Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

tổ chức và hoạt động của tòa án trong tiến trình cải cách tư pháp ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.15 KB, 61 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là định
hướng cơ bản trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta. Tòa án nhân
dân là một bộ phận hợp thành của bộ máy nhà nước, là cơ quan xét xử của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là nơi biểu hiện tập trung quyền tư pháp.
Hệ thống ngành Tòa án đã góp phần to lớn vào việc bảo vệ pháp chế XHCN;
bảo vệ chế độ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của nhà
nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của
công dân. Hệ thống Tòa án của nước ta đã trải qua những cuộc cải cách về tổ
chức và hoạt động qua các thời kỳ theo quy định của các bản Hiến pháp năm
1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992 Nhìn chung những thay đổi, cải cách về
hệ thống Tòa án đã mang lại những kết quả tích cực cả về tổ chức và hoạt động,
đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn và nhiệm vụ chính trị đặt ra trong từng giai
đoạn lịch sử. Tuy nhiên, chưa thể nói tổ chức và hoạt động của TAND hiện nay
đã hoàn thiện, đáp ứng được các yêu cầu đòi hỏi của công cuộc cải cách tư pháp
theo các mục tiêu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta. Để
Tòa án thực sự là chỗ dựa, công cụ, biểu tượng của công bằng, bình đẳng và bảo
vệ quyền con người, đáp ứng được đòi hỏi của công cuộc cải cách tư pháp đang
đặt ra, em xin mạnh dạn chọn đề tài này để nghiên cứu, tìm hiểu các giải pháp
nhằm đổi mới hơn nữa về tổ chức cũng như hoạt động của Tòa án nhân dân
trong tiến trình cải cách tư pháp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề hoàn thiện tổ chức và hoạt động của TAND trong những năm gần
đây đã có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, cán bộ làm công
tác thực tiễn như: Luận án tiến sĩ Luật học của Tiến sĩ Lê Thành Dương năm
2002, “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay”; một số bài viết đăng trong Hội thảo khoa học cấp khoa - Trường
Đại học Luật Hà Nội như: “Bài về đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án
nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền
XHCN và hội nhập quốc tế” của Th.sĩ Nguyễn Thị Hoa…Khóa luận này em xin


tìm hiểu rõ hơn về đề tài “Tổ chức và hoạt động của Tòa án trong tiến trình
cải cách tư pháp ở Việt Nam”.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu của Khóa luận là vấn đề tổ chức và hoạt động
TAND đáp ứng yêu cầu của Chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta. Phạm vi
nghiên cứu là các quy định của pháp luật qua các thời kỳ về tổ chức và hoạt
động của hệ thống TAND. Từ đó, đánh giá thực tiễn hoạt động của hệ thống
TAND nhằm đưa ra các giải pháp đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt
động của Tòa án trong giai đoạn tới đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp mà
Đảng và nhà nước ta đang đặt ra.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Khóa luận đóng góp vào việc phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận,
thực tiễn về tổ chức và hoạt động của TAND, trên cơ sở đó đề xuất một số giải
pháp có tính thực tiễn nhằm hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động
của TAND đáp ứng yêu cầu của chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay
5. Kết cấu của Khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và danh mục Tài liệu tham khảo,
Khóa luận gồm:
Chương 1. Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân
dân trong lịch sử lập pháp Việt Nam
Chương 2. Tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp ở Việt
Nam
Chương 1. Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động
củaTòa án nhân dân trong lịch sử lập pháp Việt Nam
1.1. Vị trí của Tòa án nhân dân trong bộ máy nhà nước
1.1.1 Khái quát về sự hình thành và phát triển của các Tòa án nhân dân Việt
Nam
Hệ thống các Tòa án nhân dân (TAND) Việt Nam hình thành và phát triển
gắn liền với những giai đoạn phát triển của cách mạng Việt Nam. Cùng với các
cơ quan khác trong bộ máy nhà nước, các TAND đã và đang góp phần quan

trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống TAND từ năm 1945 đến nay có
thể phân ra làm bốn giai đoạn phát triển, căn cứ vào nhiệm vụ chung của cách
mạng trong cả nước, căn cứ vào việc ban hành Hiến pháp và các Luật tổ chức
Tòa án cũng như đặc điểm, tổ chức hoạt động của TAND trong từng giai đoạn
cách mạng ở nước ta.
a. Tòa án nhân dân giai đoạn trước cách mạng tháng tám - năm 1945
đến năm 1959
Theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin thì trong xã hội có giai cấp đối
kháng, sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác được thể hiện trên các
mặt kinh tế, chính trị, tư tưởng. Để đạt được hiệu quả thống trị, giai cấp thống trị
đã sử dụng nhà nước như là một công cụ sắc bén nhất thể hiện và thực hiện ý chí
của giai cấp cầm quyền. Nhà nước ban hành ra pháp luật để thực hiện quản lý
bắt buộc đối với mọi công dân và để bảo vệ pháp luật, nhà nước đã tổ chức nên
bộ máy nhà nước, trong đó có TAND là một trong những hệ thống cơ quan hợp
thành bộ máy nhà nước. Các nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản đều có các
Tòa án để bảo vệ và duy trì quyền lực thống trị của giai cấp cầm quyền, bắt các
giai cấp khác phải phục tùng theo ý chí của giai cấp thống trị.
Ở nước ta, trong thời kỳ Pháp thuộc, nền tư pháp thuộc địa và nửa phong
kiến được tổ chức theo chính sách chia để trị của thực dân Pháp. Ở Nam kỳ và
các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, có các Tòa án thuộc địa do
thực dân Pháp trực tiếp nắm và điều khiển, nhằm xét xử các vụ án hình sự, dân
sự đối với người Việt Nam theo pháp luật của Pháp. Ở Trung kỳ và Bắc kỳ bọn
quan lại phong kiến nắm quyền hành chính đồng thời nắm cả quyền xét xử, xét
xử các vụ án hình sự, dân sự theo pháp luật bản xứ. Như vậy, các cơ quan tư
pháp thuộc địa và phong kiến là công cụ của bọn thực dân và phong kiến nhằm
bảo vệ quyền lực thống trị của chúng, đàn áp cách mạng cũng như quần chúng
nhân dân lao động trong xã hội. Trong bối cảnh đó, ngay từ khi mới giành được
chính quyền về tay nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 18/SL
ngày 8/9/1945 bãi bỏ ngạch học quan; Sắc lệnh số 32/SL ngày 13/9/1945 bãi bỏ

2 ngạch quan hành chính và quan tư pháp. Đồng thời Đảng và Nhà nước đã khẩn
trương xây dựng bộ máy Nhà nước cách mạng trong đó có Tòa án. Ngày
13/9/1945, Chính phủ lâm thời đã ban hành Sắc lệnh số 33/SL và sau đó bổ sung
bằng Sắc lệnh số 21/SL ngày 24/1/1946 thành lập các Tòa án quân sự đảm bảo
việc xử lý tội phạm được kịp thời, ổn định đời sống nhân dân, bảo vệ chính
quyền cách mạng. Trong thời kỳ này các Tòa án quân sự đã được thành lập ở Hà
Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Ninh Bình, Vinh, Huế, Quảng Ngãi, Nha Trang,
Sài Gòn, Mỹ Tho. Các Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử những tội phạm
làm phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và do liên
Bộ Quốc Phòng, Nội Vụ chỉ đạo. Việc giải quyết các vụ việc về dân sự, thương
sự, hôn nhân và gia đình kỳ đầu được giao cho Ủy ban hành chính đảm nhiệm.
Trong khi pháp luật còn thiếu, Sắc lệnh ngày 10/1/1945 cho phép Tòa án vận
dụng các luật lệ của chế độ cũ, trừ những điều trái với nguyên tắc độc lập, trái
với chính thể Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Để tăng cường hoạt động của bộ máy tư pháp, Chính phủ đã ban hành Sắc
lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 quy định về tổ chức các Tòa án và các ngạch
Thẩm phán. Sắc lệnh số 13 đã quy định cụ thể cách thức tổ chức hệ thống tư
pháp, phân định rõ mối quan hệ và thẩm quyền xét xử của các cấp Tòa án. Cụ
thể: Tòa án sơ cấp (được thành lập một tòa tại mỗi quận, phủ, huyện, châu) có
thẩm quyền xét xử sơ thẩm, sơ chung thẩm các vụ án hình sự, dân sự và thương
sự. Tòa án đệ nhị cấp (được thành lập một tòa tại mỗi tỉnh và các thành phố Hà
Nội, Hải Phòng, Sài Gòn, Chợ Lớn) có thẩm quyền xét xử sơ thẩm, sơ chung
thẩm các vụ án hình sự, dân sự và thương sự. Về dân sự và thương sự Chánh án
xét xử một mình nhưng khi xét xử các việc tiểu hình (những vụ án hình sự mà
mức phạt tù từ năm năm trở xuống) phải có thêm hai phụ thẩm nhân dân đóng
góp ý kiến và khi xét xử các việc đại hình (những vụ án có mức hình phạt tù từ
năm năm trở lên), Tòa đệ nhị cấp gồm năm người cùng ngồi xét xử và đều có
quyền quyết định. Tòa thượng thẩm (được thành lập một tòa ở mỗi kỳ đặt tại Hà
nội, Huế và Sài Gòn) có thẩm quyền xét xử phúc thẩm các bản án của Tòa án sơ
cấp và Tòa án đệ nhị cấp bị kháng cáo. Như vậy, theo quy định của Sắc lệnh số

13/SL và sau đó là Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/7/1946 quy định Các Tòa án sơ
cấp và đệ nhị cấp có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời cả sơ chung thẩm,
còn các Tòa án Thượng thẩm chỉ chuyên xét xử phúc thẩm. Cũng theo Sắc lệnh
trên, trong các cơ quan Tòa án, Thẩm phán được chia làm hai ngạch đó là Thẩm
phán sơ cấp và Thẩm phán đệ nhị cấp. Ngạch Thẩm phán sơ cấp có 5 hạng và
ngạch Thẩm phán đệ nhị cấp có 7 hạng, được chia thành hai chức vị: Thẩm phán
xét xử (do Chánh nhất Tòa án Thượng Thẩm đứng đầu) và Thẩm phán buộc tội
(do Chưởng lý đứng đầu). Bộ trưởng Bộ Tư Pháp bổ nhiệm Thẩm phán sơ cấp
và Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán đệ nhị cấp.
Đánh giá chung, từ khi Cách mạng tháng tám thành công cho đến khi
Hiến pháp năm 1946 được thông qua, trong giai đoạn chưa ban hành được Hiến
pháp, các Tòa án được thành lập theo yêu cầu của từng địa bàn về phòng chống
tội phạm, cũng như giải quyết các việc dân sự, thương sự. Hệ thống Tòa án thời
kỳ này chưa có Tòa án tối cao, mà tổ chức theo mô hình Tòa án sơ thẩm, Tòa án
đệ nhị cấp, Tòa thượng thẩm kỳ. Điều này phản ánh sự tiếp thu, kế thừa mô hình
tổ chức Tòa án của chính quyền thực dân cũ. Hệ thống Tòa án được thành lập,
hoạt động song song với các cấp chính quyền với nhiệm vụ quan trọng đặt ra là
bảo vệ thành quả cách mạng mới dành được và sau đó là bảo vệ trật tự xã hội và
quyền lợi của cá nhân. Hệ thống Tòa án được thành lập dựa trên sự kết hợp của
hai yếu tố. Giữa thẩm quyền xét xử với tổ chức đơn vị hành chính lãnh thổ, luôn
có sự chỉ đạo sát sao của các cơ quan hành chính địa phương.
Hiến pháp năm 1946 ra đời đánh dấu một bước ngoặt về tổ chức của
ngành Tòa án. Theo quy định của Điều 63 - Hiến pháp năm 1946, cơ quan tư
pháp bao gồm: Tòa án Tối cao, Các Tòa Phúc Thẩm, các Tòa đệ nhị cấp và sơ
cấp. Tòa án Tối cao được thành lập nhưng chịu sự quản lý của Chính phủ; Các
Thẩm phán của Tòa án đều do Chính phủ bổ nhiệm; Hoạt động xét xử của Tòa
án thời kỳ này dựa trên các nguyên tắc: trong khi xử việc hình thì phải có phụ
thẩm nhân dân để hoặc tham gia ý kiến nếu là việc tiểu hình, hoặc cùng quyết
định với Thẩm phán nếu là việc đại hình; khi xét xử các viên Thẩm phán chỉ
tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp; các phiên toà đều

phải công khai, trừ những trường hợp đặc biệt; Người bị cáo được quyền tự bào
chữa lấy hoặc mượn luật sư; cấm không được tra tấn, đánh đập, ngược đãi
những bị cáo và tội nhân; Quốc dân thiểu số có quyền dùng tiếng nói và chữ viết
của mình trước Tòa án. Theo Sắc lệnh số 185 ngày 26/5/1948 của Chính phủ ấn
định về thẩm quyền của các Tòa án sơ cấp và Tòa án đệ nhị cấp, thì hệ thống
Tòa án trong giai đoạn này hoạt động trên cơ sở phân định thẩm quyền khá rạch
ròi. Về hình sự, Tòa án sơ cấp chỉ xét xử những vụ vi cảnh hoặc đòi bồi thường.
Tòa đệ nhị cấp xét xử những vụ tiểu hình và đại hình; về dân sự và thương sự,
Tòa sơ cấp xét xử những vụ án liên quan đến hộ tịch, những vụ kiện liên quan
đến động sản có giá trị thấp; Tòa đệ nhị cấp xét xử những việc liên quan đến
động sản có giá ngạch hoặc bất động sản. Ngoài ra, Tòa đệ nhị cấp còn có quyền
xét xử phúc thẩm những phán quyết sơ thẩm của Tòa án sơ cấp bị kháng cáo.
Bước vào giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp, hệ thống các Tòa
án cách mạng được tăng cường để đảm bảo thực hiện những nhiệm vụ mà Đảng
và nhà nước ta đã đề ra. Bên cạnh Tòa án tư pháp và Tòa án quân sự, Chính phủ
đã ra sắc lệnh thành lập Tòa án binh. Các Tòa án binh được thành lập chịu sự
quản lý của Ủy ban kháng chiến - hành chính khu và về chuyên môn do Cục
Quân Pháp thuộc Bộ Quốc Phòng đảm nhiệm. Thẩm quyền của Tòa án binh là
xét xử những quân nhân phạm tội, những người có hành vi gây thiệt hại cho
quân đội hoặc có liên quan đến quân đội và các tội phạm xảy ra ở nơi đang đóng
quân của quân đội.
Hệ thống Tòa án tư pháp chỉ tồn tại đến nững năm 1950. Bởi tuy là Tòa
án cách mạng nhưng hệ thống và cơ cấu tổ chức về cơ bản vẫn theo thời Pháp
thuộc. Các cán bộ tư pháp làm việc trong các Tòa án thời kỳ này chủ yếu là
những người làm việc trong bộ máy hành chính và tư pháp của chế độ cũ. Họ
còn mang nặng tư tưởng của nền tư pháp tư sản. Cùng với sự biến đổi quan
trọng về tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án cách mạng, Đảng Cộng sản
Đông Dương và Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã tiến hành cải cách tư
pháp, tăng cường tính dân chủ trong hoạt động của Tòa án, nâng cao vị trí, vai
trò và hiệu lực của Tòa án trong bộ máy nhà nước, đồng thời cải tiến luật lệ tố

tụng để đảm bảo xét xử nhanh chóng. Vì vậy, Chính phủ đã ban hành Sắc lệnh
số 85/SL ngày 22/5/1950 quy định về cải cách tư pháp và Luật tố tụng. Các Tòa
án thường được đổi thành Các Tòa án nhân dân, Các Tòa án sơ cấp, đệ nhị cấp
được đổi thành các TAND huyện; các TAND tỉnh; Hội đồng phúc án nay gọi là
Tòa phúc thẩm; các Phụ thẩm nhân dân được đổi thành Hội thẩm nhân dân.
Ngày 12/11/1954 Chính phủ ra Sắc lệnh số 150/SL thành lập Tòa án đặc biệt.
Các Tòa án này có nhiệm vụ trừng trị những bọn phản cách mạng, những kẻ
chống phá chính quyền.
Sau hòa bình được lặp lại ở miền Bắc, nhà nước ta tiếp tục tiến hành cải
cách tư pháp. Tháng 4/1948 Quốc hội quyết định thành lập Tòa án tối cao và
Viện Công tố. Hai cơ quan này đã không chịu sự quản lý về tổ chức của Bộ Tư
Pháp mà trực thuộc Hội đồng Chính Phủ.
b. Tòa án nhân dân giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980
Hiến pháp năm 1959 ra đời đã cụ thể hóa nội dung Nghị quyết Đai hội
Đảng III về vấn đề tổ chức bộ máy nhà nước. Hiến pháp đã quy định lại vị trí,
chức năng, nhiệm vụ của hệ thống TAND và Viện kiểm sát nhân dân. Trên cơ
sở Hiến pháp năm 1959, Quốc hội đã ban hành Luật tổ chức TAND ngày
14/7/1960. Theo quy định của Luật tổ chức TAND 1960, hệ thống TAND gồm
có: TAND tối cao, các TAND địa phương, các Tòa án quân sự, trong trường hợp
đặc biệt Quốc hội thành lập các Tòa án đặc biệt. Các Tòa án quân sự bao gồm:
Tòa án quân sự trung ương, Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Tòa án
quân sự khu vực cũng thuộc hệ thống TAND, nhưng được tổ chức trong quân
đội. Các TAND được tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc: thực hiện chế
độ bầu cử Thẩm phán thay cho bổ nhiệm Thẩm phán trước đó. Thẩm phán
TAND tối cao do UBTVQH cử và bãi miễn, Thẩm phán của TAND các cấp ở
địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu và bãi miễn; khi xét xử có Hội
thẩm nhân dân tham gia và Hội Thẩm ngang quyền với Thẩm phán; TAND xét
xử tập thể và quyết định theo đa số; khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân
dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Tòa án xét xử công khai trừ trường hợp
do luật định; bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo…Để đảm bảo việc thực hiện

nguyên tắc tập quyền XHCN trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước,
TAND tối cao phải chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội và
trong thời gian giữa hai kỳ họp của Quốc Hội, thì chịu trách nhiệm và báo cáo
trước UBTVQH và Chủ tịch nước. Việc quản lý TAND địa phương được giao
cho TAND tối cao quản lý. TAND tối cao có nhiệm vụ nghiên cứu những quy
định về tổ chức tư pháp, thủ tục tố tụng, phụ trách việc huấn luyện, đào tạo cán
bộ Tòa án, quản lý về biên chế, khen thưởng, kỷ luật…Do đặc điểm về tổ chức
hành chính, các TAND địa phương ở nước ta thời kỳ này ngoài các TAND tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, các TAND cấp huyện còn có các Tòa án khu
vực tự trị. Tổ chức các Tòa án khu vực tự trị do Hội đồng nhân dân khu vực tự
trị quy định. Theo quy định của Hiến pháp năm 1959, ngoài hệ thống TAND thì
các cơ quan Tư pháp còn bao gồm cả Viện Kiểm sát nhân dân. Hai hệ thống này
không còn trực thuộc Hội đồng Chính phủ mà chịu trách nhiệm và báo cáo trước
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất (đó là Quốc hội).
Sau đại chiến mùa xuân năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng,
Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam ban hành Sắc lệnh số 01/SL
ngày 15/3/1976 về tổ chức Tòa án ở miền Nam. Đặc biệt, Nghị quyết số 76/CP
của Hội đồng Chính phủ ngày 25/8/1977 quy định về việc thi hành và xây dựng
pháp luật thống nhất trong cả nước, hệ thống Tòa án ở hai miền Nam Bắc được
hợp nhất và được tổ chức và hoạt động theo Luật tổ chức TAND năm 1960. Tòa
án được tổ chức theo cấp hành chính - lãnh thổ kết hợp với thẩm quyền; TAND
tối cao quản lý về mặt tổ chức của các TAND địa phương.
c. Tòa án nhân dân giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1991
Ngày 18/12/1980, Quốc Hội khóa VI kỳ họp thứ VII đã thông qua Hiến
pháp 1980 và để cụ thể hóa Hiến pháp năm 1980 về Tòa án, Quốc hội đã thông
qua Luật tổ chức Tòa án nhân dân ngày 3/7/1981. Điểm mới của TAND theo
quy định của Hiến pháp 1980 và Luật tổ chức TAND năm 1981 so với Hiến
pháp 1959 và Luật tổ chức TAND năm 1960 là: Việc quản lý TAND dân địa
phương do Bộ Tư Pháp đảm nhiệm, Bộ trưởng Bộ Tư Pháp phối hợp chặt chẽ
với Chánh án TAND tối cao trong việc thực hiện nhiệm vụ đó. Các Tòa án quân

sự trung ương, quân khu, khu vực cũng do Bộ trưởng Bộ Tư Pháp quản lý về
mặt tổ chức, có sự phối hợp chặt chẽ với Bộ Quốc Phòng và Chánh án TAND
tối cao; mở rộng thẩm quyền xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Tòa án cấp trên trực tiếp có thẩm quyền xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm những bản án quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới bị
kháng nghị vì có sự vi phạm pháp luật hoặc phát hiện có tình tiết mới có thể làm
thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định đó; quy định trách nhiệm
của cơ quan, tổ chức hữu quan và mọi công dân trong việc tôn trọng và nghiêm
chỉnh chấp hành những bản án và quyết định đã có hiêu lực pháp luật của
TAND; TAND có quyền kiến nghị với cơ quan, tổ chức khắc phục những thiếu
sót trong quản lý; ở cơ sở, thành lập các tổ chức thích hợp như Ban tư pháp xã,
tổ hòa giải để giải quyết các vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân
theo quy định của pháp luật. Luật tổ chức TAND năm 1981 quy định cụ thể rõ
ràng hơn về các Tòa chuyên trách như Tòa hình sự, Tòa dân sự và Tòa phúc
thẩm. Về Thẩm quyền xét xử, TAND cấp huyện đã được mở rộng phạm vi thẩm
quyền như xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự mà theo quy định của Bộ luật hình
sự, người phạm tội bị áp dụng hình phạt tù từ bảy năm trở xuống, trừ các tội
phạm an ninh quốc gia, các tội phạm nghiêm trọng, gây hậu quả lớn, các vụ án
mà bị cáo phạm tội ở nước ngoài hoặc do TAND cấp trên lấy lên để xử.
d. Tòa án nhân dân giai đoạn từ năm 1992 đến nay
Về tổ chức, xuất phát từ yêu cầu đổi mới hệ thống chính trị và bộ máy
Nhà nước được xác định trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI và VII,
Ngày 15/4/1992 Quốc hội khóa VII đã thông qua Hiến pháp năm 1992. Để cụ
thể hóa Hiến pháp các vấn đề về Tòa án, Quốc hội đã ban hành Luật tổ chức
TAND năm 1992 ngày 6/10/1992 và tiếp sau đó là Luật tổ chức TAND năm
2002. So với Hiến pháp năm 1980, Luật tổ chức TAND năm 1981, pháp luật
thời kỳ này đã mở ra những thay đổi về nguyên tắc tổ chức của ngành Tòa án
như: Tòa án đặc biệt chỉ được thành lập “Trong tình hình đặc biệt” và cũng chỉ
do Quốc hội quyết định; chế độ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và nhiệm kỳ
của Thẩm phán được thay thế cho chế độ bầu và cử Thẩm phán trong Hiến pháp

năm 1980. Chế độ bổ nhiệm Thẩm phán hiện nay (theo Hiến pháp năm 1992 sửa
đổi, Luật tổ chức TAND năm 2002) đã thể hiện sự phân cấp so với khởi đầu
Hiến pháp năm 1992 và Pháp lệnh bổ nhiệm Thẩm phán năm 1993 quy định cụ
thể: Chánh án TAND Tối cao do Quốc hội bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm theo đề
nghị của Chủ tịch nước; Thẩm phán TAND tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán trung
ương; Thẩm phán TAND các cấp địa phương (tỉnh, huyện và tương đương),
Thẩm phán Tòa án quân sự quân khu, khu vực đều do Chánh án TAND tối cao
bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Hội đồng tuyển chọn Thẩm
phán địa phương. Người được bổ nhiệm làm Thẩm phán của TAND các cấp
phải đáp ứng các tiêu chuẩn chung và riêng theo quy định của pháp luật (đặc
biệt là tiêu chuẩn riêng theo quy định của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân năm 2002 có nhiều điểm khác nhau so với quy định của Pháp lệnh bổ
nhiệm Thẩm phán năm 1993). Thực hiện chế độ cử và bầu Hội thẩm của TAND
các cấp. Trong đó, chế độ bầu Hội thẩm nhân dân được thực hiện đối với các
TAND địa phương, chế độ cử Hội thẩm quân nhân được thực hiện đối với các
Tòa án quân sự quân khu và tương đương, các Tòa án quân sự khu vực. So với
Hiến pháp năm 1980 và Luật tổ chức TAND năm 1981, ở TAND tối cao bỏ hình
thức xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm nên không còn Hội thẩm của TAND
tối cao. Ở địa phương, mặc dù vẫn thực hiện chế độ bầu Hội thẩm nhưng việc
quy định về tiêu chuẩn và chế đội tuyển chọn chặt chẽ hơn trước. Quy định rõ
Chánh án TAND tối cao phải chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc
hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công
tác trước UBTVQH và Chủ tịch nước. Chánh án TAND địa phương chịu trách
nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và trả lời chất vấn
của đại biểu Hội đồng nhân dân. Mặc dù Luật tổ chức TAND năm 1992 vẫn quy
định việc quản lý TAND địa phương về mặt tổ chức do Bộ trưởng Bộ tư pháp
đảm nhiệm. Nhưng luật này nhấn mạnh là Bộ trưởng Bộ Tư Pháp phải phối hợp
chặt chẽ với Chánh án TAND tối cao. Sự phối hợp bảo đảm gắn hoạt động quản
lý con người với công tác chuyên môn, nhằm nâng cao trách nhiệm của các

Thẩm phán. Luật tổ chức TAND năm 1992 còn quy định Chánh án TAND tối
cao, Chánh án TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền
kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
Tòa án cấp dưới theo quy định của pháp luật tố tụng.
Ngày 28/12/1993 Quốc hội khóa IX kỳ họp thứ 4 đã thông qua luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức TAND năm 1992. Theo quy định của
Luật tổ chức TAND sửa đổi, trong cơ cấu tổ chức của TAND tối cao, các TAND
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, bên cạnh các Tòa hình sự, dân sự còn
thành lập thêm 3 Tòa chuyên trách mới đó là: Tòa lao động; Tòa hành chính;
Tòa kinh tế. Luật tổ chức TAND còn quy định trường hợp cần thiết, UBTVQH
quyết định thành lập các tòa chuyên trách khác. Mở rộng thành phần Hội đồng
xét xử sơ thẩm các vụ án kinh tế, lao động, hành chính. Bảo đảm số Thẩm phán
nhiều hơn Hội thẩm nhân dân (gồm: hai Thẩm phán và một Hội thẩm nhân dân).
Thực hiện chế độ bổ nhiệm Thẩm phán theo nhiệm kỳ với tiêu chuẩn cao hơn so
với Pháp lệnh năm 1993; đã có một bước tiến mới về cải cách chế độ tiền lương,
phụ cấp đối với Thẩm phán, thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với công tác
xét xử của ngành Tòa án.
Về Thẩm quyền, để nhằm mục đích bảo vệ hơn nữa quyền lợi của người
phạm tội, pháp luật hiện hành đã bỏ thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời chung
thẩm của TAND tối cao. Tòa án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố
trực thuộc tỉnh mặc dù được tăng thẩm quyền xét xử nhưng mô hình tổ chức vẫn
giống quy định của Hiến pháp năm 1980 là không có Ủy ban Thẩm phán và các
Tòa chuyên trách như TAND tối cao, TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương. Theo quy định của pháp luật hiện hành, TAND tối cao được phân công lại
việc quản lý các Tòa án ở địa phương (về mặt tổ chức). Hay nói cách khác, theo
quy định của Hiến pháp năm 1980, việc quản lý các Tòa án ở địa phương về mặt
tổ chức do Bộ trưởng Bộ tư pháp quản lý (con người, cơ sở vật chất), TAND tối
cao chỉ quản lý nghiệp vụ chuyên môn của Tòa án (quản lý công tác xét xử và
hướng dẫn công tác áp dụng pháp luật trong xét xử) thì hiện nay, hoạt động của
TAND tối cao không chỉ tác động lên phạm vi hoạt động xét xử của Tòa án mà

còn kết hợp với quản lý nhân sự của ngành nhằm quản lý nhân sự gắn kết với
hoạt động chuyên môn để việc đánh giá, bình xét hàng năm của ngành đối với
công tác cán bộ sát với thực tế, khách quan hơn.
Bên cạnh đó, mở rộng thẩm quyền xét xử và thành lập các Tòa chuyên
trách phù hợp với sự phát triển các quan hệ xã hội về kinh tế, dân sự…và quá
trình dân chủ hóa Việt Nam thời kỳ đổi mới. Các TAND được giao thêm thẩm
quyền xét xử các vụ án kinh tế, lao động, hành chính liên quan đến việc giải
quyết phá sản doanh nghiệp, các tranh chấp lao động, các cuộc đình công, giải
quyết các khiếu kiện hành chính. Việc thành lập thêm các Tòa chuyên trách đáp
ứng đòi hỏi của nền kinh tế thị trường. Đối với TAND huyện, quận, thị xã,
thành phố trực thuộc tỉnh, các Thẩm phán bên cạnh xét xử các vụ án hình sự,
dân sự, hôn nhân gia đình, còn có quyền xét xử các vụ việc về kinh tế, lao động,
hành chính theo quy định của pháp luật. Cùng với đó là phân định lại Thẩm
quyền xét xử của Tòa án các cấp theo hướng tăng thẩm quyền xét xử cho TAND
cấp huyện (hiện đang thí điểm ở một số huyện, Tòa án quân sự khu vực có
khung hình phạt tù từ 15 năm trở xuống) để giảm tải hoạt động xét xử của
TAND cấp tỉnh, giảm lượng án tồn đọng hàng năm. Đồng thời chuyển công tác
thi hành án dân sự từ TAND tối cao sang Chính phủ thực hiện và Bộ Tư Pháp
được Chính phủ giao quản lý trực tiếp tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án tập
trung hoàn thành nhiệm vụ trọng tâm là xét xử.
1.1.2. Vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân
Bộ máy nhà nước XHCN nói chung, nhà nước ta hiện nay được tổ chức
theo nguyên tắc tập quyền XHCN, khác với nguyên tắc phân quyền tư sản ở
chỗ, tất cả mọi quyền lực nhà nước đều tập trung thống nhất vào nhân dân, nhân
dân thực hiện quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân
các cấp do mình trực tiếp bầu ra. Đó là hệ thống cơ quan đại diện mà cao nhất là
Quốc hội. Theo nguyên tắc tập quyền XHCN, quyền lực nhà nước là thống nhất,
không phân chia, nhưng trong tổ chức bộ máy nhà nước có sự phân công rành
mạnh chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Đây là sự thể hiện phân công lao động quyền lực hợp lý giữa các cơ quan trong

bộ máy nhà nước, nhằm tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn trong nhiệm vụ và chức
năng của từng cơ quan, bảo đảm sự phối hợp nhịp nhàng đồng bộ của cả bộ máy
nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Là bộ phận hợp thành của bộ
máy nhà nước, Tòa án là biểu hiện tập trung của quyền lực tư pháp, là nơi phản
ánh một cách đầy đủ và sâu sắc nhất bản chất nền công lý của chế độ ta. Theo
quy định của pháp luật hiện hành, trong bộ máy nhà nước, TAND có một vị trí
đặc biệt. TAND tối cao, các TAND địa phương, các Tòa án quân sự và các tòa
án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam
(Điều 127- Hiến Pháp). Chỉ có các Tòa án mới có quyền xét xử các vụ án hình
sự, các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải
quyết các vụ việc khác theo quy định của pháp luật. Bằng hoạt động của mình,
Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế XHCN; bảo vệ chế độ XHCN và quyền
làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính
mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự, nhân phẩn của công dân. Đồng thời
thông qua hoạt động xét xử, Tòa án góp phần giáo dục công dân ý thức pháp
luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, tham gia vào cuộc đấu tranh
chống và phòng ngừa tội phạm và các vi phạm pháp luật khác.
Vị trí của Tòa án còn thể hiện ở chỗ, tất cả các Thẩm phán đều hình thành
thông qua con đường bổ nhiệm. Trong đó, Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức đối với Thẩm phán TAND Tối cao còn Thẩm phán TAND địa
phương, Thẩm phán Tòa án quân sự quân khu, Tòa án quân sự khu vực do
Chánh án TAND Tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của các
Hội đồng Thẩm phán. TAND Tối cao quản lý về tổ chức nhân sự đối với các
TAND địa phương, các Tòa án quân sự. Hoạt động của TAND các cấp đặt dưới
sự giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp và sự chỉ đạo, lãnh đạo
của TAND cấp trên trực tiếp. Các TAND địa phương chịu sự quản lý về chuyên
môn của TAND tối cao.
1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân
1.2.1. Chức năng của Tòa án nhân dân
a. Khái niệm và bản chất hoạt động xét xử của TAND

Theo từ điển Luật học, chức năng được hiểu là phương diện, mặt hoạt
động chủ yếu của một thiết chế (cơ quan, tổ chức). Theo nghĩa Hán Việt, chức là
việc phần mình; năng là sức làm được. Từ đó, chức năng của các cơ quan nhà
nước là những phương diện hoạt động chủ yếu của các cơ quan đó nhằm góp
phần thực hiện chức năng chung của nhà nước. Đối với TAND có nhiều hoạt
động khác nhau, nhưng xét xử được coi là chức năng chính, chủ yếu của TAND.
Thông qua xét xử Tòa án nhân danh nhà nước đưa ra các phán xét, phán quyết
đối với các vụ án theo quy định của pháp luật. Điều 127 Hiến pháp năm 1992 đã
được sửa đổi, bổ sung năm 2001 và Điều 1 Luật tổ chức TAND năm 2002 quy
định: “Toà án nhân dân tối cao, các TAND địa phương, các Toà án quân sự và
các Toà án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam”. Xét xử là hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước, nhân
danh nhà nước, thể hiện ý chí của giai cấp công dân và nhân dân lao động, dưới
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, để đưa ra phán quyết cuối cùng nhằm
kết thúc vụ án. Hoạt động xét xử là hoạt động mang tính chất pháp lý đặc thù, đó
là hoạt động mà nội dung của nó là căn cứ vào pháp luật để giải quyết những
tranh chấp hoặc vi phạm pháp luật và ra những bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật có tính chất bắt buộc các cơ quan, tổ chức và người có liên quan phải
chấp hành [15,19]. Như vậy, hoạt động xét xử của TAND không phải là hoạt
động xây dựng pháp luật mà là quá trình áp dụng pháp luật vào việc giải quyết
các tranh chấp, xét xử các vi phạm pháp luật cụ thể.
Do kết quả của hoạt động xét xử có thể dẫn đến chỗ công dân, pháp nhân,
tổ chức được hưởng các quyền và lợi ích hoặc phải gánh chịu những nghĩa vụ
nhất định. Đặc biệt là việc xét xử trên lĩnh vực hình sự thì kết quả của hoạt động
xét xử sẽ dẫn đến những hậu quả pháp lý rất nghiêm trọng đối với người bị kết
án (như tước của người bị kết án một số quyền lợi thiết thân về vật chất, tinh
thần, tự do và thậm chí cả tính mạng của họ). Vì vậy, hoạt động xét xử của Tòa
án có tính tổ chức rất chặt chẽ. Tòa án khi xét xử một vụ việc cụ thể phải tuân
theo những trình tự, thủ tục luật định một cách nghiêm ngặt được ghi nhận trong
những quy định của pháp luật tố tụng. Quyết định của Tòa án có thể bị kháng

cáo hoặc kháng nghị và bị Tòa án cấp trên xem xét lại theo các thủ tục phúc
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm để cải, sửa hoặc hủy bỏ bản án đó.
Hoạt động xét xử của Tòa án là một hoạt động sáng tạo của TAND, thông
thường khi xây dựng pháp luật, nhà làm luật không thể dự kiến được hết các tình
tiết, hoàn cảnh sự việc, hành vi diễn ra trong hiện thực cuộc sống. Do đó, đòi hỏi
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải nghiên cứu kỹ lưỡng, toàn diện mọi chi
tiết, điều kiện, hoàn cảnh liên quan đến vụ án đó để có cách thức giải quyết tốt
nhất, hợp lý nhất phù hợp với quy định nêu ra trong quy phạm pháp luật. Để có
bản án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật đòi hỏi Thẩm phán và Hội
thẩm phải có tri thức tổng hợp về cuộc sống, về pháp luật, có kinh nghiệm sống
phong phú và sâu sắc trên các lĩnh vực của đời sống, để giúp Thẩm phán cũng
như Hội thẩm có được những quyết sách đúng đắn hợp lòng dân và bảo đảm sự
tuân thủ pháp luật.
b. Đối tượng xét xử của Tòa án nhân dân
Đối tượng xét xử của TAND là tổng hợp các loại việc mà TAND có
quyền thụ lý để tiến hành xét xử sơ thẩm. TAND xét xử những vụ án hình sự,
dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những
việc khác theo quy định của pháp luật (Điều 1 Luật tổ chức TAND năm 2002)
Đối với các vụ án hình sự: Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành
vi theo tội danh mà Viện kiển sát nhân dân truy tố; Tòa án xét xử các vụ án hình
sự nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân tránh những việc
làm tùy tiện, và không phải bất cứ cơ quan, tổ chức nào cũng có quyền kết tội
một công dân; chỉ có Tòa án là cơ quan có đủ điều kiện để xác định một người
có tội hay không có tội và áp dụng loại và mức hình phạt phù hợp với hành vi
phạm tội; quy định chỉ có TAND là cơ quan duy nhất có quyền xét xử các vụ án
hình sự phù hợp với nguyên tắc “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết
tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật”.
Đối với các vụ án dân sự: Tòa án chỉ xét xử các vụ án dân sự trong trường
hợp công dân, pháp nhân, tổ chức khởi kiện hoặc Viện kiểm sát khởi tố yêu cầu
Tòa án bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của tập thể, của nhà nước

hay của người khác đang bị tranh chấp hoặc vi phạm. Những vụ án dân sự thuộc
đối tượng giải quyết của Tòa án bao gồm: tranh chấp về quyền sở hữu tài sản;
quyền sở hữu công nghiệp; các tranh chấp hợp đồng dân sự giữa công dân với
công dân, giữa công dân với pháp nhân và giữa các pháp nhân với nhau. Các
tranh chấp về quyền thừa kế, quyền tác giả của tác phẩm văn học nghệ thuật,
nhà ở…
Đối với các vụ án hôn nhân và gia đình: Tòa án tiến hành xét xử những
vụ việc như: ly hôn do một bên yêu cầu; chia tài sản khi ly hôn; yêu cầu cấp
dưỡng khi ly hôn; giao con chưa thành niên cho một bên nuôi dưỡng; hủy việc
kết hôn trái pháp luật; chia tài sản chung vợ chồng khi hôn nhân đang tồn tại;
yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi.
Đối với những vụ án lao động: Tòa án xét xử những khiếu nại của công
nhân viên chức bị xử lý kỷ luật bằng hình thức buộc thôi việc; Học sinh học
nghề trong nước, học nghề bị buộc phải bồi thường phí tổn đào tạo cho nhà
nước vì bị kỷ luật; Người đi hợp tác lao động với nước ngoài bị buộc phải bồi
thường phí tổn cho nước ngoài vì vi phạm hợp đồng, bị kỷ luật buộc trả về nước
trước thời hạn.
Đối với việc xét xử những vụ án kinh tế: Tòa án xét xử các tranh chấp về
hợp đồng kinh tế; tranh chấp giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan
đến việc thành lập; giữa mua bán cổ phiếu, trái phiếu; tranh chấp kinh tế khác.
Đối với những vụ án hành chính: Tòa án xét xử các khiếu kiện quyết định
áp dụng các biện pháp xử lý hành chính với hình thức giáo dục tại xã; khiếu kiện
quyết định buộc thôi việc trái pháp luật; khiếu kiện quyết định trưng dụng, trưng
mua tài sản, quyết định tịch thu tài sản…
Ngoài ra, TAND còn giải quyết các vụ việc khác theo quy định của pháp
luật như: xác định công dân đã chết hoặc mất tích; khiếu nại liên quan đến hộ
tịch; khiếu nại về danh sách cử tri; khiếu nại cơ quan báo chí về việc không cải
chính thông tin có nội dung xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác.
1.2.2. Nhiệm vụ của Tòa án nhân dân
Nhiệm vụ của TAND là mục tiêu mà Tòa án cần đạt tới, là các vấn đề mà

TAND cần phải giải quyết. Trong những nhiệm vụ của TAND có nhiệm vụ
chung, cơ bản và lâu dài. Để thực hiện những nhiệm vụ chung ấy, TAND cần
thực hiện những nhiệm vụ cụ thể trong từng giai đoạn cách mạng của đất nước.
Theo quy định của Điều 126 Hiến pháp năm 1992 và Điều 1 Luật tổ chức
TAND năm 2002 quy định: “Trong phạm vi chức năng của mình, Tòa án có
nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và
quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể; bảo vệ
tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Bằng hoạt động
của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, chấp
hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý
thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác”.
Nhiệm vụ bảo vệ pháp chế XHCN, chế độ XHCN và bảo vệ các quyền tự do,
dân chủ và lợi ích hợp pháp của công dân là nhiệm vụ cơ bản, lâu dài của
TAND. Nó thể hiện rõ nét bản chất dân chủ và nhân đạo của TAND của nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
TAND thực hiện chức năng xét xử nhằm bảo đảm việc nghiêm chỉnh chấp
hành pháp luật, tôn trọng pháp chế XHCN. Mọi hành vi xâm phạm lợi ích hợp
pháp của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân phải được phát hiện
kịp thời xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật, không làm oan người ngay, nhưng
cũng không để lọt tội phạm. Thông qua hoạt động xét xử, TAND có nhiệm vụ
giáo dục công dân lòng chung thành với tổ quốc Việt Nam, với sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội, có ý thức chấp hành nghiệm chỉnh pháp luật, tôn trọng
những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh chống và phòng ngừa tội
phạm và các vi phạm pháp luật khác. Những vụ án đưa ra xét xử công khai là
nhằm giáo dục công dân ý thức tôn trọng pháp luật, góp phần vào sự hình thành
và phát triển nền văn hóa pháp lý XHCN với tư cách là một bộ phận cấu thành
của nền văn hóa nói chung.
Để nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật của hoạt động xét xử TAND các
cấp đã dành nhiều quan tâm đến việc tổ chức nội dung và hình thức phiên tòa
xét xử, người có tội phải bị xét xử đúng pháp luật. Phán quyết của Tòa án phải

thể hiện sự công minh, công bằng, bình đẳng pháp luật. Để làm được việc đó
cần nâng cao trình độ, phẩm chất và trách nhiệm của cán bộ tiến hành tố tụng tại
phiên tòa, phải quan tâm thích đáng tới cơ sở vật chất của toàn ngành Tòa án,
tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, xây dựng ngành Tòa án vững
mạnh về mọi mặt.
1.3. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
TAND là bộ phận của bộ máy nhà nước nên tổ chức và hoạt động của
TAND phải tuân theo 5 nguyên tắc chung như các cơ quan nhà nước khác như:
nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; nguyên tắc Đảng lãnh
đạo đối với nhà nước; nguyên tắc tập trung dân chủ; nguyên tắc bình đẳng, đoàn
kết giữa các dân tộc; nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, TAND
là cơ quan tài phán, có vị trí đặc biệt trong hệ thống các cơ quan nhà nước. Công
tác của TAND cũng có những nét đặc thù so với công tác của các cơ quan nhà
nước khác, nên hoạt động xét xử của TAND phải tuân theo những nguyên tắc
riêng dựa trên nền tảng của những nguyên tắc chung. Những nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của TAND là những nguyên lý, những tư tưởng chỉ đạo trong tổ
chức và hoạt động của TAND.
 Nguyên tắc bổ nhiệm Thẩm phán, bầu và cử Hội thẩm nhân dân
Ở nước ta, trước đây theo quy định của Hiến pháp năm 1946 chế độ bổ
nhiệm Thẩm phán được thực hiện ở tất cả các cấp Tòa án. Thẩm phán xét xử và
Thẩm phán buộc tội đều do Chính phủ bổ nhiệm. Nhưng từ Hiến pháp năm 1959
đến trước khi có Hiến pháp năm 1992 chế độ bầu cử Thẩm phán đã được thực
hiện ở các cấp TAND. Thẩm phán TAND tối cao do UBTVQH cử (Hiến pháp
năm 1959), Hội Đồng nhà nước cử (Hiến pháp năm 1980); Thẩm phán của
TAND các cấp địa phương do cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp bầu ra và
bãi miễn.
Chế độ bầu cử Thẩm phán có ưu điểm là đảm bảo cho nhân dân lao động
trực tiếp thực hiện quyền dân chủ trong việc lựa chọn những người thay mặt
mình thực hiện công tác xét xử. Tuy nhiên, việc thực hiện chế độ Thẩm phán
bầu bên cạnh những ưu điểm còn có những hạn chế của nó như: việc thực hiện

bầu Thẩm phán ở nhiều địa phương còn rất hình thức, chưa lựa chọn được
những người có trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức tốt để làm Thẩm phán.
Nhiệm kỳ hoạt động ngắn làm cho Thẩm phán không có ý thức trau dồi kiến
thức chuyên môn nghiệp vụ, đặc biệt không yêu tâm công tác, hoạt động xét xử
của Tòa án không bảo đảm nguyên tắc độc lập chỉ tuân theo pháp luật vì tâm lý
nếu không được lòng chính quyền…Để khắc phục những hạn chế của chế độ
bầu Thẩm phán, Điều 128 Hiến pháp năm 1992 và Điều 3 Luật tổ chức TAND
quy định chế độ bổ nhiệm Thẩm phán thay cho chế độ bầu Thẩm phán. Các
Thẩm phán của TAND các cấp đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm
cách chức theo đề nghị của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán các cấp. Nhiệm kỳ
hoạt động của Thẩm phán là năm năm (riêng Chánh án TAND Tối cao do Quốc
hội bầu và bãi nhiệm, miễn nhiệm). Để thực hiện chế độ bổ nhiệm đối với Thẩm
phán TAND các cấp, UBTVQH đã ban hành Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân năm 1993, trong đó quy định rõ tiêu chuẩn cụ thể về chuyên
môn, nghiệp vụ, chính trị, đạo đức của Thẩm phán. Trước khi được bổ nhiệm
làm Thẩm phán, người đó phải qua sự sơ tuyển của Hội đồng tuyển chọn.
Nguyên tắc bổ nhiệm Thẩm phán bảo đảm cho nhà nước lựa chọn được
những người có đủ điều kiện về trình độ, nghiệp vụ, về tư cách đạo đức chính
trị, đạo đức nghề nghiệp để thực hiện chức năng xét xử của Tòa án. Thẩm phán
được bổ nhiệm sẽ yên tâm công tác, có điều kiện để tích lũy kiến thức, kinh
nghiệm xét xử, nâng cao trình độ chuyên môn và ý thức trách nhiệm cá nhân
đảm bảo thực hiện được nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân
dân độc lập, chỉ tuân theo pháp luật
 Nguyên tắc khi xét xử có Hội thẩm nhân dân (Hội thẩm quân
nhân tham gia), Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán
Nguyên tắc này được quy định tại Điều 129 Hiến Pháp năm 1992 và Điều
4 Luật tổ chức TAND năm 2002. Khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền
với Thẩm phán là điều kiện để Hội thẩm nhân dân phát huy được vai trò là
người đại diện cho nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử của Tòa án.
Nguyên tắc này giúp bảo đảm tính nghiêm minh, đúng pháp luật và họ

gần gũi với nhân dân và quân nhân, nắm bắt được tâm tư nguyện vọng, do vậy
khi tham gia xét xử giúp cho Hội đồng xét xử nắm bắt được phong tục tập quán,
nguyện vọng quần chúng, đặc điểm tình hình địa phương…để các bản án và
quyết định của Tòa án mang tính giáo dục cao. Trên thực tế, để Hội thẩm nhân
dân ngang quyền với Thẩm phán trong quá trình xét xử, một yêu cầu cần thiết
hiện nay là nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn cho các Hội thẩm nhân
dân.
 Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập,
chỉ tuân theo pháp luật
Điều 130 Hiến Pháp và Điều 5 Luật tổ chức TAND quy định về nguyên
tắc này. Theo đó, khi xét xử tất cả các vụ án ở tất cả các trình tự tố tụng, Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân chỉ căn cứ vào chứng cứ và các quy phạm pháp luật
cần áp dụng để giải quyết các vụ việc và ra các bản bán, quyết định cụ thể,
không phụ thuộc vào bất cứ sự can thiệp của bất kì ai. Các thành viên trong hội
đồng xét xử cũng độc lập với nhau trong việc xác định chứng cứ, lựa chọn các
quy phạm pháp luật cần được áp dụng để định tội và lượng hình đối với các vụ
án hình sự, quyết định quyền và nghĩa vụ của đương sự trong các vụ án. Đối với
một bản án có thể phải xét xử nhiều lần theo các thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm,
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Đối với các bản án xét xử sơ thẩm thì không phải
xin ý kiến chỉ đạo của Tòa án cấp trên. Ngược lại, khi xét xử phúc thẩm, giám
đốc thẩm hoặc tái thẩm không lệ thuộc vào chứng cứ, kết luận và quyết định của
tòa án đã xét xử sơ thẩm mà phải tự mình xác định chứng cứ, quy phạm pháp
luật cần được áp dụng để có quyết định cụ thể.
Nguyên tắc này đảm bảo cho Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập
không bị lệ thuộc bởi sự tác động của cơ quan và cá nhân nào, có vậy hoạt động
xét xử mới đánh giá một cách khách quan mọi khía cạnh của vụ việc và áp dụng
pháp luật một cách công tâm nhằm ra phán quyết đúng đắn, chính xác. Để đảm
bảo việc thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
phải luôn luôn đề cao ý thức cá nhân với tư cách là người nhân danh nhà nước
thực hiện chức năng xét xử để bảo vệ lợi ích của nhà nước, của tập thể, quyền và

lợi ích hợp pháp của công dân. Các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải thật
sự chí công vô tư, kiên quyết bảo vệ pháp luật.
 Nguyên tắc tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số
Nguyên tắc này được quy định từ Hiến pháp năm 1980 đến Hiến pháp
năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 (Điều 131) và các Luật tổ chức TAND
năm 1960, năm 1981, năm 1992, năm 2002.
Hội đồng xét xử sơ thẩm của các TAND địa phương: gồm một Thẩm
phán và hai Hội thẩm nhân dân. Trong trường hợp vụ án có tính chất nghiêm
trọng, phức tạp thì hội đồng xét xử gồm hai Thẩm phán và ba hội thẩm nhân
dân. Đối với vụ án mà bị cáo bị đưa ra xét xử về tội theo khung hình phạt có
mức cao nhất là tử hình thì Hội đồng xét xử gồm hai Thẩm phán và ba hội thẩm
nhân dân; Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm ba Thẩm phán và trong trường hợp
cần thiết có thể có thêm hai Hội thẩm nhân dân. Tòa chuyên trách TAND Tối
cao hoặc Tòa án quân sự trung ương gồm ba Thẩm phán. Nếu Ủy ban Thẩm
phán hoặc Hội đồng Thẩm phán giám đốc thẩm hoặc tái thẩm thì thành viên
tham gia xét xử phải chiếm 2/3 tổng số các thành viên của Ủy ban Thẩm phán
hoặc Hội đồng thẩm phán tham gia. Nguyên tắc này phát huy được trí tuệ tập thể
và bảo đảm việc xét xử của Tòa án thận trọng, khách quan, toàn diện, chống độc
đoán. Hội đồng xét xử làm việc tập thể và chịu trách nhiệm trước những phán
quyết của mình mọi thành viên Hội đồng xét xử ngang quyền nhau.
 Nguyên tắc Toà án xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định
Nguyên tắc này được quy định từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp
năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và cụ thể hóa trong các luật tổ chức
TAND năm 1960, năm 1981, năm 1992, năm 2002.
Nguyên tắc xét xử công khai là một trong những nguyên tắc dân chủ của
hoạt động xét xử XHCN. Nguyên tắc này góp phần vào việc giáo dục và nâng
cao ý thức tôn trọng pháp luật, thu hút đông đảo nhân dân tham gia vào cuộc đấu
tranh, chống tội phạm và các vi phạm. Mặt khác nguyên tắc này đảm bảo cho
nhân dân quyền tham dự phiên tòa, tạo điều kiện cho nhân dân giám sát hoạt
động của Tòa án cũng như các cơ quan chức năng khác, nâng cao ý thức trách

nhiệm của những người tiến hành tố tụng và do đó nguyên tắc này là một trong
những bảo đảm cho hoạt động xét xử được thực hiện theo pháp luật.
Tính công khai trong hoạt động xét xử được hiểu là việc xét xử các vụ án
hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động, hành chính được tiến
hành công khai tại phiên tòa, mọi công dân từ 16 tuổi trở lên đều có quyền tham
dự và theo dõi diễn biến của phiên tòa. Tòa án có thể niêm yết kế hoạch xét xử
tại trụ sở Tòa án hoặc thông báo việc xét xử trên các phương tiện thông tin đại
chúng để nhân dân biết, tham dự hoặc Tòa án tổ chức các phiên tòa lưu động ở
dưới địa phương. Ngoài xét xử công khai, Tòa án có thể xét xử kín trong một số
trường hợp. Đó là những trường hợp vụ án có liên quan đến bí mật quốc gia
hoặc thuần phong mĩ tục của dân tộc cũng như để giữ bí mật của các đương sự
theo yêu cầu chính đáng của họ. Tòa án có thể xử kín một phần cũng có thể xử
kín toàn bộ vụ án, nhưng tuyên án phải công khai để mọi người được biết.
 Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật
Nguyên tắc này là một nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ XHCN được
quy định tại Điều 52 Hiến pháp năm 1992 và Điều 8 Luật tổ chức TAND năm
2002: “Tòa án xét xử theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp
luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội,
địa vị xã hội; cá nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân và các cơ sở
sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp
luật.”
Theo quy định trên thì mọi tội phạm, mọi tranh chấp pháp lý do bất kì ai
thực hiện đều phải được TAND xét xử công bằng, không thiên vị. Mặt khác, khi
xét xử Tòa án phải đảm bảo sự bình đẳng của công dân về quyền và nghĩa vụ
khi họ tham gia vào các thủ tục tố tụng do pháp luật tố tụng đã quy định. Trong
hoạt động xét xử, Tòa án phải tôn trọng nguyên tắc này để đảm bảo cho vụ án
được xét xử khách quan, toàn diện, triệt để và đầy đủ. Để nguyên tắc mọi công
dân đều bình đẳng trước pháp luật được thực hiện trên thực tế đòi hỏi các Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân phải tinh thông về nghiệp vụ, trong sáng về đạo đức
nghề nghiệp, có tinh thần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thực

sự “chí công vô tư” trong hoạt động xét xử, chống sự áp đặt từ bên ngoài.
 Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, quyền bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
Đây là nguyên tắc được quy định trong các bản Hiến pháp năm 1946 đến
năm 1992 và các Luật tổ chức TAND năm 1960, năm 1981, năm 1992, năm
2002, là nguyên tắc dân chủ trong hoạt động tố tụng của Tòa án. Nội dung
nguyên tắc này quy định bị cáo có quyền bào chữa hoặc nhờ luật sư, bào chữa
viên nhân dân, người đại diện hợp pháp của bị cáo bào chữa cho bị cáo. Bảo
đảm quyền bào chữa của bị cáo là nhằm làm cho việc xét xử của Tòa án được
khách quan, toàn diện và chính xác. Quyền bào chữa là quyền cần thiết và quan
trọng của công dân được quán triệt trong các giai đoạn tố tụng.
Để bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của bị can, bị cáo trong những
trường hợp do luật định thì cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án phải yêu
cầu Đoàn luật sư của người bào chữa cho họ. Đó là các trường hợp bị can, bị cáo
phạm tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy định tại Bộ
Luật hình sự; bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về
thể chất hoặc tinh thần. người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người
có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án tự mình hoặc có quyền nhờ luật sư
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
 Nguyên tắc công dân Việt Nam có quyền dùng tiếng nói, chữ viết
của dân tộc mình trước Tòa án
Nguyên tắc này thể hiện rõ chính sách dân tộc của Đảng và nhà nước ta.
Nhà nước ta thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết tương trợ giữa các dân

×