại hố báo chí, bảo tồn, phát triển nền văn hoá dân tộc, ngăn
chặn các hoạt động báo chí bất chấp hậu quả về chính trị, tư tưởng và văn
hoá. Lợi nhuận của hoạt động báo chí khơng thể tách rời các mục tiêu hàng
đầu về chính trị, tư tưởng và văn hố.

12



2. Thực trạng quản lý báo chí ở các cấp
Những năm qua, báo chí cả nước đã tích cực tuyên truyền chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước; thông tin sinh động về công cuộc đổi mới, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc; phản ánh trung thực tâm tư, nguyện vọng chính đáng
của nhân dân; góp phần tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; cổ vũ, động
viên phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, biểu dương các nhân tố mới; tích
cực đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, chống âm mưu “diễn
biến hồ bình”; góp phần giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy cơng cuộc đổi
mới và dân chủ hố trong đời sống xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân đối
với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Báo chí cách mạng cịn góp phần tích
cực giúp nhân dân thế giới ngày càng hiểu rõ hơn đường lối, chính sách đúng
đắn và những thành tựu đổi mới to lớn của nước ta.
Để tiếp tục khẳng định vị trí của báo chí nước ta trong thời kỳ đổi mới,
tiếp tục tạo ra những tác động tích cực cho cơng cuộc xây dựng, phát triển đất
nước, điều quan trọng nhất đối với hệ thống báo chí là phải tiếp tục nâng cao
chất lượng nội dung và hình thức. Muốn vậy, càng cần phải tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng và QLNN đối với báo chí theo quan điểm phát triển phải
đi đơi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng.
Trong bối cảnh hiện nay, cần phải có một cơ chế kiểm tra, giám sát báo
chí thật chặt chẽ và linh hoạt. Điều đó sẽ giúp cho các cơ quan báo chí kiên
quyết chống xu hướng xa rời tơn chỉ, mục đích; chống xu hướng né tránh
chính trị, “trung lập hố” báo chí. Cơng tác này cịn làm cho hoạt động báo
chí gắn liền với thực tiễn sản xuất và đời sống, phản ánh sinh động phong trào
cách mạng, phong trào thi đua yêu nước của các tầng lớp nhân dân ở khắp
mọi miền đất nước, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn.
Báo chí, xuất bản nước ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của
Nhà nước, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Đảng lãnh đạo, Nhà nước

quản lý báo chí là điều kiện để báo chí hoạt động đúng mục đích và có hiệu
13


quả. Nhà nước quản lý báo chí bằng hệ thống các văn bản pháp luật. Muốn
quản lý có hiệu quả, đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được hệ thống pháp luật
hoàn chỉnh, khoa học, sát với thực tiễn cuộc sống.
Sẽ là sai lầm và phiến diện khi cho rằng sự lãnh đạo của Đảng và quản lý
của Nhà nước sẽ là “bó hẹp”, “thắt chặt”... như một số thế lực rêu rao. Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý báo chí chính là nhằm phát huy tính sáng tạo của
đội ngũ nhà báo, giúp họ nhận thức rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của mình, đồng
thời phát hiện và sửa chữa những khuyết điểm, lệch lạc, yếu kém của bản
thân. Quản lý cũng là sự thảo luận, hướng dẫn, rút kinh nghiệm và giúp đỡ
người làm báo trong nhiệm vụ giữ vững định hướng chính trị, giữ gìn bản sắc
văn hố, đạo đức của dân tộc, nâng cao dân trí, củng cố lịng tin, hồn thiện
con người.
QLNN đối với báo chí cịn thể hiện trong cơng tác quy hoạch hệ thống
báo chí. Việc quy hoạch hợp lý hệ thống báo chí trong cả nước nhằm tạo ra sự
thống nhất, tính hợp lý để báo chí có thể phát huy tốt nhất hiệu quả thông tin,
tuyên truyền phục vụ nhân dân trong công cuộc đổi mới hiện nay.
II.1.

Ở cấp trung ương

Theo quy định của Luật Báo chí năm 1999 (đã sửa đổi, bổ sung), cơ
quan quản lý nhà nước về báo chí gồm: cơ quan quản lý nhà nước về báo chí
ở trung ương (Bộ Thông tin và truyền thông); các bộ, cơ quan ngang bộ; cơ
quan quản lý nhà nước về báo chí ở địa phương (UBND tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương)
Thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được Luật Báo chí quy định,

Bộ Thơng tin và truyền thơng thực hiện chức năng quản lý nhà nước về báo
chí trên nhiều lĩnh vực, điển hình là các lĩnh vực sau:
Một là xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và
phát triển sự nghiệp báo chí. Đây là hoạt động này được Bộ Thơng tin và
truyền thông thực hiện nghiêm túc, đúng định hướng và sự chỉ đạo của lãnh
đạo Đảng và Nhà nước. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị và Thủ
14


tướng Chính phủ, “Bộ đã và đang tiếp tục tiến hành rà soát chức năng, nhiệm
vụ các cơ quan báo chí, xác định những ấn phẩm chồng chéo về tơn chỉ, mục
đích, chức năng, nhiệm vụ, khơng phù hợp quy hoạch đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt năm 1999; trình Thủ tướng Chính phủ ký ban hành
“Chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010”... xây dựng quy hoạch hệ
thống báo chí in tồn quốc”. Tuy nhiên, việc quy hoạch làm không đều, liên
tục. Thêm nữa, công tác quản lý nhà nước về báo chí cịn “thiếu chủ động
trong định hướng chiến lược; chạy theo vụ việc, lúng túng trong quy hoạch,
sắp xếp”.Thực tế hoạt động báo chí hiện nay vẫn tồn tại hiện tượng vừa thừa,
vừa thiếu, nhất là tình trạng có nhiều tờ báo trùng lắp về nội dung và thiếu ở
chỗ nội dung một số mảng đề tài không được đề cập đến, nhất là mảng đề tài
về các ngành khoa học. Thừa, thiếu còn thể hiện ở việc báo được xuất bản,
phát hành phân bố khơng đều, tập trung chủ yếu ở thành thị, cịn nông thôn,
nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi, nhân dân có rất ít báo hoặc khơng
có báo để đọc. “Nhiều cơ quan báo chí chỉ coi trọng địa bàn thành phố, thị xã
vì ở đó có thể phát hành được nhiều, cịn các địa bàn khác khơng được quan
tâm đúng mức. Tình trạng đó dẫn đến mức hưởng thụ sách báo quá chênh
lệch giữa thành phố, thị xã và vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Hiện nay, 75% báo chí chủ yếu phát hành ở thành phố, thị xã, vùng trung tâm,
cịn 25% báo chí phát hành ở vùng nông thôn” (3).
Hai là xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm

pháp luật về báo chí
Từ năm 1999 đến nay, Bộ Thơng tin và truyền thơng đã chủ trì, phối hợp
xây dựng và trình Chính phủ ký ban hành, tự ban hành hơn 30 văn bản quy
phạm pháp luật trong lĩnh vực báo chí. Cùng với Luật Báo chí, các văn bản
pháp luật này bước đầu phục vụ có hiệu quả cơng tác quản lý báo chí. Tuy
nhiên, với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin và sự thay đổi
nhanh chóng của đời sống thì nhìn chung, các văn bản quy phạm pháp luật
này còn thiếu đồng bộ, việc sửa đổi, bổ sung chậm được tiến hành. Với chức
15


năng là cơ quan quản lý cấp trung ương, Bộ Thông tin và truyền thông chưa
kịp thời, chủ động trong việc tổ chức tập huấn triển khai nội dung các văn bản
pháp luật cho cán bộ quản lý của các sở; đề xuất, kiến nghị, xây dựng văn bản
liên quan đến báo chí cịn hạn chế.
Ba là thanh tra, kiểm tra hoạt động báo chí
Hoạt động thanh tra, kiểm tra báo chí đang ngày càng đi vào nề nếp. “Từ
năm 1999 đến nay, Bộ đã tiếp nhận và giải quyết hơn 1.750 đơn thư khiếu nại,
tố cáo, phản ánh về những thơng tin khơng chính xác trên báo chí do các cá
nhân, tổ chức trong cả nước gửi tới liên quan đến gần 1.000 vụ việc”. Một số
nhà báo lợi dụng uy tín nghề nghiệp làm trái với đạo đức, trách nhiệm của
người làm báo, vi phạm Luật Báo chí đã bị xử lý nghiêm bằng các hình thức:
cảnh cáo, tịch thu thẻ nhà báo, phê bình, khiển trách. Những người đứng đầu
cơ quan báo chí có người vi phạm, do bng lỏng quản lý cũng phải chịu
những hình thức kỷ luật đúng mức.
Lưu chiểu là một khâu quan trọng của quản lý nhà nước về báo chí nhằm
thực hiện chức năng kiểm tra trước khi cho lưu hành nhưng hiện nay, vẫn có
một số tạp chí khơng thực hiện nộp lưu chiểu hoặc lưu chiểu không đúng thời
hạn theo quy định của pháp luật. Điều đó dẫn đến việc phát hiện chậm các vi
phạm, gây khơng ít khó khăn cho quá trình xử lý và để lại hậu quả phức tạp.

Hơn nữa, “khối lượng công việc phải xử lý trong cơng tác quản lý nhà nước
về báo chí ngày càng nhiều và phức tạp, trong khi đó, đội ngũ cán bộ quản lý
còn thiếu và yếu, một bộ phận cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu của công tác
quản lý trong tình hình mới”.
II.2.

Ở các bộ, cơ quan ngang bộ

Các bộ, cơ quan ngang bộ - với vai trò là cơ quan chủ quản báo chí - đã
có nhiều cố gắng trong công tác chỉ đạo, quản lý cơ quan báo chí thuộc quyền
trong việc thực hiện phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch hoạt động; đồng thời
tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ báo chí đảm bảo các tiêu chuẩn về
chính trị, nghiệp vụ. Nhiều cơ quan chủ quản báo chí đã chủ động xây dựng
16


quy chế quản lý cơ quan báo chí thuộc quyền, tạo điều kiện cho cơ quan báo
chí hoạt động đúng quy định, có sự rành mạch, thống nhất trong chỉ đạo, quản
lý và trong công tác phối hợp của cơ quan báo chí với các đơn vị liên quan
thuộc Bộ Thông tin và truyền thông.
Tuy nhiên trên thực tế, mối quan hệ giữa cơ quan chủ quản và cơ quan
báo chí theo luật định chưa được thực hiện một cách rõ ràng, rành mạch.
Nhiều trường hợp cơ quan chủ quản bng lỏng vai trị, trách nhiệm của
mình. Một số cơ quan chủ quản không kiên quyết sáp nhập những tờ báo có
tơn chỉ, mục đích trùng lặp, hoặc khơng đình chỉ những cơ quan báo chí thiếu
các điều kiện đảm bảo cho tờ báo hoạt động bình thường, gây khó khăn cho
việc quy hoạch hệ thống báo chí cả nước… Tình trạng bng lỏng chỉ đạo,
quản lý của một số cơ quan chủ quản vẫn diễn ra. Khơng ít tờ báo xa rời tơn
chỉ mục đích, chạy theo mục đích thương mại, không chấp hành nghiêm túc
sự chỉ đạo, quản lý của cấp trên. Báo thuộc lĩnh vực này lại đưa tin về lĩnh

vực khác, nhiều khi những sự kiện lớn của ngành mình, lĩnh vực mình lại
phản ánh rất mờ nhạt, nhưng cơ quan chủ quản vẫn bỏ qua hoặc có nhắc nhở
nhưng cơ quan báo chí khơng thực hiện thì cũng khơng xử lý. Tiêu chuẩn, quy
trình bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo báo chí của nhiều cơ quan chủ quản thực hiện
khơng chặt chẽ. Khơng ít cơ quan chủ quản phó mặc cho cơ quan báo chí
tuyển chọn phóng viên, cộng tác viên, thu nhận cả những người không đủ tư
cách đạo đức, chuyên môn vào làm báo. Có cơ quan chủ quản sau khi xin ra
số phụ đã khoán trắng cả về nội dung lẫn kinh phí.
Vẫn cịn hiện tượng cơ quan chủ quản bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo báo chí
khơng được đào tạo chun môn, nghiệp vụ. Một số cơ quan chủ quản báo chí
khơng thực hiện đúng quy trình bổ nhiệm, miễn nhiện cán bộ, không gửi văn
bản thỏa thuận tới cơ quan quản lý nhà nước. Một số cơ quan xin thành lập cơ
quan báo chí khi chưa đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật như: điều
kiện về trụ sở, trang thiết bị, nguồn tài chính, tổ chức bộ máy, cán bộ...

17


Một số cơ quan báo chí chấp hành sự chỉ đạo khơng nghiêm túc, thường
xun vi phạm hoặc có những vi phạm nghiêm trọng, Bộ Thông tin và truyền
thông đã nhắc nhở, phê bình nhiều lần nhưng cơ quan chủ quản khơng tích
cực chấn chỉnh, xử lý kỷ luật; hoặc xử lý không nghiêm.
II.3.

Ở địa phương

Trong thời gian qua, các Sở Thông tin và truyền thông đã chú trọng thực
hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về báo chí ở địa phương. Các Sở cũng chú
trọng công tác tham mưu cho Tỉnh ủy, Thành ủy, UBND tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương về quy hoạch báo chí; soạn thảo mới, cụ thể hóa, hướng dẫn

việc thực hiện các văn bản pháp quy về báo chí trên cơ sở nội dung của Luật
Báo chí và Nghị định 51/2002/NĐ-CP; thực hiện tốt chức năng quản lý hoạt
động của các Văn phòng đại diện và phóng viên thường trú của báo chí trung
ương và địa phương khác trên địa bàn…
Tuy nhiên, công tác quản lý báo chí ở địa phương cịn những mặt hạn
chế. Nhiều địa phương chưa có bộ phận, thậm chí chưa có cán bộ chun
trách quản lý báo chí, xuất bản. Trong công tác quản lý hoạt động phát thanh,
truyền hình, Internet - lĩnh vực có tính đặc thù, địi hỏi phải có kiến thức về
cơng nghệ, kỹ thuật - trình độ, năng lực của cán bộ quản lý ở một số địa
phương còn chưa đáp ứng được yêu cầu; đa số địa phương chưa có kinh phí
đầu tư trang thiết bị đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng và phức tạp của công
tác quản lý. UBND và Sở Thông tin và truyền thông một số tỉnh, thành phố
chưa nhận thức hết vai trò, trách nhiệm lãnh đạo, quản lý các đài phát thanh,
truyền hình thuộc quyền quản lý của mình. Một số địa phương, mặc dù có
nhiều cơ quan báo chí, nhưng cho đến nay vẫn khơng có tổ chức bộ máy hoặc
cán bộ chuyên trách giúp UBND thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
báo chí. Một số địa phương thực hiện việc xử lý vi phạm của cơ quan báo chí
khơng nghiêm, có nơi khơng thực hiện đúng thẩm quyền

18


3.

Những hạn chế và vấn đề đặt ra cho hoạt động quản lý báo chí

truyền thơng ở nước ta hiện nay
Đến nay, hệ thống các văn bản pháp luật, chính sách, chế độ đối với báo
chí ở nước ta đã tương đối hồn chỉnh. Tuy nhiên, cơng tác quản lý báo chí
theo quy định của Luật Báo chí và các văn bản hướng dẫn thi hành luật vẫn

còn nhiều bất cập và đang tiếp tục được sửa đổi, bổ sung.
Một số cơ quan báo chí thiếu nhạy bén chính trị, chưa làm tốt chức năng
tư tưởng, văn hố, có biểu hiện xa rời sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí của
Nhà nước, xa rời tơn chỉ, mục đích, thơng tin khơng trung thực, thiếu chính
xác, phản ánh nhiều về tiêu cực và tệ nạn xã hội, ít tuyên truyền các điển hình
tiên tiến, gương người tốt, việc tốt, cổ vũ phong trào thi đua yêu nước;
khuynh hướng tư nhân hố, thương mại hố báo chí, tư nhân núp bóng để ra
báo, kinh doanh báo chí ngày càng tăng…
Từ hoạt động thực tiễn, chúng tôi thấy, một số tồn tại, khuyết điểm của
báo chí vẫn diễn ra. Biểu hiện rõ nhất đó là việc khơng ít cơ quan báo chí
“ngại” phản ánh những nhân tố điển hình, gương người tốt, việc tốt, thay vào
đó là những thơng tin giật gân, câu khách. Đơn cử khi phản ánh về lĩnh vực
giáo dục và đào tạo, nhiều phóng viên báo chí chỉ “nhăm nhăm” tìm những
mặt trái để thơng tin và chủ yếu tập trung ở các đô thị lớn, trong khi rất nhiều
những tấm gương hy sinh “chở tri thức” lên vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn
thì ít khi được xuất hiện trên các ấn phẩm báo chí. Hoặc, trong lĩnh vực an
ninh - trật tự, nhất là khi có những vụ án giết người đặc biệt nghiêm trọng, đã
có cơ quan báo chí dành cả hai hoặc ba trang để miêu tả hành vi giết người
man rợ để rồi lấn át hết các sự kiện lớn khác diễn ra cùng thời điểm...
Thông tin không đúng với tôn chỉ, mục đích, khơng đúng đối tượng
phục vụ đã được quy định trong giấy phép. Đây là khuyết điểm lớn nhất,
kéo dài nhất, trong đó trách nhiệm trước hết là cơ quan báo chí, cơ quan
chủ quản báo chí và cũng phải nói đến sự thiếu kiên quyết của cơ quan
QLNN về báo chí. Tình trạng báo của ngành này, địa phương này nhưng lại
19


đưa thông tin nhiều về ngành khác, địa phương khác, mà lại chủ yếu là các
vấn đề tiêu cực, thông tin một chiều, thiếu kiểm chứng, làm cho báo chí
thiếu bản sắc, trùng lặp thơng tin, thiếu tính định hướng của tờ báo đã gây

nên sự bức xúc trong nhiều năm.
Thơng tin thiếu nhạy cảm về chính trị, khơng phù hợp với lợi ích của đất
nước, của nhân dân, khơng phù hợp định hướng thông tin. Đây là dạng sai
phạm có tác động xấu đến dư luận xã hội, là kẽ hở để báo chí nước ngồi, các
trang tin điện tử của các thế lực chống đối lợi dụng để xuyên tạc. Khuyết
điểm này trước hết thuộc về người đứng đầu, ban biên tập và người biên tập.
Qua xem xét các vi phạm trong thời gian qua của một số tờ báo, trang tin điện
tử có thể nhận thấy những vi phạm trong quy trình biên tập, duyệt bài là rất
nghiêm trọng dẫn đến những sai phạm có tác động xấu đến dư luận xã hội.
Vai trò, trách nhiệm của cơ quan chủ quản có lúc, có nơi cịn mờ nhạt.
Cơ quan QLNN về báo chí ở địa phương là Sở Thông tin và Truyền thông,
cán bộ, chuyên viên làm cơng tác này cịn thiếu và yếu, nhiều nơi các đồng
chí làm nhiệm vụ này chưa được đào tạo qua các lớp nghiệp vụ về báo chí,
xuất bản nên chất lượng cơng tác chưa cao, thậm chí cịn non yếu. Khả năng
phát hiện, nắm bắt các nghiệp vụ báo chí cịn chưa theo kịp u cầu cơng tác
QLNN về báo chí trong thời kỳ mới, thời kỳ hội nhập và phát triển.
Cơng tác quản lý, kiểm sốt các hoạt động của cơ quan báo chí thuộc
quyền cịn bị bng lỏng, có nơi cịn “khốn trắng” cho cơ quan báo chí tồn
quyền quyết định mọi nội dung. Xử lý khơng nghiêm, thậm chí bao biện cho
sai phạm của cơ quan báo chí thuộc quyền.
Trách nhiệm của các cấp ủy Đảng và của cơ quan chủ quản trong những
năm qua đã được nâng lên một bước, nhưng có những người được phân cơng
phụ trách theo dõi hoạt động báo chí vẫn chưa am hiểu nhiều công việc lãnh
đạo, QLNN về lĩnh vực này, nhất là ở các tỉnh, thành.

20


Những vấn đề trên được hình thành từ nhiều nghuyên nhân:
Nguyên nhân khách quan:

- Bối cảnh trong và ngoài nước có diễn biến phức tạp, nhiều sự kiện diễn
ra nhanh, thơng tin nhiều chiều nhiễu loạn dẫn đến tình trạng khó dự đốn
đúng bản chất vụ việc. Trong khi thơng tin của các cá nhân, tổ chức khái thác
trên mạng thơng tin khá dễ dãi và nhanh chóng.
- Cơ chế, chính sách và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để quản lý
còn thiếu và chưa theo kịp thực tiễn phát triển.
- Ngoài ra, tốc độ phát triển của thơng tin báo chí ngày càng nhanh
nhưng cơng tác chỉ đạo, quản lý có lúc thiếu thơng tin nên chỉ đạo chưa kịp
thời, chưa sát với thực tế tình hình.
Nguyên nhân chủ quan:
- Công tác bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho những người làm công tác
chỉ đạo, quản lý và hoạt động trong lĩnh vực báo chí ở một số bộ, ngành, địa
phương, cơ quan chủ quản, cơ quan báo chí chưa được coi trọng.
- Điều kiện làm việc của cơ quan quản lý các cấp từ trung ương đến địa
phương cịn gặp nhiều khó khăn.
- Một số thiếu sót cịn do thiếu trách nhiệm, yếu về năng lực và quá tải
trong giải quyết công việc.
- Sự phối hợp giữa cơ quan chỉ đạo, cơ quan quản lý, cơ quan chủ quản
trong quản lý báo chí có lúc, có nơi còn chưa kịp thời, hiệu quả thấp.
- Bộ máy quản lý báo chí thiếu ổn định, việc chỉ đạo thơng tin cịn thiếu
thống nhất, khơng tập trung đầu mối nên nhiều khi cịn gây khó khăn lúng
túng cho báo chí.
- Cơ quan chủ quản chưa làm hết trách nhiệm theo đúng quy định của
pháp luật.
- Một số cơ quan chức năng không chủ động, kịp thời cung cấp thông
cho báo chí dẫn đến tình trạng báo chí tự tìm kiếm thơng tin nên có khi thiếu
sự chính xác do khơng có thơng tin chính thống.
21



III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHO HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ BÁO CHÍ
TRUYỀN THƠNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Tăng cường sự lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước đối với
báo chí
Dưới sự tác động của Nghị quyết và các văn kiện của Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IX, hoạt động báo chí nước ta cần tiếp tục quán triệt các quan
điểm chỉ đạo nêu trong Chỉ thị 22 của Bộ chính trị khố VIII, chống các tiêu
cực, lệch lạc, đặc biệt là chống thương mại hoá báo chí.
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với
hoạt động báo chí, tạo cơ sở thực tiễn để chống thương mại hoá báo chí, trong
bối cảnh hiện nay, chúng ta cần phải chú ý những vấn đề sau đây:
- Tăng cường sự lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước theo phương
châm phát triển đi đôi với quản lý tốt. Phát triển tồn diện báo chí mà trọng
tâm là nâng cao chất lượng tư tưởng, chính trị, văn hố, khoa học. Đổi mới
nghiệp vụ thơng tin, hình thức trình bày, in ấn theo hướng từng bước hiện đại
hoá, quan tâm hàng đầu tới chất lượng và hiệu quả.
Nâng cao tính tư tưởng, tính chân thật, tính chiến đấu của các sản phẩm
báo chí, hướng nội dung thơng tin vào nhiệm vụ trung tâm là phục vụ sự
nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hoạt động báo
chí, xuất bản phải gắn liền với thực tiễn sản xuất và đời sống, phản ánh sinh
động phong trào cách mạng, phong trào thi đua yêu nước của các tầng lớp
nhân dân ở mọi miền đất nước. Những người làm báo phải là đội quân tư
tưởng, văn hoá đáng tin cậy của Đảng.
Quy hoạch và xây dựng hệ thống thông tin đại chúng cân đối, đồng bộ,
hợp lý. Vấn đề này thực hiện còn chậm do tư tưởng cục bộ, bản vị, thiếu kiên
quyết của một số địa phương và ngành chủ quản, thiếu một cơ chế thống nhất
để giải quyết hàng loạt vấn đề tiếp theo khi đình bản một tờ báo, ngừng phát
sóng một đài phát thanh truyền hình v.v… Điều này cịn có ngun nhân do
tư tưởng hữu khuynh ở một số cơ quan chủ quản, cơ quan quản lý.
22



Trước tình hình chính trị phức tạp, các thế lực thù địch thực hiện diễn
biến hồ bình khiến cho cuộc đấu tranh thông tin ngày càng quyết liệt, các cấp
quản lý, lãnh đạo báo chí cần chú ý trong việc nắm bắt tình hình, dự báo các
hoạt động trong nước và thế giới giúp cơ quan báo chí có điều kiện giữ đúng
định hướng thơng tin.
Có những quy định chặt chẽ trong việc chọn Ban biên tập, nhất là Tổng
biên tập để đảm bảo vừa có trình độ chính trị vững vàng, có nghiệp vụ báo chí
giỏi, vừa phải có khả năng quản lý tốt để thực hiện nghiêm chỉnh tơn chỉ mục
đích của mỗi tờ báo. Tổng biên tập các đài, báo cần quan tâm chỉ đạo, thẩm
định các thơng tin, bảo đảm cho các thơng tin báo chí sự trung thực, chống
hiện tượng lợi dụng báo chí để thực hiện ý đồ cá nhân; chủ động xử lý nghiêm
khắc các sai phạm trong nội bộ cơ quan báo chí.
Đặc thù hoạt động của nhà báo là thường xuyên độc lập ở nhiều nơi trên
nhiều lĩnh vực khác nhau, cơng việc có tính điều tra phát hiện và mang tính
xã hội cao. Vì vậy các cơ quan báo chí ngồi việc kiểm tra, giám sát cịn phải
làm cho nhà báo tự ý thức về mỗi việc mình làm, tự giác chấp hành các quy
định về nghề nghiệp, nêu cao ý thức chính trị, đạo đức của người làm báo.
Các cơ quan quản lý Nhà nước về báo chí phải thường xuyên uốn nắn nhắc
nhở các cơ quan báo chí tăng cường hơn nữa việc quản lý đội ngũ và các hoạt
động về nghề báo.
Các cơ quan chủ quản của cơ quan báo chí phải có sự chỉ đạo chặt chẽ,
đồng thời phải đầu tư thích đáng, tài trợ cho tờ báo của mình có đủ điều kiện
làm việc, khơng phải lo xoay sở kiếm tiền bằng mọi cách. Cần phải nhanh
chóng xây dựng một loạt những quan điểm cơ bản cho phù hợp với tình hình
mới, ban hành những văn bản dưới luật và một số chế độ chính sách để tạo
động lực thúc đẩy nâng cao chất lượng báo chí như: chế độ tiền lương, chế độ
nhuận bút, chính sách giá v.v…
Cơ quan quản lý Nhà nước cần phải thường xuyên kiểm tra, giám sát các

cơ quan báo chí thực hiện Luật báo chí và Luật xuất bản, phải làm tham mưu
23


cho cấp uỷ Đảng chính quyền về những vấn đề mới nảy sinh để có biện pháp
xử lý kịp thời, phải kiên quyết xử lý các trường hợp vi phạm quy định về
thơng tin, xa rời tơn chỉ mục đích của các cơ quan báo chí. Cơ quan chủ quản
báo chí cần nâng cao trách nhiệm quản lý của mình. Nâng cao ý thức trách
nhiệm và vai trò của người làm báo và của mỗi cơ quan báo chí trong việc
thực hiện đường lối thơng tin báo chí của Đảng.
Các cơ quan báo chí cần thực hiện đúng tơn chỉ, mục đích và đối tượng
phục vụ thực hiện đúng các quy định về thông tin mà pháp luật quy định. Phải
chủ động và tích cực ngăn ngừa, khắc phục khuynh hướng thương mại hố
trong thơng tin báo chí. Phải coi đây là việc làm liên tục, kiên quyết, kết hợp
nhiều giải pháp. Nhà báo phải thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ đã được Luật
báo chí quy định, phải khơng ngừng nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp
vụ, đạo đức nghề nghiệp để có thể thơng tin trung thực, chính xác, đúng định
hướng.
Cần có sự quản lý và tập trung thống nhất của Đảng và Nhà nước về hệ
thống đào tạo bồi dưỡng và nội dung đào tạo bồi dưỡng cán bộ báo chí và cán
bộ quản lý báo chí.
Nói tóm lại, sự trưởng thành của nền báo chí cách mạng Việt Nam luôn
gắn liền với sự phát triển của đất nước. Việc tăng cường sự lãnh đạo, quản lý
của Đảng và Nhà nước với những biện pháp cụ thể, những cơ chế, chính sách
hợp lý và hiệu quả sẽ giúp cho báo chí nước ta có điều kiện ngày càng nâng
cao năng lực phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước trong sự nghiệp đổi mới
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Công tác quản lý Nhà nước về báo chí địi
hỏi sự góp sức của nhiều cấp, nhiều ngành, của cả cơ quan báo chí, cơ quan
chủ quản báo chí và các cơ quan làm nhiệm vụ quản lý báo chí từ Trung ương
đến địa phương nhằm làm cho nền báo chí cách mạng nước ta tiếp tục phát

triển, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn.

24


2. Phát triển báo chí một cách hệ thống, quy hoạch
Phương châm chỉ đạo quan trọng của Đảng và Nhà nước ta đối với hoạt
động báo chí là “phát triển đi đôi với quản lý tốt”. Sự phát triển này không chỉ
đơn thuần là tăng về mặt số lượng mà cịn bao gồm cả mở rộng quy mơ, phạm
vi tác động và nâng cao chất lượng thông tin. Việc tiếp tục mở rộng quy mơ
của báo chí trong phạm vi toàn xã hội là một yêu cầu tất yếu. Xã hội ln phát
triển, dân trí ngày càng cao, nhu cầu thơng tin, giao tiếp tăng lên. Chính thực
tiễn xã hội địi hỏi mở rộng quy mơ thơng tin của từng cơ quan báo chí cũng
như sự ra đời của những tờ báo, bản tin, tạp chí, chương trình phát thanh,
truyền hình mới. Tuy nhiên, việc mở rộng quy mơ này phải phù hợp với quy
hoạch, chiến lược phát triển báo chí, tránh tình trạng chồng chéo, vay mượn
nội dung bài vở...
Hiện nay, chúng ta đã có Chiến lược phát triển thơng tin. Tuy nhiên, hoạt
động báo chí trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố, trong q trình
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và nhất là sự bùng nổ của thơng tin tồn
cầu... đang đặt ra những u cầu mới về quy hoạch báo chí; địi hỏi chúng ta
phải xây dựng chiến lược phát triển thông tin lâu dài cho đất nước. Chiến lược
này phải là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
của quốc gia. Chiến lược thông tin phải đánh giá được thực trạng thông tin ở
nước ta, đưa ra được các quan điểm chỉ đạo phát triển thông tin và mục tiêu
phát triển thông tin đến năm 2020 và những năm tiếp theo, các giải pháp chủ
yếu để thực hiện mục tiêu đó.
3. Nâng cấp hệ thống pháp luật về báo chí
Chất lượng, hiệu quả quản lý xã hội của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa phụ thuộc rất nhiều vào mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật.

Vì vậy, yêu cầu về một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đồng bộ trong
lĩnh vực báo chí là hết sức cần thiết.
Chúng ta cần thấu suốt quan điểm: điều chỉnh hoạt động báo chí thông
qua định hướng của Đảng và hệ thống pháp luật của Nhà nước, vừa bảo đảm
25


×