Thị trường tài chính GVHD: PGS.TS NGUYỄN ĐĂNG DỜN
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM - KHOA SAU ĐẠI HỌC
BỘ MƠN: THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
ĐỀ TÀI 12:
TẬP ĐỒN TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
VÀ GIẢI PHÁP HÌNH THÀNH PHÁT
TRIỂN TẬP ĐỒN TÀI CHÍNH Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY.
GVHD: PGS. TS Nguyễn Đăng Dờn
Nhóm thực hiện: Nhóm 7
Lớp: TCDN Đêm 1 – K20
TPHCM, năm 2012
Nhóm 7-Lớp TCDN Đêm 1 1
Thị trường tài chính GVHD: PGS.TS NGUYỄN ĐĂNG DỜN
Chương I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TẬP ĐOÀN TC - NH.
1.1. Khái niệm về tập đoàn TC - NH ( TC - NH)
Tập đoàn TC - NH là một thực thể kinh tế gồm một số doanh nghiệp
kinh doanh trong
lĩnh vực TC - NH và các hoạt động khác có liên quan đến hoạt động TC - NH; mỗi thành
viên tập đoàn là những pháp nhân độc lập, trong đó có một doanh nghiệp làm nồng cốt. Giữa
các doanh nghiệp đó có mối liên
kết nhất định để cùng nhau thực hiện một liên kết kinh tế
có quy mô lớn nhằm đạt
được hiệu quả hoạt động tối đa.
Như thế, tập đoàn TC - NH, về mặt pháp lý, là một liên hợp pháp nhân; Tổ
chức
tập đoàn
gồm nhiều tầng lớp, với nguyên tắc tự nguyện và cùng có lợi. Điều này có nghĩa là không
cưỡng ép và không thể cứ “gom” các doanh nghiệp lại là có thể thành lập tập đoàn kinh tế.
Các thành viên trong tập đoàn TC - NH phải tạo điều kiện hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau, cạnh
tranh lành mạnh, cùng nhau chia sẻ nguồn lực nhằm giảm các chi phí trong hoạt động, tăng
cường sức mạnh và tận dụng tổng lực của tập đoàn để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro trong lĩnh
vực hoạt động tài chính-tiền tệ đầy bất trắc.
Mục tiêu của việc hình thành tập đoàn TC - NH là mở rộng quy mô hoạt động và đổi
mới công nghệ, giảm chi phí để có thể tồn tại trong cạnh tranh, từ đó đem lại lợi nhuận tối
đa cho tập đoàn.
1.2. Khái quát chung về mô hình Tập đoàn Tài chính – ngân hàng trên thế giới
Cùng với quy luật hình thành và phát triển mô hình Tập đoàn kinh tế, việc hình thành và
phát triển các Tập đoàn TC - NH là một xu hướng phát triển của nhiều quốc gia, khu vực
trên thế giới và nhất là ở Mỹ, châu Âu, Nhật Bản trong những năm vừa qua. Từ cuối thập kỷ
60 thế kỷ 20 đến nay, xu thế hình thành nên những định chế tài chính, ngân hàng lớn, có tầm
ảnh hưởng và hoạt động xuyên quốc gia, đã chi phối không chỉ nền kinh tế của từng quốc gia
mà có ảnh hưởng đến toàn cầu. Việc hình thành và phát triển của các tập đoàn tài chính –
ngân hàng cũng tuân theo các quy luật và phương thức chung nhất của các tập đoàn kinh tế,
nhưng bên cạnh đó còn có đặc thù của hoạt động với tư cách là một định chế tài chính chịu
sự ràng buộc và chi phối từ rất nhiều quy định, quy chế của Nhà nước trong quản trị hoạt
động, quản trị rủi ro khi phát triển mạng lưới, lĩnh vực và phạm vi hoạt động, cũng như việc
Nhóm 7-Lớp TCDN Đêm 1 2
Thị trường tài chính GVHD: PGS.TS NGUYỄN ĐĂNG DỜN
sáp nhập, hợp nhất, mua lại, góp vốn, đầu tư vào các định chế tài chính, doanh nghiệp bên
ngoài để hình thành nên Tập đoàn TC - NH.
Trong những năm đổi mới vừa qua, ngành TC - NH Việt Nam cũng đã từng bước phát
triển và hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới. Do đó, các ngân hàng, định chế tài chính
Việt Nam
cũng
khó tránh khỏi xu hướng hình thành Tập đoàn TC - NH.
Cũng như các tập đoàn kinh tế khác trên thế giới, phương thức hình thành Tập đoàn TC -
NH là sự phát triển mạnh của một Công ty hay Ngân hàng mẹ kinh doanh trong lĩnh vực TC
- NH (tài chính, bảo hiểm, ngân hàng, chứng khoán…hoặc các ngành khác liên
quan
đến
hoạt động đầu tư), Công ty hay ngân hàng mẹ này tiến hành mở rộng sự phát triển dựa trên:
(i) Sự phát triển mạnh mẽ thông qua việc mua bán, sáp nhập, góp vốn, đầu tư, mở rộng
mạng lưới… vào các lĩnh vực tài chính (tín dụng, thẻ, ngân hàng đầu tư, bảo hiểm, cho thuê
tài chính, tài chính….), các hoạt động khác có liên quan đến hoạt động TC - NH.
(ii) Các hoạt động đầu tư, góp vốn và thành lập doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực
phi tài chính như bất động sản, xây dựng, hạ tầng… Mỗi thành viên tập đoàn là những pháp
nhân độc lập, trong đó có một doanh nghiệp hoặc một ngân hàng đóng vai trò là Công ty mẹ
làm nòng cốt. Giữa các doanh nghiệp đó có mối liên kết nhất định về vốn, quản trị, thương
hiệu để cùng nhau thực hiện một liên kết kinh tế có quy mô lớn nhằm đạt được các tôn chỉ,
mục đích, sứ mệnh và hiệu quả hoạt động tối đa. Do đó, có thể thấy tập đoàn TC - NH có
một số đặc trưng sau:
(i) Cũng như các tập đoàn kinh tế khác, tập đoàn TC - NH không có tư cách pháp nhân
riêng, trụ sở của tập đoàn chính là trụ sở của Công ty /ngân hàng mẹ. Các Công ty /ngân
hàng trong tập đoàn nhân danh công ty /ngân hàng mình khi thiết lập các quan hệ với đối tác
bên ngoài. Đồng thời quan hệ giữa các Công ty /ngân hàng trong cùng Tập đoàn cũng dựa
trên quan hệ kinh tế, quan hệ thị trường và cũng giống như bất cứ khách hàng bên ngoài nào
khác của các Công ty /tập đoàn đó. Đây cũng chính là điều kiện, cơ sở để phân tán rủi ro
trong hoạt động tài chính, ngân hàng. Các quyết định của Công ty /ngân hàng mẹ đối với các
thành viên trong tập đoàn được thông qua việc biểu quyết, quyết định tại Đại hội đồng cổ
đông, Hội đồng quản trị, cử người tham gia quản trị, điều hành, đại diện phần vốn góp…
(ii) Tập đoàn TC - NH thiết lập Hệ thống nguyên tắc quản trị thống nhất trong tập đoàn
với việc thiết lập tầm nhìn, sứ mệnh, hệ thống giá trị cốt lõi, quy định, quy chế quản trị nội
Nhóm 7-Lớp TCDN Đêm 1 3
Thị trường tài chính GVHD: PGS.TS NGUYỄN ĐĂNG DỜN
bộ và xây dựng thương hiệu chung cho toàn bộ tập đoàn. Hệ thống nguyên tắc quản trị này
áp dụng
thống
nhất và ảnh hưởng đến tất cả các công ty /ngân hàng thành viên trong tập
đoàn. Ví như, slogan của HSBC được áp dụng trên toàn thế giới với khẩu hiệu “Ngân hàng
toàn cầu, am hiểu địa phương”.
(iii) Tập đoàn TC - NH tạo ra hàng loạt các uỷ ban, hội đồng (tài chính, kiểm toán, chiến
lược, nhân lực…) của tập đoàn trên cơ sở Công ty /ngân hàng mẹ chủ trì, các uỷ viên của uỷ
ban /hội đồng được các Công ty con trong Tập đoàn cử tham gia theo cơ chế kiêm nhiệm.
Theo đó, các Hội đồng /uỷ ban này xây dựng các kế hoạch và tổ chức hướng dẫn triển khai
kế hoạch cho toàn bộ các công ty, ngân hàng trong Tập đoàn.
(iv) Việc hình thành các Tập đoàn TC - NH theo chính quy luật của thị trường, đó là sự
kết hợp tổng thể các phương thức phát triển, có thể là con đường nội sinh của chính Công
ty /ngân hàng mẹ trên cơ sở thành lập, góp vốn thành lập hàng loạt các Công ty /NH trực
thuộc ở trong và ngoài nước và con đường ngoại sinh thông qua việc mua lại, sáp nhập, hợp
nhất các Công ty /ngân hàng trong lĩnh vực TC - NH để mở rộng phạm vi, thâu tóm thị
trường.
1.3. Cơ cấu tổ chức và mô hình cơ bản của tập đoàn TC - NH
a. Cơ cấu tổ chức tập đoàn TC - NH
Cơ cấu tổ chức của tập đoàn TC - NH sẽ bao
gồm
: Công ty mẹ đóng vai trò hạt nhân và
các công ty con. Công ty mẹ có thực lực kinh tế mạnh, khống chế và điều chỉnh vốn, tài
sản, cơ cấu tổ chức, quản lý, nhân sự… ở công ty con. Mỗi công ty con được phép thành
lập công ty khác hoặc tham gia góp vốn, tài sản của mình vào công ty mới sau khi được
phép của công ty mẹ. Nguyên tắc cơ bản mỗi thành viên tập đoàn vẫn là những pháp nhân
độc lập với mục đích tạo ra lợi nhuận, mối quan hệ lẫn nhau mang nặng nội dung là quan
hệ tài chính.
b. Mô hình cơ bản của tập đoàn TC - NH
b.1. Theo mức độ chuyên môn hóa
Các tập đoàn TC - NH trên thế giới được phân thành 2 nhóm chính: Nhóm tập đoàn
chuyên ngành hẹp và nhóm tập đoàn đa ngành, kinh doanh tổng hợp. Các tập đoàn TC -
NH chuyên ngành hẹp có mức độ chuyên môn hóa sâu, gồm các công ty con hoạt động
trong cùng lĩnh vực dịch vụ tài chính và liên kết chặt chẽ với nhau nhằm khai thác thế
Nhóm 7-Lớp TCDN Đêm 1 4
Thị trường tài chính GVHD: PGS.TS NGUYỄN ĐĂNG DỜN
mạnh trong kinh doanh dịch vụ TC - NH.
Đặc điểm của tập đoàn TC - NH là lấy ngân hàng cỡ lớn làm hạt nhân của tập đoàn để
liên kết và khống chế các doanh nghiệp xung quanh bằng mối quan hệ nắm giữ cổ phần,
cho vay vốn và sắp xếp nhân sự.
Mô hình phổ biến nhất của tập đoàn TC - NH là tổ chức theo kiểu công ty mẹ- công ty
con. Trong đó, công ty mẹ và công ty con đều có tư cách pháp nhân độc lập, có tài sản và
bộ máy quản lý riêng. Giao dịch giữa ngân hàng
mẹ
và các công ty con hay giữa các công
ty con trong cùng một tập đoàn là giao dịch bên ngoài, giao dịch thị trường.
Đặc điểm của mô hình này là ngân hàng mẹ (holding company) sở hữu toàn bộ hoặc
một tỷ lệ nhất định vốn cổ phần trong các công ty con, đề ra chiến lược và định hướng phát
triển tổng thể của tập đoàn, đồng thời phân bổ nguồn lực của tập đoàn thông qua các hoạt
động tài chính như phát hành, mua bán chứng khoán, cơ cấu lại tài sản của các công ty con.
Ngoài ra, ngân hàng mẹ còn sử dụng vốn của mình để đầu tư, góp vốn cổ phần, liên doanh,
liên kết để hình thành các công ty con hoặc công ty liên kết.
Các công ty con là những pháp nhân độc lập, hoạt động tự chủ và tự chịu trách
nhiệm. Hình thức pháp lý của công ty con
khá
đa dạng, có thể là công ty cổ phần do ngân
hàng mẹ nắm giữ cổ phần chi phối; công ty TNHH 2 thành viên trở lên, trong đó ngân hàng
mẹ giữ tỷ lệ vốn góp chi phối; công ty liên doanh với nước ngoài do ngân hàng mẹ nắm giữ
tỷ lệ vốn góp chi phối; công ty TNHH một thành viên do ngân hàng mẹ là chủ sở hữu.
b.2. Theo tính chất và phạm vi hoạt động
Tập đoàn TC - NH kinh doanh theo mô hình công ty mẹ - công ty con có hai loại: Mô
hình công ty mẹ nắm vốn thuần túy và mô hình công ty mẹ vừa nắm vốn vừa trực tiếp kinh
doanh. Trên thực tế, không có sự tách bạch rõ ràng, nhiều tập đoàn kinh doanh theo mô
hình công ty mẹ - công ty con là hỗn hợp của hai loại hình trên. Tập đoàn TC - NH theo
mô hình công ty mẹ - công ty con cũng hoạt động theo mô hình hỗn hợp, trong đó ngân
hàng mẹ vừa nắm vốn vừa trực tiếp kinh doanh một số công ty con, đồng thời chỉ nắm vốn
thuần túy một số công ty con khác.
Ngoài hoạt động kinh doanh ngân hàng, tập đoàn TC - NH còn cung cấp dịch vụ tài
chính phi ngân hàng (do các công
ty
con thực hiện), những dịch vụ này liên quan chặt chẽ
với hoạt động ngân hàng và mang lại lợi ích chung cho tập đoàn.
Nhóm 7-Lớp TCDN Đêm 1 5
Thị trường tài chính GVHD: PGS.TS NGUYỄN ĐĂNG DỜN
b.3. Một số cấu trúc tổ chức tập đoàn TC - NH trên thế giới
Hiện nay trên thế giới, tập đoàn TC - NH được xây dựng theo ba cấu trúc tổ chức chủ
yếu sau đây:
Mô hình ngân hàng đa năng (universal banking)
Đây là mô hình tập đoàn phổ biến nhất ở Châu Âu nhưng xuất hiện sớm ở Anh và Mỹ
với các hoạt động, nghiệp vụ kinh doanh cả của ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư.
Các cổ đông của ngân hàng trực tiếp quản lý mọi hoạt động kinh doanh ngân hàng, kinh
doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm, không có sự phân biệt về quản lý vốn giữa các
lĩnh vực. Điều này gây ra khó khăn trong việc xác định rủi ro của mỗi lĩnh vực, bên cạnh
đó rủi ro của lĩnh vực này có thể kéo theo rủi ro của cả những lĩnh vực khác.
Ở Châu Âu, ngân hàng có thể chiếm lĩnh cả kinh doanh chứng khoán, nhưng không một
nước công nghiệp chính nào cho phép một công ty đơn lẻ thực hiện cả 3 hoạt động kinh
doanh: ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán.
Ở Mỹ, loại hình tập đoàn này là sản phẩm của Đại luật Glass – Steagall Act of 1933. Tuy
nhiên, trong quá trình phát triển, đã xuất hiện và tồn tại sự phân định giữa ngân hàng thương
mại và ngân hàng đầu tư. Mặc dù cho đến thời điểm hiện nay, ở châu Âu, việc phân định
ranh giới giữa ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư đã không còn, tuy nhiên cho đến
khi cuộc khủng hoảng TC - NH toàn cần năm 2008 diễn ra, vẫn còn một lượng lớn các ngân
hàng đầu tư thuần tuý. Vì vậy, các ngân hàng lớn thường có xu hướng hoạt động như những
ngân hàng toàn cầu trong khi một số tổ chức nhỏ hơn lại tập trung vào việc phát triển thành
những ngân hàng thương mại chuyên biệt hoặc như là những ngân hàng đầu tư. Điều này đặc
biệt đúng tại một số quốc gia với kiểu ngân hàng truyền thống lục địa Châu Âu. Những ví dụ
điển hình của những ngân hàng toàn cầu là Deutsche Bank của Đức, UBS và Credit Suisse
của Thuỵ Sĩ.
Nhóm 7-Lớp TCDN Đêm 1 6
Thị trường tài chính GVHD: PGS.TS NGUYỄN ĐĂNG DỜN
Mô hình công ty mẹ vừa nắm vốn vừa kinh doanh ngân hàng (parent -
subsidiary relationship).
Trong mô hình này, các công ty tài chính khác là công ty con của ngân hàng. Các cổ
đông của ngân hàng quản lý trực tiếp ngân hàng nhưng không quản lý trực tiếp các công ty
bảo hiểm hay công ty chứng khoán. Còn các lãnh đạo các ngân hàng quản lý trực tiếp hoạt
động của công ty chứng khoán và công ty bảo hiểm. Đối với mô hình này, vốn của ngân
hàng, công ty chứng khoán và công ty bảo hiểm được quản lý một cách độc lập nhưng rủi
ro của các lĩnh vực vẫn có thể gây ra rủi ro dây chuyền.
Mô hình 2: Mô hình công ty mẹ vừa nắm vốn
vừa trực tiếp kinh doanh ngân hàng
Mô hình công ty mẹ nắm vốn thuần túy (holding company)
Trong mô hình này, một công ty mẹ sở hữu cổ phần của các Công ty /ngân hàng con;
công ty mẹ chủ yếu thực hiện hoạt động đầu tư tài chính và chịu trách nhiệm quản lý các
công ty con trên từng lĩnh vực. Các công ty mẹ thường có ưu điểm là có thể giảm thiểu rủi ro
cho các chủ sở hữu, cho phép sở hữu và kiểm soát số lượng các công ty khác nhau. Tại Mỹ,
có đến 80% trở lên số chứng khoán biểu quyết phải được nắm giữ trước thuế lợi tức trong
khi có thể yêu cầu miễn thuế đối với cổ tức. Đôi khi một công ty có ý định trở thành một
công ty mẹ thuần tuý sẽ tự định danh mình bằng cách thêm các từ như “Holdings” hoặc “
(Holdings)” vào tên của nó. Cũng tại Mỹ, là một là trong những công ty thương mại đại
Nhóm 7-Lớp TCDN Đêm 1 7
Thị trường tài chính GVHD: PGS.TS NGUYỄN ĐĂNG DỜN
chúng lớn nhất; công ty này sở hữu một vài công ty bảo hiểm, các thương nhân sản xuất; các
nhà bán lẻ và các loại công ty khác. Hai công ty mẹ thuần tuý khác là và, các công ty thương
mại đại chúng mà mục đích chính của chúng là sở hữu toàn bộ. Đối với lĩnh vực tài chính –
ngân hàng, ta có thể thấy mô hình này hiện diện ở Tập đoàn CitiGroup, HSBC… Các cổ
đông của công ty mẹ không trực tiếp quản lý những hoạt động của các công ty con. Với ưu
thế rủi ro của lĩnh vực này không ảnh hưởng đến lĩnh vực khác, mô hình này đặc biệt phổ
biến ở những tập đoàn tài chính quốc tế, ở Mỹ và cũng đã được cho phép ở Nhật Bản. Bên
cạch mô hình Công ty mẹ sở hữu vốn thuần túy thì còn có mô hình Công ty mẹ là Ngân
hàng. Hiện nay, theo thông tin tính đến ngày 31/03/2009 của Trung tâm Thông tin quốc gia
của Hoa Kỳ thì tại Mỹ có 50 định chế tài chính được tổ chức theo mô hình “Bank Holding
Company”.
Ví dụ: Điển hình là Tập đoàn TC - NH Citigroup
Citigroup là tập đoàn ngân hàng đa quốc gia, được hình thành thông qua việc hợp nhất
giữa Citicorp và Travelers Insurance, bao gồm nhiều công ty khác nhau, từ tín dụng thương
mại đến hỗ trợ tiêu dùng, môi giới đến bảo hiểm. Citigroup có trụ sở chính tại New York với
công ty mẹ là Citibank. Ngân hàng này đã mở chi nhánh đầu tiên tại Luân Đôn (năm 1902)
và Buenos Aires (năm 1914), các hoạt động quốc tế của ngân hàng phát triển mạnh trong
những năm 1920-1940 (khoảng 100 văn phòng đại diện và chi nhánh tại gần 100 nước trên
thế giới). Năm 1955, Citibank sáp nhập với First National (New York) để trở thành một tổ
hợp lớn với tên gọi First National City Bank. Năm 1968, ngân hàng này cải tổ để trở thành
một công ty mẹ (holding company) và hình thành tập đoàn ngân hàng dưới tên gọi là First
National City Corp (năm 1974 đổi tên thành Citicorp), trọng tâm là các dịch vụ tài chính và
ngân hàng bán lẻ. Citibank là ngân hàng đầu tiên lắp đặt máy rút tiền tự động ATM (năm
1977) với trên 500 máy tại New York. Trong những năm 80, Citibank đã mua lại một số tổ
chức tài chính ở San Francisco, Chicago, Miami, Washington DC và năm 1998 sáp nhập với
Travelers Group (công ty kinh doanh thẻ nổi tiếng) để trở thành tập đoàn TC - NH đứng đầu
thế giới. Doanh thu năm 2007 đạt 81, 7 tỷ đôla Mỹ, lợi nhuận ròng đạt 3, 62 tỷ đô la Mỹ.
Mô hình 3: Mô hình công ty mẹ nắm vốn thuần tuý
Nhóm 7-Lớp TCDN Đêm 1 8
Thị trường tài chính GVHD: PGS.TS NGUYỄN ĐĂNG DỜN
1.4. Các đặc trưng của tập đoàn TC - NH
Ngoài ra, để nhận dạng một tập đoàn, cần thông qua những đặc trưng chung của tập
đoàn và đặc trưng riêng của các công ty con hay công ty thành viên trong tập đoàn.
a. Đặc trưng chung của tập đoàn
Tập đoàn là một cấu trúc có tính lỏng về tổ chức nhưng có quan hệ rất chặt chẽ về
chiến lược thị trường và chiến lược luân chuyển vốn. Đa số các tập đoàn không có tư cách
pháp nhân, không có “trụ sở chính”, không có “cơ quan hành chính” thường trực chung của
tập đoàn, tuy nhiên cũng có các tập đoàn có tư cách pháp nhân là do được hình thành theo
quyết định của chính phủ. Nhưng đã là tập đoàn thì nhất thiết phải có một số thiết chế quản
trị chung của tập đoàn như hội đồng chiến lược, ủy ban kiểm toán, ủy ban bầu cử, hội đồng
quản trị. Các thành viên trong những hội đồng hay ủy ban nêu trên hoạt động theo tôn chỉ
và mục đích chung đã được các bên thống nhất từ trước và đa số theo cơ chế kiêm nhiệm.
Trong đó, chủ tịch tập đoàn thường là người có ảnh hưởng và uy tín lớn nhất thuộc công ty
xuất phát hay công ty chính của tập đoàn. Thông thường, chủ tịch và các thành viên trong
hội đồng và ủy ban hưởng lương chính từ các công ty con hay công ty thành viên và được
hưởng một khoản phụ cấp trách nhiệm do các công ty con hay công ty thành viên đóng góp
lên tập đoàn theo quy định chung. Do vậy, khái niệm tập đoàn thường kèm theo “công ty
xuất phát” hay “công ty gốc”, “công ty đứng đầu”, “công ty sáng lập”,v.v. .Vị thế của công
ty này trước hết biểu hiện ở biểu tượng (logo) của tập đoàn và ở khả năng chi phối hướng
phát triển của các công ty con hay công ty thành viên trong tập đoàn.
Lợi ích chung của các công ty trong tập đoàn là được hành động theo chiến lược chung,
theo “bản đồ” phân bố thị trường hay các quan hệ gắn bó về vốn, thương hiệu, văn hóa,
ngoại giao, v.v. Cơ chế điều hành chung của các tập đoàn chủ yếu dựa trên quan hệ về lợi
ích kinh tế minh bạch và uy tín cũng như các cam kết trong quy chế chung của tập đoàn mà
không dựa trên mệnh lệnh hành chính. Các pháp nhân trong tập đoàn có chung quyền được
Nhóm 7-Lớp TCDN Đêm 1 9
Thị trường tài chính GVHD: PGS.TS NGUYỄN ĐĂNG DỜN
bảo vệ để có thể tránh khỏi những nguy cơ bị thôn tính hay chèn ép trên thị trường từ
những công ty ngoài tập đoàn.
b. Đặc trưng riêng của các công ty trong tập đoàn
Đặc trưng quan trọng nhất là mỗi công ty trong tập đoàn phải là một pháp nhân độc lập:
Các công ty thành viên hoặc công ty con có sở hữu tài sản riêng, có trụ sở riêng, thị trường
riêng, thậm chí ngành nghề riêng. Chính vì vậy, giữa các công ty trong tập đoàn có sự khác
nhau về mức thu nhập, tình trạng rủi ro và quy mô tài chính. Nhìn
chung, các tập đoàn kinh
doanh được hình thành theo nguyên tắc tự nguyện thông qua đàm phán để mua, bán, liên
doanh, sáp nhập, cam kết, v.v. Trong đó, một công ty khởi xướng và đóng vai trò sáng lập
ra tập đoàn (thông qua hình thức tập trung tư bản từ nhiều công ty thành viên), hoặc từ một
công ty lớn tách ra thành nhiều công ty con độc lập (thông qua hình thức tích tụ tư bản,
trong đó công ty mẹ vẫn đóng vai trò chi phối). Như vậy, việc hình thành một tập đoàn
kinh doanh không phải do “mệnh lệnh” hành chính của nhà nước mà do quyết định của nhà
doanh nghiệp, được dư luận xã hội, thị trường và nhà nước thừa nhận. Nói đúng hơn, sự
hình thành các tập đoàn là xuất phát từ nhu cầu của thị trường và vấn đề sống còn của
doanh nghiệp theo nguyên tắc tự nguyện.
c. Các phương thức hình thành tập đoàn TC - NH
Tùy theo những yếu tố như môi trường pháp lý, yếu tố lịch sử khác nhau, mục tiêu,
quan điểm,… mà hình thành theo nhiều phương thức khác nhau, có thể như các phương
thức:
- Công ty mẹ mua công ty khác để biến thành công ty con của mình.
- Thành lập mới một số công ty con.
- Sáp nhập công ty khác vào công ty mẹ hoặc công ty con.
d. Điều kiện hình thành tập đoàn TC - NH
Có nhiều yếu tố tác động đến khả năng hình thành tập đoàn TC - NH, trong đó các yếu
tố có liên hệ mật thiết với nhau. Từ phương diện phân tích, có thể phân chia thành yếu tố
(điều kiện) khách quan và điều kiện chủ quan.
e. Điều kiện khách quan
− Môi trường pháp lý có thể cản trở hoặc thúc đẩy sự hình thành và phát triển các tập
đoàn TC - NH, nhất là những quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động tài chính, ngân hàng,
Nhóm 7-Lớp TCDN Đêm 1 10
Thị trường tài chính GVHD: PGS.TS NGUYỄN ĐĂNG DỜN
chứng khoán. Nói cách khác, quá trình hình thành và phát triển tập đoàn TC -NH diễn ra
theo quy luật khách quan, nhưng các chính phủ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc
đưa ra các quy định và chính sách phát triển dịch vụ tài chính nói chung và tập đoàn TC -
NH nói riêng.
− Trình độ phát triển của thị trường dịch vụ tài chính tác động đến khả năng mở rộng
quy mô hoạt động của tập đoàn tài chính như thông qua các công ty con hay công ty trực
thuộc. Trên thực tế, sự hình thành các tập đoàn TC - NH thường bắt nguồn từ việc mở rộng
các loại hình kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ của ngân hàng mẹ, từ chỗ chỉ kinh doanh
dịch vụ ngân hàng, mở rộng sang dịch vụ bảo hiểm, chứng khoán, v.v. Mặt khác, thị trường
tài chính càng phát triển, khách hàng càng đòi hỏi cao hơn về chất lượng và tiện ích của
dịch vụ TC - NH là yêu cầu khách quan để đa dạng hóa hoạt động ngân hàng, hình thành
nhiều loại hình hoạt động, nhiều công ty
− Sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin cũng là yếu tố và điều kiện để một tổ
chức tài chính phát triển thành tập đoàn TC - NH. Các tập đoàn này phải kịp thời nắm bắt
thông tin, nhất là công nghệ mới có liên quan đến hoạt động TC - NH để có thể khai thác
và ứng dụng các thành tựu về công nghệ mới vào hoạt động kinh doanh, mang lại nhiều lợi
nhuận cho tập đoàn và tiện ích cho khách hàng.
f. Điều kiện chủ quan
− Tiềm lực tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì hoạt động và khả năng
phát triển lâu dài của tập đoàn. Trong đó, nguồn vốn có tác dụng hỗ trợ cho tập đoàn đổi
mới công nghệ, mở rộng các lĩnh vực kinh doanh, phát triển dịch vụ mới, tăng cường năng
lực cạnh tranh và mở rộng thị phần. Các ngân hàng tiên tiến và tập đoàn tài chính mạnh
thường cung cấp dịch vụ đa dạng và đạt chất lượng cao với nhiều đối tượng khách hàng
khác nhau. Tương tự, chất lượng nguồn nhân lực cũng đóng vai trò không kém phần quan
trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng và tập đoàn tài chính.
1.5. Kinh nghiệm cần ghi nhận từ quá trình hình thành một số tập đoàn tài chính
ngân hàng trên thế giới
a) Tập đoàn TC - NH Citigroup
− Citigroup là tập đoàn ngân hàng đa quốc gia, được hình thành thông qua việc hợp
Nhóm 7-Lớp TCDN Đêm 1 11
Thị trường tài chính GVHD: PGS.TS NGUYỄN ĐĂNG DỜN
nhất giữa Citicorp và Travelers Insurance, bao gồm nhiều công ty khác nhau, từ tín dụng
thương mại đến hỗ trợ tiêu dùng, môi giới đến bảo hiểm. Citigroup có trụ sở chính tại New
York với công ty mẹ là Citibank. Ngân hàng này đã mở chi nhánh đầu tiên tại Luân Đôn
(năm 1902) và Buenos Aires (năm 1914), các hoạt động quốc tế của ngân hàng phát triển
mạnh trong những năm 1920-1940 (khoảng 100 văn phòng đại diện và chi nhánh tại gần
100 nước trên thế giới). Năm 1955, Citibank sáp nhập với First National (New York) để trở
thành một tổ hợp lớn với tên gọi First National City Bank. Năm 1968, ngân hàng này cải tổ
để trở thành một công ty mẹ (holding company) và hình thành tập đoàn ngân hàng dưới tên
gọi là First National City Corp (năm 1974 đổi tên thành Citicorp), trọng tâm là các dịch vụ
tài chính và ngân hàng bán lẻ. Citibank là ngân hàng đầu tiên lắp đặt máy rút tiền tự động
ATM (năm 1977) với trên 500 máy tại New York. Trong những năm 80, Citibank đã mua
lại một số tổ chức tài chính ở San Francisco, Chicago, Miami, Washington DC và năm
1998 sáp nhập với Travelers Group (công ty kinh doanh thẻ nổi tiếng) để trở thành tập
đoàn tài chính -ngân hàng đứng đầu thế giới. Doanh thu năm 2007 đạt 81,7 tỷ đô la Mỹ, lợi
nhuận ròng đạt 3,62 tỷ đô la Mỹ.
Hoạt động của Citigroup theo mô hình khối gồm 3 khối chính:
Khối tiêu dùng toàn cầu (Global Consumer Group)
Hoạt động kinh doanh của khối tiêu dùng toàn cầu bao gồm việc cung cấp các loại sản
phẩm dịch vụ tài trợ cho tiêu dùng gồm các dịch vụ về ngân hàng, thẻ tín dụng, cho vay và
bảo hiểm, cụ thể như sau:
Phát hành thẻ (United States Cards)
Với gần 120 triệu tài khoản, Citi chuyên phát hành các loại thẻ với nhiều nhãn hiệu khác
nhau tại thị trường Mỹ như: Mastercard, Visacard, thẻ ghi nợ và các nhãn hiệu khác.
Mạng lưới phân phối bán lẻ ở Mỹ (United States Retail Distribution)
Mạng lưới này bao gồm 4 mảng chính: Citibank, CitiFinancial, Primerica Financial
Services và Citibank Direct trong đó:
Citibank: chuyên cung cấp các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng cho các khách
hàng có qui mô hoạt động kinh doanh nhỏ, cá nhân, cũng như các dịch vụ về đầu tư nhỏ
thông qua mạng lưới các chi nhánh.
CitiFinancial: cung cấp phần lớn các sản phẩm và dịch vụ cho vay: cho vay thế
Nhóm 7-Lớp TCDN Đêm 1 12
Thị trường tài chính GVHD: PGS.TS NGUYỄN ĐĂNG DỜN
chấp bất động sản, cho vay cá nhân tín chấp hoặc thế chấp một phần, cho vay tiêu
dùng
…đến các khách hàng địa phương hiện đang sinh sống và làm việc tại nước Mỹ.
Primerica
Financial Services: cung cấp các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng
thông qua hơn 100 văn phòng đại diện độc lập ở Mỹ, Canada, Puerto Rico, Tây Ban Nha và
Anh, phục vụ cho hơn 6 triệu khách hàng qua việc xây dựng và đưa ra các giải pháp về mô
hình tài chính an toàn cho các hộ gia đình.
Citibank Direct: là kênh phân phối mới nhất chuyên cung cấp các sản phẩm và
dịch vụ ngân hàng qua mạng lưới internet.
Cho vay tiêu dùng tại Mỹ (United States Consumer Lending)
Hoạt động cho vay tiêu dùng tại Mỹ thông qua các kênh phân phối khác nhau được chia
làm 2 loại sau đây:
Cho vay bất động sản (Real Estate Lending): cung cấp các khoản cho vay thế chấp
tài sản nhà ở được thực hiện trực tiếp đến khách hàng qua điện thoại, internet, tổ chức, các
chi nhánh của Citibank và các văn phòng đại diện của Primerica, hoặc gián
tiếp thông qua
các nhân viên môi giới, các công ty cầm cố đó là CitiMortgage và
Myhome Equity trực
thuộc Citibank.
Cho vay đối với sinh viên (Student Loans): cung cấp các sản phẩm cho vay cho đối
tượng là sinh viên để tài trợ cho việc học tập thông qua các văn phòng đặt tại các trường
học.
Hệ thống tự động (Auto): cung cấp các dịch vụ tài chính tự động và internet.
Nhóm hoạt động kinh doanh thương mại (Commercial Business Group)
Chuyên cung cấp các sản phẩm và dịch vụ cho thuê, các sản phẩm và dịch vụ về
ngân hàng và bất động sản đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành công nghiệp sản
xuất.
Thẻ quốc tế (International Cards)
Cung cấp các sản phẩm và dịch vụ về thẻ cho hơn 20,9 triệu tài khoản ở 42 quốc
gia ngoài nước Mỹ.
Tài trợ tiêu dùng quốc tế (International Consumer Finance)
Hoạt động tài trợ cho chi tiêu và dịch vụ cho vay địa phương ở 20 quốc gia ngoài
phạm vi nước Mỹ qua một số các thương hiệu vòng quanh thế giới như CitiFinancial
Nhóm 7-Lớp TCDN Đêm 1 13
Thị trường tài chính GVHD: PGS.TS NGUYỄN ĐĂNG DỜN
Canada.
Ngân hàng bán lẻ quốc tế (International Retail Banking)
Chuyên cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tài chính hàng đầu đến 40 quốc gia trên
thế giới để phục vụ các nhu cầu của khách hàng địa phương qua thương hiệu
Banamex.
Tài trợ phụ của Citi (Citi Microfinance)
Hoạt động tài trợ này cung cấp việc tài trợ vốn trực tiếp đến các thị trường vốn địa
phương, cho thuê, cho vay cá thể thông qua đối tác MFI, các hàng rào về tỷ giá hối đoái và
lãi suất, hoạt động chuyển tiền và bảo hiểm.
Dịch vụ dành cho phụ nữ (Women & Co)
Đặc biệt phục vụ cho phụ nữ, mang đến cho chị em phụ nữ các sản phẩm và dịch vụ
tiết kiệm đặc biệt phù hợp với các nhu cầu của chị em.
Khối dịch vụ ngân hàng đầu tư và cho vay doanh nghiệp (Institutional
Clients Group)
Hoạt động của khối này cung cấp việc quản lý tiền mặt, kho bạc, đầu tư kinh doanh, giám
hộ, thanh toán, ký quỹ, đầu tư vào các dự án, bất động sản, tư vấn tài chính và đưa ra các giải
pháp nhằm cung cấp nguồn vốn rộng rãi nhất vào hơn 100 quốc gia trên thế giới chủ yếu là
các tổ chức cần vốn, các công ty, chính phủ các nước. Mục tiêu của Citi là sử dụng nguồn
vốn của mình một cách linh hoạt và có hiệu quả nhất, đa dạng hóa nguồn vốn kinh doanh và
duy trì một cách tập trung, thường xuyên để phục vụ tốt các khách hàng của mình, cụ thể:
Bộ phận ngân hàng và tiếp thị
Citi luôn chuyển tải sự am hiểu và các cơ hội thuận lợi đến các khách hàng của mình ở
100 quốc gia trên thế giới như cung cấp, tư vấn và đưa ra các giải pháp về việc sử dụng
nguồn vốn đầu tư, các giải pháp quản lý tiền mặt cho các tổ chức, chính phủ các nước, các
nhà đầu tư, doanh nghiệp trong và ngoài nước để thực hiện các mục tiêu chiến lược của họ,
được chia thành 3 kênh chính như:
- Ngân hàng toàn cầu (Global Banking): chuyển tải sự am hiểu, các giải pháp về vốn
hàng đầu cho các tổ chức tài chính lớn, chính phủ các quốc gia về các dịch vụ tư vấn tài
chính, cơ cấu nguồn vốn hợp lý, cho vay, công cụ phái sinh, phân bổ tài sản và nợ, quản lý
tiền mặt, các biến động về tỷ giá hối đoái và lãi suất.
Nhóm 7-Lớp TCDN Đêm 1 14
Thị trường tài chính GVHD: PGS.TS NGUYỄN ĐĂNG DỜN
- Thị trường vốn toàn cầu (Global Capital Markets): giúp khách hàng tổ chức và các
nhà đầu tư nhỏ lẻ nhận biết khả năng tài chính, việc phân bổ doanh thu, nợ, giá trị tài sản bao
gồm trái phiếu công ty, trái phiếu chính phủ, cho vay công ích, các hợp đồng kỳ hạn…, và
cung cấp nguồn vốn trong các ngành công nghiệp sản xuất thông qua mạng lưới môi giới bán
lẻ lớn thứ hai tại Mỹ.
- Dịch vụ trong giao dịch (Transaction Services): cung cấp các dịch vụ trong các
giao dịch như quản lý tiền mặt, kho bạc, đầu tư thương mại, giám hộ, chi trả, nộp tiền, dịch
vụ đại lý uỷ thác, ngân quỹ đến các tổ chức vốn, công ty, chính phủ có tài sản đảm bảo, báo
cáo tài chính rõ ràng và hoạt động kinh doanh ở nhiều quốc gia.
Bộ phận đầu tư khác (Citi Alternative Investments)
Hoạt động đầu tư vào các dự án bao gồm các quỹ đầu tư, cơ cấu tín dụng, tài sản cá nhân,
bất động sản, phân bổ khác và các cơ hội đầu tư đặc biệt.
Khối quản lý tài sản toàn cầu
Hoạt động của nhóm là cung cấp các dịch vụ tư vấn về quản lý tài sản,quản lý tiền mặt,
quản lý các danh mục đầu tư, các giải pháp về vốn, chiến lược kinh doanh, bất động sản,
giáo dục cho các khách hàng cá nhân, công ty, các quỹ đầu tư ở các quốc gia trên thế giới.
Ngoài ra Citi cũng là đơn vị nghiên cứu, phân tích vĩ mô và định lượng về tài chính cho thị
trường toàn cầu, thông qua 3 thương hiệu sau đây:
Citi Private Bank: Là một trong những ngân hàng tư nhân lớn nhất trên thế giới cung cấp
hàng loạt sản phẩm ngân hàng, dịch vụ tư vấn tin cậy, các giải pháp về vốn, chiến lược đầu
tư hiệu quả cũng như tính thanh khoản tiền mặt trong nền kinh tế toàn cầu thông qua 470 các
ngân hàng trực thuộc và đội ngũ chuyên gia ở hơn 30 quốc gia.
Smith Barney: Là đơn vị quản lý tài sản tư nhân của Citi, chuyên cung cấp các kế hoạch
đầu tư và dịch vụ tư vấn thích hợp trong việc quản lý nguồn vốn, danh mục đầu tư, trong lĩnh
vực giáo dục, hưu bổng, nhà đất đến các tổ chức, cá nhân kinh doanh, chính phủ, các quỹ
đầu tư.
Citi Investment Research: Là đơn vị nghiên cứu chi tiết sự phân tích vĩ mô và định lượng
về xu hướng tài chính ở các địa phương và thị trường tài chính toàn cầu với đội ngũ 390
chuyên gia phân tích tài chính ở 22 quốc gia trên thế giới.
Nhóm 7-Lớp TCDN Đêm 1 15
Thị trường tài chính GVHD: PGS.TS NGUYỄN ĐĂNG DỜN
Mô hình 4: Mô hình hoạt động của Tập đoàn TC - NH CitiGroup
b) Tập đoàn Oversea Chinese Banking Corporation (OCBC)
OCBC là một trong những tập đoàn tài chính hàng đầu trên thị trường Singapore và
Malaysia hoạt động theo mô hình công ty mẹ- công ty con trong đó OCBC Bank là công ty
mẹ, có tổng tài sản vào khoảng 134 tỷ đô la Singapore (90 tỉ USD), trên 310 chi nhánh và
Nhóm 7-Lớp TCDN Đêm 1 16
Thị trường tài chính GVHD: PGS.TS NGUYỄN ĐĂNG DỜN
văn phòng đại diện tại 15 quốc gia và vùng lãnh thổ. OCBC Bank cũng là một trong những
tổ chức tài chính lớn nhất ở Singapore cung cấp dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm, cho vay tư
nhân và hộ gia đình, tín thác, cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Công ty con của OCBC
Bank là Great Eastern Holdings cũng là tập đoàn bảo hiểm lớn nhất ở Singapore và Malaysia
về tổng tài sản cũng như thị phần, riêng OCBCBank nắm khoảng 80% cổ phần của Great
Eastern Holdings. Trong lĩnh vực quản lý tài sản, Lion Capital Management là một trong
những công ty quản lý tài sản lớn nhất Đông Nam á. OCBC Bank cung cấp hàng loạt dịch vụ
ngân hàng mới và các công cụ tài chính liên quan tới cho vay tiêu dùng cho vay doanh
nghiệp, ngân hàng đầu tư, tài chính toàn cầu và quản lý đầu tư, môi giới và kinh doanh
chứng khoán, quản lý khách sạn, kinh doanh bất động sản
Các hoạt động kinh doanh của OCBC Bank cụ thể như sau:
Khối ngân hàng tiêu dùng (Consumer Banking)
OCBC cung cấp hàng loạt các sản phẩm và dịch vụ trong lĩnh vực tiêu dùng để đáp ứng
các nhu cầu khác nhau cho hơn nửa triệu khách hàng tại Singapore và Malaysia, với chi phí
hợp lý và chất lượng dịch vụ tốt nhất trong các giao dịch tài chính, nộp tiền mặt, cho vay
mua nhà, mua xe, thẻ tín dụng, cho vay đầu tư bất động sản, cho vay hộ gia đình, bảo
hiểm…
Khối ngân hàng kinh doanh (Business Banking)
OCBC cung cấp các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng truyền thống như cho vay, dịch vụ
quản lý tiền mặt,…đến đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, công ty có qui
mô lớn, chính phủ, các tổ chức, công ty bất động sản chủ yếu tại thị trường Singapore và
Malaysia, bao gồm 3 nhóm hoạt động chính đó là Nhóm Doanh nghiệp (Enterprise
Banking), Nhóm Bất động sản (Real Estate) và Nhóm Tổ chức thương nghiệp (Wholesale
Corporate Marketing).
Khối ngân hàng đầu tư (Investment Banking)
Bộ phận này bao gồm thị trường về vốn (Capital Markets), tài trợ cho tổ chức (Corporate
Finance), và Tổ chức vốn Mezzanine (Capital Mezzanine) luôn phối hợp chặt chẽ với khối
ngân hàng trong lĩnh vực kinh doanh để phát triển và mang đến các sản phẩm và dịch vụ tiện
ích đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Khối ngân hàng giao dịch (Transaction Banking)
Nhóm 7-Lớp TCDN Đêm 1 17
Thị trường tài chính GVHD: PGS.TS NGUYỄN ĐĂNG DỜN
Chuyên cung cấp các dịch vụ liên quan đến quản lý tiền mặt, đầu tư thương mại, ủy thác,
dịch vụ thu chi hộ đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các tổ chức lớn, cơ quan tài chính,
chính phủ tại Singapore và Malaysia, thông qua hệ thống chuyển tiền điện tử tiên tiến nhất
cùng với đội ngũ chuyên gia giỏi để mang đến cho khách hàng các giải pháp trong thanh
toán một cách nhanh chóng, dễ dàng và chính xác.
Khối tài chính toàn cầu (Global Treasury)
Khối này phối hợp với khối Business Banking và Consumer Banking để cấu trúc lại sản
phẩm và đưa ra các giải pháp về tài chính cho các khách hàng mà có nhu cầu đầu tư và
quảng bá thương hiệu của họ, ngoài ra bộ phận này là kênh huy động được lượng tiền trong
thương mại như thu đổi ngoại tê, thu nhập cố định từ chứng khoán, và thị trường công cụ
phái sinh. Bên cạnh đó nó còn hỗ trợ khách hàng quản lý được các rủi ro về tỷ giá hối đoái
và lãi suất, thông qua các văn phòng đại diện đặt tại Kuala Lumpur, Hong Kong, London và
Sydney.
Khối ngân hàng quốc tế
Ngoài thị trường Singapore và Malaysia, OCBC còn có một mạng lưới quốc tế với hơn
24 chi nhánh nước ngoài và văn phòng đại diện tại 13 quốc gia trên thế giới, nhằm phục vụ
chủ yếu cho các cơ quan và tổ chức nước ngoài cũng như các khách hàng ở Singapore và
Malaysia mở rộng hoạt động kinh doanh ra nước ngoài, và các cơ quan, tổ chức nước ngoài
hoạt động kinh doanh tại Singapore va Malaysia.
Mô hình 5: Mô hình hoạt động của OCBC Bank.
CHƯƠNG II
XU HƯỚNG HÌNH THÀNH TẬP ĐOÀN TÀI CHÍNH-NGÂN HÀNG Ở
Nhóm 7-Lớp TCDN Đêm 1 18
Thị trường tài chính GVHD: PGS.TS NGUYỄN ĐĂNG DỜN
VN
Theo nhận định chung của các chuyên gia phân tích, xu hướng này sẽ là hướng đi
chung của hầu hết các ngân hàng quốc doanh hàng đầu Việt Nam sau cổ phần hoá.
PHÁC THẢO MÔ HÌNH TẬP ĐOÀN TC - NH VIỆT NAM
Việc hình thành mô hình tập đoàn TC - NH ở Việt Nam là một xu thế tất yếu xuất phát
từ nhu cầu phát triển nội tại của mỗi ngân hàng, định chế tài chính trên thế giới nói chung
và Việt Nam nói riêng, Do đó, cũng như sự trưởng thành của một đứa trẻ, mỗi giai đoạn
lớn lên sẽ cần phải có “chiếc áo” đủ rộng, đáp ứng và thích nghi. Từ trước đến nay, ở Việt
Nam chỉ mới có một ngân hàng tự nhận là tập đoàn, trong khi đó thực tế thì rất nhiều ngân
hàng đã có hàng loạt công ty kinh doanh trong lĩnh vực tài chính, phi tài chính trực thuộc.
Một số ngân hàng thương mại cổ phẩn cũng đã có đủ điều kiện, có đủ các nhân tố cần
thiết như quy mô, quản trị, thương hiệu, nguồn nhân lực… để đáp ứng kinh doanh nhiều
mảng khác nhau của hoạt động tài chính (góp vốn, thành lập các ngân hàng, công ty tài
chính, công ty cho thuê tài chính, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, công ty quản lý
quỹ, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản bảo đảm… và phi tài chính (công ty bất động
sản ngân hàng, công ty đầu tư xây dựng hạ tầng công trình, hạ tầng giao thông, công ty
kinh doanh vàng bạc…) nhưng vẫn chưa chính thức tuyên bố là tập đoàn TC - NH.
Xu hướng mới
Trên thế giới, mô hình Tập đoàn TC - NH đã tồn tại từ lâu. Tuy nhiên, ở nước ta vì
nhiều hạn chế, chủ yếu là từ nguồn vốn và hệ thống pháp lý, việc đưa các ngân hàng trở
thành tập đoàn đầu tư tài chính vẫn còn nhiều khó khăn, bất cập. Chỉ đến khi Thủ tướng
Chính phủ trực tiếp chỉ đạo Vietinbank xây dựng đề án thí điểm để hình thành Tập đoàn
TC - NH, dường như người ta mới nhìn nhận vấn đề này rõ ràng hơn. Trên thực tế, hầu hết
các ngân hàng quốc doanh lớn như Ngân hàng Ngoại thương (Vietcombank) hay Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển (BIDV) khi trình Chính phủ đề án thực hiện cổ phần hóa, họ
cũng đều đưa ra mục tiêu cụ thể về hướng trở thành Tập đoàn TC - NH. Xét về khía cạnh
phát triển đầu tư tài chính, đây là bước đi tất yếu của các ngân hàng sau cổ phần hoá, nhất
là ở giai đoạn hội nhập chung của đất nước.
Nhóm 7-Lớp TCDN Đêm 1 19
Thị trường tài chính GVHD: PGS.TS NGUYỄN ĐĂNG DỜN
Trước khi Vietinbank được phép thí điểm mô hình Tập đoàn TC - NH, Thủ tướng
Chính phủ cũng đã cho phép Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam trở thành Tập đoàn Tài
chính - Bảo hiểm Bảo Việt sau cổ phần hoá. Đáng chú ý, thời gian này, Chính phủ cũng đã
có những văn bản liên quan cho phép việc hình thành các Tập đoàn TC - NH. Nó không
chỉ khuyến khích giới ngân hàng tự thân vận động để phát triển theo hướng chuyên nghiệp,
mà còn là động lực giúp thị trường có thêm sức mạnh để hội nhập.
Những năm gần đây, giới ngân hàng cũng đã có những động thái chuẩn bị ấn tượng cho
cái vỏ lớn hơn qua các hoạt động phi ngân hàng rất hiệu quả. Với sự nhanh nhạy và khả
năng thích ứng cao, giới ngân hàng đã làm rất tốt việc mở rộng hoạt động kinh doanh sang
các lĩnh vực khác, qua đó thu về những khoản lợi nhuận ấn tượng. Có thể kể đến lần nhập
cuộc đáng chú ý của Vietcombank và BIDV, với vai trò là chủ đầu tư xây dựng tuyến
đường siêu cao tốc từ cầu Thanh Trì (Hà Nội) đến cầu Đình Vũ (Hải Phòng) vào tháng
6/2007. Rồi mới đây là cú bắt tay ngoạn mục của BIDV cùng 4 đại gia Vietnam Airlines,
Vinashin, Vietnam Petro và Tổng công ty Phong Phú, để đầu tư trong lĩnh vực kinh doanh
mua và cho thuê máy bay. Đầu tư bất động sản, hợp tác mở rộng thị trường, đầu tư tài
chính quốc tế có thể thấy các hạng mục phi ngân hàng đang ngày được mở rộng bởi giới
nhà băng Việt. Điều này có thể xem là bước chuẩn bị đáng kể để giới ngân hàng sẵn sàng
bước vào một mô hình mới, ấn tượng và quy mô hơn.
Đặc biệt thời gian gần đây, Sacombank và ACB đã tuyên bố là tập đoàn cũng cho thấy
đây là mô hình phát triển tất yếu của những ngân hàng lớn, đầu đàn phù hợp với xu thế thời
đại, phù hợp với yêu cầu tất yếu của hội nhập và cạnh tranh khi năm 2012 chúng ta mở
rộng cửa lĩnh vực tài chính theo lộ trình hội nhập WTO.
Sự tuyên bố chắc chắn đi trên con đường “Tập đoàn” TC - NH sau cổ phần hóa của các
NHTM Nhà nước như VietinBank, BIDV đang được thực hiện. Nguồn nhân lực và vật lực
đã và đang hình thành với sự ra đời liên tiếp của các công ty con trước cũng như sau cổ
phần hóa, khẳng định sự lớn mạnh và đa dạng trong hoạt động kinh doanh để chuẩn bị
bước đệm trở thành tập đoàn. Cộng thêm đằng sau đó là sự hậu thuẫn của Chính phủ cho
phép về nguyên tắc phát triển theo mô hình tập đoàn TC - NH của những NHTM Nhà nước
sau cổ phần hóa.
Nếu tính trong hệ thống NHTM Việt Nam hiện nay đang nổi lên 5 ngân hàng lớn có
Nhóm 7-Lớp TCDN Đêm 1 20
Thị trường tài chính GVHD: PGS.TS NGUYỄN ĐĂNG DỜN
khá đầy đủ các tiêu chí để trở thành một tập đoàn TC - NH. Đó là VietinBank,
Vietcombank, BIDV, ACB, Sacombank. Nếu xét tiêu chí “Tập đoàn” theo Dự thảo quy
định về tiêu chí đặt tên các tập đoàn và tổng công ty là doanh nghiệp phải là công ty TNHH
hoặc công ty cổ phần có vốn điều lệ từ 1.000 tỷ đồng trở lên và sở hữu trên 50% vốn điều
lệ của ít nhất 5 công ty khác và được Thủ tướng Chính phủ cho phép… thì các ngân hàng
trên đã hội đủ điều kiện.
Ngay như, LienVietPostBank khi mới sáp nhập thêm hệ thống tiết kiệm bưu điện cũng
“giương cờ” để trở thành Tập đoàn TC - NH. Tuy nhiên, nếu xét theo các tiêu chí của Dự
thảo trên thì ngân hàng này vẫn còn nhiều việc phải làm.
Ngoài ACB và Sacombank đã tuyên bố là Tập đoàn thì với các NHTM Nhà nước đã và
đang cổ phần hóa như VietinBank, Vietcombank, BIDV thì con đường trở thành tập đoàn
có lẽ chỉ còn là thời gian. Vì đến nay, VietinBank cũng đã chuẩn bị những cơ sở cho mình
để trở thành một Tập đoàn tài chính mạnh của Việt Nam. Hiện VietinBank sở hữu 6 công
ty con hoạt động đa dạng trong các lĩnh vực tài chính như: công ty cho thuê tài chính, công
ty quản lý nợ và khai thác tài sản, công ty bảo hiểm phi nhân thọ, công ty vàng bạc đá quý,
công ty quản lý quỹ, công ty chứng khoán. Tổng số vốn góp của VietinBank vào các công
ty con tính đến thời điểm này là 1.527 tỷ đồng, bên cạnh đó còn có 10 công ty liên kết và
một công ty liên doanh. Theo chiến lược phát triển đến 2015, VietinBank sẽ tiếp tục đa
dạng hóa cơ cấu sở hữu và giảm dần sự nắm giữ của Nhà nước ở mức 51%. Tiến hành các
thủ tục IPO quốc tế và niêm yết trên thị trường quốc tế. Tổng tài sản của VietinBank đạt
460.838 tỷ đồng, vốn điều lệ 20.229 tỷ đồng.
Đối với Vietcombank với số vốn điều lệ khoảng 19.698 tỷ đồng, tổng tài sản đạt
khoảng 366.750 tỷ đồng, với tổng vốn đầu tư tham gia góp vốn là 4.900 tỷ đồng vào 33
đơn vị và hiện có 7 công ty con. Tổng tài sản của Sacombank đạt 141.000 tỷ đồng, vốn
điều lệ đạt 10.739 tỷ đồng. Hiện Sacombank có 9 công ty con với tổng số vốn góp là
1.768.200 tỷ đồng. Mục tiêu đến năm 2020, mạng lưới của Sacombank dự kiến đạt 600
điểm, ngoài các điểm đã mở tại Lào và Campuchia, Sacombank dự kiến mở rộng hoạt động
sang Malaysia, Singapore, Mỹ, Australia, châu Âu và một số nước khác trong khu vực
ASEAN. Còn mục tiêu của ACB đến năm 2015 sẽ trở thành một trong bốn ngân hàng lớn
nhất và hoạt động hiệu quả nhất tại Việt Nam và có quy mô của một ngân hàng trung bình
Nhóm 7-Lớp TCDN Đêm 1 21
Thị trường tài chính GVHD: PGS.TS NGUYỄN ĐĂNG DỜN
khu vực. Hiện ACB đang sở hữu 4 công ty con hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực tài chính.
Tổng tài sản của ACB khoảng gần 206.000 tỷ đồng, vốn điều lệ hiện đang là 9.376 tỷ đồng.
Sau khi cổ phần hóa BIDV là NHTM có số vốn điều lệ lớn nhất trong hệ thống đạt
28.251 tỷ đồng, tổng tài sản khoảng 398.583 tỷ đồng. Việc BIDV thực hiện IPO và trở
thành NHTMCP tạo điều kiện cho việc trở thành Tập đoàn TC - NH. Đến nay, BIDV đang
có trong tay 6 công ty con với các lĩnh vực hoạt động đa dạng, ngoài các công ty mấu chốt
của hệ thống tài chính, hiện BIDV đang sở hữu công ty TNHH Quốc tế tại HongKong với
nhiệm vụ là huy động và quản lý các quỹ đầu tư, cung cấp các dịch vụ tài chính nhằm huy
động vốn tại thị trường quốc tế để đầu tư vào Việt Nam. BIDV cũng đã đưa vào hoạt động
CTCP Đầu tư và Phát triển Myanmar, đưa vào hoạt động hiện diện thương mại tại CH Séc,
đưa vào hoạt động chi nhánh Ngân hàng liên doanh Việt – Nga tại Nga.
Như vậy, các tập đoàn tài chính đã và đang hình thành, đang hướng theo mô hình công
ty mẹ-con và đang phát triển theo hướng kinh doanh đa ngành với các hoạt động đan xen
giữa các lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm… Với các vệ tinh là các công ty con,
công ty liên doanh, liên kết thông qua các hoạt động đầu tư hợp tác kinh tế, đầu tư thương
mại nhằm kết nối có hiệu quả thị trường tài chính Việt Nam với các thị trường các nước
trong khu vực và nâng tầm ảnh hưởng và vị thế của thị trường TC - NH Việt Nam ra thị
trường nước ngoài. Cái đích “Tập đoàn” đã hiện rõ nét, nhưng con đường vươn tới nó vẫn
còn gập ghềnh, khúc khuỷu. Không thể “dục tốc” được vì nếu xét về tiêu chí định lượng nó
đã đáp ứng được nhưng về yếu tố định tính hay nhân tố quản trị cần xứng tầm cho mô hình
đa ngành và phức tạp này.
Mô hình tập đoàn TC - NH rất phổ biến trên thế giới nhưng ở Việt Nam thì khá mới
mẻ. Về mặt chính thức, mô hình này đã được Thủ tướng Chính phủ cho phép thí điểm xây
dựng ở Tập đoàn Tài chính - Bảo hiểm Bảo Việt và trong các văn bản về CPH ngân hàng
cũng có những đồng ý về mặt nguyên tắc để hình thành các tập đoàn TC - NH. Điều này
càng khiến cho các ngân hàng thêm phấn khích trên lộ trình CPH và hướng đến mô hình
tập đoàn.
2.1/ Tập đoàn tài chính – bảo hiểm Bảo Việt:
Thành lập ngày 15/1/1965, đến nay Bảo Việt đã trở thành Tập đoàn Tài chính - Bảo
hiểm hàng đầu Việt Nam. kinh doanh trong các lĩnh vực bảo hiểm, ngân hàng, chứng
Nhóm 7-Lớp TCDN Đêm 1 22
Thị trường tài chính GVHD: PGS.TS NGUYỄN ĐĂNG DỜN
khoán, đầu tư và các dịch vụ tài chính khác. Không chỉ có mạng lưới rộng khắp trên toàn
quốc, Bảo Việt còn được biết đến là thương hiệu mạnh, uy tín số 1 trong lĩnh vực bảo
hiểm. Với khả năng tài chính mạnh, sự thông hiểu thị trường trong nước, Bảo Việt là doanh
nghiệp duy nhất tại Việt Nam kinh doanh cả 2 loại hình bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ.
Cùng với quá trình phát triển thành một tập đoàn tài chính đa ngành, Bảo Việt cung cấp
cho khách hàng các dịch vụ tài chính kết hợp khác gồm môi giới chứng khoán, đầu tư. Bảo
Việt quan hệ đầu tư để kết hợp với các tổ chức khác cung cấp cho khách hàng các dịch vụ
như ngân hàng, bất động sản, vui chơi giải trí, khách sạn, in ấn và các lĩnh vực sản xuất
kinh doanh khác. Bảo Việt đã được công nhận là một trong số 25 doanh nghiệp lớn nhất
của Việt Nam; là doanh nghiệp bảo hiểm lâu đời, được tin cậy đối với đông đảo các tầng
lớp dân cư, cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp.
Ngày 29/08/2003, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 175/2003/QĐ-TTg phê duyệt
chiến lược phát triển Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) thành một Tập đoàn tài
chính, bảo hiểm hàng đầu ở Việt Nam, có khả năng cung cấp đa dạng và kết hợp các dịch
tài chính chất lượng cao.
Kể từ tháng 10 năm 2003, hoạt động kinh doanh của Bảo Việt đã được tổ chức lại theo
mô hình tập đoàn tài chính với vốn điều lệ là 3000 tỷ VNĐ (tức 200 triệu USD). Bên cạnh
đó, bắt đầu từ ngày 01 tháng 01 năm 2004, hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ được
thực hiện bởi Bảo Việt Nhân Thọ, một đơn vị thành viên hạch toán độc lập trực thuộc Bảo
Việt. Bảo Việt Nhân Thọ hoạt động với một mạng lưới toàn quốc bao gồm 61 công ty
thành viên, 250 phòng phục vụ khách hàng và hơn 25.000 đại lý ở tất cả các tỉnh thành
trong nước. Kể từ ngày 01 tháng 07 năm 2004, hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân
thọ cũng đã được chính thức tách ra, chuyên môn hóa và hạch toán độc lập dưới tên gọi là
Bảo Việt Việt Nam.
Ngày 28/11/2005, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 310/2005/QĐ-TTg về việc
phê duyệt Đề án cổ phần hóa Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam và thí điểm thành lập Tập
đoàn Tài chính - Bảo hiểm Bảo Việt.
Ngày 31/5/2007 đánh dấu một sự kiện, một mốc lịch sử quan trọng của Bảo Việt, đó là
việc Bảo Việt bán cổ phần lần đầu ra công chúng chính thức trở thành công ty cổ phần kinh
doanh đa ngành, đa lĩnh vực. Ngày 15/10/2007, Tập đoàn Bảo Việt đã hoàn thành Đăng ký
Nhóm 7-Lớp TCDN Đêm 1 23
Thị trường tài chính GVHD: PGS.TS NGUYỄN ĐĂNG DỜN
kinh doanh công ty cổ phần có sự tham gia của đối tác chiến lược là các tập đoàn kinh tế
hàng đầu trong nước (Vinashin) và nước ngoài (HSBC Insurance (Asia - Pacific) Holdings
Limited); hình thành Tập đoàn Tài chính – Bảo hiểm Bảo Việt.
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của mình, Bảo Việt đã vinh dự được Đảng
và Nhà nước trao tặng Huân chương Độc Lập Hạng Ba, Chính phủ xếp hạng Doanh nghiệp
Nhà nước hạng Đặc biệt và nhiều danh hiệu, giải thưởng do các tổ chức uy tín của trong và
ngoài nước trao tặng. Bảo Việt được tổ chức BVQI (Vương quốc Anh) cấp chứng chỉ quản
lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9001:2000 từ tháng 8/2001.
Hiện nay, tập đoàn Bảo việt công ty cổ phần với sự tham gia gớp vốn của hai cổ đông
lớn là HSBC (18% cổ phần) và SCIC (3.3% cổ phần). Năm 2009, cổ phiếu của Tập đoàn
Bảo Việt (BVH) được niêm yết thành công trên thị trường chứng khoán TPHCM.
Hiện tại Tập đoàn có trụ sở tại Hà Nội với hơn 150 chi nhánh trên khắp 63 tỉnh thành cả
nước.
Hiện nay, Tập đoàn cung cấp dịch vụ tài chính toàn diện, bao gồm bảo hiểm, ngân
hàng, quản lý quỹ, chứng khoán và đầu tư. Tại thời điểm 31/12/2010, Tập đoàn có tổng tài
sản thuần lên tới 10.668 tỷ đồng.
a) Danh sách Công ty mà Bảo Việt đang nắm giữ toàn bộ vốn
a.1) Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo Việt do Tập đoàn Bảo Việt đầu tư 100% vốn điều
lệ (hoạt động từ năm 1965)
Là doanh nghiệp bảo hiểm dẫn đầu thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam.
Kinh doanh các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ (du lịch, tai nạn con người, bảo
hiểm y tế); Tái bảo hiểm; Giám định tổn thất; Đầu tư tài chính
Kết quả kinh doanh năm 2010: Tổng doanh thu đạt 4.995 tỷ đồng. Lợi nhuận trước
thuế đạt 311 tỷ đồng.
Mạng lưới hoạt động rộng khắp cả nước, bao gồm 66 công ty thành viên và trên 300
phòng bảo hiểm khu vực; hơn 2.800 nhân viên và hơn 11.000 đại lý bảo hiểm trải rộng
khắp Việt Nam
a.2) Tổng Công ty Bảo Việt Nhân thọ do Tập đoàn Bảo Việt đầu tư 100% vốn điều
lệ (hoạt động từ năm 1996)
Là doanh nghiệp đầu tiên và là một trong những nhà cung cấp bảo hiểm nhân thọ
Nhóm 7-Lớp TCDN Đêm 1 24
Thị trường tài chính GVHD: PGS.TS NGUYỄN ĐĂNG DỜN
hàng đầu Việt Nam
Cung cấp các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ (bảo hiểm trọn đời, bảo hiểm sinh kỳ,
bảo hiểm tử kỳ, bảo hiểm hỗn hợp, bảo hiểm sức khỏe, bảo hiểm tai nạn con người), tái
bảo hiểm, quản lý quỹ và các hoạt động đầu tư khác
Kết quả kinh doanh năm 2010: Tổng doanh thu đạt 6.124 tỷ đồng. Lợi nhuận trước
thuế đạt 600 tỷ đồng.
Hệ thống mạng lưới 60 công ty thành viên với hơn 200 điểm phục vụ khách hàng
trên toàn quốc, cùng đội ngũ gần 2.000 nhân viên và 19.500 tư vấn viên bảo hiểm
a.3) Công ty Quản lý Quỹ Bảo Việt (BVF) do Tập đoàn Bảo Việt đầu tư 100% vốn
điều lệ (hoạt động từ năm 2005)
Là một trong hai công ty Công ty Quản lý Quỹ có tổng tài sản lớn nhất Việt Nam.
Các dịch vụ quản lý quỹ: Quản lý danh mục đầu tư ủy quyền tòan bộ; Quản lý danh
mục đầu tư theo chỉ định; Các dịch vụ quản lý Quỹ dành cho các nhà đầu tư cá nhân và tổ
chức
Chiến lược phát triển và ứng dụng hệ thống sẽ giúp BVF tăng cường năng lực, tiếp
cận các lĩnh vực mới của thị trường thông qua việc mở rộng mạng lưới khách hàng tổ chức
và liên kết với các nhà cung cấp bên ngoài.
Kết quả kinh doanh năm 2010: Tổng doanh thu đạt 56 tỷ đồng. Lợi nhuận trước thuế
đạt 23 tỷ đồng.
b) Danh sách các Công ty mà Bảo Việt nắm giữ quyền kiểm soát và cổ phần chi
phối
b.1) Công ty Cổ phần Chứng khoán Bảo Việt (BVSC) do Tập đoàn Bảo Việt đầu tư
60% vốn điều lệ (hoạt động từ năm 1999)
Là công ty cổ phần chứng khoán đầu tiên tại Việt Nam.
Vốn điều lệ hơn 722 tỷ đồng
Các lĩnh vực kinh doanh: môi giới chứng khoán và tư vấn đầu tư; Bảo lãnh phát
hành và đại lý phát hành chứng khoán; Tái cơ cấu, mua bán sáp nhập doanh nghiệp; Lưu
Nhóm 7-Lớp TCDN Đêm 1 25