Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

7 báo chí việt nam giai đoạn 1930 1939

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (72.82 KB, 16 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: LỊCH SỬ LÝ LUẬN BÁO CHÍ VIỆT NAM

ĐỀ TÀI:

BÁO CHÍ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930-1939


PHẦN 1: MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Báo chí được xem là một trong những vũ khí cực kỳ quan trọng trong
cuộc đấu tranh lâu dài gian khổ, oanh liệt để giành và giữ vững độc lập dân
tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những tờ báo đầu tiên ở nước ta xuất hiện
vào khoảng giữa thế kỉ XIX. So với nhiều nước khác, báo chí Việt Nam sinh
sau đẻ muộn hơn các nước Châu âu hàng mây trăm năm. Tuy vậy, chỉ với hơn
một thế kỷ tồn tại và phát triển, báo chí Việt Nam đã có một lịch sử phong
phú, mang những sắc thái riêng biệt và bước trưởng thành của nó gắn rất chặt
với những biến thiên của lịch s4ử.
Báo chí Việt Nam ra đời gần như cùng với sự thiết lập chế độ thời
thuộc địa của chủ nghĩa tư bản Pháp trên đất nước ta. Báo chí ra đời trước hết
do nhu cầu thống trị và xâm lăng văn hóa của chủ nghĩa thực dân. Mặt khác,
sự phân hóa và phát triển của báo chí lại theo sát từng bước đi của cuộc đấu
tranh dân tộc và giai cấp diễn ra hết sức sâu sắc trong lòng xã hội nước ta.
Cho nên lịch sử báo chí Việt Nam đồng thời cũng là sự phản ánh của lịch sử
cận đại Việt Nam, là lịch sử của cuộc đấu tranh giành độc lập tự do và cũng
phản ánh cuộc đấu tranh gay gắt giữa một nền báo chí thực dân với một nền
báo chí yêu nước và cách mạng.
Với những lí do trên, người thực hiện tiến hành nghiên cứu một phần
rất nhỏ trong lịch sử phát triển của nền báo chí Việt Nam. Đó là giai đoạn phát
triển 1930 - 1939. Đây là một giai đoạn với những biến động phức tạp của
chính trị, văn hóa, xã hội. Trong bối cảnh chung của thế giới và trong nước,


báo chí thời kì này cũng hình thành và phát triển với những nét đặc thù riêng.
II. Nội dung nghiên cứu
Do hạn chế về không gian và thời gian, người thực hiện chỉ xin được
nghiên cứu tình hình lịch sử báo chí Việt Nam giai đoạn 1930 - 1939 dựa trên
những tài liệu của các giáo sư, chuyên gia và các nhà sư phạm đầu ngành
2


trong lĩnh vực báo Báo chí Cách mạng Việt Nam là tiếng nói của Đảng, Nhà
nước và các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp, là diễn đàn tin cậy của
nhân dân. Báo chí tuyên truyền, phổ biến đường lối, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước, phản ánh nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp
nhân dân.
Báo chí cũng là một vũ khí sắc bén chống lại kê thù của nhân dân. 80
năm qua, kể tử số báo Thanh niên đầu tiên (21/6/1925), qua từng giai đoạn
cách mạng, báo chí Việt Nam đã khơng ngừng phát triển.
1. Báo chí thời kỳ trước khi Đảng Cộng sản Việc Nam ra đời
Tờ báo cách mạng đầu tiên đo người Việt Nam xuất bản là tờ Le Paria
(Người cùng khổ) in bằng tiếng Pháp do Nguyễn ái Quốc, đảng viên Đảng
Cộng sản Pháp sáng lập, làm chủ báo và chủ bút; số 1 ra ngày 01/4/1922 tại
Pari.
Vào những năm 20 đầu thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập ra
tổ chức Thanh niên Cộng sản Đoàn làm nòng cốt cho tổ chức Việt Nam Thanh
niên Cách mạng Đồng chí Hội. Một tổ chức yêu nước Việt Nam đầu tiên đi
theo con đường cách mạng vô sản, đồng thời xuất bản báo Thanh niên làm cơ
quan ngôn luận của tổ chức này. Ngày 21/6/1925, Thanh niên, tờ báo đầu tiên
của Cách mạng Việt Nam, ra số 1. Tháng 6/1985, Đảng Cộng sản Việt Nam
quyết định lấy ngày 21/6 làm ngày truyền thống của báo chí - Ngày Báo chí
Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập tờ báo Thanh niên và là người

đào tạo lớp làm báo vô sản đầu tiên của Việt Nam như Lê Hồng Sơn, HỒ
Tùng Mậu, Lê Duy Điềm, Trương Văn Lĩnh. Tờ báo Thanh niên đã nhanh
chóng thơi thúc lịng người, làm sống động phong trào cộng sản. Tiếp theo
báo Thanh niên, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho xuất bản các báo Cơng nơng và
Lính cách mệnh để vận động cơng nhân, nơng dân và binh lính đồn kết,
đứng lên làm cách mạng, đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập dân tộc.

3


Kỳ bộ Nam Kỳ của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội ra
báo Bơnsêvích, chi bộ Việt kiều của Hội ở Thái Lan xuất bản báo Dòng thanh
sau đổi thành Thân ái. Tháng 6/1929, Đông Dương Cộng sản Đảng ra đời, cho
xuất bản báo Búa liềm làm cơ quan Trung ương của Đảng, Ban công vận
Trung ương của Đảng ra báo Công hội đỏ, Tổng Công hội Bắc kỳ ra báo Lao
động...
Tháng 9/1929, An Nam Cộng sản Đảng cho ra báo Đỏ. Những tờ báo
của các tổ chức Cộng sản sơ khai này có tác dụng rất quan trọng trong việc
giáo dục ý thức giai cấp, đấu tranh giai cấp và lý tưởng cộng sản chủ nghĩa
cho quần chúng lao động.
Tháng 2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản được triệu tập
dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyết định thành lập Dẳng Cộng
sản Việt Nam, thông qua một số văn kiện quan trọng, quyết định ngừng xuất
bản các tờ báo của các tổ chức cộng sản trước, Trung ương và địa phương sẽ
ra báo của Đảng Cộng sản Việt Nam thống nhất. Ngày 5/8/1930 , Trung ương
cho ra báo Tạp chí đỏ; ngày 15/8/1930, báo Tranh đấu ra mắt.
2. Báo chí từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đến năm 1936
Tháng 10/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đổi tên thành Đảng Cộng sản
Đông Dương. Trung ương Đảng cho ra báo Cờ vơ sản và tạp chí Cộng sản.
Các xứ ủy, tỉnh ủy, nhiều huyện ủy và chi bộ cũng ra báo. Báo chí trong thời

kỳ này đóng vai trị quan trọng trong việc phát động cao trào cách mạng của
công nông chống thực dân - phong kiến, đỉnh cao là cao trào Xơ Viết -Nghệ r
nít. Thực dân Pháp hoảng sợ, điên cuồng khủng bố. Tổ chức của Đảng và các
đoàn thể quần chúng bị thiệt hại nghiêm trọng. Báo chí cách mạng phải lần
lượt ngừng xuất bản. Nhưng sau khi các cấp ủy được khơi phục thì chỉ một
thời gian ngắn các báo lại tiếp tục xuất bản. Đặc biệt xứ ủy Nam Kỳ, từ năm
1931 đến 1934, ba lần xứ ủy bị phá và khôi phục lại là ba lần có báo Cị' đỏ,
Cờ lãnh đạo, rồi đổi tên là Giải phóng.

4


Ban lãnh đạo ở nước ngoài của Đảng được thành lập làm nhiệm vụ tạm
thời của Trung ương, xuất bản tạp chí Bơnsêvích làm cơ quan lý luận để
thống nhất Đảng, đẩy mạnh việc khôi phục, phát triển cơ sở và hệ thống tổ
chức của Đảng, cùng các đoàn thể quần chúng, chuẩn bị cho Đại hội Đảng
toàn quốc. Tháng 3/1935, Đại hội Đảng lần thứ nhất họp, quyết định chuyển
tạp chí Bơnsêvíc thành tạp chí lý luận Trung ương của Đảng. Đảng cho xuất
bản hai tờ báo vận động binh lính trong quân đội Pháp, một tờ bằng tiếng
Pháp L Ai mée rouge (Hồng quân) và một tờ tiếng Việt là Giác ngộ. Các chi
bộ cộng sản trong một số nhà tù lớn đã xuất bản báo và tạp chí như Con
đường chính, Lao tù tạp chí, Đuốc đưa đường, Đường cách mạng, Hỏa lị Hà
Nội, Bơnsêvích, Nhà tù Bn Ma Thuộc Người tù đỏ, Qua tiếng sóng hận,
cịn Cau, Ý kiến chung Ở Côn Lơn, Nẻo nhà pha Ở nhà tù Quảng Nam...Báo
chí trong những năm 1930-1936 đã phục vụ tích cực cho xây dựng Đảng,
tuyên truyền chủ nghĩa Mác-lênin và đường lối cách mạng dân quyền của
Đảng, kiên quyết chống lại thực dân, phong kiến, chống chủ nghĩa cải lương
của giai cấp tư sản và chủ nghĩa dân tộc tư sản của Việt Nam quốc dân Đảng,
chuẩn bị điều kiện để đón thời cơ đưa cách mạng tiến lên một cao trào mới.
3. Báo chí thời kỳ vận động dân chủ 1936-1939

Ở Pháp, Mặt trận Nhân dân giành được thắng lợi trong tổng tuyển cử
tháng 5/1936, lập ra một Chính phủ tiến bộ bắt tay vào thực hiện cải cách theo
chương trình của Mặt trận. Mặt trận nhân dân chống phát xít được thành lập ở
nhiều nước và hình thành Mặt trận nhân dân thế giới chống phát xít. Trung
ương Đảng chủ trương thành lập Mặt trận dân chủ bao gồm các giai cấp và
tầng lớp xã hội người Việt Nam và người nước ngoài sinh sống ở Việt Nam
tán thành tự do, dân chủ, cải thiện đời sống và hồ bình, chống phản động
thuộc địa và chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh. Lợi dụng khả năng hoạt
động nửa hợp pháp, nửa bất hợp pháp, Đảng chủ trương đưa báo chí ra xuất
bản cơng khai. Lợi dụng chính sách báo chí của địch ra báo chữ Pháp không
phải xin phép, ta cho ra một số tờ chữ Pháp xuất bản ở Hà Nội như Le Travail
5


(Lao động), Rasemblement (Tập Hợp), En Avant (Tiến lên), Notre Voix
(Tiếng nói của chúng ta); Ở Sài Gịn có L' A vâm gai de (Tiên phong), Le
Peuple (Nhân dân). Chung ta đã dùng nhiều cách để thuê, mua lại tên báo cũ,
đưa quần chúng tốt đứng ra xuất bản báo tiếng Việt. Một loạt các tờ báo đã ra
đời như: Hồn trẻ tập mới, Tân xã hội, Nhành lúa, Kinh tế tân văn, Hà thành
thời báo, Thời thế, Tin túc, Thế giới, Dân Dân tiến, Dân muốn, Đời nay...
Tờ Dân chúng, cơ quan Trung ương của Đảng, buộc nhà cầm quyền
phải thừa nhận quyền tự do xuất bản báo chí tiếng Việt không cần xin phép ở
Nam Kỳ, mở đường cho một loạt tờ báo ra tự do.
Những tờ báo cách mạng chỉ chiếm một phần tư tổng số báo trong thời
kỳ này nhưng giữ một vị trí rất quan trọng, chiếm lĩnh được cảm tình của
đơng đảo bạn đọc nhất. Do chính sách của Mặt trận dân chủ của Đảng và cao
trào cách mạng của quần chúng, báo chí cách mạng co ảnh hưởng tốt đến các
tờ báo khác, hình thành mặt trận báo chí dân chủ, phối hợp đấu tranh và giành
được một số thắng lợi vang dội như triệu tập được Hội nghị báo giới ở Trung
kỳ và Bắc kỳ, thảo luận nhiều vấn đề bổ ích về chính trị và nghề nghiệp. Báo

chí thời kỳ vận động dân chủ in ty-pơ số lượng lớn. Có tờ chiếm kỷ lục như
Dân chúng số Xuân 1939 in đến 15.000 bản. Trình bày bài vở trên mặt báo đã
mang dáng dấp hiện đại, biên tập và in nhanh, phát hành nhanh, động trong cả
nước và ra nước ngoài.

6


PHẦN 2. NỘI DUNG NGHIÊN CƯU
I. Báo chí Việt Nam trong thời kì 1930 - 1939
Kể từ năm 1930 đến giữa năm 1936 có gàn 30 tờ báo và tạp chí từ thời
gian trước cịn được tiếp tục xuất bản và 180 tờ báo mới ra đời công khai hợp
pháp. Số báo và tạp chí xuất bản cơng khai hợp pháp lên tới 210, gấp gần 2
lần rưỡi số báo và tạp chí của những quãng thời gian 1 924 - 1929
Bên cạnh làng báo công khai hợp pháp, phải kể đến hệ thống báo chí
xuất bản bị mật, khơng hợp pháp, chủ yếu là báo chí cách mạng, khoảng 1 70
tờ. Tổng cộng tồn bộ cả báo chí xuất bản công khai, hợp pháp và xuất bản bị
mật không hợp pháp, con số lên tới khoảng 3 80 tờ, gấp gần 4 lần của quãng
thời gian 1924 - 1929.
1. Về báo chí cơng khai, hợp pháp
Những tờ báo khơng có khuynh hướng chính trị rõ ràng, trong những
năm có nhiều biến động về kinh tế và chính trị, thường phản ánh tình hình xã
hội tương đối khách quan và đưa tin về các vụ án theo công bố của tịa án, của
phịng thơng tin báo chí của chính quyền, ít bình luận.
Từ năm 1933, 1934 trở đi tình hình kinh tế và chính trị đỡ căng thẳng
hơn trước, trên báo chí xuất hiện những bài phóng sự viết về tù chính trị bị
hành hạ dã man, đối xử tàn nhẫn và đấu tranh kiên cường (báo Mai, Đời mới),
cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa nghệ thuật
vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh thực chất là cuộc đấu tranh tư tưởng
và lý luận giữa cách mạng và không cách mạng, cuộc đấu tranh về thơ mới, là

những đóng góp mới cho sự phát triển về tư tưởng, lý luận chính trị, văn hoặc
nghệ thuật báo chí
Thời kì này khơng có những tờ báo yêu nước, tiến bộ trực tiếp đối đầu
với chính quyền thực dân và tay sai như thời kì trước, với tờ Thuần Chủng,
Tân Thế Kỷ... Nguyên nhân là do chính sách báo chí của địch kiềm chế, cản

7


trở. Trong bối cảnh đấu tranh chính trị quyết liệt sau khi Đảng Cộng Sản Việt
Nam thành lập, việc xuất bản báo chí bằng tiếng Việt càng ngặt nghèo hơn.
2. Về báo chí bí mật khơng hợp pháp
Báo chí xuất bản bí mật, khơng hợp pháp trong thời kỳ này, chủ yếu là
báo chí của Dịng Cộng Sản và các tổ chức đoàn thể do Đảng cộng sản lãnh
đạo. Tuy vậy, khơng phải mọi báo chí bí mật khơng hợp pháp đều là báo chí
cách mạng. Có báo Đường Cách Mạng của nhóm Việt Nam Quốc Dân Đảng
chống cộng sản, viết tay lưu hành trong nội bộ.
Trong quá trình hoạt động, tình hình đấu tranh chính trị diễn biến phức
tạp nên nghị quyết của Đảng về báo chí có phần thực hiện được và có phần
thay đổi. Điểm thực hiện được là: do hợp nhất về mặt tổ chức, các báo của
Đảng cộng sản Đông Dương và Đảng cộng sản An Nam khơng có cơ sở tồn
tại, chuyển sang là cơ quan của Đảng cộng sản Việt Nam là Tạp chí Đỏ, xuất
bản số 1, ngày 5/8/1930. Do nhu cầu rèn luyện tư tưởng, nâng cao trình đọ lý
luận và chính trị cho cán bộ, đảng viên ở trong tù, đồng {hời do yêu cầu đấu
tranh, về lý luận và chính trị đối với những đảng viên Việt Nam Quốc dân
đang theo chủ nghĩa quốc gia tư sản, ở một số nhà tù đã xuất hiện báo trong tù
do các chi bộ Đảng cộng sản chủ trương. Đây là một yếu tố khách quan,
không định trước, nhưng vào cùng một thời điểm như nhau đều có báo trong
tù: Lao Tù Đỏ, Bàn Góp, Hịn Cau Tuần Báo, Ý Kiến Chung...
Báo trong tù của cộng sản Việt Nam là một hiện tượng độc đáo. Ở các

nước những đảng viên cộng sản bị giai cấp tư sản, chủ nghĩa đế quốc và chủ
nghĩa phát xít cầm quyền bỏ tù, có thể viết sách, làm thơ, nhưng khơng ở đâu
có chủ trương xuất bản báo chí như ở Việt Nam. Đây là một hiện tượng mang
tính quy luật đặc thù trong đấu {ranh cách mạng ở Việt Nam.
Báo chí cơng khai hợp pháp là sở hữu tư nhân của các cá nhân nhóm
người cơng ty có lợi ích khác nhau nên tư tưởng và nội dung các bài báo
không ăn ý với nhau, có khi quay lưng vào nhau. Báo chí cách mạng thống
nhất về đường lối chính trị và mục tiêu đấu tranh nên có sự phối hợp với nhau
8


khơng mâu thuẫn. Nếu có trường hợp trên mặt báo xuất hiện những quan
điểm về sách lược hay nhận thức khác nhau về chủ trương nào đó thì các cấp
bộ đảng và cơ quan báo chí giúp việc cấp ủy kịp thời phát hiện và uốn nắn, để
trở lại với dịng tư tưởng và chính trị thống nhất
II. Diện mạo một số tờ báo tiêu biểu
1. Tranh đấu
Cơ quan trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam ra số 1, ngày
15/8/1930, không rõ số cuối cùng ra ngày tháng nào. Báo in bằng giấy sáp số
1 có 4 trang khổ 22cm x 31,5cm.
"Tranh đấu thỉnh cầu tất cả các đảng viên là anh chị em lao khổ giúp
sức, làm cho tinh thần Tranh đấu mỗi ngày một cao, tiếng gọi Tranh đấu mỗi
ngày một lan rộng nghe xa". Tờ báo luôn đặt trọng tâm vào việc giáo đục ý
thức và trình độ cách mạng cho quần chúng.
2. Cộng sản
Cơ quan Đảng cộng sản Đông Dương, ra số 1, ngày 01/2/1931; 32
trang. Tạp chí in bằng giấy sáp.
Cộng sản cũng như Tranh đấu, luôn coi việc hướng dẫn đấu tranh là
nhiệm vụ hàng đầu.
3. Con đường chính

Ra đời trong cuộc đấu tranh lý luận và tư tưởng với tù chính trị là Việt
Nam Quốc Dân Đảng của chi bộ cộng sản ở nhà tù Hóa Lị Hà Nội. Báo mang
tính chất lý luận, tranh luận. Cuộc tranh luận của báo đã thúc đẩy sự phân hóa
vốn có trong hàng ngũ Quốc dân Đảng, một số bắt đầu chuyển sang khuynh
hướng cộng sản.
III. Báo chí Việt Nam trong thời kì Mặt trận Dân chủ Đơng Dương
1. Tình hình chính trị quốc tế, nước pháp và Đông Dương
Được sự tác động của phong trào dân chủ thế giới chống chủ nghĩa phát
xít và chiến tranh, trực tiếp nhất là phong trào dân chủ ở Pháp từ khi chính do
L.Bn làm thủ tướng thành lập với chương trình hành động tiến bộ kích
9


thích mạng mẽ phong trào dân chủ trong nước. Những người cộng sản Việt
Nam và trí thức cách mạng nhạy bén với tình hình mới, đứng ra vận động một
phong trào dân chủ rộng khắp tỏng nước theo tinh thần nghị quyết.
Đảng Cộng sản Đơng Dương đấu tranh địi chính quyền thuộc địa công
nhận hoạt động công khai, hợp pháp nhưng chúng khơng chịu. Mặc dù vậy,
đưa vào khí thế của phong trào quần chúng do Dùng lãnh đạo, một bộ phận
những người cộng sản ra hoạt động công khai; gây được ảnh hưởng sâu sắc
trong đấu tranh cho dân chủ và dân sinh trong các tầng lớp xã hội. Nhất là
trong những người lao động và trí thức. Đại thể đó là một cái nền cho sự phát
triển của báo chí nước ta một thời đoạn đặc biệt.
2. Sự phát triển của báo chí
Theo tài liệu của cơ quan lưu trữ của thực dân pháp, năm 1936 cả nước
có 277 tờ báo, tạp chí , tập san các loại. Cuối năm tăng hơn đầu năm 47 tờ và
hơn năm 1935 là 10 tờ. Đến năm 1939, con số báo và tạp chí tiếp tục tăng lên
4%, trong đó tốc độ tăng của Bắc kỳ và Nam Kỳ lên đều nhau.
Trong thời kỳ này, báo chí nước ta cũng có điều kiện phát triển hơn,
nhất là loại báo chính trị xã hội. Từ giữa năm 1936 trở về trước, báo chí cách

mạng đều xuất bản bí mật, khơng hợp pháp, tuyệt đối cấm lưu hành trong
nước, không kể là báo tiếng Việt hay tiếng Pháp. Lợi dụng khả năng hoạt
động nửa hợp pháp và hợp pháp, báo chí cách mạng xuất bản công khai ở cả 3
miền Bắc, Trung, Nam là tờ báo hoặc tạp chí của một nhóm đảng viên cộng
sản chủ trương, của một đoàn thể quần chúng do một cấp ủy của Đảng chỉ
đạo, là cơ quan của Trung ương Đảng hay các xứ ủy Để giữ thế hợp pháp và
hoạt động được lâu trong khi Đảng cộng sản chưa lấy được chính quyền cơng
nhận hợp pháp, báo phải lấy danh nghĩa: "Cơ quan của lao động và nhân dân
Đông Dương.
Tờ báo cách mạng đầu tiên công khai là tờ Hồn trẻ, từ 6/1936 đến
8/1936, do nhóm cộng sản Nguyễn Thế Rục, Trần Huy Liệu... chủ trương.

10


Báo chí cách mạng đóng một vai trị quan trọng trong việc tuyên truyền
chủ nghĩa Mác - Lênin; đường lối và phương pháp đấu tranh cho dân chủ, dân
sinh theo quan điểm của những người cộng sản là hoàn toàn phù hợp với
nguyện vọng của đông đảo nhân dân ta, về truyền thống đấu tranh anh dũng
của Đảng Cộng sản Đông Dương qua những bài viết về lịch sử Đảng nhân
những ngày kỷ niệm thành lập Đảng; cổ động nhân dân đấu tranh cho các
khẩu hiệu dân chủ và tập hợp trong các tổ chức dưới nhiều hình thức thích
hợp với yêu cầu, trình độ và khả năng của mọi người. Vì báo chí cách mạng
xuất bản cơng khai nên rất ít nói về Đảng Cộng sản Đơng Dương, khơng bàn
về tổ chức của Đảng Cộng sản trong khi Đảng chưa hoàn toàn giành được địa
vị hợp pháp.
Dựa vào cao trào cách mạng dâng lên đến đỉnh cao trong cả nước trong
đó có thành phố Sài Gịn. Căn cứ Luật tự do báo chí của Quốc hội Pháp, được
sự đồng tình ủng hộ của làng báo, của những trí thức có danh vọng, Trung
ương Đảng cộng sản Đơng Dương đứng đầu là Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ

đã sáng suốt phân tích tình hình, quyết định cho ra báo Dân Chúng xuất bản
cơng khai ở Sài Gịn, khơng xin phép, mặc nhiên là chống lại các sắc lệnh và
nghị định về xuất bản báo chí tiếng Việt. Tuy khơng lấy danh nghĩa cơ quan
Trung ương của Đảng Cộng sản Đông Dương mà chỉ là cơ quan của lao động
và dân chúng Đông Dương, nhưng cả quần chúng đông đảo và kẻ thù để biết
đó là báo Cộng sản ở cấp Trung ương. Báo Dân chúng mở cửa đột phá đánh
vào chế độ báo chí của Pháp, mở ra một thời kì
Đến thời kì năm 1936 trở đi, khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ,
báo chí cách mạng tìm mọi cách xuất bản công khai bằng tiếng Việt và tiếng
Pháp, thì những tiếng nói chống cộng sản, chống cách mạng ngang nhiên như
cũ khơng cịn. Đơi khi xuất hiện những luận điệu phản động về lý luận và
chính trị chống cộng sản dưới hình thức chống các khẩu hiệu dân sinh, dân
chủ liền bị phản công ngay và những tên bồi bút của bọn phản động thuộc địa
bị vạch trần trước dư luận.
11


Ở những từ báo tự do đã xuất hiện những hiện tượng mới: một số nhỏ
tham gia mặt trận báo chí, liên minh với các báo chí cách mạng, tích cực đấu
tranh đòi thực hiện các khẩu hiệu dân chủ, số đơng có cảm tình với báo chí
cách mạng, ủng hộ một số quyền lợi nhất định, có khi tán thành chủ trương
này nhưng làm ngơ trước những yêu sách, số còn lại chiếm một tỷ lệ nhỏ, vẫn
giữ thái độ thờ ơ với sinh hoạt chính trị đang diễn ra sơi nổi.
3. Diện mạo một số tị báo tiêu biểu
3.1. Báo Hồn Trẻ
Số ra đầu tiên ngày 6/6/1936 khi chính phủ Pháp do L. Bn làm thủ
tướng ra trình diện trước Quốc Hội, đứng tên chủ nhiệm Nguyễn Mạnh Đang.
Lúc này cách mạng Việt Nam chưa có sự chỉ đạo mới về đường lối của Trung
ương Đảng cộng sản, nhưng những người cộng sản đã chủ động, linh hoạt
sang tạo chỉ đạo nội dung tin bài của báo Hồn Trẻ theo hướng trốn bộ, đấu

tranh đòi tú do dân chủ và cải thiện đời sống cho nhân dân. Với các chủ
trương cải cách ở các thuộc địa, tuyên truyền cho chủ nghĩa Mác; địi đại xá
tù chính trị... báo nhanh chóng thu hút được những người cách mạng và tiến
bộ tham gia viết bài.
Hồn Trẻ Tập Mới là tờ báo đầu tiên ở miền Bắc hưởng ứng cuộc vận
động Đại hội Đông Dương. Những khẩu hiệu của báo đưa ra, về cơ bản phù
hợp với chủ trương mới của Trung ương Đảng, phản ánh được yêu cầu bức
thiết của đơng đảo nhân dân, nên góp phần tích cực, trực tiếp vào việc phát
động một cao trào cách mạng mới ở thời điểm này, nhất là đối với Hà Nội và
các vùng phụ cận.
3.2. Báo Sông Hương Tục Bản
Số đầu tiên ra ngày 01/8/1936 với nhiệm vụ là tham gia tranh cử vào
Viện dân biểu Trung kỳ, giành thắng lợi cho các ứng viên của Mặt trận dân
chủ. Sau khi thắng cử, thông qua báo mà nhân danh nhân dân yêu cầu các dân
biểu phải làm tròn nhiệm vụ của mình, mang nguyện vọng của nhân dân vào
nghị viện, địi hỏi đi sát với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân; đồng
12


thời công bố quan điểm, yêu cầu, đề nghị của báo để chuẩn bị cho đấu tranh
nghị trường.
Tờ báo đã đi lệch mục đích và tính chất của giấy phép đầu năm 1936
nên ra đến số 7 thì người quản lý bị khâm sai Trung kỳ cảnh cáo. Thực dân
biết rõ đây là tờ báo cộng sản, do Phan Đăng Lưu đứng đầu nên khơng cịn
biện pháp đối phó nào hơn là ra nghị định cấm xuất bản để chấm dứt mọi tai
họa.

13



PHẦN 3: PHẦN KẾT LUẬN
Báo chí Việt Nam trong tiến trình hình thành và phát triển đã trải qua
những khó khăn, thử thách. Hơn 140 năm ra đời và phát triển, báo chí Việt
Nam đã có những đóng góp to lớn đối với nhiều lĩnh vực: Kinh tế, văn hố,
chính trị, xã hội, nghệ thuật... Ngoài ra, trong giai đoạn 1930 - 1939 báo chí
Việt Nam đã có những bước phát triển và để lại những dấu ấn đậm nét. Trong
giai đoạn này, báo chí đã kịp thời phản ánh dược những cái mới trong cuộc
sống hàng ngày, đã nói lên tiếng nói của đơng đảo nhân dân lao động về mọi
mặt của cuộc sống.
Trong thời kỳ này Cách mạng Việt Nam ra đời đã đánh dấu một bước
ngoặt lớn trong lịch sử của dân tộc cũng như có ảnh hưởng rất lớn đến nền
báo chí nước Ta, đặc biệt là dịng báo chí cách mạng đã góp phần to lớn vào
những hoạt động cách mạng cũng như những chiến thắng của dân tộc.
Ý kiến của người nghiên cứu.
Qua việc nghiên cứu về một số vấn đề của báo chí Việt Nam giai đoạn
1930- 1939 càng làm cho tôi hiểu rõ hơn về những bước phát triển cũng như
những đóng góp to lớn của nền báo chí nước nhà. Những kiến thức cơ bản
nền tảng đó sẽ giúp tơi trong q trình hoạt động nghiệp vụ cũng như nó sẽ
làm hành trang trong quá trình làm việc sau này.
Mặt hạn chế: Vì hạn hẹp về thời gian ngiên cứu đề tài nên trên đây chỉ
là một số nét chính của vấn đề mà tơi trình bày được trong một khoảng thời
gian ngắn.
Tôi cũng chân thành cảm ơn PGS-TS Trần Thế Phiệt đã tận tình truyền
đạt chuyên đề Lịch sử lý luận báo chí Việt Nam giúp tơi trong cơng việc thu
thập tài liệu, triển khai đề tài và mang cả kiến thức áp dụng vào trong công
việc hàng ngày.

14



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lịch sở nghiên cứu lý luận báo chí ở Việt Nam - Giáo trình dành cho
đào tạo Sau đại học ở Học viện báo chí và tuyên truyền; PGS - TS Trần Thế
Phiệt - Hà Nội, 1998 - 2008.
2. Lịch sử báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến năm 1945; huỳnh Văn
Tòng - Tiến sỹ Báo chí Soobonne - Parts, năm 1994.
3. Lịch sử báo chí; PIERRE ALBERT - Giáo sư trường đại học
Phantheon-Assas (Paris II) Giám đốc Học viện báo chí Pháp, người dịch
Dương Linh, NXB Thế Giới, Hà Nội năm 2003.

15


MỤC LỤC

16



×