Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tiến trình cải cách tư pháp ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (905.61 KB, 109 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
--------***--------

NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH

BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN,
BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
TRONG TIẾN TRÌNH CẢI CÁCH TƯ PHÁP
Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành LUẬT HÌNH SỰ
Mã số:60.38.40

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRỊNH VĂN THANH

TP. Hồ Chí Minh - năm 2009


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan: Luận văn “Bảo đảm quyền bào chữa của bị can,
bị cáo là người chưa thành niên trong tiến trình cải cách tư pháp ở Việt
Nam” là cơng trình nghiên cứu do bản thân tơi thực hiện.
Những suy luận, phân tích, chứng minh trong luận văn chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào.

Nguyễn Hữu Thế Trạch


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


BLHS

Bộ luật Hình sự

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra

CQTHTT

Cơ quan tiến hành tố tụng

ĐLS

Đoàn Luật sư

ĐTV

Điều tra viên

GCNBC

Giấy chứng nhận bào chữa

KSV


Kiểm sát viên

LS

Luật sư

NBC

Người bào chữa

NBTG

Người bị tạm giữ

NCTN

Người chưa thành niên

QBC

Quyền bào chữa

QCN

Quyền con người

TAND

Tòa án Nhân dân


TANDTC

Tòa án Nhân dân Tối cao

TP HCM

Thành phố Hồ Chí Minh

TTHS

Tố tụng hình sự

TTTGPLNN

Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước

VPLS

Văn phòng Luật sư

VKS

Viện Kiểm sát

VKSND

Viện Kiểm sát nhân dân

XHCN


Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1

1.1.

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO ĐẢM
QUYỀN CON NGƯỜI VÀ QUYỀN BÀO CHỮA
CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM ......................................................... 5

Những vấn đề lý luận về quyền con người và
bảo đảm quyền con người............................................................................. 5
1.1.1. Nhận thức chung về quyền con người ..................................................5
1.1.2. Vấn đề bảo đảm quyền con người ở Việt Nam ....................................7

1.2.

Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam ....................................11
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của chế định
quyền bào chữa ...................................................................................11
1.2.2. Khái niệm và nội dung của quyền bào chữa
trong tố tụng hình sự ..........................................................................16

1.3.


Chủ thể bảo đảm quyền bào chữa của bị can,
bị cáo trong tố tụng hình sự .......................................................................19
1.3.1. Các cơ quan tiến hành tố tụng .............................................................19
1.3.2. Đoàn luật sư, Hội luật gia, Trung tâm trợ giúp
pháp lý nhà nước ................................................................................21
1.3.3. Nhiệm vụ quyền hạn của chủ thể đảm bảo
thực hiện quyền bào chữa ...................................................................22
1.3.4. Mối quan hệ giữa chủ thể tự bào chữa, người bào chữa
với chủ thể đảm bảo thực hiện quyền bào chữa .................................23


CHƯƠNG 2
2.1.

THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA
BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN .... 25

Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
trong pháp luật Việt Nam và một số nước trên thế giới ...........................25
2.1.1. Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
trong pháp luật Việt Nam ...................................................................25
2.1.2. Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
trong pháp luật của một số nước trên thế giới ....................................34

2.2.

Thực trạng bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo
là người chưa thành niên tại thành phố Hồ Chí Minh,
từ năm 2005 - 2008 ......................................................................................39
2.2.1. Chủ thể bảo đảm quyền bào chữa .......................................................39

2.2.2. Thực tiễn bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người
chưa thành niên tại thành phố Hồ Chí Minh .......................................43

2.3.

Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót trong việc bảo đảm
quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
tại thành phố Hồ Chí Minh ........................................................................58
2.3.1. Hạn chế, thiếu sót ................................................................................58
2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót..........................................65

CHƯƠNG 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO
CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN TRONG TIẾN TRÌNH CẢI CÁCH
TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM .................................................... 70
3.1.

Phương hướng nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền
bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
trong tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam ...........................................70
3.1.1. Thực hiện nguyên tắc, đường lối của Đảng và Nhà nước
về cải cách tư pháp có liên quan đến việc bảo đảm quyền bào chữa
trong tố tụng hình sự .......................................................................... 70


3.1.2. Thực hiện nguyên tắc các điều ước quốc tế đã ký kết
hoặc tham gia đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế ...................................73
3.2.


Giải pháp nâng cao hiệu quả của việc bảo đảm quyền
bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
trong các giai đoạn tố tụng hình sự ...........................................................75
3.2.1. Tăng cường cơng tác đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng
nâng cao trình độ của những người tiến hành tố tụng ........................75
3.2.2. Tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân ...............................77
3.2.3. Nâng cao trình độ năng lực và phẩm chất đạo đức
của người bào chữa ............................................................................78

3.3.

Kiến nghị ......................................................................................................78

KẾT LUẬN ................................................................................................... 84


1

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử, là một trong
những giá trị quý báu nhất của nền văn minh nhân loại trong thời đại ngày nay.
Những giá trị nền tảng tạo nên quyền con người là: Nhân phẩm - Tự do - Bình đẳng
- Nhân đạo - Khoan dung và Trách nhiệm. Đây là những giá trị vốn có ở tất cả các
nền văn hóa, được quốc tế hóa nhằm bảo vệ nó trong đời sống xã hội. Trong các
quyền cơ bản đó, quyền con người trong tố tụng hình sự, trong đó có quyền trẻ em
và việc bảo đảm quyền trẻ em là rất quan trọng, việc nghiên cứu làm sáng tỏ những
giá trị cao quý về quyền con người, nhất là các quyền nêu trên được quan tâm
nghiên cứu trong các cơng trình nghiên cứu khoa học.
Việt Nam đang trong tiến trình cải cách tư pháp nhằm xây dựng nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định quyết tâm chính
trị mạnh mẽ của mình trong việc thực hiện chủ trương và triển khai các nhiệm vụ
cải cách tư pháp. Nghị quyết 08- NQ/TW của Bộ chính trị về cải cách tư pháp đã
tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của cán bộ cơ quan tư pháp, các ngành,
các cấp và nhân dân về vị trí, vai trị, tầm quan trọng của cơng tác tư pháp. Qua đó,
hệ thống các cơ quan tư pháp đã được củng cố cả về tổ chức bộ máy và công tác cán
bộ. Chất lượng điều tra, truy tố, xét xử và các hoạt động bổ trợ tư pháp được nâng
cao. Việc bắt, giam giữ đã được xem xét, kiểm tra thường xuyên, công tác xét xử
được xem xét thận trọng đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên,
công tác tư pháp vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế như đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư
pháp còn thiếu, trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn
yếu, vấn đề bảo đảm quyền con người nhất là quyền bào chữa của bị can, bị cáo nói
chung và của bị can, bị cáo là người chưa thành niên nói riêng cịn có hạn chế, sai
sót. Vẫn cịn tình trạng oan, sai trong điều tra, truy tố, xét xử. Nhất là đối với bị can,
bị cáo là người chưa thành niên. Pháp luật tố tụng hình sự đã quy định thủ tục giải
quyết những vụ án do người chưa thành niên thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó
có vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của họ. Tuy nhiên trong thực tiễn vận dụng do
chưa được quan tâm nên vẫn còn nhiều hạn chế, chưa bảo đảm các quyền và lợi ích
hợp pháp của họ, cịn bộc lộ nhiều thiếu sót, hạn chế, dẫn đến việc giải quyết những
vụ án này khơng đạt hiệu quả cao. Bên cạnh đó, khơng ít cơ quan và người tiến


2

hành tố tụng đã không tuân thủ theo những quy định của pháp luật, dẫn đến quyền
và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên bị xâm hại, chưa đáp ứng địi hỏi của
tiến trình đổi mới tư pháp ở Việt Nam. Chính vì vậy, việc nghiên cứu làm sáng tỏ
vấn đề bảo đảm quyền con người nói chung và quyền bào chữa của bị can, bị cáo là
người chưa thành niên trong tố tụng hình sự nói riêng theo tinh thần cải cách tư
pháp ở Việt Nam hiện nay là hồn tồn cấp thiết. Cho nên, tơi đã lựa chọn và

nghiên cứu đề tài: “ Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa
thành niên trong tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ để
đáp ứng nhu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề nghiên cứu cải cách các quy định về bảo đảm quyền bào chữa của bị
can, bị cáo là người chưa thành niên là vấn đề mà hầu hết các nước trên thế giới đều
chú trọng thực hiện để đảm bảo quyền con người tốt nhất. Những đất nước, khu vực
thực hiện khá thành cơng chương trình cải cách này là Thụy Điển, Pháp, Mỹ,
Anh,… Việc tiếp thu những kinh nghiệm từ các nước này là một trong những thuận
lợi của nước ta trong tiến trình cải cách. Tuy nhiên mỗi đất nước, mỗi khu vực có
những đặc thù riêng, buộc chúng ta phải có những nghiên cứu, chọn lọc để đưa ra
phương án phù hợp và ưu việt nhất.
Trước những yêu cầu bức thiết về bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo
là người chưa thành niên trong tiến trình cải cách tư pháp, Việt Nam đã bắt đầu có
những cơng trình nghiên cứu về lĩnh vực này.
Liên quan đến đề tài, hiện nay có một số tác phẩm, cơng trình nghiên cứu như:
- Đề tài luận văn thạc sỹ “Thủ tục tố tụng hình sự đối với những vụ án do
người chưa thành niên thực hiện – lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Ngọc
Thương (khóa 6, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2006).
-Đề tài luận văn thạc sỹ “Bảo vệ trẻ em và người chưa thành niên bằng pháp
luật hình sự - lý luận và thực tiễn” của tác giả Đỗ An Bình (khóa 3, Trường Đại học
Luật Thành phố Hồ Chí Minh).
Ngồi ra cịn một số bài viết của một số tác giả được đăng trên các tạp chí
chun ngành. Những cơng trình nói trên dưới các góc độ khác nhau đã làm sáng tỏ
phần nào thực trạng đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên những cơng trình trên do thời
gian đã lâu nên chưa quán triệt tinh thần về cải cách tư pháp, về chính sách hình sự
của Đảng và Nhà nước ta theo Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ chính trị ngày



3

02/01/2002, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ
chính trị ngày 02/6/2005 về cải cách tư pháp, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X…
Vì vậy, đề tài bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa
thành niên trong tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam không trùng hợp với các
cơng trình đã được cơng bố.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực trạng bảo đảm
quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong thực tiễn giải
quyết các vụ án hình sự để xác định phương hướng và đề xuất những giải pháp, kiến
nghị góp phần nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là
người chưa thành niên trong tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo
là người chưa thành niên hiện nay; phân tích các quy định pháp luật tố tụng hình sự
hiện hành về các hoạt động tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội, cũng
như việc thực hiện những quy định đó trên thực tế. Tìm hiểu những mặt được và
mặt hạn chế của chúng trong việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là
người chưa thành niên trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay.
3.3. Phạm vi nghiên cứu:
Những vấn đề lý luận, pháp lý và thực trạng áp dụng tại Thành phố Hồ Chí
Minh từ khi Nhà nước ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; quan điểm chỉ
đạo của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp trong thời kỳ mới; lý luận của khoa
học luật hình sự và khoa học luật tố tụng hình sự.

4.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
-Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, quy nạp;
-Phương pháp phân tích các quy phạm pháp luật;
-Phương pháp điều tra điển hình;
-Phương pháp phiếu điều tra;
-Phương pháp điều tra xã hội học.


4

Ngoài ra, để phục vụ cho việc nghiên cứu, tác giả còn sử dụng một số
phương pháp khác như khảo sát thực tế, tham khảo ý kiến chuyên gia… để tiếp cận
và làm sáng tỏ nội dung đề tài.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
-Góp phần làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn cũng như nâng cao
nhận thức về sự cần thiết phải tôn trọng và bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị
cáo là người chưa thành niên trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
-Góp phần xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về cơ chế đảm bảo
quyền cơng dân nói chung, pháp luật về đảm bảo quyền bào chữa của người chưa
thành niên trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nói riêng, đồng thời góp phần
xây dựng, hồn thiện cơ chế đảm bảo quyền công dân cũng như cơ chế đảm bảo
việc áp dụng thống nhất pháp luật, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp
trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Với những đóng góp trên, tác giả mong rằng đề tài sẽ góp một phần nhỏ
vào việc đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong
tiến trình cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam. Đồng thời luận văn có thể là tài
liệu nghiên cứu trong các trường thuộc hệ thống cơ quan tư pháp.
6. Cơ cấu luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận và danh mục tài
liệu tham khảo. Phần nội dung gồm 3 chương, có cấu trúc như sau:

Chương 1: Những vấn đề chung về bảo đảm quyền con người và quyền bào
chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam
Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người
chưa thành niên
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm
quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tiến trình cải cách
tư pháp ở Việt Nam


5

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
VÀ QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1.

Những vấn đề lý luận về quyền con người và bảo đảm quyền con người
1.1.1. Nhận thức chung về quyền con người

Quyền con người (QCN) là một trong những giá trị nhân bản cao nhất mà
các quốc gia trên thế giới đều đề cao và bảo vệ nó. Bảo vệ QCN cũng là một nhân
tố quan trọng cho sự phát triển bền vững của một quốc gia. Mỗi quốc gia đều xây
dựng một hệ thống pháp luật riêng cho quốc gia của mình dựa trên các điều kiện
chính trị, kinh tế - xã hội và các giá trị truyền thống văn hóa của quốc gia để đảm
bảo các QCN được thực hiện một cách tốt nhất và đầy đủ nhất. Hệ thống pháp luật
này phải phù hợp với các nguyên tắc, nội dung cơ bản của luật pháp quốc tế đặc biệt
là Hiến chương Liên Hợp Quốc.
Tư tưởng về QCN của Tuyên ngôn Độc lập 02/9/1945 được thể hiện và phát
triển trong các Hiến pháp nước ta, từ Hiến pháp 1946 cho đến Hiến pháp 1992 sửa

đổi, bổ sung năm 2001. Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nước ta, Hiến pháp năm
1992 QCN được khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các
quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tơn trọng thể
hiện ở các quyền công dân và được qui định trong Hiến pháp và luật” (Điều 50).
QCN là một trong những vấn đề quan trọng luôn được Đảng và Nhà nước ta quan
tâm, điều này được thể hiện rõ ở việc: “xác định con người là vị trí trung tâm trong
các cơ chế chính sách phát triển kinh tế - xã hội”, “con người vừa là mục tiêu, vừa
là động lực” để phát triển. Tất cả quyền lực nhà nước và xã hội đều thuộc về nhân
dân, đây là tư tưởng lớn nhất và nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc
đảm bảo QCN. Sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của nhà nước là nhằm bảo
đảm quyền làm chủ của nhân dân một trong những quyền cơ bản của QCN. Bảo
đảm QCN không chỉ là trách nhiệm của nhà nước, của các cơ quan tư pháp mà còn
là trách nhiệm của tất cả các tổ chức hợp thành hệ thống chính trị. Đồng thời mỗi
người dân cần phải biết sử dụng những tổ chức đó để tự bảo vệ các quyền của mình.
Đây là nét đặc sắc, khác biệt của cơ chế bảo đảm QCN ở Việt Nam so với các quốc
gia khác.


6

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, QCN là một vấn đề cực kỳ
nhạy cảm, ở đó thường xuyên diễn ra những cuộc đọ sức giữa các quốc gia nói
riêng, những lực lượng xã hội nói chung. Ở nước ta, bảo vệ QCN, quyền công dân
là chính sách nhất quán, là mục tiêu quan trọng của Đảng và Nhà nước. Trong từng
giai đoạn cách mạng QCN luôn được quan tâm bảo vệ, được ghi nhận một cách
trang trọng trong các bản Hiến pháp của Nhà nước Việt Nam dưới hình thức quyền
cơng dân. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước, con người được đặt ở vị trí trung
tâm, phát triển kinh tế xã hội nhằm phục vụ con người, tạo điều kiện phát triển toàn
diện con người. Bên cạnh việc chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
Đảng và Nhà nước cũng rất chú trọng đến việc đảm bảo quyền tự do, dân chủ của

cơng dân, đặc biệt trong lĩnh vực hình sự và tố tụng hình sự (TTHS). Chính sách
hình sự của Đảng, Nhà nước trong các thời kỳ luôn thể hiện rõ bản chất nhân đạo xã
hội chủ nghĩa (XHCN). Các chính sách hình sự, một mặt đã đáp ứng yêu cầu đấu
tranh phòng, chống tội phạm, phát hiện nhanh chóng, xử lý cơng minh, kịp thời mọi
hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, mặt khác cố gắng giảm thiểu khả năng
xâm phạm đến các quyền tự do dân chủ của công dân. Trước những diễn biến phức
tạp của tình hình tội phạm trong xu thế hội nhập quốc tế thì vấn đề QCN cần phải
được coi trọng và càng phải được coi trọng hơn trong điều kiện quyết tâm xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN.
Quyền con người không phải là một khái niệm trừu tượng khi chúng ta xem
xét nó trong tổng hịa các mối quan hệ xã hội. QCN cũng khơng đơn thuần là thuộc
tính bẩm sinh, vốn có của con người mà là một khái niệm mang tính lịch sử, gắn
liền với các cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột, bất cơng trong xã hội. Chỉ khi xã
hội có giai cấp, nhà nước có sự vi phạm QCN thì vấn đề QCN mới được đặt ra.
Cho đến nay, chúng ta phải thừa nhận rằng khó có thể tìm thấy một định
nghĩa triết học “kinh điển” nào về QCN. Ngay cả những nhà tư tưởng lớn như Lôccơ, Rút Xô… và sau này Mác, Ăng Ghen, Lênin cũng không đưa ra một định nghĩa
nào về khái niệm này giống như cách làm thông thường đối với các khái niệm triết
học khác. QCN là vấn đề phức tạp đa nghĩa, chứa đựng những mặt đối lập, mâu
thuẫn, nhưng khơng loại trừ nhau. Đó là các mặt khách quan và chủ quan, tự nhiên
và xã hội, kinh tế và tinh thần, văn hóa và chính trị, đạo lý và luật pháp. Nó cũng là
sự kết hợp giữa các yếu tố quốc tế và dân tộc, giai cấp và nhân loại…


7

Tóm lại, có thể rút ra khái niệm về QCN như sau: QCN ở góc độ là một phạm
trù xã hội chung là những khả năng hình thành một cách khách quan trong q trình
phát triển có tính quy luật của văn minh nhân loại và có nguồn gốc từ bản chất của
con người về việc sử dụng những lợi ích và điều kiện tối thiểu và quan trọng nhất là
tồn tại tự do và an toàn của cá nhân con người trong xã hội và trong nhà nước.

1.1.2. Vấn đề bảo đảm quyền con người ở Việt Nam
1.1.2.1. Tôn trọng các điều ước quốc tế về bảo đảm quyền con người do Việt
Nam ký kết hoặc tham gia
Quan tâm và thúc đẩy các QCN cho mọi người dân Việt Nam luôn là ưu tiên
của Đảng và Nhà nước Việt Nam, là nền tảng được phản ánh nhất quán và xuyên
suốt trong mọi chính sách, luật pháp của Nhà nước Việt Nam.
Trong những năm qua, mặc dù cịn nhiều khó khăn, với nỗ lực không ngừng,
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, cùng
với sự ổn định an ninh chính trị, việc cải cách luật pháp và tư pháp được chú trọng,
hệ thống luật pháp của Việt Nam không ngừng được bổ sung và hoàn thiện theo
hướng nhà nước pháp quyền nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn các quyền của người
dân, và nhờ đó Việt Nam có thêm điều kiện thuận lợi để đảm bảo thực hiện ngày
càng tốt hơn các cam kết và trách nhiệm quốc tế về QCN.
Việt Nam là nước tiên phong trong việc phê chuẩn các Công ước Nhân
quyền quốc tế. Việt Nam cam kết tôn trọng, thúc đẩy, bảo vệ các quyền và tự do cơ
bản của con người theo các nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc và các
chuẩn mực quốc tế về QCN mà Việt Nam đã tham gia. Quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta trên lĩnh vực QCN là quang minh, chính đại, phù hợp với đặc thù về lịch sử,
văn hóa của dân tộc và với quan niệm chung của cộng đồng quốc tế, đó là: QCN
gắn với độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia; quyền tự do cá nhân đi đôi với nghĩa
vụ, trách nhiệm công dân; quyền và tự do của mỗi người đi đôi với kỷ cương, phép
nước. Từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 1992 và các luật đều ghi nhận
ngày càng tăng những nguyên tắc và quy định bảo vệ QCN. Trong những năm qua,
mặc dù cịn nhiều khó khăn, với nỗ lực không ngừng, Việt Nam đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, cùng với sự ổn định an ninh chính
trị, việc cải cách luật pháp và tư pháp được chú trọng, hệ thống luật pháp Việt Nam
không ngừng được bổ sung và hoàn thiện theo hướng nhà nước pháp quyền nhằm


8


đáp ứng ngày càng tốt hơn các quyền của người dân, và nhờ đó Việt Nam có thêm
điều kiện thuận lợi để đảm bảo thực hiện ngày càng tốt hơn các cam kết và trách
nhiệm quốc tế về QCN. Uy tín Việt Nam trên lĩnh vực QCN cũng được cộng đồng
quốc tế thừa nhận. Song song đó, Việt Nam ln xem các biện pháp lập pháp như
những ưu tiên cấp bách và hàng đầu trong việc hiện thực hóa các quy định về QCN
của luật pháp quốc tế. Các văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII và IX
của Đảng dù cách thức thể hiện khác nhau nhưng đều nhấn mạnh xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật bảo đảm QCN, hoạt động lập pháp “ưu tiên xây dựng các
luật về kinh tế, về các quyền công dân”. Nhà nước đã không ngừng bổ sung và sửa
đổi pháp luật hiện hành hoặc ban hành văn bản pháp luật mới nhằm đáp ứng các
chuẩn mực nhân quyền quốc tế và những thay đổi to lớn của đời sống kinh tế - xã
hội đất nước. Bên cạnh việc thể chế hóa các quy định nhân quyền quốc tế vào hệ
thống pháp luật quốc gia, bảo đảm sự hài hòa giữa các quy định của hai hệ thống
pháp luật quốc gia và quốc tế, các hoạt động khác nhằm thực thi các quy định nhân
quyền quốc tế cũng được nước ta thực hiện rất tích cực và đa dạng. Những quy định
của pháp luật Việt Nam ngày nay đã bao quát đầy đủ và tương thích với luật quốc tế
về QCN như Bộ luật Hình sự (BLHS); Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS); Bộ luật
Dân sự; Bộ luật Tố tụng dân sự; Luật chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em…
1.1.2.2. Bảo đảm quyền con người trong pháp luật Việt Nam
Việt Nam là nước tiên phong trong việc phê chuẩn các Công ước Nhân
quyền quốc tế. Việt Nam cam kết tôn trọng, thúc đẩy, bảo vệ các quyền và tự do cơ
bản của con người theo các nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc và các
chuẩn mực quốc tế về QCN mà Việt Nam đã tham gia. Ngay sau khi giành được
độc lập, Nhà nước Việt Nam ra đời năm 1945, một năm sau đó, Hiến pháp năm
1946 được ban hành đã thiết lập và bảo đảm cho công dân thực hiện và hưởng thụ
các quyền tự do dân chủ. Các bản Hiến pháp tiếp theo (Hiến pháp năm 1959, Hiến
pháp năm 1980, Hiến pháp 1992), QCN, quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam
được phát triển, mở rộng về nội dung, số lượng và cơ chế bảo đảm tính hiện thực
của các quyền cũng ngày càng được hoàn thiện. Đặc biệt sau Hiến pháp năm 1992,

Đảng và Nhà nước ta tiếp tục thực hiện đường lối nhất quán, xuyên suốt tất cả là vì
con người, đề cao giá trị QCN. Con người được coi là nhân tố tạo dựng xã hội “dân
giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh”.


9

Điều quan trọng nhất là, Nhà nước Việt Nam không chỉ tuyên bố, thừa nhận
nhân quyền về mặt pháp lý quốc gia mà còn cả trên lĩnh vực cam kết và hành động
nhân đạo quốc tế, ngay khi còn đang trong giai đoạn chịu sự can thiệp, xâm lược
của đế quốc Mỹ, đất nước tạm thời chia cắt làm hai miền, Nhà nước ta đã gia nhập
nhiều công ước nhân đạo quốc tế.
Sau khi giải phóng hồn tồn miền Nam, thống nhất đất nước (năm 1975),
trở thành thành viên của Liên hợp quốc (năm 1977), kể từ đó, Việt Nam đã tham gia
nhiều công ước quốc tế về QCN và tích cực đóng góp có hiệu quả vào các hoạt
động bảo vệ nhân quyền quốc tế. Ngày 12/7/1992 Ban Bí thư Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam khóa VII đã ban hành chỉ thị 12, nêu rõ quan điểm của Đảng về
vấn đề QCN:
“Quyền con người là giá trị chung của nhân loại. Đó là thành quả đấu tranh
lâu dài của nhân dân lao động và các dân tộc trên thế giới chống lại mọi áp bức, bóc
lột và khẳng định quyền con người làm chủ thiên nhiên.
Trong xã hội có phân chia giai cấp đối kháng, khái niệm quyền con người có
tính giai cấp sâu sắc.
Giải phóng con người (trong đó có việc đảm bảo các quyền con người) gắn
liền với giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, chỉ có dưới tiền
đề độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thì quyền con người mới có điều kiện được
đảm bảo rộng rãi, đầy đủ, trọn vẹn nhất.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn
xã hội kết hợp chặt chẽ với nhau; lợi ích cá nhân được coi trọng vì đó là mục tiêu, là
động lực của sự phát triển xã hội, song cần chú trọng đảm bảo lợi ích của tập thể và

của cả cộng đồng dân tộc.
Quyền dân chủ, tự do của mỗi cá nhân không tách rời nghĩa vụ và trách
nhiệm công dân. Dân chủ phải đi đôi với kỷ cương, pháp luật. Mở rộng dân chủ xã
hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời thực hiện chuyên
chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân.
Quyền con người gắn với quyền dân tộc cơ bản và thuộc phạm vi chủ quyền
quốc gia. Đảm bảo quyền con người trước hết và chủ yếu thuộc trách nhiệm của
mỗi quốc gia.
Quyền con người luôn gắn liền với lịch sử, truyền thống và phụ thuộc vào
trình độ phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Do vậy, không thể áp đặt hoặc sao
chép máy móc các tiêu chuẩn, mơ thức của nước này cho nước khác”.


10

Trong một thế giới tùy thuộc lẫn nhau, các QCN chỉ có thể được tơn trọng và
bảo vệ trong một mơi trường hịa bình, an ninh, bình đẳng và phát triển bền vững,
trong đó các giá trị nhân bản được tôn trọng và bảo vệ. Xuất phát từ chủ trương
không ngừng phát triển QCN, Nhà nước Việt Nam đã và đang xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật để bảo đảm các QCN được tôn trọng và thực hiện một cách
đầy đủ nhất. QCN, một khi đã được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận, sẽ trở thành ý
chí chung của toàn xã hội, được xã hội tuân thủ và được pháp luật bảo vệ. Ngay từ
buổi bình minh của Nhà nước Việt Nam kiểu mới, nhiều quyền cơ bản của con
người đã được Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam long trọng tuyên bố là quyền công
dân Việt Nam và được bảo vệ.
Trong từng giai đoạn phát triển lịch sử, các quy định về quyền công dân của
các bản Hiến pháp Việt Nam đã được cụ thể hóa, chi tiết hóa và bổ sung để áp dụng
vào đời sống thực tiễn bằng rất nhiều văn bản luật và dưới luật. Có thể kể ra đây
một số văn bản quan trọng nhất được ban hành từ sau Hiến pháp 1959, đặc biệt là
sau Hiến pháp 1980, liên quan trực tiếp đến vấn đề QCN. Đó là, BLHS; BLTTHS;

Luật tổ chức Tòa án nhân dân; Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (VKSND);
Pháp lệnh Điều tra hình sự; Luật Luật sư; Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam…
Như vậy, Hiến pháp và pháp luật Việt Nam đã thể hiện đầy đủ tất cả các
quyền cơ bản, phổ biến của con người được nêu trong Tuyên ngôn Nhân quyền thế
giới năm 1948 và các công ước quốc tế khác của Liên hợp quốc về QCN. Chương
V của Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (đã được
sửa đổi, bổ sung năm 2001), khi nói về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã
có những điều ghi như sau: “Cơng dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể,
được pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm. Khơng ai bị bắt,
nếu khơng có quyết định của Tịa án nhân dân (TAND), quyết định hoặc phê chuẩn
của VKSND, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải
đúng pháp luật. Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, xúc phạm danh dự, nhân
phẩm của công dân” (Điều 71). “Khơng ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi
chưa có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị bắt, bị giam
giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất
và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật gây thiệt hại cho người khác phải bị
xử lý nghiêm minh” (Điều 72).


11

Để đảm bảo các quyền cơ bản của công dân, một mặt nhà nước cố gắng thúc
đẩy phát triển kinh tế xã hội, tăng nhanh mức đầu tư trong các lĩnh vực, nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của cơng dân, mở rộng và thực hiện tốt các chính sách
xã hội đảm bảo an toàn cuộc sống cho mọi thành viên trong xã hội, chăm lo phát
triển sự nghiệp giáo dục, y tế tạo điều kiện phát triển toàn diện thể lực, trí lực của
cơng dân… mặt khác, cố gắng ghi nhận theo hướng mở rộng và ngày càng phát
triển các quyền tự do của công dân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo ra
hành lang pháp lý trong đó cơng dân được quyền tự do ý chí, tự do hành động theo
khả năng và sự nhận thức của mình. Tất nhiên sự tự do này phải nằm trong khuôn

khổ giới hạn, khi sự tự do vượt ra ngồi khn khổ giới hạn cho phép thì nó sẽ xâm
phạm đến sự tự do của người khác hoặc là vi phạm pháp luật và điều này cũng đồng
nghĩa với khả năng gánh chịu trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi phạm đó.
1.2. Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của chế định quyền bào chữa
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công. Nhà nước Việt Nam Dân chủ
cộng hòa ra đời. Nhiệm vụ đặt ra trong thời kỳ đầu này là củng cố chính quyền
Cách mạng nên không thể kịp thời ban hành các văn bản pháp luật để ổn định các
quan hệ xã hội, ổn định chính trị. Trước tình hình đó Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký
Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945 cho phép áp dụng luật cũ không đi ngược lại
với nguyên tắc độc lập và chế độ chính trị của nhà nước mới. Song, trong lĩnh vực
TTHS, luật cũ không được áp dụng. Bởi, nó là phương tiện để bảo vệ đặc quyền,
đặc lợi của giai cấp phong kiến, sự bất bình đẳng trong xã hội.
Ngày 19/8/1945, lực lượng Cơng an nhân dân được thành lập thì đến ngày
13/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 33B/SL quy định thể lệ bắt người
để đưa đi an trí. Trong đó có quy định về điều kiện và thủ tục bắt. Sau đó, Nhà nước
ta ban hành một loạt các sắc lệnh quy định: Tổ chức các đoàn thể luật sư (LS). Trong
đó, nổi rõ một số chính sách sau: quy định các LS có quyền làm nhiệm vụ bào chữa
tại tất cả các tòa án cấp tỉnh trở lên và trước các tòa án quân sự (số 46/SL ngày
10/10/1945); quy định thành lập Đoàn thể LS và các LS có quyền biện hộ trước tất cả
tịa án trừ tòa án sơ thẩm (số 13/SL ngày 10/10/1945), thể hiện một nền dân chủ trong
xã hội mới. Tuy nhiên, quyền bào chữa (QBC) của bị can, bị cáo lúc này chưa được
coi trọng, bởi nó chỉ được đề cập thơng qua quyền biện hộ của LS. Đó chính là điểm


12

yếu về mặt lập pháp của nhà nước ta trong những năm đầu thành lập nước. Khắc
phục thiếu sót này, Điều 5 Sắc lệnh số 21/SL ngày 14/02/1946 về tổ chức Tòa án
quân sự đã quy định rõ ràng hơn và mở rộng hình thức thực hiện QBC: “Bị cáo có

quyền tự bênh vực hay nhờ luật sư hoặc người khác bênh vực cho”.
Ngày 09/11/1946, tại kỳ họp thứ 2 của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ
cộng hòa, Hiến pháp đầu tiên đã được thông qua đề cập đến nhiều nguyên tắc, trong
đó có nguyên tắc “Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”
(khoản 2 Điều 67). Như vậy, QBC có hai nội dung: a) bị cáo được quyền tự bào
chữa lấy; b) mượn LS bào chữa cho. Đây là quy định đầu tiên đặt nền tảng cho sự
phát triển và hoàn thiện chế định về QBC trong TTHS Việt Nam sau này. Cụ thể
hóa hai nội dung trên, ngày 18/06/1949, Sắc lệnh số 69/SL quy định về chế định
Bào chữa viên nhân dân: “Từ nay đến khi nào có thể lệ khác, trước các tòa án
thường và tòa án đặc biệt xử việc tiểu hình và đại hình, trừ tịa án binh tại mặt trận,
bị can có thể nhờ một cơng dân khơng phải là luật sư, bào chữa cho. Công dân do bị
can đã chọn để bênh vực mình phải được ơng Chánh án thừa nhận. Nếu bị can
khơng có ai bênh vực, ơng Chánh án có thể, tự mình hay theo lời yêu cầu của bị
can, cử một người ra bào chữa cho bị can”(1) . Điểm đặc biệt của chế định này là: a)
Bị can có quyền nhờ người bào chữa (NBC) trước tòa án; b) Người bào chữa cho bị
can có thể khơng nhất thiết là luật sư; c) Người bào chữa này không được nhận tiền
thù lao của bị can hay của thân nhân bị can. Chủ tịch Hồ Chí Minh ln coi QBC là
một quyền tự do dân chủ trọng yếu trong các quyền tự do dân chủ của người công
dân và như Đại hội luật gia dân chủ quốc tế nhóm họp năm 1956 đã từng nhận định:
Quyền tự do bào chữa là “thành trì cần thiết cho các quyền tự do khác”(2) . Xâm
phạm đến quyền tự do bào chữa thì khơng thể nào thực hiện được các quyền tự do
dân chủ khác, mặc nhiên thủ tiêu các quyền tự do đó. Tuy nhiên, sau khi giành
chính quyền, đất nước bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ chống thực
dân Pháp, mặc dù đã duy trì trên pháp lý tổ chức LS, nhưng thực tế hoạt động gặp
rất nhiều khó khăn, trong đó phải kể đến tình trạng bị can chưa được sử dụng đầy đủ
quyền chọn NBC của mình, chưa có một “danh sách những người bào chữa” mà
mình có thể lựa chọn. Hơn nữa, việc tổ chức phiên tòa và xét xử trong điều kiện
thời chiến là cực kỳ khó khăn, “có khi phải xử án ngay trong lòng địch bằng những
(1)
(2)


Bộ Tư pháp, số chuyên đề về Pháp lệnh Luật sư năm 2001, Hà Nội, 2001, tr. 182
Công báo nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, số 34, 1956, tr. 328


13

hình thức phiên tịa lưu động, lanh lẹ, những thủ tục đơn giản thích hợp” (3) . Bối
cảnh thực tế đó là nguyên nhân khách quan dẫn đến việc Chủ tịch Hồ Chí Minh
quyết định “ biện pháp tình thế” là cho phép những người không phải là LS, nhưng
do bị can lựa chọn hoặc Chánh án chỉ định được QBC trước Tịa án.
Mặc dù QBC của cơng dân đã trở thành nguyên tắc Hiến định và tổ chức LS
– Bào chữa viên nhân dân đã được duy trì và hoạt động, nhưng Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhận thấy trong điều kiện chiến tranh, quyền này không được coi trọng cả về
quan điểm lẫn thực tế từ phía các cơ quan tư pháp, trong đó nổi lên là việc “chưa
nhận thấy một cách sâu sắc tầm quan trọng của quyền tự do bào chữa trong chế độ
dân chủ nhân dân của ta nói chung và trong nền tư pháp dân chủ nhân dân của ta nói
riêng”(4) . Là người hết sức quan tâm trong công tác tư pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã chỉ đạo Bộ Tư pháp lúc bấy giờ tự kiểm điểm lại việc thực hiện QBC của bị can
trong công tác điều tra và xét xử về hình sự. Người nói: “Cơng việc tư pháp cũng
như mọi công việc khác càng làm ta càng tiến bộ, nhưng càng tiến bộ ta càng thấy
rõ những sự trở ngại và những khuyết điểm nó cịn sót lại. Và ta phải càng cố gắng
để giải quyết hoặc khắc phục những trở ngại và khuyết điểm ấy”(5) . Theo kiểm
điểm của Bộ tư pháp vào thời điểm năm 1956, những biểu hiện của việc không coi
trọng QBC của bị can thể hiện ở chỗ trong điều tra thường có hiện tượng mớm
cung, bức cung, trấn áp không để bị can được tự do khai nại, “đến nỗi nhân chứng
khai có lợi cho bị can cũng bị trấn áp như bị can”; bị can ra trước Tịa khơng biết rõ
nội dung buộc tội mình như thế nào để chuẩn bị việc bào chữa và sau khi tun án
cũng có Tịa án khơng báo cho bị can biết họ có quyền kháng cáo; đoàn thể LS chưa
được chú ý giúp đỡ trong khi chế độ Bào chữa nhân dân chưa được xây dựng đến

nơi đến chốn…
Hơn nữa, chế độ bào chữa là một chế độ trọng yếu trong tố tụng, giúp cho
công tác xét xử tiến hành được toàn diện và khách quan, xét xử được chính xác,
bênh vực được quyền lợi hợp pháp cho bị can và bảo vệ pháp chế. Từ nhận thức đó,
Bộ Tư pháp đã ban hành Thơng tư số 2225/HCTP ngày 24/10/1956 khẳng định
“nếu bị can không được sử dụng đầy đủ quyền bào chữa thì khơng gọi là có cơng
lý” và xác lập ngun tắc tranh tụng bình đẳng giữa cơng tố viên và NBC trong việc
(3)

Vũ Đình Hịe, Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, Nxb Văn hóa thơng tin và Trung tâm Văn hóa ngơn
ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2001, tr. 214
(4)
Công báo nước Việt Nam dân chủ cộng hịa, Sđd, tr. 328
(5)
Hồ Chí Minh, Bàn về Nhà nước và pháp luật, Sđd, tr. 475


14

làm sáng tỏ sự việc, mới bảo đảm nguyên tắc tố tụng quan trọng là “trước khi tuyên
án bị can phải được coi như người vô tội”.
Đến năm 1959, khoản 2 Điều 101 Hiến pháp ghi nhận: “Quyền bào chữa của
người bị cáo được đảm bảo”, thể hiện một bước tiến mới trên nền dân chủ. Sau đó,
Điều 7 Luật Tổ chức TAND ngày 14/7/1960 mở rộng sự tham gia của LS ở tịa án
các cấp. Theo đó, bị cáo được bảo đảm QBC và nhờ người khác bào chữa cho mình.
Khi cần thiết, Tịa án cử NBC cho bị cáo. Ngồi ra, để đảm bảo quyền, lợi ích cho
bị cáo, bằng Thơng tư số 06/TC ngày 09/9/1967, Tịa án nhân dân tối cao
(TANDTC) quy định các trường hợp tòa chỉ định NBC cho bị cáo như: a) Những vụ
án có ảnh hưởng chính trị lớn; b) Những vụ án mà bị cáo có thể bị phạt tù chung
thân hoặc tử hình; c) Những vụ án mà bị cáo là người có nhược điểm về thể chất

hoặc tinh thần mà không tự bào chữa được.
Tiếp đến, Hiến pháp năm 1980 và Luật Tổ chức TAND 1981 tiếp tục khẳng
định QBC của bị cáo trong TTHS. Ngày 31/10/1983, Bộ Tư pháp đã ban hành
thông tư số 691/QLTP về công tác bào chữa. Theo đó, các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương thành lập “Đoàn bào chữa viên nhân dân” và giao cho Sở Tư
pháp quản lý. Cụ thể hóa Điều 133 Hiến pháp 1980, ngày 18/12/1987, Hội đồng
Nhà nước thông qua Pháp lệnh Tổ chức Luật sư thể hiện tư tưởng đổi mới của Đại
hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là văn bản đầu tiên quy định tương đối chi
tiết và hoàn chỉnh về tổ chức LS.
Các quy định trên đã ghi nhận QBC của bị cáo, nhưng vẫn cịn có nhiều thiếu
sót, chưa phát huy hết tác dụng của nó như cịn bỏ ngỏ quy phạm về địa vị pháp lý
của bị can và các bảo đảm QBC. Ngày 26/8/1988, tại kỳ họp thứ ba Quốc hội khóa
VIII đã thơng qua BLTTHS đầu tiên của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Bộ luật đã khắc phục được hạn chế trước đây khi ghi nhận QBC của bị can, bị
cáo, đồng thời, xác định trách nhiệm bảo đảm thực hiện quyền này thuộc cơ quan
tiến hành tố tụng (CQTHTT).
Kế thừa và phát triển QBC của bị cáo trong ba Hiến pháp trước, Điều 132
Hiến pháp 1992 quy định: “Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có
quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân bào chữa cho mình. Tổ
chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình và góp phần bảo vệ pháp chế XHCN”. Điều 9 Luật Tổ chức


15

TAND năm 1992 cũng quy định: “Tòa án đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo, quyền
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự”. Đến năm 2003, Quốc hội thông qua
BLTTHS mới. Chế định QBC vẫn được ghi nhận đối với bị can, bị cáo đồng thời đã
được mở rộng cho cả đối tượng là người bị tạm giữ (NBTG) trong TTHS, tăng thêm
quyền của NBC được thu thập chứng cứ từ NBTG, bị can, bị cáo… thể hiện một

bước tiến nữa trên nền dân chủ trong hoạt động lập pháp của nhà nước ta.
Một trong những mục tiêu trọng tâm của Nhà nước ta là cải cách tư pháp
nhằm xây dựng một nền tư pháp vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo đảm công
bằng xã hội. Cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay đang tiến hành trên cơ sở những
nội dung cơ bản của Nghị quyết 08 ngày 02/01/2002 và Nghị quyết 49 ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị ban hành Chiến lược cải cách tư pháp. Cải cách tư pháp
liên quan đến toàn bộ các lĩnh vực của hoạt động tư pháp, các cơ quan tư pháp và
bổ trợ tư pháp. Riêng về lĩnh vực TTHS cải cách tư pháp đã đặt ra những yêu cầu
đối với toàn bộ các CQTHTT từ cơ quan điều tra (CQĐT) đến Viện kiểm sát
(VKS), Tòa án v. v.. trong đó xác định hoạt động xét xử là trọng tâm, Tịa án có vị
trí trung tâm do vậy cải cách Tòa án là khâu đột phá. Trong hoạt động tư pháp thì
TTHS có thể được xem như là hoạt động đặc trưng nhất, bởi lẽ đây là hoạt động thu
hút sự tham gia của hầu hết các cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp và hoạt động liên
quan đến những quyền hiến định của công dân. Những nỗ lực của cải cách tư pháp
trước hết phải tập trung cho lĩnh vực TTHS và những thay đổi của tố tụng hình sự
sẽ phản ánh tiêu biểu cho kết quả của cải cách tư pháp. Những nội dung của Nghị
quyết 08 và Nghị quyết 49 về Chiến lược cải cách tư pháp cho thấy những yêu cầu
của cải cách tư pháp trong lĩnh vực TTHS là yêu cầu đấu tranh phòng chống tội
phạm hiệu quả hơn và yêu cầu đảm bảo QCN của những người tham gia tố tụng đầy
đủ hơn. Hai yêu cầu này xuất phát từ chính nhiệm vụ của TTHS và có mối quan hệ
biện chứng với nhau. Thực hiện dân chủ - mở rộng và tôn trọng QCN của các chủ
thể tham gia hoạt động TTHS là yêu cầu khách quan của cải cách tư pháp.
Tóm lại, chế định bảo đảm QBC của bị can, bị cáo có lịch sử hình thành và
phát triển lâu dài, gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của pháp luật
TTHS nước ta theo những giai đoạn lịch sử cách mạng khác nhau. Các tư tưởng,
quan điểm về QBC được ghi nhận ở các mức độ khác nhau trong các bản Hiến pháp
1946, 1959, 1980, 1992 và văn bản pháp luật khác trở thành một nguyên tắc hiến
định, thể hiện tính dân chủ trong lập pháp của Nhà nước ta.



16

1.2.2. Khái niệm và nội dung của quyền bào chữa trong tố tụng hình sự
1.2.2.1. Khái niệm quyền bào chữa
QBC là một trong những QCN được luật quốc tế ghi nhận, thể hiện tại Điều
14 Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị có hiệu lực từ ngày
23/3/1976. Việt Nam đã gia nhập Công ước này ngày 24/9/1982.
Theo từ điển Tiếng Việt thì: “Bào chữa là dùng lý lẽ và chứng cứ để bênh
vực cho đương sự nào đó thuộc vụ án hình sự hay dân sự trước tòa án hoặc cho một
việc làm đang bị lên án”(6) cịn “tự bào chữa là tự mình thực hiện…”(7) . Khi NBTG,
bị can, bị cáo thực hiện quyền tự bào chữa sẽ đưa ra lý lẽ, chứng cứ để bảo vệ mình
tránh khỏi sự buộc tội, kết tội oan sai còn NBC thực hiện QBC sẽ đưa ra lý lẽ,
chứng cứ để bảo vệ thân chủ của mình tránh khỏi sự buộc tội, kết tội oan, sai. Cả
hai việc bảo vệ trên đều cùng có mục đích tránh khỏi sự buộc tội, kết tội oan, sai và
được viết chung là (tự) bảo vệ.
Theo Tiến sĩ luật học Phan Thị Thanh Mai và Hoàng Thị Minh Sơn cho
rằng: “Quyền bào chữa là tất cả các quyền mà pháp luật quy định để chống lại sự
buộc tội”(8). Quan điểm này chưa đúng và chưa đầy đủ về nội dung của QBC trong
Luật TTHS Việt Nam. Bởi vì, trong Luật TTHS Việt Nam khơng có chỗ nào quy
định cho phép ai đó có quyền chống lại sự buộc tội.
Theo Tiến sĩ luật học Nguyễn Ngọc Chí cho rằng: “Quyền bào chữa là tổng
hợp các hành vi tố tụng của bị can, bị cáo trên cơ sở phù hợp với các quy định của
pháp luật nhằm đưa ra chứng cứ để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình
trước các cơ quan tiến hành tố tụng”(9) . Tác giả đã đề cập đến nội dung vượt quá
phạm vi QBC của bị can, bị cáo. Bởi vì, quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo
được pháp luật TTHS điều chỉnh rất nhiều, nhưng có những quyền khơng thuộc nội
hàm của QBC. Mặt khác, quan niệm “quyền bào chữa là tổng hợp các hành vi tố
tụng” là không đúng mà là tổng hợp các quyền, trong đó có nhiều quyền được ghi
trong luật TTHS và cũng có một số quyền mà người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể
tự thể hiện khi pháp luật khơng quy định. Hành vi bào chữa phải dựa trên cơ sở phù

hợp với pháp luật TTHS là khơng tưởng. Bởi vì, trong thực tế người có quyền tự bào
(6)

Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2006, tr. 38
Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2006, tr. 151
(8)
Phan Thị Thanh Mai: “Giáo trình Luật tố tụng hình sự”, Nxb Tư Pháp, Hà Nội-2006, tr.49
(9)
Nguyễn Ngọc Chí: “Giáo trình Luật tố tụng hình sự”, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội – 2001, tr.59
(7)


17

chữa có thể bằng cách “im lặng” hoặc dùng lý lẽ của mình để lập luận hay đưa ra vật
chứng để chứng minh về sự vơ tội hay tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho
chính bản thân mình. Luật TTHS của ta không cấm “im lặng”, không bắt họ phải nói
phù hợp với pháp luật cho nên khó chấp nhận nội dung này trong khái niệm.
Theo Luật sư Phạm Hồng Hải: “Trong tố tụng hình sự, quyền bào chữa chỉ
xuất hiện ở chỗ mà ở đó có sự buộc tội và quyền bào chữa thuộc về người nào khi
người đó bị buộc tội”(10). Quan niệm này là hồn tồn đúng, khi cho rằng QBC chỉ
xuất hiện khi có sự buộc tội.
Qua đó, chúng ta có thể tổng hợp các quan điểm trên và xác định được:
- Hành vi thực hiện quyền (tự) bào chữa là hành động chứ không phải là
không hành động.
- Quyền (tự) bào chữa chỉ thuộc về người nào đó khi người đó bị buộc tội người bị bắt, khám xét khẩn cấp, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án và
về người bào chữa.
Giới hạn của sự buộc tội và quyền (tự) bào chữa: Sự buộc tội và quyền (tự)
bào chữa xuất hiện sớm nhất khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bắt, khám
xét khẩn cấp. Sự buộc tội kết thúc chậm nhất, khi Kiểm sát viên đối đáp xong với bị

cáo, NBC tại phiên tòa trong phần tranh luận. Còn sự (tự) bào chữa kết thúc chậm
nhất khi người bị kết án trình bày tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình
tại phiên tịa giám đốc thẩm hoặc những tình tiết mới khơng có tội làm thay đổi cơ
bản nội dung của vụ án.
Bản chất của tự bào chữa là bảo vệ mình khỏi sự buộc tội, kết tội một cách
oan, sai của các cơ quan có thẩm quyền TTHS bằng cách đưa ra những lý lẽ, chứng
cứ xác định vơ tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Ngay từ BLTTHS năm 1988 và BLTTHS 2003 các nhà lập pháp của nước ta
đã nhận thức được ý nghĩa to lớn về chức năng bào chữa trong hoạt động tố tụng
hình sự đã cụ thể hóa quyền bào chữa - quyền hiến định của bị can, bị cáo (sau này
bổ sung thêm người bị tạm giam), nâng yêu cầu bảo đảm quyền bào chữa cho các
chủ thể trên thành một trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS nước ta (Điều 11
BLTTHS 2003). BLTTHS 2003 quy định bị can, bị cáo, người bị tạm giam có
(10)

Phạm Hồng Hải: “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội”, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội-1999,
tr.26


18

quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa (Điều 48, 49, 50). QBC là một
quyền tố tụng quan trọng, là hình thức chủ đạo thực hiện chức năng bào chữa của bị
can, bị cáo, người bị tạm giam trong TTHS. Các chủ thể này được quyền sử dụng
tất cả những biện pháp gì mà pháp luật khơng cấm để chống lại, bác bỏ, phủ nhận
lời buộc tội của CQĐT, VKS hoặc để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của mình trong
vụ án. Họ có thể trực tiếp thực hiện (tự bào chữa) hoặc nhờ người khác bào chữa
cho mình và ngay cả khi họ đã nhờ người khác bào chữa thì điều này cũng khơng
làm mất đi khả năng tự bào chữa của họ.
Từ đó, có thể đưa ra khái niệm khoa học: “Quyền (tự) bào chữa là tổng hợp

các quyền của người bị bắt, khám xét khẩn cấp, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo,
người bị kết án, người bào chữa nhằm (tự) bảo vệ đương sự khỏi sự buộc tội, kết tội
oan, sai của cơ quan có thẩm quyền tố tụng hình sự bằng hành động đưa ra những lý
lẽ, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự”(11) .
1.2.2.2. Nội dung quyền bào chữa
Trong hoạt động TTHS, bào chữa là quyền quan trọng nhất của người vi phạm
pháp luật hình sự. Đây là tổng hợp các hành vi tố tụng do NBTG, bị can, bị cáo thực
hiện nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội của các CQTHTT, làm giảm
nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự của mình trong vụ án hình sự. Thơng thường sự
tham gia của NBC phụ thuộc vào ý chí của NBTG, bị can, bị cáo. Họ có thể trực tiếp
mời hoặc ủy quyền cho người thân của mình mời NBC. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp đặc biệt luật quy định sự tham gia của NBC vào trong vụ án khơng phụ
thuộc vào ý chí của NBTG, bị can, bị cáo. Đó là các trường hợp quy định tại khoản 2
Điều 57 BLTTHS 2003 khi những chủ thể này hoặc người đại diện hợp pháp của họ
khơng mời NBC thì các CQTHTT có nghĩa vụ u cầu Đồn luật sư hoặc đề nghị Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc cử NBC cho họ. Những trường hợp này liên quan đến các bị
can, bị cáo là NCTN, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, hoặc bị can, bị
cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình.
-Cơ sở pháp lý đầu tiên để NBC tham gia vào trong vụ án là sự chủ động
thực hiện nghĩa vụ bảo đảm QBC của bị can, bị cáo từ phía các CQTHTT thơng qua
hình thức u cầu hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền cử NBC cho bị can, bị cáo.
(11)

Nguyễn Trọng Phúc: “Về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam”,
Viện khoa học xã hội Việt Nam, Viện Nhà nước-pháp luật, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 2/2008, tr. 83


19

-Quyết định quản lý của cơ quan có thẩm quyền (Đoàn luật sư (ĐLS), Ủy

ban Mặt trận Tổ quốc, Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước (TTTGPLNN)) là cơ
sở pháp lý tiếp theo để NBC tham gia vào trong vụ án chứ không phải là sự thỏa
thuận giữa bị can, bị cáo với NCTN.
-Bị can, bị cáo là NCTN hoặc có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần vẫn
có quyên yêu cầu thay đổi hoặc từ chối NBC đã được cử cho họ nhưng quyền này
khơng có tính tuyệt đối.
QBC là quyền chủ thể của bị can, bị cáo do vậy trong các trường hợp thơng
thường thì ý chí của họ có tính tuyệt đối với sự tham gia của NBC vào trong vụ án
và các CQTHTT phải tơn trọng quyết định đó của chủ thể. Nhưng trong các trường
hợp ở khoản 2 Điều 57 BLTTHS 2003 thì quyền quyết định của các chủ thể này
khơng cịn tính tuyệt dối mà bị phụ thuộc vào sự xem xét chấp nhận hay khơng chấp
nhận của tịa án. Lý do hạn chế quyền chủ thể ở đây cũng là lý do về sự tham gia bắt
buộc của NBC: các chủ thể là những người có sự hạn chế về tâm lý khi phải đối mặt
với hình phạt tử hình; hạn chế về thể chất và tâm thần hay khơng có điều kiện về vật
chất trong việc mời NBC.
Sự tham gia bắt buộc của NBC trong TTHS là quy định mang đầy tính nhân
đạo của BLTTHS 2003 nước ta. Quy định của luật về sự tham gia của NBC vào
trong vụ án khơng phụ thuộc vào ý chí của bị can, bị cáo là làm tăng thêm tính bảo
đảm QBC cho họ. QBC và sự tham gia của NBC không chỉ cần thiết, có ích cho
NBTG, bị can, bị cáo mà cịn cần thiết, có ích cho hoạt động tố tụng của chính các
CQTHTT. Sự đối trọng, phản biện của hoạt động bào chữa đối với hoạt động của
các cơ quan thực hiện chức năng buộc tội (CQĐT, VKS) chính là yếu tố hạn chế sai
lầm, hạn chế làm oan người vô tội trong hoạt động của những cơ quan này đồng
thời buộc những cơ quan này phải khơng ngừng hồn thiện năng lực chun mơn
nghiệp vụ của mình nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội trong đấu
tranh phòng chống tội phạm và bảo vệ QCN trong TTHS.
1.3. Chủ thể bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự.
1.3.1. Các cơ quan tiến hành tố tụng
1.3.1.1. Cơ quan điều tra, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra và
Điều tra viên

- Cơ quan điều tra: CQĐT là một trong những CQTHTT hình sự được pháp
luật giao nhiệm vụ tiến hành điều tra tất cả các loại tội phạm, áp dụng mọi biện


×