Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Hoạt động phòng ngừa tội phạm của tòa án quân sự quân khu 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 102 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
----------

NGUYỄN VĂN LAM

HOẠT ĐỘNG PHÕNG NGỪA TỘI PHẠM
CỦA TỒ ÁN QUÂN SỰ QUÂN KHU 9

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành hình sự. Mã số: 60.38.40

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Phƣơng Hoa

TP.HỒ CHÍ MINH, NĂM 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
----------------------------

NGUYỄN VĂN LAM

HOẠT ĐỘNG PHÕNG NGỪA TỘI PHẠM
CỦA TỒ ÁN QUÂN SỰ QUÂN KHU 9

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành hình sự. Mã số: 60.38.40

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Phƣơng Hoa


TP.HỒ CHÍ MINH, NĂM 2011


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan tồn bộ nội dung
Luận văn do bản thân tự nghiên cứu
hồn thiện, khơng sao chép của
người khác. Nếu có gian dối trong
nghiên cứu, tơi xin nhận mọi hình
thức xử lý do nhà trường quy định.


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
01
02
03
04
05
06
07

CỤM TỪ ĐƢỢC VIẾT TẮT
Tòa án quân sự
Tòa án quân sự Quân khu 9
Phòng, chống tội phạm
Phịng ngừa tội phạm
Tình hình tội phạm
Bộ luật tố tụng hình sự

Bộ luật hình sự

TỪ VIẾT TẮT
TAQS
TAQSQK9
PCTP
PNTP
THTP
BLTTHS
BLHS


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Số
TT
01
02
03
04
05
06
07
08
09
10
11
12
13
14
15

16

TÊN BẢNG , BIỂU
Bảng 1. Số vụ án Tòa án quân sự Quân khu 9 thụ lý giải quyết từ năm 2000 đến
năm 2010
Bảng 2. Đặc điểm về nhân thân của người thực hiện hành vi phạm tội bị xét xử từ
năm 2000 đến năm 2010
Bảng 3. Phân tích số bị cáo đã bị xét xử từ năm 2000 đến năm 2010
Bảng 4. Các loại tội phạm xảy ra trên địa bàn Quân khu 9 từ năm 2000 đến năm
2010
Bảng 5. Thụ lý, xét xử các nhóm tội phạm cụ thể từ năm 2000 đến năm 2010
Bảng 6. Phân tích các nhóm tội phạm cụ thể từ năm 2000 đến năm 2010
Bảng 7. Số liệu về kiến, nghị yêu cầu các cơ quan, đơn vị áp dụng biện pháp phòng
ngừa tội phạm; viết chuyên đề và thống kê tội phạm từ năm 2000 đến năm
2010
Bảng 8. Số liệu về tuyên truyền pháp luật của Tòa án quân sự quân khu 9 từ năm
2000 đến năm 2010
Bảng 9. Số liệu về cán bộ Tòa án quân sự Quân khu 9 từ năm 2000 đến năm 2010
Bảng 10. Kết quả điều tra xã hội học
Phiếu điều tra xã hội học
Biểu đồ 1. Số liệu thụ lý, xét xử (vụ/năm) của Tòa án quân sự Quân khu 9 từ năm
2000 đến năm 2010
Biểu đồ 2. Đối tượng thực hiện hành vi phạm tội thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa
án quân sự Quân khu 9 từ năm 2000 đến năm 2010
Biểu đồ 3. Độ tuổi người thực hiện thực hiện hành vi phạm tội Tòa án quân sự
Quân khu 9 xét xử từ năm 2000 đến năm 2010
Biểu đồ 4. Mức án Tòa án quân sự Quân khu 9 tuyên phạt đối với các bị cáo từ năm
2000 đến năm 2010
Biểu đồ 5. Số vụ án về các nhóm tội phạm Tòa án quân sự Quân khu 9 xét xử từ
năm 2000 đến năm 2010



MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG PHÕNG NGỪA
TỘI PHẠM CỦA TÒA ÁN QUÂN SỰ ................................................... 5
1.1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung của phòng ngừa tội phạm .................................. 5
1.2. Hoạt động phòng ngừa tội phạm của Tòa án quân sự ........................................... 14
1.2.1. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Tịa án quân sự ................................................ 14
1.2.2. Cơ sở pháp lý về trách nhiệm phòng ngừa tội phạm của Tòa án quân sự .......... 14
1.2.3. Nội dung và đặc điểm hoạt động phòng ngừa tội phạm của Tòa án quân sự ..... 17
Chƣơng 2: ĐẶC ĐIỂM CỦA TÕA ÁN QUÂN SỰ QUÂN KHU 9 VÀ THỰC
TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHÕNG NGỪA TỘI PHẠM ........................ 35
2.1. Các đặc điểm của Tòa án quân sự Quân khu 9 liên quan đến hoạt động
phòng ngừa tội phạm .............................................................................................. 35
2.1.1. Cơ cấu, tổ chức của Tòa án quân sự Quân khu 9 ............................................... 35
2.1.2. Đặc điểm về địa bàn hoạt động phòng ngừa tội phạm của Tòa án quân sự
Quân khu 9 ......................................................................................................... 36
2.2. Thực trạng hoạt động phòng ngừa tội phạm của Tòa án quân sự Qn khu 9 ...... 37
2.2.1. Phịng ngừa tội phạm thơng qua cơng tác xét xử ............................................... 37
2.2.2. Phịng ngừa tội phạm thông qua việc phát hiện, loại trừ các nguyên nhân
và điều kiện phạm tội ......................................................................................... 41
2.2.3. Phòng ngừa tội phạm thông qua việc phối hợp với các cơ quan tư pháp
trong Quân khu và các cơ quan hữu quan ......................................................... 44
2.2.4. Phịng ngừa tội phạm thơng qua cơng tác tuyên truyền, giáo dục ...................... 46
2.2.5. Phòng ngừa tội phạm thông qua các hoạt động khác ......................................... 52
2.3. Đánh giá về hoạt động phòng ngừa tội phạm của Tòa án quân sự Quân khu 9 .... 55
2.3.1. Thành công ......................................................................................................... 55
2.3.2. Hạn chế ............................................................................................................... 57

Chƣơng 3: NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ VÀ CÁC BIỆN PHÁP


NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÕNG NGỪA TỘI PHẠM CỦA TÕA ÁN
QUÂN SỰ QUÂN KHU 9 ...................................................................... 60
3.1. Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động phòng ngừa tội phạm
của Tòa án quân sự Quân khu 9 ............................................................................. 60
3.1.1. Về tính độc lập của Tịa án trong hoạt động xét xử ............................................ 60
3.1.2. Tác động từ kinh tế - xã hội trên địa bàn ............................................................ 62
3.1.3. Các quy định của pháp luật ................................................................................ 63
3.2. Những định hướng và biện pháp nâng cao hoạt động phòng ngừa tội phạm
của Tòa án quân sự Quân khu 9 ............................................................................. 65
3.2.1. Những định hướng .............................................................................................. 65
3.2.2. Các biện pháp cụ thể ........................................................................................... 72
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 82


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế hội nhập, cùng với việc đất nước phát triển về kinh tế - chính trị, văn
hố, giáo dục, khoa học – kỹ thuật… thì vấn đề đảm bảo về an ninh, chính trị, trật tự an tồn
xã hội cũng cần phải đặc biệt quan tâm. Khi đất nước phát triển thì các vấn đề tệ nạn, tội
phạm cũng theo đó mà tăng nhanh nếu như khơng có một giải pháp phịng ngừa hiệu quả.
Để hạn chế tình hình tội phạm, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chương trình phịng, chống
từ Trung ương đến địa phương; mỗi cơ quan, tổ chức đều thiết lập các chương trình phịng
ngừa nhằm giảm thiểu tình hình tội phạm xảy ra trên địa bàn. Tuy nhiên, mặc dù Đảng và
Nhà nước ta rất nỗ lực trong việc đấu tranh phòng, chống các tội phạm, nhưng theo báo cáo
hàng năm của Tòa án nhân dân Tối cao, cũng như của Viện kiểm sát nhân dân Tối cao và Bộ

cơng an thì tình hình tội phạm xảy ra trên cả nước hàng năm đều ở mức cao và cá biệt có
một số loại tội phạm được thực hiện với tính chất phức tạp, tinh vi, xảo quyệt.
Nghị quyết 09/1998/NQ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ về cơng tác phịng, chống
tội phạm trong tình hình mới nhận định: “Tình hình tội phạm ở nước ta hiện nay vẫn có xu
hướng gia tăng và diễn biến phức tạp. Cơ cấu thành phần tội phạm có những thay đổi, đối
tượng phạm tội là người lao động chiếm 70%, trong đó 30% khơng có việc làm; số thanh
niên phạm tội chiếm tỷ lệ ngày càng cao. Đặc biệt là tình trạng phạm tội có tổ chức như
tham nhũng, bn lậu, mua bán phụ nữ, xâm hại trẻ em... Phạm tội có sử dụng bạo lực,
cướp của, giết người, chống người thi hành công vụ, đâm thuê, chém mướn, bảo kê nhà
hàng và các hành vi phạm tội khác có tính chất cơn đồ hung hãn; gây ra những hậu quả hết
sức nghiêm trọng gây lo lắng cho toàn xã hội”.
Với tình hình tội phạm như hiện nay thì việc phòng ngừa tội phạm xảy ra là vấn đề cấp
thiết. Chúng ta phải kiên quyết triệt tiêu các mầm móng của tội phạm, gỡ bỏ các điều kiện
để tội phạm không thể tồn tại là giải pháp hữu hiệu. Tuy nhiên, để làm được điều này là vấn
đề rất khó khăn, tốn kém và lâu dài địi hỏi tồn Đảng, toàn quân, toàn dân, từng cơ quan, tổ
chức, cá nhân cùng tham gia, đặc biệt là các cơ quan tư pháp phải thể hiện vai trò tiên phong
trong hoạt động phòng ngừa.
Là một bộ phận cấu thành hệ thống các cơ quan tư pháp, Tòa án quân sự Quân khu 9
có trách nhiệm và đóng vai trị quan trọng trong phịng, chống tội phạm nói chung và phịng
ngừa tội phạm xảy ra trên địa bàn Quân khu 9 nói riêng. Hiến pháp và pháp luật trao quyền
cho Tòa án quân sự Quân khu 9 xét xử tất cả các hành vi phạm tội xảy ra thuộc thẩm quyền,
thông qua hoạt động xét xử để đấu tranh và phòng ngừa tội phạm, góp phần giảm thiểu các
tội phạm xảy ra trên địa bàn Quân khu. Trong thời gian qua hoạt động phòng ngừa tội phạm
của Tòa án quân sự Quân khu 9 nhìn chung đã góp phần giữ vững an ninh, chính trị trên địa


2

bàn, đảm bảo cuộc sống bình yên cho người dân; tuy nhiên, tình hình tội phạm trên địa bàn
Quân khu vẫn còn nhiều biến động, đối với một số loại tội phạm hoạt động phòng ngừa

chưa mang lại hiệu quả cao, thậm chí diễn ra ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn, gây hoang
mang cho mọi người và tác động xấu đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tình
hình tội phạm xảy ra trên địa bàn chưa được khắc phục triệt để là do nhiều nguyên nhân,
một trong những nguyên nhân chính là hoạt động phòng ngừa tội phạm chưa đạt hiệu quả
cao. Nhiều giải pháp được áp dụng trong hoạt động phòng ngừa của các cơ quan tư pháp nói
chung và của Tịa án quân sự Quân khu 9 nói riêng chưa phù hợp, chưa đồng bộ. Để phòng,
chống tội phạm mang lại hiệu quả cao, các cơ quan tư pháp tại Quân khu 9 trong đó có Tịa
án qn sự Qn khu 9 cần có những giải pháp phịng ngừa có hiệu quả và phù hợp với tình
hình của địa phương; trong các giải pháp chung thì từng cơ quan phải có những giải pháp
phù hợp với đặc trưng của mình trong hoạt động phòng ngừa.
Với mong muốn nêu cao vai trò của Tòa án quân sự Quân khu 9 trong hoạt động
phòng ngừa tội phạm nói chung và trên địa bàn Quân khu 9 nói riêng và góp một phần nhỏ
cơng sức của mình vào hoạt động phịng ngừa tội phạm, người nghiên cứu chọn đề tài
“Hoạt động phòng ngừa tội phạm của Tòa án quân sự Quân khu 9” cho Luận văn Thạc
sỹ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Phịng ngừa tội phạm là đề tài mang tính chất lý luận và thực tiễn cao, là lĩnh vực rộng
lớn để các nhà nghiên cứu về tội phạm học xem xét. Đến thời điểm này có rất nhiều cơng
trình nghiên cứu có liên quan đến hoạt động đấu tranh phịng, chống tội phạm và hoạt động
phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu chủ yếu tập trung vào hoạt động đấu
tranh phòng, chống đối với các tội phạm cụ thể, như đấu tranh phòng, chống tội giết người,
tội hiếp dâm, tội tham nhũng, tội buôn lậu, tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện
giao thông đường bộ… Về chủ thể phòng ngừa tội phạm là các cơ quan tiến hành tố tụng,
cũng có một số cơng trình đã nghiên cứu, như các chủ thể là Viện kiểm sát, Cơng an, Hải
quan… Đối với chủ thể phịng ngừa tội phạm là Tòa án và cụ thể là Tòa án quân sự Quân
khu 9 đến thời điểm này chưa có một cơng trình khoa học ở cấp độ luận văn thạc sỹ nào
nghiên cứu.
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của Luận văn là đề ra một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa

tội phạm của Tòa án quân sự Quân khu 9.
Để thực hiện được mục đích trên, các nhiệm vụ đặt ra là:


3

+ Phân tích những vấn đề lý luận về hoạt động phòng ngừa tội phạm của Tòa án quân
sự.
+ Khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt động phòng ngừa tội phạm của Tòa án quân sự
Quân khu 9.
+ Đề xuất định hướng và các biện pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm của
Tòa án quân sự Quân khu 9.
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của Đề tài là hoạt động phòng ngừa tội phạm của Tòa án quân
sự Quân khu 9.
- Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu được giới hạn dưới góc độ tội phạm học. Về số liệu sử dụng trong đề
tài để đánh giá thực trạng giới hạn trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2010. Các số liệu
này được tổng hợp từ các báo cáo hàng năm về tình hình tội phạm và tổng kết hoạt động của
các Tòa án quân sự trên địa bàn Quân khu 9.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của Chủ nghĩa
Mác-Lênin.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp, thống
kê, so sánh, điều tra xã hội học.
5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài có ý nghĩa quan trọng về lý luận cũng như thực tiễn.
Về mặt lý luận, với kết quả khiêm tốn mà người nghiên cứu đặt ra ban đầu và đạt được
qua việc nghiên cứu đề tài có thể góp vào lý luận về phịng ngừa tội phạm nói chung và hoạt
động phịng ngừa tội phạm của Tịa án qn sự nói riêng.

Về mặt thực tiễn, Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo đối với những người
làm công tác thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử để nâng cao nhận thức, rút kinh nghiệm về
những bất cập, vướng mắc trong phịng ngừa tội phạm; luận văn cũng có thể được dùng làm
tài liệu tham khảo cho những người làm công tác pháp luật, cho việc học tập, giảng dạy,
nghiên cứu môn tội phạm học và làm tài liệu tham khảo trong hoạt động lập pháp, hoàn
thiện các qui định của pháp luật liên quan đến phòng ngừa tội phạm.
6. Cơ cấu của luận văn
Trên cơ sở mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra và các yêu cầu của một luận văn
thạc sỹ. Người nghiên cứu thực hiện Luận văn với bố cục gồm: phần mở đầu; phần nội
dung; phần kết luận.
Phần nội dung gồm 03 chương:


4

- Chương 1: Những vấn đề lý luận về hoạt động phòng ngừa tội phạm của Tòa án quân
sự;
- Chương 2: Đặc điểm của Tòa án quân sự Quân khu 9 và thực trạng hoạt động phòng
ngừa tội phạm;
- Chương 3: Nguyên nhân của những hạn chế và các biện pháp nâng cao hiệu quả
phòng ngừa tội phạm của Tòa án qn sự Qn khu 9.
Ngồi ra, luận văn cịn có phần cam kết của tác giả, danh mục từ viết tắt, danh mục các
bảng biểu, mục lục, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo.


5

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG
PHÕNG NGỪA TỘI PHẠM CỦA TÕA ÁN QUÂN SỰ

1.1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung của phòng ngừa tội phạm
Khái niệm phòng ngừa tội phạm:
Những tư tưởng về phòng ngừa tội phạm (PNTP) được hình thành từ rất xa xưa, như
các nhà triết học cổ Hy Lạp Arixtốt, Platôn… Những tư tưởng đó được kế thừa và phát triển
cao hơn bởi các học giả ở châu Âu thế kỷ thứ XIII như Montesquieu, Beccaria, Rousseau và
các nhà cách mạng dân chủ Nga như Radich Sep, Ghec-xen, Bielinxki… Tiếp tục kế thừa
những tư tưởng về PNTP của những nhà triết học cổ Hy Lạp và những nhà bác học châu Âu,
Các Mác và Ph. Ănghen đã nêu lên tư tưởng cho rằng, phương hướng cơ bản nhất của cuộc
đấu tranh phòng, chống tội phạm (PCTP) là hoạt động phòng ngừa. Các Mác đã viết: “Nhà
làm luật thông thái bao giờ cũng là làm tất cả để phịng ngừa tội phạm chứ khơng để sau
này buộc phải trừng trị kẻ phạm tội”.1
Tư tưởng của C. Mác và Ph. Ănghen về PNTP được V.I. Lênin kế thừa và phát triển
sâu sắc một cách toàn diện. Trong các tác phẩm: “Nhà nước và cách mạng”, “Những nhiệm
vụ trước mắt của chính quyền Xơ Viết”, V.I. Lênin đã chỉ rõ: Khâu quyết định của việc đấu
tranh PCTP là phải xác định được nguyên nhân và điều kiện nảy sinh ra tội phạm, đồng thời
phải xây dựng được một hệ thống các biện pháp để thanh toán những ngun nhân đó. Ơng
quan niệm: “Phịng ngừa tội phạm là một ngành điều chỉnh xã hội đặc biệt và đồng thời là
một bộ phận cấu thành của hệ thống biện pháp nhằm xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa”.2
Tiếp nối quan điểm của những nhà triết học, nhà bác học đi trước, cụ thể là quan điểm
của C. Mác và Ph. Ănghen, V.I. Lênin về PNTP, Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngay sau khi thành
lập ra nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa đã đưa những quan điểm về PNTP để lãnh đạo đưa
đất nước đi đến thắng lợi thành công. Trong tư tưởng đấu tranh PCTP của Người có sự kết
hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa hai nhân tố “pháp trị” và “đức trị”, hai tư tưởng này được
vận dụng xuyên suốt trong quá trình hoạt động cách mạng và lãnh đạo của Người. Chủ tịch
Hồ Chí Minh cho rằng: “người đời không phải thánh thần”3 và “Ta phải biết làm cho phần
tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi”.4

1


C. Mác – Ph. Ănghen tuyển tập (1970), tập 1, Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr.131.
Viện Thông tin khoa học xã hội (1992), Những vấn đề lý luận về luật hình sự, Tố tụng hình sự và tội phạm học, Tổng
thuật giới thiệu sưu tầm chuyên đề, Hà Nội, tr.179.
3
Hồ Chí Minh tồn tập (1995), tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.166.
4
Hồ Chí Minh tồn tập (1995), tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.262.
2


6

Là một đất nước kiên định đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, thấm nhuần quan điểm,
tư tưởng của C. Mác – V.I. Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước ta luôn xác
định hoạt động PNTP là nhiệm vụ chính, cốt yếu trong đấu tranh, xử lý tội phạm. Trong các
văn bản của Ban chấp hành Trung ương, Bộ chính trị và đặc biệt là các văn kiện Đại hội
toàn quốc đều khẳng định sự cần thiết và ý nghĩa quan trọng của cuộc đấu tranh PNTP nhằm
giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn kỷ cương và trật tự an tồn xã hội, trong đó nhấn mạnh:
“Chủ động phịng ngừa và đấu tranh có hiệu quả chống các thế lực thù địch và bọn tội
phạm,… kết hợp chặt chẽ phịng ngừa với tiến cơng, lấy phòng ngừa là cơ bản”.5 Trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội chỉ rõ phải: “kết
hợp biện pháp phòng ngừa, giáo dục là cơ bản với trấn áp, trừng trị các loại tội phạm”.6 Để
xác định rõ quan điểm của Đảng về PNTP, Điều 12 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định: “Các cơ quan
nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải
nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội
phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật”. Tại lời nói đầu của Bộ luật hình sự năm 1999
(BLHS) xác định: “Bộ luật hình sự thể hiện tinh thần chủ động phòng ngừa và kiên quyết
đấu tranh chống tội phạm”; tại Điều 1 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS) cũng
xác định rõ nhiệm vụ là: “chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm… giáo dục mọi người

ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phịng ngừa và chống tội phạm”.
Trong tiến trình nghiên cứu các vấn đề về tội phạm học, các nhà nghiên cứu đã từng
bước nghiên cứu, phân tích cụ thể để nhận thức rõ hơn các thuật ngữ, cũng như những vấn
đề trọng tâm làm rõ hơn bản chất của ngành khoa học này. Một trong những vấn đề được
các nhà khoa học đề cập và tranh luận sôi động nhất là khái niệm về PNTP. Hiện nay các
nhà khoa học có hai luồng quan điểm khác nhau về khái niệm PNTP, có quan điểm cho
rằng, PNTP chỉ đơn thuần là áp dụng các biện pháp nhằm triệt tiêu nguyên nhân và điều
kiện không để cho tội phạm xảy ra; trái ngược lại với quan điểm này, một số nhà khoa học
cho rằng, PNTP là hoạt động nhằm áp dụng các biện pháp ngăn chặn không cho tội phạm
xảy ra và kết hợp với các biện pháp, hình thức xử lý tội phạm để ngăn ngừa, giáo dục người
phạm tội, cũng như những người khác không thực hiện hành vi phạm tội.
Để làm rõ khái niệm PNTP, người nghiên cứu tiến hành phân tích, đánh giá một số
quan điểm của các nhà khoa học về PNTP. Những quan điểm này có thể chia làm hai nhóm,
cụ thể như sau:
- Nhóm các quan điểm cho rằng, PNTP chỉ là hoạt động nhằm ngăn chặn không cho
tội phạm xảy ra.
5

Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr.87.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự
thật, Hà Nội, tr.17.
6


7

Quan điểm này được thể hiện ở một số nhà khoa học tiêu biểu, như: Theo giáo trình tội
phạm học của Liên Xô cũ năm 1996 được GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm dẫn ra, cho rằng:
“Phòng ngừa tội phạm là tổng hợp các biện pháp có quan hệ, tác động lẫn nhau, được tiến
hành bởi các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội nhằm mục đích ngăn chặn tội phạm

và hạn chế, loại trừ những nguyên nhân sinh ra tội phạm”.7 Theo Từ điển luật học thì:
“Phịng ngừa tội phạm là ngăn ngừa tội phạm và loại trừ các nguyên nhân phát sinh tội
phạm bằng toàn bộ những biện pháp liên quan với nhau do cơ quan Nhà nước và tổ chức xã
hội tiến hành”.8 Tập bài giảng tội phạm học của Khoa luật hình sự, Trường đại học luật
Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng: “Phịng ngừa tội phạm là việc sử dụng hệ thống các biện
pháp mang tính xã hội và tính nhà nước nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện tình
hình tội phạm, hạn chế và loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội”.9 GS.TS. Nguyễn Ngọc
Hòa, cho rằng: “Phòng ngừa tội phạm là hoạt động của các cơ quan, tổ chức và công dân,
thực hiện tổng thể các biện pháp tác động trực tiếp vào các nhóm nguyên nhân của tội phạm
để kiểm soát, hạn chế tác dụng và loại trừ dần những nhóm nguyên nhân này”. 10 Và gần
đây, TS. Trịnh Tiến Việt, cho rằng: “Phòng ngừa tội phạm là hoạt động của tất cả các cơ
quan bảo vệ pháp luật và Tòa án, các cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội và của mọi công
dân trong xã hội áp dụng tổng hợp và đồng bộ các biện pháp khác nhau hướng vào thủ tiêu
những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, cũng như loại bỏ các yếu tố tiêu cực ảnh hưởng
đến quá trình hình thành phẩm chất cá nhân tiêu cực, đồng thời từng bước hạn chế, đẩy lùi
và tiến tới loại bỏ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội”11. Và một số quan điểm khác.12
Tất cả các quan điểm trên điều có chung một nhận định PNTP là nhằm áp dụng các
biện pháp để ngăn chặn, hạn chế và tiến tới loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội. Điều
này tất nhiên đúng và phù hợp với một giai đoạn nhất định của hoạt động PNTP (giai đoạn
đầu). Trong thực tế đấu tranh PCTP, có thể thấy rằng việc PNTP là một hoạt động rất đa
dạng, đòi hỏi phải áp dụng nhiều giải pháp, trên nhiều lĩnh vực, ở nhiều giai đoạn và nhiều
đối tượng… phải phát huy tổng lực của tồn xã hội thì việc phịng ngừa mới đạt hiệu quả.
Điều này cho thấy, những quan điểm cho rằng PNTP chỉ nhằm ngăn ngừa tội phạm xảy ra
7

Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr.195.
Từ điển Bách khoa Hà Nội (1999), Từ điển luật học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9
Trường Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh, Tập bài giảng tội phạm học, tr.121.
10

Nguyễn Ngọc Hòa (2007), “Phòng ngừa tội phạm trong tội phạm học”, Tạp chí luật học, (6), tr.31.
11
Trịnh Tiến Việt (2008), “Khái niệm phịng ngừa tội phạm dưới góc độ tội phạm học”, Tạp chí Khoa học Đại học
Quốc gia Hà Nội, (24), tr.197.
12
Theo giáo trình tội phạm học của Trường đại học luật Hà Nội: “Phịng ngừa tình hình tội phạm là việc áp dụng một
cách tổng thể các biện pháp kinh tế, chính trị, tư tưởng, pháp luật… do các cơ quan, các tổ chức và công dân tiến hành
dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm xóa bỏ hoặc vơ hiệu hóa các ngun nhân, điều kiện phạm tội; không để cho tội phạm
xảy ra; làm giảm tội phạm và tiến tới loại trừ hồn tồn tình hình tội phạm ra khỏi đời sống xã hội” (Trường đại học
luật Hà Nội (2008), Giáo trình tội phạm học, Nxb. Cơng an nhân dân, Hà Nội); Theo PGS.TS. Nguyễn Chí Dũng và tập
thể tác giả định nghĩa: “Phòng ngừa tội phạm là sử dụng các phương pháp, chiến thuật, biện pháp, phương tiện nghiệp
vụ cần thiết, với sự tham gia của các lực lượng nhằm khắc phục mọi nguyên nhân, điều kiện không để tội phạm phát
sinh, phát triển” (Nguyễn Chí Dũng (chủ biên) (2004), Một số vấn đề về tội phạm và cuộc đấu tranh phòng, chống tội
phạm ở nước ta hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội)
8


8

bằng những biện pháp làm triệt tiêu các nguyên nhân, điều kiện không cho tội phạm xảy ra
là chưa triệt để. Bởi lẽ, đấy chỉ mới là một giai đoạn của việc PNTP, chưa bao qt hết tồn
diện q trình của một chuỗi các hoạt động phịng ngừa. Có thể nói rằng việc PNTP theo
quan điểm này chỉ mới là những hành động trên lý luận, chưa tác động vào thực tiễn - phát
hiện và xử lý những trường hợp vi phạm cụ thể - nên hoạt động phòng ngừa sẽ không mang
lại hiệu quả cao. Chỉ khi những hành vi phạm tội xảy ra bị xử lý nghiêm minh trên tinh thần
nhân đạo mà Đảng và Nhà nước quy định thì hiệu quả PNTP sẽ tồn diện, sẽ có chuyển biến
tích cực hơn trong xã hội.
- Nhóm các quan điểm cho rằng, PNTP bao gồm cả việc đưa ra các giải pháp ngăn
chặn, phòng ngừa và việc xử lý vi phạm và tội phạm.
Quan điểm này được thể hiện ở một số nhà khoa học tiêu biểu sau: GS.TS. Đỗ Ngọc

Quang cho rằng, theo nghĩa rộng: “Phòng ngừa tội phạm bao hàm, một mặt không để cho
tội phạm xảy ra, thủ tiêu nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Mặt khác, bằng mọi cách để
ngăn chặn tội phạm, kịp thời phát hiện tội phạm, xử lý nghiêm minh các trường hợp phạm
tội và cuối cùng là cải tạo, giáo dục người phạm tội, đưa họ trở thành những công dân có
ích cho xã hội”.13 Và theo TS. Lê Thế Tiệm và tập thể tác giả chỉ ra: “Phòng ngừa tội phạm
tức là không để cho tội phạm xảy ra và gây nên những hậu quả nguy hiểm cho xã hội, không
để cho các thành viên của xã hội phải gánh chịu các hình phạt khắc nghiệt của pháp luật.
Và nếu tội phạm có xảy ra thì phải kịp thời phát hiện, xử lý để đảm bảo cho tội phạm khơng
thể tránh khỏi hình phạt, giáo dục và cải tạo người phạm tội trở thành cơng dân có ích cho
xã hội…”.14
Những người theo quan điểm này nhìn nhận hoạt động PNTP trên cả hai khía cạnh
(giai đoạn đầu và giai đoạn sau) là đưa ra các giải pháp nhằm ngăn ngừa và kết hợp với việc
xử lý khi có hành vi vi phạm và tội phạm xảy ra. Việc kết hợp hai giai đoạn này sẽ mang lại
hiệu quả rất cao trong đấu tranh PCTP. Vì trong thực tế đấu tranh PCTP việc áp dụng các
biện pháp ngăn ngừa tội phạm chỉ nhằm mục đích hạn chế tội phạm xảy ra, chứ không thể
làm cho tội phạm không thể xảy ra, và khi tội phạm xảy ra thì việc xử lý là giải pháp tối ưu
nhất. Quá trình xử lý tội phạm thể hiện nhiều biện pháp, kỹ năng mang tính giáo dục, tuyên
truyền rất cao. Do vậy, việc PNTP thông qua hoạt động xử lý người phạm tội mang lại tác
động rất lớn cho người vi phạm và những người khác, có giá trị giáo dục rộng khắp và mang
tính răn đe rất cao. Kết hợp giữa các biện pháp ngăn ngừa không cho tội phạm xảy ra và
hoạt động xử lý, giáo dục người phạm tội sẽ mang lại hiệu quả phòng ngừa thực sự và phù
hợp với thực tiễn đấu tranh PCTP trong mọi giai đoạn của tiến trình PNTP.

13

Đỗ Ngọc Quang (1999), Giáo trình tội phạm học, Nxb. Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Lê Thế Tiệm, Phạm Tự Phả và tập thể tác giả (1994), Tội phạm ở Việt Nam – Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp,
Đề tài KX 04-14, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
14



9

Trong thực tế đấu tranh PCTP hiện nay, chúng ta thấy rằng, PNTP là một trong những
mục tiêu hàng đầu được áp dụng nhằm ngăn chặn và dẫn đến triệt tiêu các nguyên nhân và
điều kiện có thể dẫn đến tội phạm xảy ra; bên cạnh đó nhằm trừng trị, xử lý nghiêm minh
các tội phạm trên nguyên tắc nhân đạo của Nhà nước ta và áp dụng các biện pháp giáo dục,
giúp đỡ những người phạm tội có cơ hội hòa nhập vào cộng đồng xã hội. Hoạt động phòng
ngừa tội phạm là nhiệm vụ chủ yếu của các cơ quan quản lý Nhà nước, các cơ quan bảo vệ
pháp luật, các tổ chức xã hội, các tổ chức xã hội – nghề nghiệp, lực lượng vũ trang… Bên
cạnh đó, hoạt động PNTP của người dân cũng mang lại hiệu quả thiết thực khơng kém gì
các cơ quan Nhà nước, cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục để người dân nêu cao tinh
thần trách nhiệm trong hoạt động PNTP. Có thể hiểu rằng, hoạt động PNTP nhằm mục đích
làm giảm bớt và tiến tới loại bỏ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội.
Tuy vậy, để hiểu đúng và đưa ra một khái niệm PNTP phù hợp, cụ thể trên cơ sở khoa
học nhằm phục vụ công tác PCTP người nghiên cứu phải có một cách nhìn bao qt dựa
trên những yêu cầu thực tiễn gắn với cơ sở lý luận. Qua nghiên cứu, tổng hợp các quan điểm
của các nhà khoa học về PNTP, cơ bản có thể chỉ ra một số vấn đề sau:
- PNTP không chỉ là nhiệm vụ của một cơ quan, tổ chức và cũng không phải của một
ngành khoa học nào trong lĩnh vực tư pháp hình sự, mà nó chính là nhiệm vụ chung của tồn
xã hội, mà trong đó ngành khoa học về tội phạm học phải có nhiệm vụ thực hiện chức năng
PNTP. Dựa trên cơ sở chức năng này, đến lượt mình tội phạm học phải xây dựng được cơ sở
và các nguyên tắc trong hoạt động phòng ngừa, xác định chủ thể phòng ngừa, lập và xây
dựng kế hoạch phịng ngừa đầy đủ, khoa học và có hệ thống các biện pháp phòng ngừa. Do
vậy, chỉ khi thực hiện tốt chức năng này mới có thể từng bước ngăn chặn tội phạm và tình
hình tội phạm (THTP) trong xã hội, khơng cho tội phạm phát triển, qua đó từng bước đẩy lùi
và tiến tới loại bỏ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội.
- PNTP chính là mục tiêu cuối cùng và là nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước và đặc
biệt là của các cơ quan tư pháp, vì chỉ khi làm tốt các nhiệm vụ miêu tả, giải thích và dự báo
thì mới có thể tìm ra được những biện pháp tác động vào quy luật phát sinh, tồn tại và phát

triển của tội phạm, đồng thời khắc phục được các nguyên nhân và điều kiện phạm tội cũng
như các tồn tại trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cũng trên cơ sở những chức năng đã
nêu mới có thơng tin đầy đủ để xây dựng kế hoạch phòng ngừa, nhận diện những diễn biến
tội phạm và THTP trong tương lai, khả năng xuất hiện, thay đổi của tội phạm cũ và tội phạm
mới, diễn biến và quy luật của quá trình tội phạm hóa – phi tội phạm hóa, hình sự hóa – phi
hình sự hóa, cũng như những biến đổi của đời sống xã hội khác.
- PNTP bao gồm tổng thể các biện pháp về chính trị - tư tưởng, kinh tế - xã hội, văn
hóa, giáo dục, pháp luật, quản lý Nhà nước… Suy cho cùng, PNTP chính là đưa ra những
giải pháp mang tính chủ động hơn, tích cực hơn và có hiệu quả hơn trong cơng tác đấu tranh
phịng và chống tội phạm, hỗ trợ cho các ngành luật khác trong lĩnh vực tư pháp hình sự.


10

Hơn nữa, chính những giải pháp của ngành khoa học này là tiền đề rất quan trọng để thực
hiện tốt đường lối xử lý về hình sự, cũng như trong cơng tác đấu tranh phịng ngừa và chống
tội phạm của Nhà nước, đồng thời đây cũng chính là phương diện xã hội rộng lớn và bao
quát hơn của cuộc đấu tranh trực diện với tội phạm.
- Mục đích của PNTP bao gồm việc không để bất kỳ công dân nào trong xã hội phải bị
xử lý, bị truy cứu trách nhiệm hình sự và phải chịu hình phạt, có nghĩa là loại bỏ tội phạm ra
khỏi đời sống xã hội. Với mục đích này, Nhà nước, các tổ chức, cơ quan và mỗi công dân
trong xã hội không phải chịu những hậu quả (thiệt hại) mà tội phạm gây ra, cũng như Nhà
nước và xã hội không phải mất đi những chi phí khơng cần thiết để giải quyết và khắc phục
các hậu quả này. Trên cơ sở đó tiết kiệm một khoản rất lớn về chi phí, tiền của và sức lực
cho Nhà nước, của xã hội trong việc điều tra, truy tố, xét xử, trong việc khắc phục hậu quả
của tội phạm gây ra cho xã hội, trong công tác cải tạo, giáo dục và thi hành án đối với người
phạm tội. Trong trường hợp nếu vẫn có tội phạm xảy ra trong xã hội thì phải xử lý kịp thời,
bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, tránh làm oan người vô tội, giải quyết
nhanh chóng, chính xác và đúng pháp luật đối với trách nhiệm hình sự và hình phạt của
người phạm tội, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, Nhà nước và của xã hội.

Tóm lại, trên cơ sở phân tích và đánh giá các quan điểm của các nhà khoa học đã nêu,
kết hợp với thực tiễn đấu tranh PCTP hiện nay, theo chúng tôi, PNTP là hoạt động của tất
cả các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và của mọi công dân trong xã hội thông qua
việc áp dụng tổng hợp và đồng bộ các biện pháp khác nhau, bao gồm cả việc phát hiện và
xử lý các hành vi vi phạm và tội phạm, hướng vào thủ tiêu những nguyên nhân và điều kiện
phạm tội, cũng như loại bỏ các yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến quá trình hình thành phẩm
chất cá nhân tiêu cực để từng bước hạn chế, đẩy lùi và tiến tới loại bỏ tội phạm ra khỏi đời
sống xã hội.
Đặc điểm phòng ngừa tội phạm:
PNTP thực chất là tổng hợp các biện pháp khác nhau của Nhà nước và xã hội nhằm
triệt tiêu các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm, phát hiện và xử lý những hành vi vi
phạm, cải tạo giáo dục người vi phạm, hướng tới mục tiêu cuối cùng là loại trừ hiện tượng
tội phạm ra khỏi đời sống xã hội. Xem xét dưới góc độ chức năng nhà nước thì PNTP là một
loại hình hoạt động quản lý các quá trình xã hội, là một nhiệm vụ nhà nước rất quan trọng,
do đó nó cũng là một trong những nhiệm vụ cơ bản của các cơ quan, tổ chức và công dân.
Nó được thực hiện trên cơ sở các nguyên tắc xã hội, các quy định của pháp luật và đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước. Do vậy, hoạt động PNTP có một số đặc điểm sau:
- PNTP là hoạt động của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và của mọi công dân.
Rõ ràng việc PNTP phải là hoạt động của các cơ quan, tổ chức và cá nhân, không thể cho
rằng việc PNTP là hoạt động hay nhiệm vụ của một chủ thể nào khác. Việc thực hiện các


11

biện pháp PNTP phải phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, tổ chức và phù
hợp với nghĩa vụ của mọi người dân. Pháp luật Nhà nước ta quy định rất cụ thể về nghĩa vụ
PNTP đối với từng chủ thể, do vậy khi tiến hành các hoạt động PNTP từng cơ quan, tổ chức,
cá nhân phải thực hiện trên cơ sở quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của mình.
- PNTP có phạm vi tác động rộng khắp, với nhiều hình thức và biện pháp phong phú.
Khi tiến hành áp dụng các biện pháp PNTP thì địi hỏi giá trị tác động của nó phải có ý

nghĩa phịng ngừa chung và phù hợp với nhiều đối tượng, nhiều lĩnh vực, từ đó mục đích
của phịng ngừa mới đạt hiệu quả cao. Một biện pháp phịng ngừa mà có tác động điều chỉnh
đến nhiều đối tượng, nhiều khu vực, nhiều địa phương hay toàn xã hội thì sẽ có tác dụng
ngăn ngừa tội phạm xảy ra cao hơn việc tiến hành nhiều biện pháp ở nhiều địa phương khác
nhau. Hoạt động PNTP khơng bó hẹp hay buộc phải thực hiện một biện pháp cụ thể nào mà
nó được áp dụng bất cứ một biện pháp, hình thức nào phù hợp và mang lại hiệu quả cao.
Cũng thấy rằng, ở từng địa phương khác nhau có thể áp dụng từng biện pháp khác nhau để
phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, phong tục tập quán, vị trí địa lý… của địa phương đó.
Cho dù hoạt động phịng ngừa được áp dụng ở những nơi khác nhau với nhiều biện pháp
khác nhau, đối tượng khác nhau…, nhưng mục tiêu cuối cùng của hoạt động phòng ngừa
cũng chỉ nhằm ngăn ngừa tội phạm xảy ra.
- Hoạt động PNTP phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức và cá nhân
trong xã hội. Để PNTP đạt hiệu quả cao thì tất cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân phải đồng
loạt thực hiện nhiều biện pháp khác nhau hoặc cùng một biện pháp, không riêng một cơ
quan, tổ chức hay cá nhân nào có thể hoạt động hay thực hiện một cách độc lập mà mang lại
hiệu quả cao trong PNTP. Từng cơ quan, tổ chức có một chức năng, nhiệm vụ riêng lẻ, thực
hiện công việc độc lập với nhau, khơng có sự chồng chéo lẫn nhau, do vậy có thể áp dụng
những biện pháp phòng ngừa cũng khác nhau và hiệu quả của từng biện pháp cũng khác
nhau. Vì vậy, để đạt được hiệu quả cao trong phòng ngừa, các cơ quan, tổ chức, cá nhân
phải có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau những mặt thiếu sót, cùng xây
dựng một kế hoạch phịng ngừa hồn thiện.
- Các biện pháp phịng ngừa và xử lý phải mang tính nhân đạo, khoan hồng mà Đảng
và Nhà nước đề ra. Đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta được xây
dựng trên tinh thần nhân đạo, đề cao tính giáo dục, hạn chế đến mức thấp nhất việc sử dụng
các biện pháp xử lý mang tính “cưỡng chế”. Trong hoạt động PNTP cũng phải thể hiện rõ
bản chất của một Nhà nước xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã lựa chọn. Mọi biện pháp PNTP
đều phải thể hiện rõ tính giáo dục, và trong xử lý hành vi vi phạm cũng phải đề cao tính
nhân đạo, khoan hồng của Đảng và Nhà nước. Giá trị của sự nhân đạo, khoan hồng trong xử
lý sẽ mang lại hiệu quả cho việc áp dụng các biện pháp PNTP.
- PNTP với mục đích là từng bước hạn chế, đẩy lùi và tiến tới loại bỏ tội phạm ra khỏi

đời sống xã hội. Đây là mục tiêu chính của hoạt động PNTP và cũng là mục tiêu của Nhà


12

nước xã hội chủ nghĩa. Trong một xã hội có nhiều tội phạm xảy ra như hiện nay, các cơ
quan Nhà nước, tổ chức xã hội và từng cá nhân ra sức đấu tranh phòng, chống các hành vi vi
phạm xảy ra từng giờ, từng phút với mong muốn là đẩy lùi các hành vi phạm tội, giữ vững
an ninh, chính trị, trật tự an tồn xã hội, đem lại đời sống bình n cho người dân. Mục đích
loại bỏ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội, có lẽ sẽ cịn xa thẳm phía trước, nhưng lấy đấy làm
tiêu điểm để từng cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện các biện pháp phòng ngừa và xây
dựng một xã hội bình yên. Mục tiêu của việc xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa là xây
dựng một xã hội khơng có người bóc lột người, khơng có người bị áp bức và khơng có tội
phạm xảy ra… Do vậy, mục đích loại tội phạm ra khỏi đời sống xã hội cũng là nhằm xây
dựng thành công Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Nội dung hoạt động phòng ngừa tội phạm:
Nội dung hoạt động PNTP là tất cả các vấn đề, các khía cạnh mà các cơ quan Nhà
nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân cần tiến hành các hoạt động PNTP. Với quan
điểm về PNTP như đã đề cập thì nội dung PNTP tập trung vào các hoạt động sau:
Thứ nhất, tiến hành các hoạt động PNTP (phịng ngừa xã hội). Đó là khắc phục các
ngun nhân và điều kiện phạm tội bằng việc cải thiện các quan hệ xã hội, hoàn thiện hệ
thống pháp luật và tiến hành các biện pháp phòng ngừa cụ thể làm cho THTP khơng có cơ
sở phát sinh và tồn tại. PNTP cũng cần kết hợp giáo dục, giúp đỡ các thành viên trong cộng
đồng, nêu cao trách nhiệm cá nhân của mỗi người, xóa bỏ các tình huống, hồn cảnh phạm
tội… nhằm loại trừ khả năng phát sinh các tội phạm cụ thể. PNTP ở khía cạnh này mang
tính tích cực, chủ động từ các chủ thể tiến hành phòng ngừa và đem lại hiệu quả cao, do đó
cần được ưu tiên nghiên cứu và áp dụng trong thực tiễn.
Thứ hai, phát hiện, xử lý tội phạm mà trọng tâm là các hoạt động điều tra, truy tố, xét
xử, cải tạo người phạm tội (phòng ngừa bằng sự cưỡng chế). Thực tế cho thấy không phải
lúc nào áp dụng các biện pháp PNTP cũng đem lại hiệu quả tuyệt đối; nhiều đối tượng xem

thường cảnh báo của xã hội, sự giáo dục của cộng đồng ngang nhiên xâm phạm đến các
quan hệ xã hội gây ra thiệt hại... Trong trường hợp có tội phạm xảy ra thì việc truy cứu trách
nhiệm hình sự phải được tiến hành. Tác dụng PNTP trong trường hợp này phát huy ngay khi
áp dụng các biện pháp ngăn chặn, tiến hành đúng các thủ tục tố tụng và đặc biệt là hiệu quả
răn đe phòng ngừa riêng, phòng ngừa chung từ việc áp dụng các biện pháp trách nhiệm hình
sự. Ngồi ra, tiến hành xử phạt hành chính cũng là một nội dung PNTP quan trọng. Các biện
pháp trách nhiệm hành chính cũng góp phần ngăn ngừa nhiều loại hành vi nguy hiểm có khả
năng phát triển thành tội phạm.


13

1.2. Hoạt động phòng ngừa tội phạm của Tòa án qn sự
1.2.1. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Tịa án quân sự
Theo quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật tổ chức
Tòa án nhân dân, Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự (TAQS) “Các Tòa án quân sự là những
cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được tổ chức trong Quân
đội”. Do có những đặc điểm riêng về chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền xét xử nên các
TAQS được tổ chức trong Quân đội. Như vậy, TAQS vừa là cơ quan xét xử của Nhà nước
hoạt động trong Quân đội, phải tuân theo các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án
nhân dân, vừa là đơn vị Quân đội nên phải tuân theo chế độ điều lệnh, quy định của Quân
đội.
Chức năng của các TAQS là thực hiện quyền năng xét xử của Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, nhân danh Nhà nước để xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền. Theo
quy định hiện hành thì TAQS có thẩm quyền xét xử đối với các vụ án hình sự mà người
phạm tội là: quân nhân tại ngũ; cơng chức, cơng nhân quốc phịng; qn nhân dự bị trong thời
gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu; dân quân, tự vệ phối
thuộc với Quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu và những người được trưng tập làm
nhiệm vụ quân sự do các đơn vị Quân đội trực tiếp quản lý; những người không thuộc các
đối tượng quy định trên mà phạm tội có liên quan đến bí mật qn sự hoặc gây thiệt hại cho

Quân đội.
Nhiệm vụ của các TAQS là bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ an ninh quốc phòng, kỷ luật và sức mạnh
chiến đấu của Quân đội; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, sức
khỏe, tài sản, tự do, danh dự, nhân phẩm của quân nhân, công nhân, công chức, công nhân
quốc phịng và của các cơng dân khác. Bằng hoạt động của mình, các TAQS góp phần giáo
dục qn nhân, cơng chức, cơng nhân quốc phịng trung thành với Tổ quốc, chấp hành
nghiêm chỉnh pháp luật, điều lệnh của Quân đội, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã
hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác.
1.2.2. Cơ sở pháp lý về trách nhiệm phòng ngừa tội phạm của Tòa án quân sự
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 02 tháng 9 năm 1945 Chủ tịch Hồ Chí
Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, để bảo vệ
thành quả Cách mạng và ổn định an ninh, chính trị, trật tự, xử lý những người vi phạm.
Ngày 13 tháng 9 năm 1945 Chủ tịch Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh số 13/SL
thành lập TAQS trong phạm vi cả nước, tại Điều 2 của Sắc lệnh quy định “Tòa án quân sự
sẽ xử tất cả các người nào phạm vào một số việc gì có phương hại đến nền độc lập của nước
Việt Nam dân chủ Cộng hòa”. Tiếp theo sau đó, để đảm bảo xử lý kịp thời các hành vi phạm
tội giữ vững an ninh, trật tự, bảo vệ thành quả Cách mạng, Chủ tịch Chính phủ ra tiếp Sắc


14

lệnh 163 ngày 23 tháng 8 năm 1946. Theo quy định tại Điều thứ hai của Sắc lệnh, Tòa án
binh có thẩm quyền xét xử: Các quân nhân phạm pháp, bất cứ về một về một tội gì, từ
những tội vi cảnh thuộc thẩm quyền của Tòa án tư pháp và những “thường tội” định ở Điều
thứ 49 Sắc lệnh số 71 ngày 22/5/1946 thuộc quyền nghị phạt của các cấp chỉ huy Quân đội;
những nhân viên các ngành chuyên môn trong Quân đội, những người làm việc cho Quân
đội như cơng nhân, chủ thầu, khi phạm pháp có liên quan đến Quân đội; những người thuộc
bất cứ hạn nào mà phạm pháp ở trong các đồn trại, quân y viện, nhà đề lao binh hoặc một cơ
quan nào của Quân đội, hoặc phạm pháp làm thiệt hại đến Quân đội.

Hiến pháp năm 1959 của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, tại Điều 97 xác định “Tòa
án nhân dân Tối cao nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, các Tòa án nhân dân địa phương,
các Tòa án quân sự là những cơ quan xét xử của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa”. Sau
Hiến pháp năm 1946 Hiến pháp năm 1959 lần đầu tiên xác định rõ thẩm quyền xét xử của
TAQS và được ghi nhận ở văn bản pháp luật cao nhất của một nhà nước. Do trong hiến pháp
năm 1946 chỉ xác định các cơ quan tư pháp là Tòa án Tối cao, các Tòa án phúc thẩm, các
tịa án đệ nhị cấp và sơ cấp, khơng xác định rõ thẩm quyền xét xử của Tòa án nói chung,
cũng như TAQS nói riêng. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, Hiến pháp năm 1959 là văn bản
pháp quy cao nhất của nhà nước xác định thẩm quyền xét xử của TAQS, cũng như xác định
rõ trách nhiệm PNTP của TAQS.
Tiếp theo Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và 1992 (sửa đổi bổ sung năm
2001) cũng xác định rõ nhiệm vụ và thẩm quyền xét xử của TAQS nói chung và hoạt động
PNTP nói riêng. Điều 127 Hiến pháp năm 1980 quy định Tòa án nhân dân nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp
chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ tập thể của nhân dân
lao động, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự tơn trọng tính mạng, tài sản, tự do,
danh dự và nhân phẩm của công dân. Và Tòa án nhân dân Tối cao, các Tòa án nhân dân địa
phương, các TAQS là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(Điều 128). Hiến pháp năm 1992 tại Điều 126 tiếp tục khẳng định Tịa án nhân dân nước
Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo
vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân
dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và
nhân phẩm của công dân. Và Điều 127 cũng khẳng định Tòa án nhân dân Tối cao, các Tòa
án nhân dân địa phương, các TAQS và các Tòa án khác do luật định là những cơ quan xét
xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong lĩnh vực hoạt động tố tụng hình sự, Nhà nước giao cho Tịa án những nhiệm vụ
rất cụ thể về công tác PNTP thông qua việc tiến hành các hoạt động tố tụng trong vụ án hình
sự. Điều 27 BLTTHS quy định: “Trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự, Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát và Tịa án có nhiệm vụ tìm ra những nguyên nhân và điều kiện phạm tội,



15

yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa…”.
Đồng thời, tại Điều 26 BLTTHS cũng xác định trách nhiệm phối hợp của các cơ quan nhà
nước với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân như sau: “Trong
phạm vi trách nhiệm của mình, các cơ quan Nhà nước phải áp dụng các biện pháp phòng
ngừa tội phạm; phối hợp với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong việc đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm”.
Trong BLHS cũng xác định trách nhiệm đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, tại
Điều 4 quy định: “Các cơ quan Cơng an, Kiểm sát, Tịa án, Tư pháp, Thanh tra và các cơ
quan hữu quan khác có trách nhiệm thi hành đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình, đồng
thời hướng dẫn, giúp đỡ các cơ quan khác của Nhà nước, tổ chức, công dân đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm, giám sát và giáo dục người phạm tội tại cộng đồng…”.
Để hướng dẫn cụ thể về vai trị, vị trí, nhiệm vụ của TAQS trong hoạt động PNTP, Ủy
ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh tổ chức TAQS. Theo đó, các Pháp lệnh tổ
chức TAQS năm 1985, 1993 và 2002, tại Điều 1 xác định: Các TAQS là những cơ quan xét
xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc hệ thống Tòa án nhân dân được tổ
chức trong Quân đội. Trong phạm vi chức năng của mình, các TAQS có nhiệm vụ bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân;
bảo vệ an ninh quốc phòng, kỷ luật và sức mạnh chiến đấu của Quân đội; bảo vệ tài sản
của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự, nhân phẩm
của quân nhân, công chức, cơng nhân quốc phịng và của các cơng dân khác. Bằng hoạt
động của mình, các TAQS góp phần giáo dục qn nhân, cơng chức, cơng nhân quốc phịng
trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, điều lệnh của Quân đội, tôn
trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm,
các vi phạm pháp luật khác.
Các quy định của pháp luật như trên đã tạo cơ sở pháp lý, xác định quyền hạn, nghĩa
vụ và trách nhiệm của Tòa án nói chung và của TAQS nói riêng đối với hoạt động PNTP.
Từ các quy định đó, đã xác lập địa vị pháp lý của TAQS là một chủ thể không thể thiếu

được của hoạt động PNTP của Nhà nước ta. Trong q trình thực hiện cơng việc này, TAQS
có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan bảo vệ pháp luật và các cơ quan của Nhà nước, các
tổ chức đoàn thể xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và phải tích cực sử dụng các quyền năng
pháp lý của mình để đảm bảo cơng tác PNTP được tiến hành có hiệu quả, góp phần kiềm
chế và đẩy lùi tội phạm, giữ ổn định an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
1.2.3. Nội dung và đặc điểm hoạt động phòng ngừa tội phạm của Tòa án quân sự
Trên cơ sở phân tích vị trí, chức năng, nhiệm vụ của TAQS, có thể hiểu được thực chất
hoạt động PNTP của TAQS là tồn bộ những cơng việc mà chủ thể này thực hiện nhằm
hướng tới mục tiêu ngăn chặn, hạn chế và loại trừ tội phạm một cách có hiệu quả. Việc xác


16

định nội dung PNTP của TAQS phải trên cơ sở nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa vị trí,
chức năng, nhiệm vụ đặc thù của TAQS với những mục tiêu cơ bản của chính sách đấu tranh
PNTP của Đảng và Nhà nước ta.
Theo quy định của Pháp lệnh tổ chức TAQS, thì các TAQS là những cơ quan xét xử
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc hệ thống Tòa án nhân dân được tổ
chức trong Quân đội. Trong phạm vi chức năng của mình, các TAQS có nhiệm vụ bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân;
bảo vệ an ninh quốc phòng, kỷ luật và sức mạnh chiến đấu của Quân đội; bảo vệ tài sản
của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự, nhân phẩm
của quân nhân, công chức, công nhân quốc phịng và của các cơng dân khác. Và bằng hoạt
động của mình, các TAQS góp phần giáo dục qn nhân, cơng chức, cơng nhân quốc phịng
trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, điều lệnh của Quân đội, tôn
trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm,
các vi phạm pháp luật khác.
Trong trường hợp cần thiết, cùng với việc ra bản án, quyết định, TAQS ra kiến nghị
yêu cầu thủ trưởng đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp
khắc phục nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm hoặc vi phạm pháp luật tại đơn vị, cơ

quan, tổ chức đó. Thủ trưởng đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan, tổ chức nhận được kiến
nghị có trách nhiệm nghiên cứu thực hiện và trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận
được kiến nghị phải thông báo cho Tịa án án qn sự về việc đó.
TAQS cùng với Viện kiểm sát quân sự, Cơ quan điều tra hình sự của Quân đội, Cơ
quan an ninh của Quân đội và các cơ quan hữu quan khác nghiên cứu, thực hiện những chủ
trương biện pháp nhằm phòng ngừa và chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác. Phối
hợp với các đơn vị vũ trang nhân dân, các cơ quan, tổ chức trong việc phát huy tác dụng
giáo dục của phiên tòa và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thi hành bản án, quyết định của
TAQS.
Với ý nghĩa đó, nội dung hoạt động PNTP của TAQS được xác định là việc TAQS
thực hiện tổng thể các biện pháp PNTP thông qua việc tiến hành các công tác thực hiện chức
năng và trực tiếp tiến hành khi thực hiện nhiệm vụ phịng ngừa với tính cách là một cơ quan
Nhà nước. Như vậy, có thể xác định nội dung hoạt động PNTP của TAQS được thể hiện trên
các mặt: thứ nhất, PNTP thông qua hoạt động xét xử; thứ hai, PNTP thông qua việc phát
hiện, loại trừ nguyên nhân và điều kiện phạm tội; thứ ba, PNTP thông qua tuyên truyền,
giáo dục; thứ tư, PNTP thông qua sự phối hợp với các cơ quan liên quan; thứ năm, PNTP
thông qua các hoạt động khác.


17

1.2.3.1. Phịng ngừa tội phạm thơng qua hoạt động xét xử
Ở nội dung này, TAQS áp dụng các biện pháp chun mơn của một chủ thể phịng
ngừa trong phạm vi trách nhiệm của mình nhằm hướng tới mục tiêu chung của hoạt động
PNTP. Trong nội dung hoạt động này, TAQS thực hiện biện pháp phịng ngừa thơng qua
chức năng, nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho. Với chức năng Nhà nước giao cho
mình, TAQS thực hiện quyền năng xét xử các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền, trên cơ sở
nhân danh Nhà nước tuyên một bản án có hiệu lực pháp luật buộc mọi người có liên quan
phải chấp hành.
Xét xử các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật là chức năng

cơ bản của các TAQS. Bằng cách đưa những người có hành vi phạm tội, xâm hại đến lợi ích
Nhà nước, lợi ích tập thể và cơng dân ra xét xử và áp dụng hình phạt đối với họ, các TAQS
góp phần vào cuộc đấu tranh PCTP, bảo vệ chế độ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, bảo vệ sức mạnh và kỷ luật Quân đội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của quân nhân
và các cơng dân khác.
Khi xét xử và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, TAQS cho họ và những người
khác thấy rằng, nếu người nào có hành vi nguy hiểm đi ngược lại lợi ích của Nhà nước, của
xã hội, của cộng đồng thì người đó phải trả giá bằng hình phạt nghiêm minh. Việc trừng trị
người phạm tội ln ln có tác dụng răn đe khơng những đối với người đó mà cịn đối với
những người khác, nhất là đối với những người đang đứng trên ranh giới giữa phạm tội và
khơng phạm tội.
Ngồi trừng trị, răn đe để mọi người không phạm tội, hoạt động xét xử của Tịa án có
tác dụng giáo dục, phịng ngừa rất lớn. Bằng cách mở các phiên tịa cơng khai với sự chứng
kiến của đông đảo cán bộ, chiến sỹ và nhân dân, thơng qua thẩm vấn tại phiên tịa, tranh
luận giữa các bên tham gia tố tụng, nghe luận tội và bào chữa và nhất là nghe tuyên án, Tòa
án làm cho người phạm tội thấy rõ tội lỗi của mình, làm cho quần chúng thấy được cái sai,
cái đúng trong cách xử sự hàng ngày của mình, hiểu biết các quy định của pháp luật, các quy
tắc sống trong xã hội và từ đó có ý thức sống và làm việc theo pháp luật.
Tuy nhiên, để phát huy được tác dụng của việc xét xử trong trừng trị, răn đe, cũng như
giáo dục, phòng ngừa và nâng cao uy tín của pháp luật để mọi người khơng phạm tội hoặc vi
phạm pháp luật, các Tòa án cần phải triệt để tuân thủ các nguyên tắc của pháp luật, đặc biệt
là các nguyên tắc sau:15
Một là, nguyên tắc đã phạm tội là phải chịu trách nhiệm hình sự. Bất kỳ ai, khơng phụ
thuộc vào cấp bậc, chức vụ, vị trí xã hội, nếu đã thực hiện tội phạm được quy định trong
BLHS thì đều phải bị xử lý bằng hình sự. Điều này thể hiện tính nghiêm minh và cơng bằng
của pháp luật. Khơng thể có trường hợp cùng đều có hành vi phạm tội như nhau nhưng
15

Tịa án qn sự Trung ương (1995), Tòa án quân sự trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, Nxb. Quân đội nhân dân,
Hà Nội, tr.41-44.



18

người thì bị xét xử về hình sự, người thì chỉ bị xử lý về hành chính hay kỷ luật nội bộ. Điều
này làm cho uy tín của pháp luật bị hạ thấp, bị coi thường, và vì vậy, bản thân pháp luật
cũng như hoạt động áp dụng pháp luật khơng phát huy được vai trị giáo dục, răn đe.
Để đảm bảo thực hiện nguyên tắc đã phạm tội thì phải bị xử phạt, Điều 13 BLTTHS
năm 2003 quy định: “Khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án và áp
dụng các biện pháp do Bộ luật này quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội”.
Như vậy, cần phải nhấn mạnh rằng, việc khởi tố vụ án và xử lý người phạm tội khơng phải
quyền mà cịn là trách nhiệm của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Các cơ quan
này được và chỉ phải khởi tố vụ án khi có dấu hiệu tội phạm. Khơng một cơ quan hoặc cá
nhân nào có quyền can thiệp vào chức năng đó của các cơ quan pháp luật.
Tuy nhiên, thực hiện ngun tắc trên khơng có nghĩa là cào bằng trong đường lối xử lý
người phạm tội. Đã có tội là phải bị xét xử, nhưng xét xử như thế nào, nghiêm khắc hay
khoan hồng luôn luôn phải căn cứ vào các yếu tố mà pháp luật quy định, như tính chất, mức
độ nguy hiểm của tội phạm, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
khác…
Hai là, xét xử bảo đảm đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Điều này có nghĩa là:
- Các TAQS chỉ xét xử những người thực sự đã được xác định là phạm tội theo quy
định của BLHS không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
- Người phạm tội chỉ bị xét xử về tội mà họ thực hiện và bị Viện kiểm sát truy tố.
Không vì một động cơ hay mục đích nào khác mà có thể xét xử họ về tội khác nặng hơn hay
tội nhẹ hơn tội họ đã thực hiện.
- Việc xét xử và quyết định hình phạt đối với người phạm tội phải công bằng, nhân đạo
và đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi đấu tranh phòng, chống tội phạm trong từng thời kỳ, ở từng địa
phương, đơn vị.
- Người có nhân thân tốt, người phạm tội do hoàn cảnh ép buộc, nhất thời phạm tội

phải được chiếu cố, khoan hồng; người ngoan cố, có tiền án, tiền sự… phải được xử lý
nghiêm minh.
Chỉ khi đáp ứng các yêu cầu trên, việc xét xử của các TAQS mới thực sự đi vào lịng
người cả ở góc độ làm cho người phạm tội thấy được tội lỗi của mình, cảm nhận được tính
nhân đạo, khoan hồng của pháp luật để tự giác giáo dục, cải tạo mình và cả ở góc độ làm
cho người khác lấy đó làm gương, làm bài học, tin tưởng vào sự nghiêm minh cũng như
công bằng của pháp luật để tự răn dạy mình khơng bao giờ đi vào con đường phạm tội hoặc
vi phạm pháp luật khác.
Để hoạt động xét xử của mình thực sự mang lại hiệu quả cao trong đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm, những năm qua các TAQS đã thực hiện những biện pháp, hình
thức phong phú nhằm làm cho quân nhân và quần chúng nhân dân trực tiếp chứng kiến việc


×