Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

31 vấn đề hình thành tập đoàn báo chí ở việt nam hiện nay dư luận xã hội với sự phát triển báo chí hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.69 KB, 36 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: LỊCH SỬ LÝ LUẬN BÁO CHÍ VIỆT NAM

ĐỀ TÀI:
- Vấn đề hình thành tập đồn báo chí ở Việt Nam hiện nay
- Dư luận xã hội với sự phát triển báo chí hiện nay


CÂU l: Nội dung của đề tài thảo luận nhóm đã chọn trên lớp?
Đề tài lựa chọn: Vấn đề hình thành tập đồn báo chí ở Việt Nam hiện nay
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, báo chí nước ta đang ngày
càng khởi sắc, tiếp tục khẳng định tầm quan trọng và cần thiết của mình trong
đời sống văn hoá- xã hội. Sau hơn 20 năm đổi mới hệ thống báo chí nước ta
đã có bước phát triển quan trọng cả về loại hình, số lượng và chất lượng,
chứng tỏ sự lớn mạnh về mọi phương diện và đang có nhu cầu ngày càng
vươn cao, vươn xa hơn nữa trong tương lai. Đây chính là điều kiện chủ quan
quan trọng để triển khai, thành lập mô hình tập đồn báo chí ở Việt Nam.
Trên thế giới, mơ hình tập đồn báo chí đã ra đời từ hơn 100 năm nay
và đang ngày càng khẳng định sức mạnh và ưu thế của mình trong thời đại
kinh tế toàn cầu, mở ra một hướng làm kinh tế mới cho ngành cơng nghiệp
báo chí - truyền thơng, một vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết trong đời
sống báo chí hiện đại.
Với những điều kiện khách quan và chủ quan, xu hướng hình thành tập
đồn báo chí Việt Nam là tất yếu, đáp ứng nhu cầu của phương thúc, phong
cách làm báo hiện đại trong xu thế toàn cầu hố.
Chủ trương hình thành các tập đồn báo chí của Đảng, Nhà nước ta ra
đời trong bối cảnh đó. Tuy nhiên hình thành như thế nào, nội dung, cơ chế
hoạt động và cơ cấu tổ chức ra sao thì cịn là một câu hỏi khó và cần thời gian
để nghiên cứu mà một trong những hướng tiếp cận đó là tìm tịi, học hỏi kinh
nghiệm làm kinh tế truyền thơng, cụ thể là q trình hình thành và hoạt động


của một số tập đồn báo chí trên thế giới như Thứ trưởng Bộ Văn hố - Thơng
tin Đỗ Q Dỗn đã chỉ ra: "Trên thế giới có nhiều tập đồn báo chí. Mỗi mơ
hình có những ưu điểm, đặc trưng riêng của từng nước. Chúng ta nên lựa

2


chọn, học tập để xây dựng một mơ hình cho phù hợp. Đây là một vấn đề rất
mới. Chúng ta phải vừa làm, vừa rút kinh nghiệm.
Trong thời gian qua, khái niệm "tập đồn báo chí" trở thành một đề tài
nóng trong giới Báo chí - truyền thơng. Nói cách khác, chưa có định nghĩa
chính thức về khái niệm này ở Việt Nam. Ở mức độ nghiên cứu còn hạn chế,
chúng tơi tạm thời đưa ra một định nghĩa. Ngồi ra, thơng qua q trình
nghiên cứu các tập đồn báo chí trên thế giới, người thực hiện cũng tạm thời
đưa ra một số yếu tố đem lại cái nhìn tồn diện về một tập đồn báo chí. Đây
chính là ý nghĩa lý luận của đề tài.
Về ý nghĩa thực tiễn, có thể thấy đề tài này là một tài liệu tham khảo có
tính ứng dụng cho các các cơ quan Bảo chí trong q trình chuẩn bị tiến tới
thành tập đồn báo chí theo đúng chiến lược của Bộ Văn hố - Thơng tin.
Ngồi ra, đề tài cũng có giá trị tham khảo đối với SV chuyên ngành báo chí,
đặc biệt là các SV muốn có một cái nhìn tồn diện và mới mẻ về lịch sử lý
luận báo chí. Vì những lý do đó, vấn đề tìm hiểu thấu đáo nội hàm của khái
niệm cũng như việc vận dụng vào thực tiễn báo chí Việt Nam hiện nay là một
yêu cầu cấp thiết.
Với sự cần thiết và các lý do đó, tơi xin được chọn đề tài: “Vấn đề
hình thành tập đồn báo chí ở Việt Nam hiện nay "

3



NỘI DUNG
Chương 1: Một số vấn đề về lý thuyết
1.1 Tìm hiểu về khái niệm tập đồn báo chí
Khái niệm tập đồn báo chí ở Việt Nam tương đối mới và chưa được
làm rõ, việc tìm hiểu nội hàm của các khái niệm này ở các nước trên thế giới
là một việc làm hết sức cần thiết. Tìm hiểu gốc từ tiếng Anh: “press group"
chỉ là một nhóm báo in hay dùng để gọi các tổ chức có hạt nhân là một cơ
quan báo in nổi tiếng lâu đời và cơ quan này có tham gia các hoạt động kinh
doanh khác. Theo GS Richard Shafer (Đại học Nanh Dakota, Mỹ) thì nên sử
dụng các thuật ngữ "media conglomerate", media convergence" để có thể tiếp
cận vấn đề nghiên cứu về tập đồn báo chí truyền thơng.
Theo wikipedia, "media conglamerate" dùng để chỉ các tổng công ty sở
hữu một con số lớn các cơng ty con hoạt động trong những loại hình truyền
thơng khác nhau như truyền hình, phát thanh, xuất bản, điện ảnh và Internet.
Xét trên khía cạnh thuật ngữ kinh tế, "conglomerate" chỉ một công ty lớn
(tổng công ty) bao gồm nhiều cơng ty con có vẻ ngồi là các doanh nghiệp
khơng liên quan gì đến nó. Ngồi ra, cịn sử dụng khái niệm: "media group"
với nghĩa tương tự như "media group" nhưng với hàm nghĩa bao trùm hơn
báo chí, chỉ về tất cả các loại hình truyền thơng (khơng riêng là báo in).
Hay thuật ngữ: "media convergence" (hội tự truyền thơng) có những
thuật ngữ tương đồng như "media consolidation" (tập hợp truyền thông) và
"concentration of'media ownership" (sự tập trung trong lĩnh vực sở hữu
truyền thông). Đây là một thuật ngữ phổ biến trong giới phê bình truyền thơng
cũng như các nhà làm luật khi đề cập đến phương thức sở hữu các phương
tiện truyền thông của các doanh nghiệp.
Thuật ngữ “media convergence" có sự liên hệ mật thiết với thuật ngữ
"media conglomerate" ở chỗ sự tập trung sở hữu trong lĩnh vục truyền thông
thường kéo theo sự hành thành các "media conglomerate". Khi một doanh
4



nghiệp sở hữu nhiều loại hình truyền thơng khác nhau, nó được xem như là
một “media conglomerate". Như vậy, từ khái niệm thuật ngữ cũng có thể cho
chúng ta thấy sự hình thành nên các tập đồn truyền thơng ở phương Tây
chính là từ những sự tập trung sở hữu các loại hình trong lĩnh vực truyền
thơng.
Bên cạnh đó, trên thế giới còn sử dụng một số thuật ngữ khác để chỉ tập
đồn báo chí như: media organization, media group, media mega-group,
media empires, media giants, media corporations,... Từ tìm hiểu các khái
niệm, thuật ngữ trên thế giới và việc sử dụng khái niệm “báo chí" hay truyền
thơng" ở Việt Nam đơi khi chưa tách bạch. Do đó, chúng ta nên xem xét khái
niệm tập đồn báo chí" là một thuật ngữ kinh tế, thuộc về kinh tế truyền
thơng, có nghĩa hẹp tương đương với thuật ngũ “press group" và nghĩa rộng
tương đương với "media conglomerate". Theo đó, tập đồn báo chí là một tập
đồn kinh tế hoạt động đa dạng trong lĩnh vực truyền thơng, có thể có hạt
nhân là một cơ quan báo in, báo hình hoặc bất cứ loại hình báo chí nào khác
và cũng có thể tham gia cào một số lĩnh vực kinh doanh ngoài truyền thơng".
Hay có thể đưa ra khái niệm: đập đồn truyền thông" là tổ hợp các cơ quanđơn vị hoặc doanh nghiệp kinh doanh chủ yếu về lĩnh vực tuyền thông- báo
chí và có kết hợp kinh doanh tơng hợp về một số lĩnh vực khác ngồi truyền
thơng-báo chí.
Theo tác giả Robert W Mcchesney, có hai dạng thức tập đồn báo chí
truyền thơng:
- Dạng thức thứ nhất là dạng thức tập hợp theo chiều ngang
(horizontally integrated), tức là tập đoàn thâu tóm gần như trọn vẹn một lĩnh
vực truyền thơng nào đó, chẳng hạn như lĩnh vực xuất bản sách.
- Dạng thức thứ hai là dạng thức tập hợp theo chiều ngang (vertically
integrated) tức là tập đoàn nắm quyền sở hữu trong rất nhiều lĩnh vực truyền
thông khác nhau, tạo thành một mạng lưới sản xuất và tiêu thụ liên hoàn, làm
ra nội dung truyền thơng và có kênh phân phối các nội dung truyền thơng đó.
5



Dấu hiệu để phân biệt một tập đoàn thống trị theo dạng thức này là khả năng
khai thác "sức mạnh tổng hợp giữa các cơng ty mà nó sở hữu.
Về phương diện này, hai tác giả Johannes von Dohnannyi và Christian
Moller trong nghiên cứu "The Impact of Media Concentration ơn Professional
Iounalism" (Tác động của sự tập trung truyền thông đối với nghề báo) cũng
đã khái quát: "Sự tập trung có thể diễn ra theo chiều dọc, tức là tập trung các
thể chế kinh tế độc lập với các công đoạn sản xuất khác nhau lại làm một tập
đoàn, hoặc diễn ra theo chiều ngang, tức là sáp nhập các công ty giống nhau
về cơng đoạn sản xuất".
1.2. Sự hình thành tập đồn báo chí
PGS,TS Tạ Ngọc Tấn cho biết nhận dạng tương đối nào đó về các tập
đồn báo chí" chính là các tập đồn kinh tế, hay nói cách khác các tập đồn
báo chí cũng chính là các tập đồn kinh tế mà lĩnh vực hoạt động chính của
nó là lĩnh vực báo chí truyền thơng. Có thể căn cứ vào quy mơ, tính chất phối
hợp hoặc vào khu vực đang phát triển của tập đồn báo chí truyền thơng lớn ở
trên thế giới này thì có thể chia 2 loại chính.
+ Loại thứ nhất: là các tập đồn chỉ lấy hoạt động báo chí là lĩnh vực
hoạt động chính và phần thu của nó chủ yếu có được hay tuyệt đại bộ phận từ
hoạt động báo chí truyền thơng. Ví dụ như các Tập đồn báo chí của Tectơn,
các tập đồn của Mơnơnđốc ở Anh và các tập đoàn ABC ở UC chẳng hạn.
+ Loại thứ hai: Do là các tập đồn mà hoạt động báo chí chỉ là một bộ
phận trong đó. Ta lấy ví dụ như tập đồn báo chí ở GaNet của Mỹ chẳng hạn
thì các tập đồn báo chí này một phần hoạt động liên quan đến báo chí và
truyền thơng. Nhưng một bộ phận rất quan trọng của nó lại liên quan đến lĩnh
vực kinh tế cơng nghiệp.Ví dụ có cả cơng ty sản xuất dầu mỏ.
Tập đồn báo chí hình thành theo con đường phát triển của các tập
đoàn kinh tế và nó có mấy con đường cơ bản như thế này:


6


Thứ nhất là q trình cạnh tranh tích tụ "cá lớn nuốt cá bé" thì các tập
đồn lớn mua lại các tập đồn nhỏ hay là nó cạnh tranh "bóp chết” các tập
đoàn nhỏ và thu hút các tập đoàn nhỏ vào các tập đồn lớn đó.
Khả năng thứ hai là: Các tập đồn báo chí nhận thấy rằng cần liên kết
lại thành các tập đoàn lớn để thành các quyền lực lớn trong lĩnh vực đó, thì
liên kết lại, sát nhập lại thành các tập đoàn lớn hơn.
Con đường thứ ba, tức là các tập đồn cơng nghiệp, các tập đồn kinh
tế hoạt động trên lĩnh vực cơng nghiệp - dịch vụ, họ thấy cần thiết phải lập ra
các bộ phận để kinh doanh, hoạt động trong lĩnh vực truyền thơng nhằm tạo
nên quyền lực nào đó nhằm phục vụ cho hoạt động kinh tê của họ thì họ lập ra
hoặc mua một số tập đồn truyền thơng để phục vụ cho mạch đích của họ.

7


Chương II. Thực tế vấn đề xây dựng tập đoàn báo chí ở Việt Nam hiện nay

2.1.Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Tập đồn
báo chí ở Việt Nam
Vấn đề tập đồn báo chí được đưa ra bàn luận trên báo chí Việt Nam từ
khoảng giữa năm 2004. Trong cuộc hội thảo về Tình hình phát triển, quản lý
thông tin đại chúng và xuất bản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh vào ngày
24/6/2004, ơng Phan Xuân Biên, Trưởng ban Tư tưởng - Văn hoá thành uỷ
thành phố Hồ Chí Minh đã gợi ý về định hướng phát triển sự nghiệp báo chí:
cần có những tập đồn báo chí mạnh; một số việc có thể thuê kênh tư nhân
làm, Nhà nước quản lý nội dung.
Hiện nhiều cơ quan báo chí muốn vươn thành tập đồn song vẫn loay

hoay tìm mơ hình, cơ chế hoạt động. Có người ví, những cơ quan báo chí này
giống như người đang mặc tấm áo quá chật, song lại chưa tìm được tấm áo
mới vừa vặn. Đường đi đã có PGS,TS Tạ Ngọc Tấn, Tổng biên tập Tạp chí
Cộng sản, nguyên Giám đốc Học viện Báo chí - tuyên truyền, người nghiên
cứu lâu năm về tập đồn báo chí cho rằng, hình thành những tập đồn báo chí
là con đường tất yếu của báo chí Việt Nam.
Đồng tình với ý kiến này, nhà báo lão thành Phan Quang, nguyên Chủ
tịch Hội nhà báo Việt Nam cũng cho rằng, muốn chuyên nghiệp, tờ báo phải
độc lập về tài chính. Muốn vậy, các báo phải trở thành những tập đoàn hùng
mạnh, hoạt động như một công ty, tách khỏi khu vực hành chính sự nghiệp,
cạnh tranh với nhau để có được bạn đọc và các nguồn quảng cáo. Sự cạnh
tranh của các tập đồn này sẽ khiến tồn bộ nền báo chí Việt Nam phát triển
lành mạnh. Trên thế giới, việc hình thành các tập đồn báo chí hùng mạnh đã
có từ lâu Còn ở nước ta, rất nhiều cơ quan báo chí đang chờ đợi những hướng
dẫn cụ thẻ để thành lập tập đoàn. Theo BỘ TT&TT, chủ trương và cơ sở pháp
lý để hình thành tập đồn báo chí đã có từ lâu, đường đi đã sẵn có, sẵn sàng
đón đợi những người đi tiên phong. Cụ thể, Chiến lược Phát triển thông tin
8


đến năm 2010

nêu rõ, các cơ quan báo chí coi trọng việc đa dạng hoá các

hoạt động dịch vụ phù hợp với chức năng nhiệm vụ để tăng nguồn thu đầu tư
cho việc nâng cao chất lượng báo chí.
Chiến lược cũng nêu rõ việc cần thiết xây dựng các quy định cho mơ
hình hoạt động của cơ quan báo chí có nhiều ấn phẩm báo chí (nhóm báo chí,
tập đồn báo chí). Đồng thời, trong Luật Báo chí hiện hành và cả dự thảo Luật
Báo chí sửa đổi, tuy khơng nhắc đến mơ hình tập đồn báo chí, song đều có

những cơ chế rất "mở” cho con đường hình thành tập đồn của báo chí. Theo
Thứ trưởng BỘ TT&TT ĐỖ Q Dỗn, nếu nói về kinh tế báo chí thì chúng
ta phải xem xét đến yếu tố pháp lý. Thực ra cơ chế tài chính của cơ quan bán
chí cũng đã được xác định: cơ quan báo chí được phép tổ chức kinh doanh
dịch vụ phù hợp với chức năng nhiệm vụ để tạo nguồn thu đầu tư trở lại cho
hoạt động báo chí. Quy định như vậy có nghĩa là báo chí được phép tổ chức
các hoạt động kinh doanh thì rõ ràng phải được quyền thành lập các doanh
nghiệp phù hợp với điều kiện và trong thực tế cũng đã có những tờ báo có
cơng ty của mình, hoạt động đúng quy định của pháp luật, phù hợp với chức
năng nhiệm vụ để phục vụ cho hoạt động báo chí.
Những năm qua, trong nhiều văn bản, chúng ta cũng đã đề cập tới vấn
đề tập đồn báo chí. Trong chiến lược phát triển thông tin quốc gia năm 2010
và những năm tiếp theo có đề cập việc cho phép thành lập thử nghiệm mơ
hình tổ hợp báo chí, tập đồn báo chí, hay Chỉ thị 42 của Ban Bí thư về nâng
cao tồn diện hoạt động xuất bản cũng đã đề cập cho thử nghiệm thành lập tổ
hợp báo chí xuất bản và tập đồn báo chí xuất bản.
Theo Thứ trưởng Đỗ Q Dỗn thì: "Chủ trương và hành lang pháp lý
cho việc hình thành tập đồn báo chí đã có. Vì vậy, những cơ quan báo chí
nào thấy có đủ năng lực nên mạnh dạn xin chủ trương của cơ quan chủ quản,
mạnh dạn thực hiện. Các cơ quan quản lý không thể áp đặt một mô hình cụ
thể nào cho báo chí, tự thân các cơ quan báo chí phải mạnh dạn thử nghiệm,
dần dần rút kinh nghiệm để hồn thiện mơ hình".
9


Chờ hướng dẫn cụ thể, dù chủ trương, hành lang pháp lý đã có và thực
tế nhiều cơ quan báo chí đã hoạt động như một tập đồn, song cho đến nay,
vẫn chưa có một cơ quan báo chí nào lập đề án thành lập tập đồn bao chí
trình các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt để trở thành một tập đồn báo chí
đúng nghĩa. Dường như, báo chí vẫn lo ngại bởi những cơ chế tài chính vơi

báo chí hiện nay vẫn chưa thực sự thơng thống để báo chí mạnh dạn vươn
mình thành tập đồn độc lập tài chính mà vẫn phải bám vào cơ chế sự nghiệp.
Dù mơ hình về tập đồn trên thế giới đã khá rõ ràng: có tập đồn chỉ
hoạt động trong lĩnh vực báo chí, truyền thơng song cũng có những tập đồn
báo chí hoạt động rất đa dạng trong nhiều lĩnh vực như dầu mỏ, tài chính, bất
động sản... Song Ở nước ta, đến nay, hình hài mơ hình tập đồn báo chí Việt
Nam như thế nào vẫn chưa ai có câu trả lời, cách định hình về tập đồn báo
chí của mỗi người cũng rất khác nhau. Có ý kiến cho rằng, tập đồn báo chí
chỉ nên hoạt động trong lĩnh vực báo chí, truyền thơng. Song cũng có ý kiến
cho rằng, tập đồn báo chí có thể hoạt động kinh doanh ở tất cả các lĩnh vực
mà pháp luật khơng cấm.
Ơng Nguyễn Quang Thơng, Tổng Biên tập Báo Thanh niên cho rằng,
hiện các báo vẫn tự mày mò xây dựng tập đoàn theo kiểu cho ra đời nhiều ấn
phẩm. Vì vậy, ơng Thơng đề nghị cần sớm xây dựng các định chế, quy chế
phù hợp với việc làm thí điểm thành lập tập đồn báo chí.
Đại diện nhiều cơ quan báo chí khác cũng kiến nghị, cần có cơ chế linh
động, thích hợp hơn với chính sách thuế thu nhập DN, số lượng, thời lượng
quảng cáo đối với các tờ báo. Ngoài ra, các cơ quan quản lý cũng cần sớm
nghiên cứu, xây dựng những mơ hình, cơ chế cụ thể về tập đồn báo chí, cho
phép báo chí có thể đa dạng hoạt động để làm kinh tế theo đúng quy định
pháp luật. Điều này đồng nghĩa giúp các báo được tự chủ về tài chính, phát
huy khả năng sáng tạo trong việc tạo nguồn thu, thoát khỏi cơ chế xin - cho".
Từ đó sẽ nâng cao chất lượng thơng tin, vừa thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị,
vừa nâng cao đời sống cán bộ, phóng viên.
10


2.2. Một số lộ trình và ý kiến của người trong cuộc
Cần quản lý báo chí theo hướng "mở", là ý kiến của ông Thái Minh
Tần- Chủ tịch HDQT kiêm Tổng giám đốc VTC.

Thực chất VTC đã trở thành một tổ hợp truyền thơng đa phương tiện.
Ban đầu chỉ có Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC làm nịng cốt, đến nay VTC
đã hình thành và phát triển được nhiều loại hình báo chí như: Truyền hình độ
nét cao HDTV, phát thanh truyền hình trên Intemet (vtc.com.và) phục vụ
thơng tin đối ngoại, truyền hình trên điện thoại di động, truyền hình cáp số,
truyền hình IPTV, báo điện tử VTCnews, báo in (Thể thao 24h và Tạp chí
Truyền hìnhh số). VTC đang nỗ lực chuẩn bị xây dựng mơ hình Tập đồn
theo 'hướng đa dịch vụ chứ khơng' chỉ trong lĩnh vực báo chí.
Cơ quan báo chí nằm trong một doanh nghiệp mạnh về cơng nghệ như
VTC có rất nhiều thuận lợi. Bởi vì chúng tơi có một đội ngũ nghiên cứu, phát
triển và ứng dụng công nghệ tiên tiến nhất thế giới vào các công đoạn sản
xuất, truyền dẫn và thu xem.
Tôi cho rằng, Nhà nước cần quản lý báo chí theo hướng mở. Nhất là
cần xem xét cho doanh nghiệp đủ điều kiện làm chủ quản của cơ quan báo
chí. Tổng biên tập Vietnamnet, ơng Nguyễn Anh Tuấn có ý kiến: Đã có bóng
dáng của Tập đồn báo chí. Bởi hiện tại đã có đủ điều kiện và cần thiết phải
xây dựng các tập đồn báo chí hay các tập đồn truyền thơng ở Việt Nam. Đài
truyền hình Việt Nam, VTC, VOV, Thanh Niên... đã mang bóng dáng tập
đồn. Tuy nhiên, do chưa có mẫu hình chính thức về tập đồn truyền thơng ở
Việt Nam, nên khó có thể so sánh với các nước khác. Nêu coi bóng dáng của
VTV, hay Thanh Niên là mẫu hình về Tập đồn truyền thơng thì cần làm rõ sở
hữu và cơ chế hoạt động, mơi trường hoạt động.
Để hình thành các tập đồn báo chí, tơi cho rằng càn tạo mơi trường để
mọi nguồn lực cả về tài chính và con người của toàn xã hội được tham gia đầu
tư hợp tác, kinh doanh truyền thơng. Cần có định chế tạo sự minh bạch, cạnh
tranh lành mạnh trên thị trường. Việc bắt tay với các tổ chức nước ngoài để
11


thành lập những tập đồn báo chí là cần thiết song cần có chiến lược, mục tiêu

rõ ràng. Báo điện tử Vietnamnet cũng đang hướng tới mục tiêu hình thành
Tập đồn truyền thơng Vietnamnet.
Tuy nhiên, Tổng biên tập Thời báo Kinh tế -ông Đào Nguyên Cát lại
nghĩ đây là thời điểm chưa chín muồi, cịn phải bàn nhiều. Thời báo kinh tế
Việt Nam hiện có 5 ấn phẩm thường xuyên là báo hàng ngày, báo điện tử, tạp
chí Tư vấn tiêu dùng, tạp chí Và (tiếng Anh) và tạp chí The Guide (tiếng
Anh). "Có người nói, gọi Thời báo kinh tế là một tập đồn cũng được, nhưng
tơi cho rằng, gọi là một nhóm báo chí, một tổ hợp báo chí thì đúng hơn. Có
người cho rằng, để hình thành tập đồn cần hợp tác với nước ngồi, nhưng
chúng tơi đã có kinh nghiệm xương máu. Thời báo Kinh tế thành lập năm
1991, đến năm 1993 thì một Tập đồn của Thụy Sĩ vào đầu tư. Sau 4 năm thì
họ lỗ 17 lần, tức lỗ 1,7 triệu USD. Nhưng không phải tờ báo lỗ do làm ăn kém
mà do họ quảng cao lớn, đầu tư lớn quá. Từ khi nước ngồi rút vốn, rút người
về, chúng tơi tự chủ phát triển tờ báo và lại làm ăn có lãi. Sở dĩ lãi là vì chúng
tơi cũng làm được như họ, thậm chí hơn họ mà lại chi tiêu ít hơn họ":
Riêng ý kiến của Uỷ viên Thường vụ, Thường trực, Hội nhà báo Việt
Nam Nguyễn Quang Thống thì việc hình thành tập đồn báo chí, là xu hướng
sẽ phải thế. Tuy nhiên, học tập mơ hình nào ở nước ngồi thì chưa rõ. Hiện
một số báo đã thành lập những công ty để làm kinh tế rất tốt như Thanh Niên,
Tiền Phong... Song hiện vẫn chưa có cơ quan báo chí nào nộp đề án xin thành
lập tập đồn, bởi hiện các cơ quan quản lý mới cho chủ trương, nghiên cứu
chứ chưa đưa ra mơ hình nào cả.
Có ý kiến cho rằng, các báo không dám thành lập tập đồn vì khơng
dám độc lập về tài chính. Điều này cũng có phần đúng. Khơng phải cơ quan
báo chí nào cũng thành tập đồn được, ví dụ như báo Đảng ở địa phương,
nhất là báo giấy thì làm sao có thể lên tập đồn? Tóm lại, để hình thành tập
đồn báo chí ở Việt Nam, theo tơi trước hết cần phải có một mơ hình, thêm

12



vào đó là các cơ quan báo chí phải có tiềm lực kinh tế, khơng có vốn thì
khơng thể thành tập đồn.
Khó khăn nhất là quản lý, đó là ý kiến chia sẻ của Phó Tổng biên tập
Báo Đầu tư Lê Trọng Minh. Phát triển truyền thông đa phương tiện và mơ
hình đa ấn phẩm là một giải pháp quan trọng nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu
độc giả. Để một cơ quan báo chí có thể phát triển thành một tập đồn truyền
thơng đa phương tiện, đa ấn phẩm địi hỏi phải có các tiền đề cần thiết, trong
đó có các tiền đề quan trọng như nhu cầu thơng tin, trình độ cơng nghệ, nguồn
nhân lực Khó khăn lớn nhất trong q trình quản lý tịa soạn đa ấn phẩm, đa
phương tiện là do mơ hình này mới phát triển ở Việt Nam nên kinh nghiệm
trong nước chưa nhiều để cùng chia sẻ. Tuy nhiên, cùng với quá trình hội
nhập, các tịa soạn báo trong nước đang có nhiều điều kiện thuận lợi để tiếp
cận kinh nghiệm quản lý báo chí tiên tiến trên thế giới và thực hiện chiến lược
"đi tắt, đón đầu.
2.3. Mơ hình tập đồn báo chí cho Việt Nam
Theo trả lời phỏng vấn trên Vnexpress, Thứ trưởng Bộ Thơng tin và
truyền thơng Dỗ Q Dỗn cho rằng: mơ hình tập đồn báo chí đang là xu
hướng phát triển ở nhiều nước trên thế giới. Ngay Ở châu á, các nước Nhật
Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, các tập đồn báo chí hoạt động rất hiệu quả. Ở
nước ta, nền báo chí đã có sự phát triển vượt bậc trong thời gian qua và thực
tế cũng đang manh nha hình thành các tập đồn báo chí.
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển thơng tin đến
năm 2010, trong đó có đề cập đến việc thử nghiệm xây dựng các tổ hợp xuất
bản, tập đoàn báo chí, kết hợp với các hoạt động kinh doanh, dịch vụ theo quy
định pháp luật để tạo nguồn thu đầu tư cho hoạt động báo chí. Vậy mơ hình
tập đồn báo chí ở Việt Nam sẽ như thế nào?
Mơ hình tập đồn báo chí là một lĩnh vực mới mẻ ở Việt Nam và cịn
q sớm để nói mơ hình cụ thể sẽ như thế nào. Tập đồn phải có hạt nhân là
một cơ quan báo chí, có thể là báo in, truyền hình, phát thanh, Intemet. Nhũng

13


hoạt động bổ trợ của tập đoàn cũng phải phục vụ phát triển báo chí. Một yếu
tố nữa là tập đồn đó khơng chỉ thuần t làm một ấn phẩm mà phải có nhiều
ấn phẩm báo chí. Tuy nhiên, một tập đồn báo chí khơng phải là phép cộng cơ
học các tồ báo. Trong thời gian tới, chúng tơi sẽ tiếp tục nghiên cứu để đưa
ra định nghĩa, tiêu chí thành lập tập đồn báo chí ở Việt Nam.
Sau khi nghiên cứu rất nhiều loại mơ hình tập đồn báo chí của Thụy
Điển, lslhật Bản, Trung Quốc...Đặc biệt là Trung Quốc, mấy năm gần đây
phát triển rất mạnh mơ hình này với trên 30 tập đoàn lớn, nhỏ. Đây là một
nước gần chúng ta. Tuy nhiên, mỗi mơ hình đều có nhúng ưu điểm nhưng
chúng ta khơng thể áp dụng rập khn bởi mỗi nước có những thể chế chính
trị, điều kiện kinh tế xã hội, dân trí khác nhau. Ví dụ, một tập đồn phải có
Chủ tịch, nhưng ở Việt Nam Chủ tịch tập đồn có quyền bổ nhiệm Tổng biên
tập khơng? Các tổ chức trong tập đồn sẽ hoạt động như thế nào? Chúng ta
cần nghiên cứu kỹ, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, không thể vội vã. Cũng tại
Trung Quốc hiện nay các tập đồn báo chí đều tự chủ về mặt tài chính, tự
trang trải kinh phí hoạt động. Ở một số quốc gia các tập đồn truyền thơng
đóng góp rất lớn cho ngân sách nhà nước, thậm chí chỉ đứng sau ngành viễn
thơng. Khi thí điểm thành lập tập đồn báo chí ở Việt Nam là Chính phủ
muốn các tờ báo đo mạnh lên, đóng góp cho' ngân sách nhà nước. Nếu thành
lập tập đồn mà nhà nước lại phải tiếp tục rót ngân sách thì có lẽ khơng nên
thành lập tập đồn. Một số cơ quan báo chí hiện nay đã manh nha hoạt động
theo mơ hình tập đồn ví dụ như Sai gon Times Group. Tuy nhiên, chưa có cơ
quan báo chí nào ở Việt Nam có đầy đủ thực lực và cơ cấu thích hợp để hình
thành tập đồn thực sự. Cái khó nhất hiện nay của chúng ta là tính chun
nghiệp trong quản lý của các tồ soạn và tính chun nghiệp cửa các nhà báo.
Điều kiện cơ sở vật chất của các tồ soạn cũng cịn hạn chế. Khi phát triển
thành tập đoàn chúng ta sẽ phải giải những bài toan này.

Trước mắt, Chính phủ sẽ thành lập một trường báo chí quốc gia nhằm
đào táo nguồn nhân lực chất lượng cao phúc vụ hoạt động báo chí.
14


KẾT LUẬN
Những năm gần đây, đời sống Báo chí Việt Nam có nhiều biến chuyển
mạnh mẽ. Tuy cơ chế chưa có, nhưng thị trường truyền thơng về cơ bản đã
hình thành. Từ chỗ chỉ là cơng cụ Chính trị - tư tưởng của Đảng, báo chí từng
bước bung ra làm kinh tế (cải tiến nội dung tăng doanh số phát hành, thu hút
quảng cáo, tham gia vào các hoạt động kinh tế khác). Từ thực tiễn Báo chí
làm ăn có hiệu quả mà vẫn duy trì được định hương chính trị, những người
lãnh đạo đã có sự đổi mới trong tư duy, tạo điều kiện thơng thống hơn cho
báo chí tham gia vào hoạt động kinh tế. Đó là nguyên nhân dẫn đến chủ
trương thành lập tập đồn báo chí trước năm 2010, thực chất là sự hợp thức
hoá hoạt động Kinh doanh báo chí, tiến đến một nền kinh tế Báo chí trong nay
mai. Tuy nhiên, từ chủ trương đến thực tế còn cần một khâu chuẩn bị lâu dài,
cả về tiềm lực của các cơ quan Báo chí lẫn cơ chế, chính sách của nhà nước,
nhất là trong hồn cảnh nước ta chưa cho phép có báo chí tư nhân mà chỉ mới
cho phép Xã hội hoá một số lĩnh vực có liên quan đến báo chí - truyền thông
(như xuất bản, phát hành). Trong bước chuẩn bị về tiềm lực, một việc hết sức
quan trọng là phải hiểu rõ về cái gọi là "tập đồn bao chí". Ở đầu chương 2,
người thực hiện đề tài đã tạm định nghĩa: "tập đồn báo chí"là một tập đồn
kinh tế hoạt động đa dạng trong lĩnh vực truyền thơng, có thể có hạt nhân là
một cơ quan báo in, báo hình, hoặc bất cứ loại hình Báo chí nào khác, và cũng
có thể tham gia vào một số lĩnh vực Kinh doanh ngồi truyền thơng".
Tuy nhiên, so với Lịch sử Phát triển của Báo chí thế giới, Ở Việt Nam,
dù rất nhanh nhạy, tất cả các cơ quan báo chí chỉ mới ở bước "manh nha" làm
kinh tế. Do đó, việc học tập kinh nghiệm của các tập đoàn báo chí nước ngồi
là một việc khơng thể thiếu. Báo chí Mĩ được đánh giá là một trong những

nền báo chí mạnh nhất trên thế giới. Các tập đồn truyền thơng của M có
phạm vi ảnh hưởng rộng lớn trên tồn cầu. Kinh nghiệm tổ chức, quản lý,
cũng như kinh nghiệm làm kinh tế Báo chí của Mĩ đã và đang được nhiều
15


quốc gia trên thế giới học hỏi, trong đó có cả Trung Quốc. Điều cần phải cân
nhắc trong quá trình tiếp thu kinh nghiệm của báo chí Mĩ chính là điều kiện
kinh tê - Chính trị của Mĩ khác với Việt Nam. Nước Mẹ chủ trương tự do hoá
tối đa lĩnh vực kinh tế báo chí. Chính phủ Mĩ từng đặt ra các luật lệ giới hạn
sở hữu truyền thông qua là giới hạn K-inh doanh truyền thơng), song cũng
chính cơ quan làm luật của nước này lại đâu tranh để tháo dỡ tùng điều luật
một. Điều đó tạo nên đặc điểm phức tạp, chồng chéo của nền kinh tế Báo chí
Mĩ. Các nhà Xã hội học truyền thơng cho rằng đó là mầm mống của chủ
nghĩa độc quyền truyền thơng, là nguy cơ đe doạ tính dân chủ, tính minh bạch
trong hoạt động báo chí, làm suy giảm chất lượng của báo chí. Do vậy, khi
học tập mơ hình tập đồn truyền thơng Mĩ, cần chú trong đến tính chuyên
nghiệp trong điều hành kinh tế báo chí và rút kinh nghiệm về mặt hoạch định
chính sách. Xét về thực lực, các tập đồn Báo chí của Trung Quốc khơng
mạnh bằng các tập đồn báo chí Mĩ, và thực chất họ cũng chỉ là "học trị" của
các tập đồn truyền thơng Mĩ. Điều đáng học ở Trung Quốc chính là mơ hình
quản lý tương đối phù hợp với điều kiện Chính trị của một quốc gia theo đuổi
chủ nghĩa Xã hội như Việt Nam. Mặt khác, cần học Trung Quốc ở cách ứng
xử và (chia sẻ kinh nghiệm" với các đối tác truyền thơng lớn trên thế giới.
Nền Báo chí Singapore tạm được coi là mạnh nhất khu vực Đông Nam á. Lợi
thế của các tập đồn báo chí ở Singapore là sự hậu thuẫn tuyệt đối của Chính
phủ thơng qua cơ chế, chính sách. Tuy nhiên, mơ hình quản lý của Singapore
chỉ phát huy tác dụng đối với các quốc gia không đông dân, bộ máy công
quyền linh hoạt, gọn nhẹ. Mơ hình này cỏ thể ứng dụng ở Việt Nam, nhưng
khơng phải là trên phạm vi tồn quốc, mà chỉ nên thí điểm ở một vài thành

phố năng động, tự chủ. Điều đáng học nhất ở Singapore chính là cách triển
khai bài bản những gì đã học được từ các tập đoàn trên thế giới, là tham vọng
đưa truyền thơng vươn ra ngồi lãnh thổ, đặc biệt là ở chiến lược trên ngôi"
trong thị trường truyền thông khu vực - nơi mà tiềm năng của thị trường
truyền thông còn dồi dào. Ở Việt Nam hiện nay, tuy một số cơ quan Báo chí
16


nhận được sự khuyến khích từ phía nhà nước, nhưng kinh nghiệm trên thế
giới cho thấy tính hiệu quả của các tập đồn báo chí chỉ có thể đạt được nếu
tờ báo có sự Phát triển căn cơ về thế và lực, khơng nên chủ quan, duy ý chí.
Mặt khác, việc có thành lập được tập đồn Báo chí hay khơng cịn phụ
thuộc vào khả năng đổi mới tư duy và tốc độ hoạch định chính sách của nhà
nước. Năm 2010 không phải là một mốc quá gần cho sự ra đời của các tập
đồn báo chí, nhưng là là một mốc quá gần cho sự lớn mạnh của các tập đồn
này. Tuy nhiên, nhìn lại tốc độ Phát triển của đời sống Báo chí - truyền thơng
Việt Nam trong 5 năm qua, có lẽ mục tiêu trở thành tập đồn báo chí quy mơ
quốc gia khơng phải là q khó thực hiện.

17


CÂU 2: Trong sự phát triển của đời sống xã hội nước ta hiện nay,
xuất hiện những vấn đề mới thuộc lĩnh vục báo chí truyền thơng cần lý
luận, lý giải đúc kết. Anh (chị) hãy nêu và phân tích vấn đề đó?
Đề tài lựa chọn: "Dư luận xã hội với sự phát triển báo chí hiện
nay”
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài
Báo chí từ nhiều năm qua đã trở thành món ăn tinh thần khơng thể thiếu

trong đời sống xã hội của con người ở tất cả các nước trên thế giới, trong đó
có Việt Nam. Báo chí đã và đang ngày càng khăng định sức mạnh của mình
trong sự phát triển chung của xã hội. Báo chí với chức năng định hướng, cung
cấp thơng tin...có thể kìm hãm cũng như thúc đẩy sự phát triển của xã hội
trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Trong xu hướng phát triển hiện nay, có
nhiều yếu tố tác động và có ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của báo chí.
Một trong các yếu tố quan trọng đó là dư luận xã hội. Báo chí và dư luận xã
hội có mối quan hệ khăng khít, biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Dư luận
xã hội vừa là yếu tố tạo đề tài cho báo chí, vừa là kênh thơng tin phản hồi để
báo chí nhìn nhận hiệu quả cũng như những hạn chế trong hoạt động của
mình, từ đó đưa ra biện pháp điều chỉnh cho phù hợp. Ngược lại, thơng qua
báo chí, dư luận xã hội về một vấn đề nào đó hoặc là được hình thành, hoặc là
bị mất đi. Tuy nhiên, hiện nay, ở khơng ít cơ quan báo chí, đã và đang xuất
hiện tình trạng làm ngơ được dư luận xã hội hoặc quá chạy theo dư luận xã
hội mà lãng quên đi chức năng định hướng dư luận theo tôn chỉ, mục đích của
tờ báo cũng như sự định hướng, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước khiến nhiều vấn
đề bị xuyên tạc, hiểu sai, hiểu méo mó. Đưa những thơng tin giật gân, câu
khách vẫn là cách thu hút, lôi kéo để độc giả xem báo, mua báo của khơng ít
cơ quan báo chí. Xuất phát từ thực tế này, trong khn khổ bài tiểu luận, tôi

18


mạnh dạn chọn đề tài "Dư luận xã hội với sự phát triển của báo chí hiện nay
để nghiên cứu.
2. Lí do chọn đề tài
+ Từ tính cấp thiết của đề tài như vừa nêu trên.
+ Từ phát hiện của tác giả về vấn đề cần giải quyết.
+ Từ vốn kiến thức đã học tập, nghiên cứu và khả năng, năng lực của
cá nhân.

3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
- Mục đích: Góp phần làm rõ những giá trị cũng như một số vấn đề cần
lưu ý trong hoạt động của báo chí đối với dư luận xã hội, từ đó đưa ra
những
quy tắc ứng xứ của báo chí trong đời sơng xã hội con người.
Nhiệm vụ: Trình bày vai trị, chức năng của báo chí đối với đời sống xã
hội; sự tác động, ảnh hưởng lẫn nhau của dư luận xã hội đối với báo chí
4. Kết cấu của đề tài
Phần I. Quan niệm về báo chí và dư luận xã hội
1.1 Quan niệm về bán chí
1.2. Quan niệm về dư luận xã hội
Phần II. Báo chí- dư tuân xã hội mối quan hệ và sự tác động lẫn nhau
2.1. Quan hệ giữa báo chí và dư luận xã hội
2.2. Vai trị của báo chí trong việc phát huy sức mạnh dư luận xã hội
hiện nay.
2.3. Sự tác động trở lại của dư luận xã hội đối với hoạt động của báo
chí hiện nay.
Phần III. Kết luận.

19


NỘI DUNG
Phần I. Quan niệm về báo chí và dư luận xã hội
1.1. Quan điểm về báo chí
Cho đến nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam còn tồn tại nhiều quan
điểm khác nhau vê báo chí. Có quan điểm thì cho rằng, báo chí là cơ quan
quyền lực thứ 4, san lập pháp, tư pháp và hành pháp; có ý kiến lại cho rằng,
báo chí cũng chỉ là một trong những cơ quan cấu thành của bộ máy Nhà nước.
Bản thân báo chí, mà cụ thể là 1 cơ quan báo chí nào đó khơng có sức mạnh

để chiến thắng những kẻ thù, thế lực thù địch mà phải dựa vào sức mạnh của
dư luận xã hội. Đây được xem là vũ khí quan trọng để tác đơng ngược trở lại
đối với tự hình thành và phát triển của cơ quan báo chí.
Báo chí cũng là một hiện tượng phức tạp vì nó có thể được tiếp cận từ .
nhiều góc độ và quan điểm khác nhau. Từ hoạt động kinh tế, báo chí có thể là
cơng cụ marketing, quảng bá thương hiệu, quảng bá giới thiệu sản phẩm, dịch
vụ; nhìn từ văn hóa, báo chí vừa là sản phẩm văn hóa, vừa là kênh truyền dẫn,
kích thích nguồn lực phát triển cũng như bảo vệ các giá trị văn hóa. Ngồi ra,
báo chí cịn được hiểu như một thiết chế chỉnh thể từ ý đồ của quyền lực
chính trị đến đối tượng tác động và các mối quan hệ trực tiếp, gián tiếp phức
tạp trong tiến trình vận động của nó. Ở một khía cạnh khác, bao chí cũng thể
hiện tính chất động và tính chất mở. Trong đó, các yếu tố vận hành bằng các
mối quan hệ có tính ngun tắc.
Ở bất kỳ chế độ nào, báo chí thường là hình bóng của chính trị. Nền
chính trị sạch thì báo chí được cơng khai, người dân được đảm bảo quyền
thông tin, quyền tiếp cận thông tin; nhờ đo, người dân có thể phát huy quyền
dân chủ của mình, xã hội trở nên thân thiện, hịa đồng và các giá trị được nhìn
nhận sáng rõ, chuẩn mực xã hội được thiết lập và phát huy tác dụng tối đa.
Ngược lại, nếu nền chính trị khơng mịch bạch, thậm chí bị tha hóa thì
các giá trị sẽ bị đảo lộn, mọi thứ trở thành hàng hóa trao đổi, bán chác trao
20


tay. Và hệ quả tất yếu đó là báo chí sẽ chỉ là người "chỉ đâu, đánh đấy", hoặc
đối mặt với sự bùng nổ, khó phát huy tác dụng trong một mơi trường cân
bằng, ổn định...
Ở việt Nam, Hồ Chí Minh quan niệm: Báo chí và các phương tiện
thơng tin, tuyên truyền đại chúng là bộ phận hữu cơ, luôn gắn với mục tiêu
của cuộc cách mạng. Người luôn xem báo chí là thứ vũ khí sắc bén, lợi hại và
đã được Người sử dụng, phát huy đến mức tối đa. Cùng với các hoạt động

cách mạng khác, Hồ Chí Minh đã dùng “ngòi bút làm đòn xoay chế độ", thức
tỉnh, động viên, tập hợp và tổ chức quần chúng nhân dân đứng lên đánh thắng
kẻ thù, xây dựng xã hội mới ấm no, hạnh phúc. Coi báo chí là một bộ phận
hữu cơ của sự nghiệp cách mạng nên khi cả dân tộc Việt Nam lao vào cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp, Người đã nhiều lần nhắc nhở những người
làm báo (nhiệm vụ của tờ báo là tuyên truyền, cổ động, huấn luyện, giáo dục
và tổ chức dân chúng để đưa dân chúng đến mục đích chung. Mục đích là
kháng chiến và kiến quốc.
Như vậy, mục đích của báo chí được bắt đầu và quyết định bởi ý đồ
chính trị của một giai cấp, giai cấp lãnh đạo, một chính đảng cầm quyền trong
xã hội, chứ khơng phải từ ý đồ của một cá nhân hay chỉ là phương tiện thơng
tin giao tiếp đứng ngồi cuộc đấu tranh tư tưởng như một số nhà lý luận báo
chí tư sản tuyên bố và có một số người trong chúng ta ngộ nhận. Hiệu lực và
hiệu quả của báo chí Việt Nam được thể hiện và phát huy khi nó thực sự trở
thành mắt xích của sự nghiệp cách mạng của Đảng và của nhân dân ta. Trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, mục đích của báo chí là phị chính, trừ tà, vì sự nghiệp
cách mạng là của nhân dân, của dân tộc và của Đảng. Do đó, báo chí luôn
luôn là một bộ phận hữu cơ của sự nghiệp cách mạng của nhân dân, của dân
tộc và của Đảng. Như Lê nin đã nói từ đầu thế kỷ XX: Báo chí phải như cái
đinh ốc trong bộ máy của Đảng Cộng sản.
Việc giải thích nội dung khái niệm báo chí có thể coi là một liệu pháp
phương pháp luận quan trọng. Vì chính bản chất khái niệm này có khả năng
21


phê phán các quan điểm báo chí đối lập, nhất là những quan điểm lập lờ. Bên
cạnh đó đối tượng nghiên cứu của báo chí được xác lập rõ ràng để tạo điều
kiện cho việc xây dựng hệ thống cấu trúc tri thức, hệ thống phạm trù khái
niệm của báo chí học hiện đại. Ở một cấp độ khác, bản chất cấu trúc của khái
niệm này có ý nghĩa thực tiễn trong việc nhận thức một nền báo chí cũng như

các hiện tượng báo chí đang vận hành. Nó cũng có ý nghĩa quan trọng trong
việc đánh giá, tổ chức và quản lý, vận hành nền báo chí quốc gia cũng như
của từng cơ quan báo chí cụ thể. Nó giúp các nhà báo nhận thức sâu sắc và tự
giác hơn về nghề nghiệp của mình, về quan điểm, thái độ và tinh thần phục vụ
cơng chúng xã hội vì sự phát triển bền vững của đất nước.
1.2 Quan niệm về dư luận xã hội.
Dư luận xã hội cũng có rất nhiều định nghĩa khác nhau, xuất phát từ
quan niệm và từ các góc độ, thành phần, đối tượng, phương thức tồn tại...
nhưng tất cả đều phải đảm bảo được những vấn đề chính như sau:
Dư luận xã hội là ý kiến, thái' độ của số đơng, của nhóm lớn trong xã
hội, hoặc của toàn thể xã hội hay của các vùng dân cư...
Là dư luận về các sự kiến trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã
hội. Trong một thời điểm trên có một nhóm lớn thường hướng dư luận về một
sự kiện cụ thể của đời sống.
Dư luận xã hội là một yếu tố cấu thành ý thức quần chúng, nhưng là
yếu tố biểu hiện trạng thái của ý thức quần chúng ở thời điểm hiện tại. Do đó,
nắm bắt được dư luận xã hội, thực chất là nắm bắt được ý thức thường ngày
của quần chúng.

22


Phần II: Báo chí - dư luận xã hội mối quan hệ và sự tác động lẫn nhau
2.1. Quan hệ giữa báo chí và dư luận xã hội
Báo chí và dư luận xã hội có quan hệ mật thiết với nhau, là tiền đề giúp
cho nhau tồn tại và phát triển. Khơng có dư luận xã hội, báo chí sẽ khơng tồn
tại và phát triển; ngược lại, khơng có có báo chí, dư luận xã hội sẽ khơng có
sức lan tỏa và phát huy được tác dụng. Thực tế cho thấy, sức mạnh của báo
chí hiện đại ln gắn liền với dư luận xã hội. Trong đó, dư luận xã hội là hiện
tượng xã hội nhạy cảm và phức tạp, vừa rất trừu tượng lại vừa rất cụ thể. Nó

tồn tại ở mỗi người và trong cộng đồng. Do đó, nắm bắt được dư luận xã hội
là chúng ta nắm bắt được ý thức thường ngày của quần chúng. Hoạt động báo
chí càng phát triển thì vai trị, sức mạnh của dư luận xã hội ngày càng tăng lên
gấp bội, thậm chí có lúc bùng nổ ngồi dự kiến và khó có thể kiểm sốt được.
Dư luận xã hội là môi sinh của các giá trị đạo đức và giá trị xã hội. Khi hình
thành và phát triển các hệ thống giá trị này, dư luận xã hội đồng thời tác động
vào nhân cách, vào các nhóm xã hội và yêu cầu, ràng buộc các đối tượng này
phải thực hiện bổn phận đạo lý của mình. Như vậy, dư luận xã hội vừa là yếu
tố để giúp các cá nhân, các nhóm xã hội định hướng và tự định hướng, vừa là
áp lực điều chỉnh nhận thức và hành vi của mỗi cá nhân cho phù hợp với
hướng phát triển chung của cộng đồng.
Sự ràng buộc của dư luận xã hội là sự ràng buộc có tính tự giác, chuyển
hóa thành áp lực từ bên trong mỗi cá nhân và nhóm nhỏ để nâng cao khả năng
thích ứng, phù hợp với hoàn cảnh, với cộng đồng. Do dư luận xã hội là hiện
hữu ý thức thường ngày của quần chúng cho nên, ở đó có tất cả lý trí và tình
cảm, tâm lý và tập qn, sở thích và nhu cầu, quan niên giá trị và thái độ biểu
cảm... Thực tế này đòi hỏi khi nghiên cứu và nắm bắt dư luận xã hội cần thiết
phải biết cách phân tích, đo đếm bằng các phương pháp khoa học, với nhũng
kỹ năng phù hợp từ đó mới nhận diện, phân tích, xử lý kết quả một cách đung
đắn. Dư luận xã hội là dư luận của số đông, là quan niệm, ý kiến, thái độ...
23


của cộng đồng, nhưng bao giờ cũng xuất phát từ ý kiến của một vài cá nhân,
thậm chí chỉ là của một người và người đó thường có mức độ ảnh hưởng nhất
định nào đó đối với cộng đồng. Cho nên, vai trò cá nhân với tu cách. là chủ
thể khơi nguồn dư luận có ý nghĩa rất quan trọng.
Mặt khác, trong quá trình hình thành, dư luận xã hội cũng trải qua
nhiều cung bậc, các tầng nấc khác nhau và trạng thái biểu hiện nó ở mỗi cung
bậc cũng khơng giống nhau. Từ những biểu hiện riêng lẻ, nhóm nhỏ bùng lên

cả cộng đồng, từ những nguyện vọng, nhu cầu, những ý kiến, kiến nghị có thể
dẫn đến những áp lực, bạo lực như một làn sóng của hàng triệu quần chúng.
Vì vậy, muốn hiểu thực chất của dư luận xã hội, cũng như của các hiện
tượng xã hội khác, điều quan trọng là phải biết phân tích nguyên nhân, động
cơ lợi ích của sự kiện, hiện tượng. Từ đó mới có thể dự đốn chiều hướng
phát triển và có những kiến giải phát huy hoặc ngăn chặn có hiệu quả.
Trong xã hội hiện đại, dư luận xã hội hình thành và phát triển khơng thể
thiếu báo chí, cũng khơng thể khơng thơng qua báo chí. Vì dư luận xã hội có
thể hình thành bằng nhiều con đường, nhưng để phát tán nhanh rộng và đạt
được hiệu quả cao nhất thì báo chí chính là phương tiện có thể coi là tối ưu
nhất để làm được điều đó. Dư luận xã hội cũng chính là nội dung, là khởi
nguồn, là chất liệu của báo chí. Mặc khác, dư luận xã hội khơng thể tự hình
thành, tự phát tán mà chủ yếu và trước hết phải nhờ cậy vào báo chí. Nhờ
chức năng định hướng dư luận của mình mà từ ý kiến của một nhóm người,
thậm chí chỉ là ý kiến của một cá nhân có thể bung ra thành dư luận xã hội.
Hay nói cách khác, thơng qua báo chí, từ dư luận của một số ít thành dư luận
của số đơng, của tồn xã hội, thậm chí trên khắp hành tinh.
Ở phương diện khác, dư luận xã hội hình thành và phát tán qua các
kênh giao tiếp. Trong đó có giao tiếp trực tiếp. Tuy nhiên, việc phát tán này
rất chậm và luôn ở trạng thái dư luận phân tán, cục bộ, khó có thể trở thành
dư luận của cả nhóm xã hội lởn, thậm chí có thể bị hiểu méo mó với ý kiên
ban đầu. Dư luận xã hội phát tán càng chậm thì sức mạnh càng khó phát huy.
24


Ngược lại, đối với việc phát tán dư luận bằng con đường báo chí thì hiệu quả
của nó sẽ đạt được nhanh nhất được nhiều người, nhiều nơi biết đến nhất. Có
nhiều vấn đề khi đang cịn là dự thảo, sắp được cấp thẩm quyền ký để ban
hành, thực hiện nhưng chỉ cần báo chí lên tiếng phản đối, đưa ra được những
bất cập trong của dự thảo đó, hoặc đưa ra được những khó khăn, vướng mắc

trong q trình thực hiện và những tác hại đối với người dân... thì lập tức sẽ
tác động đến người có trách nhiệm (cơ quan chức năng) khiến họ sẽ phải xem
xét, cân nhắc trước khi ký ban hành. Đơn cử như trong đợt- kỷ niệm 1.000
năm Thăng Long Hà Nội, T.P Hà- Nội dự kiến xây 4 cổng trào ở 4 cửa ô.
Thiết kế của 4 cổng trào này đã có; các cuộc hội thảo về sự kiến này cũng đã
được tổ chức nhiều lần... Nói tóm lại là mọi việc chuẩn bị cho sự kiện này về
cơ bản đã hoàn tất. Nhưng khi các cơ quan báo chí lên tiếng phản đối bằng ý
kiến của nhiều chun gia có uy tín trong lĩnh vực kiến trúc, thẩm mỹ, rồi của
cả các nhà sử học và chính những người dân về sự bất hợp lý, khơng cần thiết,
lãng phí, thậm chí là phản tác dụng trong việc giới thiệu về nét văn hóa nghìn
năm văn hiến của mảnh đất ngàn năm văn hiến... thì ý tưởng xây dựng 4 cổng
trào này đã bị dừng lại. Hay như mới đây (đầu năm 2011), Bộ Cơng thương
đề xuất Chính phủ cho nhập khẩu thịt lợn sau khi nhiều tỉnh, thành trong cả
nước xuất hiện dịch lợn tai xanh, dẫn đến việc chăn nuôi của người nơng dân
gặp khó khăn, nguồn hàng trở nên khan hiếm, đẩy giá thực phẩm lên cao
chóng mặt.... Việc nhập khẩu này trước mắt có thể tốt cho việc bình ổn giá
thịt lợn trong nước trong thời gian ngắn trước mắt nhưng về lâu dài nó sẽ làm
ảnh hưởng đến việc chăn ni của chính người nơng dân nói riêng, của ngành
nơng nghiệp Việt Nam nói chung, tạo ra một tiền lệ không tốt đối với sự phát
triển của ngành chăn nuôi... Trước thực trạng này, nhiều cơ quan báo chí và
ngành chức năng, các chuyên gia kinh tế đã lên tiếng phân tích, từ đó đi tới
việc phản đối Chính phủ cho phép nhập khẩu thịt lợn thì đề xuất này đã bị
Chính phủ khơng phê duyệt... Thậm chí, có nhiều cơng trình, dự án đã được
phê duyệt chỉ chờ ngày có hiệu lực thi hành nhưng khi báo chí lên tiếng phê
25


×